Theo mục đích ban đầu thì PUK
EMD được tạo ra nhằm điều tra sự hiện diện cáo buộc đối với những hồ sơ
mật về công dân được chỉ định bởi Bộ Quốc phòng Thụy Sỹ (SMD) vào tháng 3
năm 1990 trong làn sóng của Fichenaffare tức Bê bối hồ sơ mật.
Vụ
này bị khám phá bởi cảnh sát liên bang BUPO, đơn vị đã lưu trữ hồ sơ
của 900.000 người (trong tổng dân số 7 triệu người của Thụy Sỹ).
Đội quân tuyệt mật
Ngày
21 tháng 11 năm 1990, giới chức Thụy Sỹ đã ra tuyên bố về việc giải tán
P-26 lấy lý do tổ chức này đã hoạt động vượt khỏi tầm kiểm soát của
quốc hội và cả chính phủ cũng bất lực, và nó trở thành một cấu trúc tự
trị bí mật giấu ngay bên trong các dịch vụ quân sự mật.
Khi
vương quốc Anh chuẩn bị đối phó với cuộc xâm lược của Đức Quốc xã (ĐQX)
trong thời kỳ Đại chiến tranh thế giới lần thứ II (ĐCTGII), dẫn đến
việc ra đời của lực lượng Vệ quốc quân Anh và Các đơn vị phụ trợ nằm
vùng, thì Thụy Sỹ cũng sửa soạn cho một sự kiện tương tự; và vì bản thân
là quốc gia trung lập nên Thụy Sỹ không đủ khả năng để chống lại một
cuộc tấn công quân sự của ĐQX hoặc phát xít Ý.
Vì
lẽ đó mà Tướng Henri Guisan đã đưa ra "Khái niệm rút ngắn", theo đó
quân đội sẽ rút lên những vùng non cao của rặng Alps và nhường đồng bằng
cho quân xâm lược. Từ đó một cuộc chiến tranh du kích sẽ được phát động
nhằm chống lại giặc ngoại xâm.
Nằm vùng trong dịch vụ lãnh thổ
Khi
ĐCTGII kết thúc và chính thức bắt đầu thời kỳ chiến tranh Lạnh, các kế
hoạch đã sẵn sàng cho một cuộc xâm lược của Liên Xô. Ủy ban PUK EMD được
dẫn đầu bởi Carlo Schmid đã khám phá ra một nhánh nằm vùng đầu tiên nằm
ngay trong lòng Thụy Sỹ, chính xác là ngay trong Dịch vụ lãnh thổ
(Territorialdienst).
Theo đó, nhánh
quân sự này được tạo ra nhưng không giữ vai trò chiến đấu trên tiền
tuyến, mà chỉ tiến hành các hoạt động cảnh sát nội địa ngay trong dân
chúng. Tuy nhiên, Ủy ban PUK EMD đã phải đối mặt với việc phá hủy nhiều
tài liệu liên quan đến các tổ chức nằm vùng dạng này.
Hồ
sơ tài liệu về nhánh quân sự nằm vùng đầu tiên khá rời rạc khi mà phần
lớn tài liệu trong 3 thập niên 1950, 1960 và 1970 đã bị tiêu hủy trong
năm 1980.
Efrem Cattelan, thủ lĩnh tổ chức quân sự P-26. Ảnh nguồn: Wikimedia Commons
Chỉ
huy đầu tiên của đơn vị mật này Franz Wey (1896-1963), người mà sau này
được thăng chức Chuẩn tướng và Trưởng phòng dịch vụ lãnh thổ. Khoảng
tháng 12 năm 1956, sau khi xảy ra sự kiện Khủng hoảng kênh đào Suez và
việc dập tắt cuộc nổi dậy Budapest, nhà báo kiêm chính trị gia Erwin
Jaeckle đã hỏi quốc hội "cần phải chuẩn bị những gì trong các khâu tổ
chức và huấn luyện nhằm tiếp nhận và đảm bảo cuộc kháng chiến quần
chúng, nếu cần thiết cũng nằm ngoài khuôn khổ của quân đội".
