Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TT & HĐ - 22/d
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
Lịch Sử Việt Nam Thời Hùng Vương
PHẦN III: NGUỒN CỘI
"
Đi đi
con!
Trong khinh khi may nhớ nước
non Mà ôn lại cho đừng
quên lịch sử Bốn
ngàn năm rồi, Việt Nam bất
tử Dằng dặc đoạn trường
chống giặc ngoại xâm Biết mấy đau thương,
biết mấy anh hùng Ghi tạc địa
cầu bao chiến công hiển hách..."Trần Hạnh Thu
"Lịch
sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi
những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương
đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau Cervantes (Tây Ban Nha)
"Lịch
sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh
của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân." Cicero (La Mã)
Đừng
chê cõi trần
nhơ
Đừng khen cõi trần
đẹp
Cõi trần là thản
nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”Trần Hạnh Thu
CHƯƠNG XXII: TỔ TIÊN
"Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba"Ca dao
"Noi gương tiên tổ truyền thống anh hùng muôn thuở thịnh
Nối nghiệp ông cha phát huy khí thế vạn đời vinh."
câu đối thờ gia tiên
“Ta
có tai, mắt, ta nghe, ta trông; ta có tâm tư ta suy, ta nghĩ; đối với
người xưa có lúc ta thờ như thầy, có lúc ta kính như bạn, cũng có lúc
ta kình địch không chịu, ta theo cái lý nhất quyết không làm tôi tớ cổ
nhân.”
Lương Khải Siêu
"Cuộc
sống phản bội lại tổ tiên là cuộc sống bấp bênh nhất, trơ tráo nhất.
Nếu không muốn phản bội lại tổ tiên, thì trước hết, đừng làm nô lệ cho
bất kỳ kẻ ngoại xâm nào khác, không tin theo bất kỳ thứ chủ nghĩa nào
khác." Trần Hạnh Thu
(Tiếp theo)
***
“Văn
hóa” và “văn minh” là hai khái niệm tương đối “lỏng lẻo” nói về biểu
hiện “trình độ” sống, “trình độ” nhận thức nào đó trong một mối quan hệ
so sánh trong qui ước, thỏa thuận nào đó. Một người có văn hóa là một
người văn minh và ngược lại, một người được cho là văn minh thì phải có
văn hóa? Một quốc gia văn minh đi xâm lược, đàn áp các dân tộc khác thì
có văn hóa không và một dân tộc sống như một cộng đồng hòa hiếu, “vui
thú điền viên”, khi có giặc xâm lăng thì đồng lòng theo một ngọn cờ đại
nghĩa đứng lên đánh tan, xong rồi “ai về nhà nấy”, trong thời bình chả
cần đến nhà nước kiểu tập quyền làm gì, thì có được gọi là văn minh
không?
Trong
một chừng mực nào đó, chúng ta có thể tạm hiểu văn hóa như một khái
niệm “chuyên môn” dùng để đánh giá trình độ đời sống và nhận thức cũng như phong tục tập quán về
cuộc sống, về sự ứng xử với thiên nhiên được thể hiện ra qua những hoạt động tinh
thần và tạo dựng trong lối sống, trong sinh hoạt, trong thơ ca nhạc họa
và trong thành quả của lao động sáng tạo…, trong tình cảm yêu thương đồng loại theo quan niệm và qui ước
của thời hiện tại. Khi đặt các nền văn hóa trong mối quan hệ so sánh thì
nền văn hóa phát triển nổi trội hơn, được sử dụng những vật dụng phục vụ đời sống tiên tiến hơn được gọi là văn minh hơn. Khi nói
đến một nền văn minh thì nên hiểu rằng nó có một nền văn hóa phát triển
nổi trội, nổi bật so với những nền văn hóa xung quanh hoặc so với nền
văn hóa nền tảng nói chung của đương thời. Nếu khái niệm văn hóa chỉ nói đến sự tiến bộ về mặt tinh thần thì khái niệm văn minh là nói chung về sự tiến bộ cả về mặt tinh thần lẫn vật chất. Và nếu chúng ta thỏa thuận
được với nhau như vậy thì văn minh chẳng có liên quan gì tới nhà nước
cả, hoặc chính nhà nước là con đẻ của sự phát triển văn hóa - xã hội của
loài người và chỉ thế thôi.
