TT & HĐ - 22/e

                                          

Hùng Vương và Thục Phán Đã Tạo Lên Trận Đánh Kinh Hồn Bạt Vía Đầu Tiên Trong Lịch Sử Việt Nam

 

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!                                                                                   Trong khinh khi may nhớ nước non                                                  Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử                                                     Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử                                                Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm                                Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng                                        Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."                                                     Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau                                       Cervantes (Tây Ban Nha) 

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."                                                                                                                                             Cicero (La Mã) 

Đừng chê cõi trần nhơ                                                                  Đừng khen cõi trần đẹp                                                                    Cõi trần là thản nhiên                                                                      Chỉ có đời nhơ, đẹp.”                                                                                                            Trần Hạnh Thu

 

CHƯƠNG XXII: TỔ TIÊN 

"Dù ai đi ngược về xuôi                                                                   Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba"                                                                    Ca dao

"Noi gương tiên tổ truyền thống anh hùng muôn thuở thịnh  
 Nối nghiệp ông cha phát huy khí thế vạn đời vinh."
câu đối thờ gia tiên

“Ta có tai, mắt, ta nghe, ta trông; ta có tâm tư ta suy, ta nghĩ; đối với người xưa có lúc ta thờ như thầy, có lúc ta kính như bạn, cũng có lúc ta kình địch không chịu, ta theo cái lý nhất quyết không làm tôi tớ cổ nhân.”
Lương Khải Siêu
 
"Cuộc sống  phản bội lại tổ tiên là cuộc sống bấp bênh nhất, trơ tráo nhất. Nếu không muốn phản bội lại tổ tiên, thì trước hết, đừng làm nô lệ cho bất kỳ kẻ ngoại xâm nào khác, không tin theo bất kỳ thứ chủ nghĩa nào khác."                                                                                                                    Trần Hạnh Thu



(Tiếp theo)
 