Một
năm sau đó vào tháng 9 năm 1957, Bộ trưởng Quốc phòng Paul Chaudet
(người kế nhiệm Karl Kobelt, cả 2 ông là thành viên của Đảng dân chủ tự
do, FDP) đã phúc đáp cho Erwin Jaekle rằng: "Sự kiện ở Hungary (nhìn từ
khía cạnh quân sự) đã cho thấy cuộc chiến nếu chỉ một mình phong trào
kháng chiến thì không thể thành công".
Bộ
trưởng Paul Chaudet nhấn mạnh: "Trận chiến này đã đặt ra các vấn đề về
bản chất chính trị và quân sự cũng như mối bận tâm pháp lý trong bối
cảnh luật pháp quốc tế và các công ước mà chúng ta đã ký kết".
Cuối
cùng, ông Chaudet tuyên bố rằng: "Mặc dù một số biện pháp đã được dự
tính bởi Dịch vụ lãnh thổ, nhưng các khả năng trong lĩnh vực này xem ra
còn rất hạn chế". Trong một tuyên bố từ năm 1990, một Tổng tham mưu
trưởng quân đội Thụy Sỹ (người xin được giấu tên) đã lấy yêu cầu bị từ
chối của nhà báo Erwin Jaeckle làm cơ sở pháp lý cho tổ chức quân đội
nằm vùng.
Nằm vùng trong UNA
Năm
1967, tổ chức quân sự nằm vùng đã dời từ Dịch vụ lãnh thổ sang Cơ quan
tình báo quân sự Thụy Sỹ (UNA) do Richard Ochsner làm giám đốc. Nó đổi
tên mã thành "Dịch vụ đặc biệt" với sự hình thành từ 3 cấp bậc: cấp cao
nhất là các thành viên quân đội chính quy; cấp thứ hai là "những người
đáng tin cậy" là các nhà hoạt động được tuyển dụng; cấp thứ ba là các
nhà hoạt động.
Theo Ủy ban PUK EMD:
"những người đáng tin cậy" có thể tự họ tuyển lựa ra vài thành viên mới
để cùng tham gia vào tổ chức kháng chiến, do đó mà số lượng thành viên
chính xác của tổ chức này được ước tính là 1000 người được chia thành từ
30 đến 50 trung tâm.
Năm 1973, Hội
đồng liên bang Thụy Sỹ (SFC) đã xây dựng chiến lược an ninh quốc gia,
bao gồm cả nhu cầu kháng chiến trong lãnh thổ bị chiếm đóng. Theo chiến
lược này thì ngay cả khi đất nước bị quân thù chiếm đóng cũng không có
nghĩa là đã kết thúc mọi hoạt động kháng chiến.
Chiến
lược an ninh quốc gia cũng nhấn mạnh rằng chiến tranh du kích và kháng
chiến bất bạo động trong các khu vực bị chiếm đóng cũng được chuẩn bị
trong khuôn khổ của luật pháp quốc tế; và nếu cần thiết sẽ được tiến
hành. Vào lúc ra đời chiến lược an ninh quốc gia thì đại tá Heinrich
Amstutz đã nắm quyền chỉ huy đội quân nằm vùng.
Một trong những kho vũ khí của tổ chức P-26 ở Bern (Thụy Sỹ). Ảnh nguồn: Laststandonzombieisland.
Và
tới năm 1967, ông được thay thế bởi đại tá Albert Bachmann. Năm 1968,
Hans Senn trở thành Tổng tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Thụy Sỹ;
tới ngày 5 tháng 9 năm 1979, Hans Senn đã thông báo về việc hợp nhất 7
ủy viên hội đồng liên bang Thụy Sỹ vào các hoạt động của UNA và các đơn
vị nằm vùng.
Hans Senn loan báo chi
phí để hoạt động đội quân nằm vùng là 1 triệu Franc Thụy Sỹ / năm và chu
cấp trong vòng bí mật. Các ủy viên hội đồng im lặng lắng nghe Hans Senn
đồng nghĩa họ đã chấp nhận ngầm nó.
Hoạt
động của UNA bị phát giác trong bối cảnh của vụ bê bối gián điệp
Bachmann-Schilling vào tháng 11 năm 1979, khi chỉ huy Đặc nhiệm Albert
Bachmann đã phái 1 điệp viên của UNA là Kurt Schilling đến Áo để quan
sát các cuộc diễn tập quân sự.