Từ
sự hiểu những khái niệm “văn hóa”, “văn minh” và “nhà nước” một cách
máy móc, cực đoan (và như thế có nghĩa là chỉ mới thấy chứ chưa biết
nhưng cứ tưởng rằng biết!?)nên
đã có không ít người nằng nặc đòi phải “tôn trọng lịch sử khách quan”,
đòi xét lại thời điểm lập quốc Việt Nam. Họ lập luận rằng trong thực tế,
hầu hết các nước đầu tiên trên thế giới đều xuất hiện vào giai đoạn
phát triển nhất của thời đại đồ đồng hoặc đầu thời đại đồ sắt. Do đó họ
cho rằng quan niệm phổ biến xưa nay về thời điểm xuất hiện nhà nước đầu
tiên ở nước ta (thời điểm lập quốc) cách nay khoảng 4000 năm đã không
đúng vì nó trùng với niên đại của văn hóa Phùng Nguyên (đã được xác định
bằng phương pháp cácbon phóng xạ (C14), khỏi cãi!). Mà văn
hóa Phùng Nguyên là thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, vì khảo cổ cho thấy
ngoài ít mẩu xỉ đồng ra, chưa hề tìm thấy bất kỳ công cụ bằng đồng nào
(lạ thật nhỉ?!); công cụ bằng đá vẫn phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối;
như thế xã hội văn hóa Phùng Nguyên vẫn còn ở hình thái Cộng sản nguyên thủy; và họ cho rằng không thể khẳng định trước đây 4000 năm, dân tộc
ta đã bước vào thời đại văn minh, đã có nhà nước (chúng ta giữ nguyên
cách dùng từ của họ!).
Cũng theo họ nói:
Các
nhà sử học ngày càng thống nhất chung quan điểm khi cho rằng nhà nước
đầu tiên trên đất nước ta chỉ có thể xuất hiện vào thời văn hóa Đông Sơn
(tính đến năm 2007 là 2472 ±
100 năm). Quan điểm này được cộng đồng quốc tế thừa nhận (còn gì bằng
nữa!), chẳng hạn, trong nhiều công trình lịch sử, xã hội học của các tác
giả nước ngoài, đã dùng từ “văn minh” (civilization) thay vì “văn hóa”
(culture) khi bàn về văn hóa Đông Sơn của Việt Nam. Do vậy, chỉ có thế
dùng niên đại của văn hóa Đông Sơn làm giới hạn đầu cho thời kỳ lập quốc
của dân tộc ta, cách đây chừng 25-27 thế kỷ. Nó cũng phù hợp với ghi
chép của “Việt sử lược” - bộ sử khuyết danh nhưng có độ chính xác cao
(???) – theo đó: “Đến thời Trang Vương nhà Chu (696 - 681 TCN), ở bộ Gia
Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là
Hùng Vương, đóng đô tại Phong Châu, phong tục thuần phác, chính sự dùng
lối kết nút, truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương”
Và cuối cùng là một phát hiện “chấn động” của họ:
Nếu
cho rằng Kinh Dương Vương - ông nội của vua Hùng thứ nhất - lên ngôi
vào đời Phục Hy bên Trung Quốc, cụ thể là năm 2879 TCN, còn Vua Hùng
cuối cùng (đời thứ 18) chấm dứt sự trị vì của mình vào năm Chu Noãn
Vương thứ 57 (tức năm 258 TCN), thì kể cả Lạc Long Quân nữa, vị chi là
gồm 20 đời vua trị vì trong khoảng thời gian là 2879 – 258 = 2621 năm,
nghĩa là mỗi ông vua trung bình trị vì được 131 năm. Kết luận rút ra từ
kết quả tính toán này chỉ có thể là: phi lý, vua không thể có tuổi thọ
của thần thánh!
Chúng
ta hoàn toàn nhất trí với họ ở một điểm duy nhất, đó là phải đứng về
phía khách quan, với cái tâm trong sáng nhất khi nhìn nhận lại lịch sử
của dân tộc mình. Nhưng để thực hiện điều đó thật mới khó làm sao! Cái
tôi của con người cứ luôn thò cái đuôi chủ quan của nó ra khuấy đảo,
lũng đoạn cái ý chí muốn vươn tới sự quan sát và suy nghĩ khách quan
thực sự. May lắm, chỉ có thể cố giữ cho được một cái tâm trong sáng mà
thôi!