***
Vừa định quay lại với thời dựng nước của tổ tiên thì lại “gặp” Hoàng Xuân Phương trong “Kiến thức ngày nay” số 614. Ông ta nói vừa ngao du một chuyến thú vị trở về và muốn thuật lại những điều “tai nghe mắt thấy” cho mọi người nghe. Vì bản tính quá tò mò, chúng ta không cưỡng được, đành nán lại “nghe ngóng”.
Và ông kể (vì ngồi ở xa nên nghe chỗ được chỗ mất!):
“71500 năm trước, sau những cơn địa chấn dữ dội, núi lửa Toba nổ tung lên trời - từng đợt, từng đợt kéo dài suốt hai tuần lễ - mang theo bụi tro bao phủ trái đất và che kín mặt trời, tạo nên một mùa đông băng giá trong khoảng 6 năm và ướp lạnh Trái Đất trong suốt 1000 năm sau đó. Lịch sử Trái Đất ghi nhận cơn phún xuất hỏa sơn mạnh nhất trong hai triệu năm, và lịch sử nhân loại ghi nhận một thảm họa diệt chủng, một kiếp nạn: những con người - Homo Sapiens - thoát ly khỏi lục địa Châu phi trong các năm 90.000, đến sinh sống dọc theo các bờ biển ở phía đông bán đảo Ả Rập, ở Ấn Độ, và ở vùng Đông nam Á, nay bị chôn vùi dưới các lớp dày tro bụi và bị tiêu diệt bởi cái giá lạnh khủng khiếp!
Nhưng ở đâu đó giữa tam giác Việt Nam - Mã Lai - Nam Dương vẫn còn một nhóm người sống sót, họ phát triển thành các nền văn hóa có trình độ cao nơi một lục địa gọi là Sunderlan mà những nghiên cứu mới nhất của Stephen Oppenheimer cho là “Địa đàng ở Phương Đông”, truyền thuyết các dân tộc châu Á gọi là “vùng đất của người Mu”, và triết gia Hy Lạp, Platon (347 TCN) đặt tên là Atlantis, một cái nôi thực thụ của các nền văn minh, một lục địa biến mất vào lòng đại dương theo sau các trận đại hồng thủy bắt đầu 170000 năm trước và chỉ kết thúc cách nay 4200 năm
(…)
Chuyến bay Bali - Jakarta - Medan hoãn lại một ngày và chúng tôi có thêm thời giờ để xếp đặt các mẫu vật thu thập được nơi các di chỉ khảo cổ ở Komodo và ở Flores, đồng thời dành thời gian coi lại ảnh chụp các bức họa Bradshaws ở Kimberlites, nơi cung hải đảo châu Á tiếp cận lục địa châu Úc. Người Bradshaws để lại hàng ngàn bức họa trên các vách đá trong khoảng 60.000 năm trước, sau khi họ làm chủ vùng đất của các nhóm văn hóa đá sớm, và rồi chính họ cũng di chuyển ra khỏi địa bàn trong khoảng các năm 40.000, nhường chỗ cho tổ tiên các thổ dân ngày nay. Những bức họa này cho thấy vào buổi bình minh của nhân loại đã có những nền văn hóa rực rỡ và - dựa trên những họa tiết tại đó - không loại trừ đây là tiền thân của các nền văn minh Kim Tự Tháp ở Ai Cập và ở Trung Mỹ.
Bali là một đảo trong cung núi lửa nổi tiếng của vùng Đông Nam Á (…). Thực ra nơi vành đai núi lửa Thái Bình Dương này, những con người hiện đại - Homo Sapiens - không sống đơn độc, họ có những bạn đồng hành thuộc nhóm người JaVa - Homo erectus - javaentis - cho đến các năm 25000 và nhóm người Flores - Homo floresiensis - chỉ biến mất cách nay 12000 năm (…)
(…) Chúng tôi chọn con đường ngắn đi về phía nam đến Siantar, rồi xe bắt đầu lên dốc rẽ về phía tây, xuyên qua các rừng già thâm u và những mảnh ruộng bậc thang lọt thỏm bên dưới chân đồi. Từ Tigaras, xe men theo bờ hồ Toba đến Prapat, từ đây xuống phà qua phía Tuk Tuk vào đảo Samosir. Hồ Toba ngày nay sâu khoảng 529 mét. Mặt nước hồ nằm trên độ cao 900 mét so với mặt biển, và bề rộng lòng hồ lên đến 31 km trong khi chiều dài gần tới 90 km. Toba tiếp tục được hâm nóng nhiều ngàn năm sau vụ nổ khủng khiếp, đất đá tiếp tục trương nở và một ngọn núi mọc lên giữa lòng hồ như thể nút chặn miệng chai, tạo nên phong cảnh cù lao nằm giữa biển hồ, nên thơ mà hùng vĩ.
Thực ra hồ Toba, trung tâm văn hóa của người Batak, không chỉ là dấu tích của một vụ nổ cơ hồ tận diệt nhân loại cách nay 70000 năm, mà còn là chứng tích của một cuộc đào thoát khỏi vườn địa đàng. Tổ tiên của các người Batak đã đến đây sau trận hồng thủy cuối cùng cách nay 4200 năm làm chìm ngập các vùng châu thổ và duyên hải ven biển đến hơn 5 mét. Ở đây, câu chuyện về đại hồng thủy và con thuyền Noyê cứu nạn không chỉ là ký ức mà còn là hình tượng: các ngôi nhà được kiến thiết như những con thuyền với hai mũi (mái đầu hồi) cong lên, con người và súc vật đều sống chung trong đó. Những trận đại hồng thủy đầu tiên diễn ra cách nay 17000 năm khi Trái Đất ấm lên, băng hà tan rã, nước biển dâng cao thu hẹp Địa Đàng, nơi kiến tạo nền văn minh sớm nhất của nhân loại (…).

Kiểu nhà sàn hình thuyền của người Batak Toba rất giống với hình ảnh các ngôi nhà sàn Việt cổ được chạm khắc trên trống đồng Đông Sơn.
 