Nhưng
tại Áo, Schilling đã bị tóm và bị phạt tù vì tội làm gián điệp, khi bị
gửi trả lại Thụy Sỹ, Schilling lại bị phạt tù vì tội đã hé lộ thông tin
tối mật.
Một ủy ban quốc hội đã được
thành lập nhằm điều tra UNA, kết quả báo cáo vào năm 1981 rằng: theo
cảnh sát an ninh của liên bang Thụy Sỹ thì đặc nhiệm có nhiệm vụ tạo ra
các điều kiện thích hợp cho hoạt động kháng chiến ở Thụy Sỹ nhằm chống
lại lực lượng chiếm đóng. Báo cáo kết luận rằng "nhiệm vụ là hợp pháp,
dù việc kiểm soát nội bộ của 2 cơ quan là chưa đủ".
Báo cáo Cornu
Sau
báo cáo tháng 11 năm 1990 của Ủy ban quốc hội, Đảng xã hội Thụy Sỹ và
Đảng Xanh đã đề xuất nên có các cuộc điều tra xa hơn về các mối liên kết
bị cáo buộc giữa P-26 và các tổ chức nằm vùng Gladio khác. Thẩm phán
Pierre Cornu giữ quyền điều tra và đã chuyển giao báo cáo dày 100 trang
gọi là "Báo cáo Cornu".
Ông Cornu đã
tiến hành gặp gỡ các nghị sỹ Ý và Bỉ cũng như những thành viên P-26,
nhưng phía London từ chối đưa ra bình luận (người Anh cũng không thừa
nhận sự tồn tại của MI-6).
Báo cáo
Cornu kết luận rằng "P-26 không có sự hợp pháp chính trị hoặc pháp lý",
và mô tả sự hợp tác của tổ chức này với các cơ quan mật Anh là "căng
thẳng". Chính phủ Thụy Sỹ không hề hay biết rằng giới chức Anh đã ký các
thỏa thuận mật với P-26 nhằm cung cấp huấn luyện chiến đấu, thông tin
liên lạc và phá hoại.
Thỏa thuận mới
nhất được ký vào năm 1987… các cán bộ của P26 thường xuyên tham gia các
khóa huấn luyện ở Anh… các cố vấn Anh (có lẽ là từ SAS, cơ sở huấn luyện
đặc biệt của Anh nằm trên đất Thụy Sỹ).
Theo
tường thuật của Richard Norton-Taylor từ hãng tin The Guardian (Anh)
thì "các hoạt động của P-26 gồm các mã, và tên người đứng đầu tổ chức
này là Efrem Cattelan đã được tình báo Anh biết tới, nhưng chính phủ
Thụy Sỹ giữ nó trong bóng tối".
Bất
chấp các yêu cầu của nghị sỹ Josef Lang đòi công bố trọn vẹn, không kiểm
duyệt Báo cáo Cornu, thì thực tế là phần lớn báo cáo này vẫn bị phân
loại và giữ nguyên trong vòng 30 năm tới. Bản tóm tắt về P-26 dài 17
trang đã được công bố vào ngày 19 tháng 9 năm 1991.
Trước
câu hỏi chất vất của ông Paul Rechsteiner từ Đảng xã hội dân chủ vào
ngày 30 tháng 9 năm 1991 rằng tại sao không công bố Báo cáo Cornu, đích
thân Bộ trưởng Quốc phòng Kaspar Villiger đã ra tuyên bố:
"Báo
cáo Cornu chứa một lượng lớn thông tin về các cơ quan mật vụ hải ngoại
cùng các tổ chức kháng chiến, cũng như cấu trúc, phân cấp và các mối
liên kết của họ... Báo cáo Cornu không được phát hành và công bố là bởi
vì việc công khai tiết lộ các bí mật của các quốc gia hải ngoại không
phải là việc của Hội đồng liên bang Thụy Sỹ".
P-26 và các liên lạc bị cáo buộc
Theo
một nghiên cứu của ông Daniele Ganser từ Viện kỹ thuật liên bang Thụy
Sỹ (ETH Zurich) thì "P26 không liên quan trực tiếp đến mạng lưới các đội
quân bí mật của NATO mà có mối quan hệ gần gũi với MI-6" (cơ quan tình
báo Anh nắm vai trò huấn luyện các tổ chức bán quân sự Gladio ở Ý).
Trong
lúc trả lời câu hỏi tại Quốc hội Thụy Sỹ về vụ ám sát Herbert Alboth
(người liên quan đến việc tiết lộ ra P-26), ủy viên hội đồng quốc gia
Remo Gysin đã mô tả các mối quan hệ giữa P-26, MI6 và NATO là "khét
tiếng".
Giống như các tổ chức nằm
vùng khác ở Âu Châu, P-26 có các kho vũ khí ở Thụy Sỹ, trong khi một số
thành viên của tổ chức này thường tham gia các khóa huấn luyện chiến
tranh du kích và bán quân sự với MI-6 tại Anh.
Huấn
luyện viên quân sự người Thụy Sỹ, Alois Hürlimann, hé lộ rằng ông đã
tham gia vào một khóa huấn luyện quân sự Mỹ ở Anh, bao gồm một kế hoạch
tấn công thực sự vào kho vũ khí của quân đội cộng hòa Ireland (IRA)
khiến ít nhất 2 thành viên IRA tử trận.
Thống
chế Anh, Bernard Montgomery, phó tư lệnh chỉ huy tối cao các lực lượng
NATO ở Châu Âu giai đoạn từ 1951 đến 1958, đã ở Bernese Oberland (bang
Bern, Thụy Sỹ) mỗi tháng 2 từ năm 1946 đến năm 1962 cho các vấn đề quân
sự.
Năm 1946, Montgomery đã gặp Bộ
trưởng Quốc phòng Thụy Sỹ, Karl Kobelt, bộ trưởng Ngoại giao Max
Petipierre và Tổng tham mưu trưởng Louis de Montmollin nhằm thảo luận về
sự trung lập và chiến lược thời hậu chiến của Thụy Sỹ.
Theo
các nghiên cứu của sử gia Thụy Sỹ, Mauro Mantovani, thì Montgomery đã
gặp lại Montmollin vào tháng 2 năm 1952 nhằm thảo luận rằng trong trường
hợp xảy ra việc Liên Xô xâm lược, họ thống nhất rằng trong tình huống
khẩn cấp, Thụy Sỹ sẽ cần sự giúp đỡ của NATO.
Xa
hơn, P-26 đã sử dụng các hệ thống vô tuyến Harpoon (một hệ thống thông
tin liên lạc được mã hóa mạnh) vốn được sử dụng bởi mạng lưới nằm vùng
Bỉ và bí mật này đã bị phát giác bởi Ủy ban quốc hội Bỉ.
Hệ
thống Harpoon được NATO mua lại từ công ty AEG Telefunken (Đức) vào đầu
thập niên 1980, nó cho phép các thành viên nằm vùng gửi các thông điệp
vô tuyến được mã hóa đi xa 6000 km giúp duy trì quan hệ tối đa. Thẩm
phán Pierre Cornu phát hiện ra rằng vào năm 1987, P-26 đã liên kết với
các trạm nước ngoài trong hệ thống Harpoon với chi phí lên tới 15 triệu
franc Thụy Sỹ.
Sử gia Daniele Ganser
khẳng định: "Việc mua thiết bị Harpoon liên đới với các trung tâm chỉ
huy của NATO ở Brussels, CIA (Mỹ) và MI-6 (Anh) đã làm hé lộ sự tích hợp
của tổ chức quân đội nằm vùng Thụy Sỹ trong mạng lưới nằm vùng Châu Âu ở
cấp độ phần cứng".
Bên cạnh P-26,
UNA cũng hỗ trợ việc giải tán P-27 (tổ chức chịu trách nhiệm giám sát
nội địa). Theo tác giả Richard Norton-Taylor từ báo The Guardian:
"P-27
hỗ trợ cho P-26, một cơ quan tình báo hải ngoại tư nhân do chính phủ
Thụy Sỹ tài trợ một phần ngân sách hoạt động, và là một đơn vị đặc biệt
của tình báo quân sự Thụy Sỹ với tệp hồ sơ gần 8.000 "người bị tình
nghi". Được biết người lãnh đạo P-26 nhận mức lương tới 100.000 bảng
Anh/năm.
Nhận xét
Đăng nhận xét