Khi
họ nói truyền thuyết lịch sử chỉ mang tính lịch sử nhưng không phải
thực tế lịch sử và cho rằng 4000 năm lịch sử của dân tộc chỉ là truyền
thuyết thì sao họ lại có quyền coi các mốc thời gian xảy ra trong truyền
thuyết là sự thực lịch sử để phản bác truyền thuyết đó không phải là sự
thực được? Còn nếu họ chỉ công nhận những con số là sự thực thì sự kiện
bà Âu Cơ đẻ ra 100 trứng nở thành 100 người con trai có phải là sự thực
không?
Lịch
sử của thời có chữ viết và thậm chí là của thời cận đại đôi khi còn
nhiều chỗ mù mờ huống hồ là lịch sử của thời tối cổ. Thế thì trên cơ sở
nào mà đặt cược niềm tin vào cuốn “Việt sử lược” khuyết danh, mà cho
rằng nó có độ chính xác cao? Ngay bầy đàn ở loài động vật cũng có con
đầu đàn, ngay bộ lạc cũng có người đứng đầu đầy quyền uy, thì tại sao
không thể phá vỡ quan niệm cũ về liên minh các bộ lạc, về chế độ Cộng
sản nguyên thủy mà cho rằng những hình thái xã hội ấy cũng có những
người hoặc nhóm người đứng đầu và đó là hình thức nhà nước giản đơn (và
thậm chí cũng là kiểu nhà nước mà tương lai con người sẽ lại đạt tới)?
Chúng
ta nghĩ, đối với những thời chưa có ghi chép phổ biến thì tất cả các
sách sử viết về chúng đều chỉ là sự chép lại theo truyền thuyết dân
gian, hoặc truyền thuyết đã được ghi lại trước đó, những câu chuyện được
các thế hệ trước lưu lại, đã bị méo mó ít nhiều bởi “cái tôi” của người
ghi chép, hoặc méo mó hoàn toàn, thậm chí là đổi trắng thành đen theo ý
chí ích kỷ, vô trách nhiệm của vua chúa đương thời. Tình cảm thông
thường của các nhà chép sử, ai cũng vậy, luôn yêu thương dân tộc mình,
luôn có lòng tự trọng dân tộc. Do đó khi viết về lịch sử dân tộc mình và
dân tộc láng giềng thì dù nhiều dù ít, họ cũng có những thiên vị nhất
định. Xưa nay, do các thư tịch cổ, những di tích lịch sử nói về thời kỳ
các vua Hùng dựng nước đã hầu như không còn bởi dã tâm của những kẻ xâm
lược và đô hộ nước ta một thời gian dài sau công nguyên, mà người ta khi
nhìn nhận lại thời đại lịch sử ấy thường dựa vào các sách chép cổ sử
của Trung Quốc. Điều đó là chẳng đặng đừng, tuy nhiên cần phải sáng suốt
trong đối chứng và suy luận, điều gì tồn tại trong chính sử, chưa đủ cơ
sở khẳng định hoặc phủ định mà chẳng có lợi gì cho niềm tự hào dân tộc
thì nên loại bỏ trong khi chờ đợi bổ sung chứng liệu; điều gì đã phát
hiện mười mươi là sự thực khách quan mà chưa được thể hiện trong chính
sử thì dù có đụng chạm đến niềm tự hào dân tộc cũng phải bổ sung vào…
Chẳng hạn! như truyền thuyết về Mỵ Châu - Trọng Thủy, trong khi đã phát
lộ ra mối nghi ngờ rằng sử liệu của Trung Quốc đã không được xác đáng,
đã có những bằng chứng đầu tiên về tính mơ hồ, phi thực của nó, và dù
còn chưa có một tư liệu nào để bác bỏ dứt khoát được nó, thì hướng ưu
tiên là loại bỏ nó ra khỏi chính sử (dù là dưới dạng truyền thuyết) và
chờ đợi bổ sung cho đến khi có bằng chứng thực sự thuyết phục bác bỏ hay
công nhận nó (vì cứ để đó mà chờ đợi qua có khi là mấy thế hệ và bắt
con cháu phải học về một câu chuyện chẳng vinh quang gì, chưa chắc đã có
thực, là mang lỗi với tổ tiên!)
Thiền
sư Lê Mạnh Thát đã chiêm nghiệm lại lịch sử nước nhà trên tinh thần đó:
ưu ái dân tộc mình nên đã bỏ công khảo cứu công phu để rút ra những
đánh giá chính thức trên cơ sở xác thực, bất vụ lợi. Một người có tâm
sáng ngời trước hết phải biết yêu thương dân tộc mình, nhưng như thế
không có nghĩa là bôi son đánh phấn quá khứ của nó mà là làm sao cho quá
khứ ấy hiện ra minh bạch với những đúng, những sai, những thăng, những
trầm trong mối quan hệ tự nhiên với các dân tộc anh em khác, để mà rút
ra được những bài học quí báu cho mọi người hôm nay và mai sau về cái vô
nghĩa của những mưu đồ đoạt lợi cầu danh một cách thất đức, phi nhân
trước chiều lăn tự nhiên của bánh xe lịch sử và sự trôi vô tình của
trường cửu thời gian…
Đã có tài có tâm thì danh lợi tự đến, còn không, cố len lỏi, chen chân để kiếm một chút hư danh cằn cỗi cũng chẳng dễ dàng gì!
“Hốt
hoảng” vài lời như thế thôi, và chúng ta tiếp tục đi trên con đường cô
đơn của mình, suy tưởng về lịch sử để tung hứng những dã sử, làm phát lộ
ra cái mà chúng ta muốn tìm trong bộ não hoang tưởng của mình: những
chân lý mang màu sắc lịch sử. (Chân lý trong hoang đường? Thật là nực
cười!)
Lịch sử Khí công Khởi nguồn và lịch sử phát triển YOGA - Ấn Độ PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ “Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?” Lepnit . CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI -"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." Bleiste -"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước" Napoleon. -"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo: nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một...
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 14/3: Bắt phó giám đốc dùng tài liệu giả tham gia đấu thầu | ANTV TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 15/3 | Nga lập thế trận siết vòng vây 3000 quân Kiev, Ukraine run rẩy Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 14-3-2024 Các quan chức cộng sản cấp cao biến mất | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt THIÊN TRANG - Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé || Nhạc Vàng Xưa Bất Hủ Thêm 162 người nhập viện sau khi ăn cơm gà ở Nha Trang 8 giờ trước Việt Nam đề nghị Trung Quốc tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ 9 giờ trước Khoảnh khắc một căn nhà bị sông Cầu 'nuốt chửng' ở Bắc Ninh 5 giờ trước Hà Nội: Cô bán trứng bất ngờ "được" ném nhầm bọc tiền hơn 1 tỷ vào xe 17 giờ trước Vũ khí đặc biệt trong gói viện trợ của Mỹ dành cho Ukraine 12 giờ trước Video quân đội Nga bắn nổ 2 trực thăng của Ukraine ở Donetsk 18 giờ trước Ông Trump vượt Tổng thống Biden về tỉ lệ ủng hộ trong thăm dò dư luận 11 giờ trước Làm...
Mùa Chim Én Bay - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung MỌC CÁNH Em ơi em, mọc cánh bao giờ thế Định bay đi đâu mà nhìn ra đại dương? Tìm nguồn hạnh phúc bên kia thế giới Ở đó đang chờ một tình yêu thương? Thôi bay đi em, đừng áy náy, vấn vương Đừng lưu luyến kẻ dưng, người cũ Bay đi em, về phương trời quyến rũ Ở đó có tình sâu nặng đợi chờ! Bay đi em, đến xứ sở ước mơ Về chao liệng trên bến bờ hi vọng Thỏa khao khát những nỗi niềm vui sống Của một hồn thơ dào dạt yêu thương! Trần Hạnh Thu Câu Đợi Câu Chờ - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung Dương Hiểu Ngọc bay cao với đôi cánh "Thiên thần tình yêu 09:26 05/04/2014 Chắp "đôi cánh thiên thần", người đẹp Dương Hiểu Ngọc sẽ bay cao, bay xa trong nghệ thuật với những nỗ lực không ngừng. Xuất hiện liên tục trên ...
Nhận xét
Đăng nhận xét