Khác với các dân tộc ít người ở Việt Nam, nơi đã có sự dung nạp ít nhiều giữa hai truyền thống “con Rồng” và “cháu Tiên”, những người Batak ở đây rặt dòng “con Rồng”, với hình rồng Komodo được khắc lên các mộ đá và trên các đầu hồi nhà, tương tự hình vẽ nơi các mũi thuyền của người Việt cổ xưa (…). Chúng tôi đáp tàu ra đảo Natuna Bear, nơi trước đây là trung tâm của lục địa Sunderland tức Vườn Địa Đàng trong các năm 23.750 đến 15.250 TCN, nay chìm ngập trên dưới 100 mét nước trong lòng đại dương!”.
Câu chuyện hay thật, bổ ích nữa, nhưng chúng ta vẫn bảo lưu ý kiến của mình về Địa Đàng!
Ra khỏi “Kiến thức ngày nay”, chúng ta dáo dác tìm người hỏi đường đi đến bến tàu “Vượt thời gian”. Hỏi cả chục người, chẳng ai biết mà cũng chẳng ai thèm trả lời: người lắc đầy nguầy nguậy, người xua xua tay nhăn nhó, có ông vừa mỉm cười vừa phẩy tay nhưng lạ nhất là có một bà già trố mắt có vẻ kinh hãi, vừa lùi vừa chắp tay vái lấy vái để rồi đi vòng theo hướng khác. Ô hay, sao lại lạ thế nhỉ? Chúng ta dừng lại nhíu mày nghĩ ngợi. Chưa kịp nghĩ ra chuyện gì thì thấy có một người, quần ống thấp ống cao, tay cầm một cái cuốc chim, hùng hổ đi tới. Thôi chết rồi, đích thị là thằng “khảo của”! Chúng ta điếng người khi nghĩ đến cái ba lô hành trang đựng đầy ngọc quý sắp đổi chủ.
- Làm gì mà đứng như thằng ngố thế hả Ba Đá?
Ủa! Sao nó lại biết tên “cúng cơm” của mình? Chúng ta hỏi lại:
- Ông là ai vậy?
- Ôi dào ơi! Từ xa tôi đã nhận ra ông rồi mà đến giờ ông vẫn không nhận ra tôi à! “Khảo Cổ” đây, cái người nhậu say rồi vẫn hay ghé sang bàn ông tiếp tục nhậu vui với mấy em ở quán “Hương Cau” đó, nhớ chưa?
- A! Nhớ rồi!... Thế mà tôi cứ tưởng thằng “Khảo Của”… Đội cái nón sùm sụp thế, bố ai mà nhận ra! - Chúng ta thở phào, người nhẹ tưng - Đi đâu thế?
- Đào tìm di vật cổ… Thứ mà bây giờ bán có giá lắm… Vừa rồi tôi đào được một con rùa đá bán cho một thằng “chệt” Đài Loan, tiền bán xây được căn nhà “3 tấm” thênh thang, còn nhậu thoải mái với em út cả tuần mà vẫn không hết…Thế còn ông?
Chúng ta giật thột, có gì đó buốt sống lưng:
- Thế con rùa đó trên lưng có gì không?
- Chẳng có gì ngoài mỗi một lỗ hình vuông… Nghe nói bên Tàu có con rùa đá lưng dát ngọc, thuộc dạng di vật cực kỳ cổ. Bây giờ, ai mà có nó là có thể mua được cả thiên hạ…
- Ông nói quá thế chứ ai lại đi bán nước chỉ vì một con rùa đá!...
“Khảo Của” (đúng là “Khảo Của” chứ không phải “Khảo Cổ”!) cười hì hì! Biết bao nhiêu nhà khảo cứu lịch sử khốn khổ trước những trang sử bị thất lạc có lẽ một phần không ít là do những gã loại này gây ra đây! Chúng ta thoáng nghĩ thế rồi chặc lưỡi trong lòng và hỏi:
- Tôi muốn đến bến “Vượt thời gian”, ông biết đi đường nào tới đó không?
- Á à! Ông cũng ghê lắm chứ bỡn!... Định về thời cổ để hớt tay trên bọn này chứ gì? Vô ích thôi, trước ông, nhiều kẻ cũng đã ngông cuồng như vậy nhưng rốt cuộc đều thành những anh hề. Ông đã đọc cuốn “Nguyên lý ảo - thực” chưa? Chưa thì đọc đi!... Cái mà hôm nay gọi là thực thì ngày mai, may lắm, chỉ còn là di tích thôi!
- Không, tôi không có mục đích ấy. Thực sự là tôi có một việc rất nghiêm túc cần giải quyết. Tôi muốn về Cổ Loa thành thời cổ đại…
- Ơ… nếu đi tham quan thì được! Ông cứ đi thẳng theo hướng tay tôi chỉ đây này, đến ngã tư gọi là “Tứ tượng” thì rẽ phải (“phải” của tôi chứ không phải “phải” của ông, nhớ đấy!), đi tiếp sẽ gặp một vòng xoay tám ngả gọi là “Bát Quái”, phía bên trái có một con đường mang tên “Lưỡng Nghi”, cứ theo hướng ấy mà đi một đỗi nữa, khi nào nhìn sang bên trái thấy số 15 thì rẽ phải, đi bộ 6 đơn vị khoảng cách nữa thì sẽ thấy một cổng chào lộng lẫy với dòng chữ “Công viên Ngũ Hành”, ông cứ tự nhiên như ruồi, đi thẳng vào đó, nhìn quanh sẽ thấy một đường cầu thang đi xuống lòng đất, bên cạnh có biển đề “Hầm Âm Dương” (nhớ cho kỹ “Hầm Âm Dương” chứ không phải “Nhà Vệ Sinh”!), đi xuống hết cầu thang đó, ông sẽ thấy có hai mũi tên chỉ về hai chiều ngược nhau có ghi là “Âm” hoặc “Dương”, ông đi theo chiều “Âm” sẽ đến bến “Vượt thời gian”…
- Nhằng nhịt quá nhỉ?!... Thế còn chiều “Dương”?
- Hình như đó là đường hầm đi qua… Thủ Thiêm, ông mà đi theo hướng đó thì chỉ có thể đến chỗ… tắc tị. Tôi nghe nhiều người nói thế chứ chưa xuống Hầm Âm - Dương lần nào. Tôi còn nghe nói bến tàu Vượt thời gian lúc nào cũng đông nghịt khách và rất lạ là đối với tuyến Hiện tại đi Quá khứ, hầu như người ta chỉ mua vé tàu suốt, ít thấy ai mua vé khứ hồi…
- Tàu suốt là có đi mà không có về ấy à?
- Lại còn hỏi, rõ thật cái ông này!...
- Thôi, xin cảm ông nhiều vì đã “vẽ đường cho hươu chạy”. Tôi đi đây! Chào ông nhá!...
- Lâu ngày gặp nhau, kiếm chỗ nào chén tạc chén thù vài chai đã nào… Ủa, Ba Đá!... Vội gì mà như ma đuổi thế… ế.. ế…?
“Ế.. ế…” là những âm thanh cuối cùng còn nghe được từ gã “Khảo Của”, khi chúng đã đi được khoảng 3 đơn vị khoảng cách. Khảo Cổ đâu có ngờ rằng đã từ lâu chúng ta không còn muốn lông bông trong Hiện Tại nữa.
“Lưỡng nghi” là một con đường thẳng tắp với hai bên là hai hàng cây sao cổ thụ vươn cao lên trời xanh cũng thẳng tắp không kém. Nếu không “vướng” những khu vực quây kín bằng vách tôn, nằm lù lù giữa lòng đường, rải rác dọc suốt chiều dài của nó thì chắc chắn “Lưỡng nghi” là con đường đẹp nhất ở chốn phồn hoa đô hội. Không biết người ta làm cái giống gì trong những khu vực quây kín bằng tôn ấy mà có cả xe cạp đất to đùng. Không lẽ họ tìm đồ cổ? Rất có thể vì không ai lại nỡ báng bổ một mặt đường mới toanh, đang phẳng o, không tì vết như thế để tìm hay đặt một cái cống cả. Để tìm của báu, đồ cổ đắt giá, người ta mới “chơi” như thế chứ! Ở quê, chúng ta còn thấy có đám dám đào bới cả mồ mã nữa là!...
Vừa đi, vừa lan man nghĩ, vừa nhìn sang trái để tìm số 15 và đến khi mồ hôi đã không còn mà chảy nữa thì chúng ta thấy nó. Nếu không nhờ có gã “Khảo Của” chỉ dẫn trước thì khó lòng thấy được số 15 vì nó không nằm độc lập mà chỉ là một bộ phận nhỏ, có tính lặn trong một bảng hiệu với hàng chữ đầy đủ là: “Lịch sử quân sự - số 15”.
Một đám người ngồi trong đó, vẻ mặt ai cũng chăm chú. Chuyện gì thế nhỉ? Sự tò mò vô độ bắt chúng ta phải tạt vào.
Người ngồi ngoài cùng quay ra nhìn. Chúng ta tranh thủ hỏi luôn:
- Chuyện gì thế?
- Suỵt! Trật tự để nghe Đinh Công Vĩ kể chuyện “Tổ tiên ta đánh giặc”!...
- Xin lỗi! Cho hỏi chút xíu… Ông ta kể lâu chưa?
- Mới!...
(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------------------



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH