Thứ Năm, 12 tháng 11, 2020

TT & HĐ - 22/i

                                            

                                              [Sử Ký Tư Mã Thiên] - Thái Sử Công Đề Tựa

 

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.


CHƯƠNG XXII: TỔ TIÊN 


"Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba"
                                                                    Ca dao

"Noi gương tiên tổ truyền thống anh hùng muôn thuở thịnh 
 Nối nghiệp ông cha phát huy khí thế vạn đời vinh."

                                                                                   câu đối thờ gia tiên


 

“Ta có tai, mắt, ta nghe, ta trông; ta có tâm tư ta suy, ta nghĩ; đối với người xưa có lúc ta thờ như thầy, có lúc ta kính như bạn, cũng có lúc ta kình địch không chịu, ta theo cái lý nhất quyết không làm tôi tớ cổ nhân.”
"Cuộc sống  phản bội lại tổ tiên là cuộc sống bấp bênh nhất, trơ tráo nhất. Nếu không muốn phản bội lại tổ tiên, thì trước hết, đừng làm nô lệ cho bất kỳ kẻ ngoại xâm nào khác, tin theo bất kỳ thứ chủ nghĩa nào khác."
                                                                                                               Trần Hạnh Thu



(Tiếp theo)

Đã mấy lần uất ức quá, ông nghĩ đến việc tự vẫn. Nhưng ông thấy rằng nếu chết đi thì chẳng ai khen mình là tử tiết mà thế tục sẽ bảo đó là vì xấu hổ mà tự sát. Vả chăng, sự nghiệp chưa tròn, “Sử ký” còn dở dang, lời dặn của cha còn đó. Ông gạt nước mắt, nói: “Người ta ai cũng có một lần chết, có cái chết nặng như núi Thái Sơn, có cái chết nhẹ như lông hồng” và cố gắng gượng sống.
Cái ấn tượng sống nhục nhã, cô độc đeo đuổi ông cho đến khi chết. Mỗi khi nghĩ đến cái nhục bị hình phạt, mồ hôi vẫn cứ đầm lưng ướt áo! Nhưng ông không vì thế mà chán nản, trái lại, ông càng tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Ông thấy rõ hình phạt đó là thử thách đối với những “người trác việt phi thường”. Ông càng thấy cần phải viết “cho hả điều căm giận”. Và chính cái hình phạt nhục nhã ấy đã làm cho ông hiểu rõ cái mặt trái của xã hội phong kiến và dũng cảm đứng về phía nhân dân. Ông trở thành nhà sử gia vĩ đại của một nhân dân vĩ đại.
(…)
(…)
Hiện nay, người ta vẫn chưa biết ông mất vào năm nào. Người ta chỉ biết ông viết thư trả lời cho Nhâm An năm 53 tuổi (tức năm 93 TCN) và sau đó không có những tài liệu gì về ông, theo Vương Quốc Duy trong “Thái sử công hành niên khảo”, có lẽ ông mất năm 60 tuổi (tức năm 86 TCN), cùng một năm với Vũ Đế.
(…)
“Sử Ký” là một tác phẩm đồ sộ, tất cả 52 vạn chữ, 130 thiên, gồm 5 phần: Bản kỷ, Biểu, Thư, Thế gia, Liệt truyện.
(…)
(…)
(…). Mục đích của Bản kỷ là chép lại sự việc của những người, những nước có tác dụng chi phối cả thiên hạ. Ngay ở đây, trong cách sắp đặt của ông, cũng có những điều đời sau không dám nghĩ đến. Ông chép riêng lịch sử nước Tần trước Tần Thủy Hoàng thành một Bản kỷ vì trong thời Chiến Quốc, nước Tần là nước chi phối vận mệnh của tất cả các nước. Ông làm Bản kỷ Lữ Hậu mặc dù Lữ Hậu chỉ là thái hậu chứ không trị vì trên danh nghĩa, trái lại ông không làm Bản kỷ Huệ Đế mặc dù trên danh nghĩa, Huệ Đế vẫn là vua. Đó là vì Huệ Đế làm vua nhưng tất cả quyền hành đều nằm trong tay Lữ Hậu. Đặt một người đàn bà lên địa vị “kỷ cương một nước” là điều không một sử gia nào đời sau dám làm, táo bạo hơn, ông dành cho Hạng Vũ những trang đẹp nhất mặc dù Hạng Vũ chưa hề làm đế, là kẻ thù của nhà Hán. Đó cũng là vì ông tôn trọng sự thực khách quan. Hạng Vũ tuy về danh nghĩa không phải là người làm chủ các chư hầu đánh lại nhà Tần (đó là địa vị của Nghĩa Đế) nhưng trong thực tế, người có công lớn nhất trong việc tiêu diệt nhà Tần, người phong đất cho chư hầu, cai trị thiên hạ trong 5 năm chính là Hạng Vũ (…).
Để có cái nhìn đối chiếu các sự kiện hoặc căn cứ vào niên đại, hoặc căn cứ vào sự tương quan đồng thời giữa các nước, Tư Mã Thiên lập ra 10 Biểu (…).
Những bản Biểu là những công trình khoa học rất quí, ghi chép năm, tháng, biến cố, giúp cho các nhà sử học hiểu được vị trí của từng sự kiện và sự tương quan của nó về thời gian cũng như về không gian với các sự kiện khác, đặc biệt ở trong một nước mênh mông, lại phân tán như Trung Quốc cổ.
Lịch sử một nước chủ yếu là lịch sử của những thiết chế của nó. Tư Mã Thiên nhận thấy điều đó nên viết 8 Thư dành cho 8 mặt. Điều này cũng biểu hiện rằng ông có một kiến thức bách khoa. Phần này rất quí về mặt nghiên cứu. Tác giả nêu rõ sự biến đổi, những cống hiến về lễ, nhạc, luật lệ, việc làm lịch, thiên văn… qua các thời đại. Điều làm chúng ta hết sức ngạc nhiên là ông có những biểu hiện chính xác về mọi mặt và ở đâu ông cũng có những nhận xét tổng quát rất thấu đáo. Thiên “Phong thiện thư” nói về những việc mê tín, cúng tế của vua chúa với một giọng châm biếm chua chát. Thiên “Hà cư thư” nói về các con sông ở Trung Quốc. Thiên “Bình chuẩn thư” nói về kinh tế. Những thiên này viết chính xác đến nỗi người đời sau thường dựa vào đó để đính chính những sai sót trong các sách cổ nói về những thiết chế xã hội. Chúng làm ta thấy tác giả có một cái nhìn duy vật vào lịch sử và thấy tầm quan trọng của những sự kiện kinh tế, khoa học, văn hóa đối với lịch sử một nước (…).
Phần Thế gia bao gồm 30 thiên, chủ yếu nói đến lịch sử các chư hầu, chẳng hạn các nước Tề, Lỗ, Triệu, Sở…; những người có địa vị lớn trong quí tộc như các thái hậu, những người được phong một nước như Chu Công, Thiện Công, và những người có công lớn như Trương Lương, Trần Bình…. Đáng chú ý nhất là tác giả xếp vào Thế gia hai người thường dân không hề có một tấc đất phong. Đó là Khổng Tử, một người có địa vị đặc biệt trong lịch sử tư tưởng của Trung Quốc, và Trần Thiệp, anh hùng cố nông đã cầm đầu cuộc nông dân khởi nghĩa đầu tiên của lịch sử dân tộc Hán. Cách nhìn như vậy chứng tỏ một tầm mắt khác thường.
Danh từ “Liệt truyện” là do chính tác giả đặt ra. Phần này gồm 70 thiên, bao gồm những nhân vật khác nhau và những sự việc rất khác nhau. Đáng để ý trước hết là phần liệt truyện dành cho những nước ở ngoài địa bàn Trung Quốc mà ông là người đầu tiên đưa vào lịch sử với tính cách những bản khái quát đứng đắn và khoa học (Nam Việt, Đông Việt, Triều Tiên, Tây Di, Đại Uyển, Hung Nô). Cố nhiên, một phần liệt truyện là dành cho những người tai mắt trong xã hội cũ như những danh tướng (Mông Điềm, Lý Quảng, Vệ Thanh), những người làm quan to (Trương Thích Chi, Công Tôn Hoằng…). Điều đáng chú ý ở đây là ông đã nhìn thấy vai trò to lớn của những con người bình thường, thường không có chức tước gì nhưng có ảnh hưởng vô cùng sâu rộng đối với cả dân tộc. Đó là những du hiệp, những thích khách, trọng nghĩa khinh tài mà ông đã ghi lại trong những trang sôi nổi (“Thích khách liệt truyện”, “Du hiệp liệt truyện”). Đó là những nhà tư tưởng mà tác phẩm của ông đã ghi lại cuộc đời, hành trang và đánh giá học thuyết (Lão Tử, Trang Tử, Tuân Khanh…). Đó là những nhà văn như Khuất Nguyên, Tư Mã Tương Như mà ông nêu lên giá trị và nhận xét về nghệ thuật. Đó là những thầy thuốc, thầy bói, thậm chí là những anh hề mà trong con mắt của ông, lời nói có thể xếp vào Lục Kinh. Và cố nhiên, một con người yêu nhân dân và sự thực như Tư Mã Thiên không thể nào quên những tên sâu mọt, đàn áp bóc lột dân chúng, những bọn “Khốc lại” chỉ lo a dua nhà vua, tàn sát dân lành, những bọn ngoại thích lộng quyền và vô số những nhân vật ti tiện mà ông mạt sát bằng những lời phẫn nộ.
Thế giới của Tư Mã Thiên bao la như vậy! Qui mô của tác phẩm làm ta ngợp, bút lực của tác giả làm ta sợ. Đối với những người yêu văn học Trung Quốc, tác phẩm đưa đến một cảm giác rất lạ. Ở đây có cái biến ảo của “Nam Hoa Kinh”, có cái rạch ròi của “Hàn Phi Tử”, có cái hoa lệ của “Tả truyện”, có cái nghiêm khắc của “Xuân Thu”. Nhưng còn một cái nữa mà văn học từ Hán trở về trước (trừ Kinh Thi) không thấy có, đó là ý thức bám chắc vào sự thực, không rời cuộc sống dù chỉ nửa bước (…).
Ấn tượng ấy đến với chúng ta không phải ngẫu nhiên. Đó là vì “Sử ký” chính là Tư Mã Thiên sống, và con người ấy sống với những tư tưởng lớn.
(…)
(…)
Có thể nói Tư Mã Thiên là sử gia đầu tiên trên thế giới viết về lịch sử của một nước. Trước đấy, ở Trung Quốc chỉ có những người viết lịch sử một công quốc hay kể lại một vài biến cố quan trọng như “Xuân Thu thượng thư”. Những bộ sử như “Lịch sử” của Hêrôđốt (490-425 TCN), “Lịch sử đấu tranh ở Pôlôpône” của Tuy-xi-đút, trong văn học Hi Lạp hay “Chiến tranh ở Gôlơ” của Xêda trong văn học La Mã, chẳng qua chỉ kể lại một trận đánh  hay một chiến dịch. Quyển “Lịch sử La Mã” của Titút Livut (69-17 TCN), viết sau “Sử ký”, chỉ là lịch sử một đô thị. “Sử ký” thì khác, nó là lịch sử của toàn bộ dân tộc Trung Hoa kéo dài trên 3000 năm từ Hoàng Đế đến Vũ Đế và bao gồm một địa bàn mênh mông (…).
Ông cũng là người đầu tiên viết một quyển thông sử bao gồm mọi mặt của xã hội. Ông chú ý đến tất cả, đọc tất cả, biết tất cả kiến thức của thời đại (…).
Phương pháp viết sử của ông cũng rất đáng chú ý. Tư Mã Thiên nói: “Tôi chỉ thuật lại chuyện xưa, sắp đặt lại các câu chuyện trong đời chứ có phải sáng tác đâu”. Câu nói này thể hiện đúng cái quan niệm của tác giả về sử. Ngày nay chúng ta không nắm được tất cả những tài liệu mà ông đã dùng, nhưng có một điều chắc chắn là ông không bao giờ sửa đổi tài liệu. Những nhân vật thời Ân, Chu chính là những nhân vật của “Thượng Thư”, những nhân vật thời Xuân Thu, Chiến Quốc là những nhân vật của “Xuân Thu”, “Quốc Ngữ”, “Tả truyện”, “Chiến Quốc sách”. Lời nói của họ là lời họ nói trong thực tế theo những tài liệu tin cậy nhất. Những bài văn bia nhà Tần là do chính tay tác giả chép lại. Và ông đã để lại cho chúng ta cả một kho tàng văn kiện vô giá, nào chế, biểu, nào văn bia, thư, phú, bài hát, lời ca, cả những bài nghị luận dài, tất cả chiếm một phần ba tác phẩm, trong số đó phần lớn còn sống đến ngày nay vì chúng gắn liền với số phận của “Sử ký”. Đành rằng, đây đó, có những chi tiết sai lầm vì tài liệu lúc bấy giờ số lớn là tài liệu truyền miệng. Nhưng nói chung, ông hết sức nghiêm túc. Quan niệm viết sử này khác xa quan niệm những nhà viết sử cổ Hi Lạp, La Mã. Các nhà viết sử cổ đại, trừ Tuy-xi-đit, thường xem sử là một công trình nghệ thuật. Những nhân vật của họ đọc những bài diễn văn rất hay, nhưng do họ sáng tác ra, những nhân vật ấy tồn tại với tính cách những giả thiết tiêu biểu cho chính kiến của họ. Chính vì vậy, sử học hiện đại không xem đó là những công trình khoa học, không ai lấy đó làm cơ sở chính cho sự nghiên cứu La Mã, Hi Lạp cổ. Trái lại “Sử ký” từ trước đến nay vẫn là uy tín lớn nhất của cổ sử Trung Hoa. Bất kỳ ai muốn nghiên cứu bất kỳ phương diện nào của Trung Quốc cổ cũng không thể coi thường nó. Trịnh Tiều nói: “Một trăm đời sau, các sử quan không thể thay đổi cái phép tắc của ông, kẻ học giả không thể bỏ quyển sách của ông” chính là vì vậy.
Tư Mã Thiên là người cha của sử học Trung Hoa, nhưng là một người cha khó bắt chước nhất. Đối với sử học Trung Quốc, ông là người duy nhất nói về đương thời. Các sử gia về sau chỉ viết về một triều đại khi triều đại ấy đã chấm dứt. Họ sợ hiện tại và lẩn tránh nó. Trái lại, Tư Mã Thiên đã dành một nửa tác phẩm cho giai đoạn từ Hạng Vũ đến Vũ Đế, và việc càng gần ông chép càng rõ. Ông để lại những trang vô cùng sinh động về Cấp Ám, con người dám nói thẳng sự thực, không kiêng nể gì Vũ Đế. Ông kết tội Lữ Hậu, nêu bản tính lưu manh của Cao Tổ, phơi bày một bức tranh đau thương về xã hội trước mắt. Ông đau xót trước cái cảnh vua chúa mê tín (Phong thiên thư), phung phí tài sản nhân dân (Bình chuẩn thư), ngoại thích lộng hành (Ngụy Kỳ Vũ An Hầu liệt truyện), quan lại tàn ác (Khốc lại liệt truyện), nhà nho cầu an, giả dối (Công Tôn Hoằng truyện, Thích Tôn Thông truyện). Ông run sợ cho tương lai. Và chính ở đây người ta mới hiểu hết cái tâm sự của ông, lòng yêu nước, yêu nhân dân cũng như sự trung thực của một nhà khoa học.
Nhưng quan trọng hơn hết, ông hiểu tác phẩm của ông là viết cho ai. Ông nói quyển “Sử ký” viết cho “những người của nó”. Người của nó đây không phải là một vị ân chủ, một mỹ nhân, mà là nhân dân vĩ đại và bất tử. Ông có ý thức rõ về việc đó cho nên hai ngàn năm sau, đọc “Sử ký” ta thấy nó sinh động, mãnh liệt vô cùng, đồng thời tràn ngập cái hào khí của chính nghĩa. Nhìn vào quyển sách của ông, ta thấy hiện nên rõ rệt sự bất bình đẳng trong xã hội, cảnh nghèo khổ của những nông dân mất hết đất đai, sự giàu có phè phỡn của bọn phong kiến, con buôn lớn. Ta thấy bức tranh hiện thực về xã hội mà bọn bồi bút phong kiến cố hết sức che đậy bằng những danh từ trống rỗng. Cố Viêm Võ nói rất đúng: “Người xưa làm sử không cần bàn luận, nhận xét mà cái ý của tác giả thấy ngay trong việc trình bày thì chỉ có một mình Thái Sử Công (tức Tư Mã Thiên) làm được mà thôi”. Cái khó ở đây không ở phương pháp mà ở con tim.
Cũng vì Tư Mã Thiên không viết tác phẩm theo những khuôn khổ có sẵn về đạo đức phong kiến nên những nhận xét của ông về lịch sử rất trác việt. Ông luôn luôn lấy quyền lợi của nhân dân, lấy sự sống của họ để đánh giá nhân vật lịch sử. Đặc biệt, khi viết lịch sử nhân vật nào, ông cũng nêu rõ sự gắn bó của nhân vật với số phận của dân chúng. Ông thấy rõ Trần Thiệp “tài năng ở dưới mức trung bình” nhưng đã làm được một việc oanh liệt chỉ vì được dân chúng ủng hộ. Sự phân tích của ông về sự thành công của Lưu Bang và sự thất bại của Hạng Vũ có một ý nghĩa to lớn. Dưới con mắt của ông, Hạng Vũ là một con người phi thường, “tài năng và chí khí hơn người”, “từ cận cổ đến nay chưa ai có được như thế”. Về tư cách cá nhân mà nói, thì Lưu Bang kém Hạng Vũ về tất cả mọi mặt. Hạng Vũ là viên tướng bách chiến bách thắng, quân chư hầu sợ Hạng Vũ đến nỗi “đi bằng đầu gối, không ai dám ngẩng đầu lên nhìn”. Hạng vũ thương người và trọng nghĩa. Trái lại Lưu Bang là một người “không lo làm ăn”, “tham tiền và ham gái”, ngạo mạn, thô lỗ: “Thấy khách đội mũ nhà nho, Bài Công liền giật lấy mũ đái vào trong”. Thế nhưng cuối cùng Lưu Bang lại lấy được thiên hạ. Đó là vì Lưu Bang biết tự kiềm chế mình, lắng nghe theo lòng dân, luôn luôn chú ý đến dân chúng cho nên dân chúng tin. Đúng như Hàn Tín nói, Hạng Vũ chỉ có cái nhân của người đàn bà, cái dũng của kẻ thất phu, tiếc tiền, tiếc đất, chỉ tin vào tài năng của cá nhân mình, nghi ngờ tất cả; đã thế lại hiếu sát làm nhân dân thất vọng. Lưu Bang đã thắng vì biết dựa vào dân, tận dụng tài năng của các tướng. Cách nhìn nhận như vậy rất đúng và khoa học. Nó làm cho người ta nhớ đến tác phẩm của Makiaven, ở đây, Tư Mã Thiên có thể sánh với những nhà sử gia lớn nhất của thời cổ đại.
(Còn tiếp)
------------------------------------------------------------------------



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét