Thứ Ba, 10 tháng 11, 2020

TT & HĐ - 22/h

                                           

                                              Tư Mã Thiên - Chu Du Thiên Hạ Viết Sứ Ký

 

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!                                                                                   Trong khinh khi may nhớ nước non                                                  Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử                                                     Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử                                                Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm                                Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng                                        Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."                                                     Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau                                       Cervantes (Tây Ban Nha) 

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."                                                                                                                                             Cicero (La Mã) 

Đừng chê cõi trần nhơ                                                                  Đừng khen cõi trần đẹp                                                                    Cõi trần là thản nhiên                                                                      Chỉ có đời nhơ, đẹp.”                                                                                                            Trần Hạnh Thu

 

CHƯƠNG XXII: TỔ TIÊN 

"Dù ai đi ngược về xuôi                                                                   Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba"                                                                    Ca dao

"Noi gương tiên tổ truyền thống anh hùng muôn thuở thịnh  
 Nối nghiệp ông cha phát huy khí thế vạn đời vinh."
câu đối thờ gia tiên

“Ta có tai, mắt, ta nghe, ta trông; ta có tâm tư ta suy, ta nghĩ; đối với người xưa có lúc ta thờ như thầy, có lúc ta kính như bạn, cũng có lúc ta kình địch không chịu, ta theo cái lý nhất quyết không làm tôi tớ cổ nhân.”
Lương Khải Siêu
 
"Cuộc sống  phản bội lại tổ tiên là cuộc sống bấp bênh nhất, trơ tráo nhất. Nếu không muốn phản bội lại tổ tiên, thì trước hết, đừng làm nô lệ cho bất kỳ kẻ ngoại xâm nào khác, không tin theo bất kỳ thứ chủ nghĩa nào khác."                                                                                                                    Trần Hạnh Thu

 




(Tiếp theo)

"Tư Mã Thiên, tên tự là Tử Trường, sinh năm 145 TCN, ở Long Môn, nay là huyện Hàn Thành, tỉnh Thiểm Tây. Tổ tiên của ông từ đời Chu đã làm thái sử. Đến đời cha của ông là Tư Mã Đàm làm thái sử lệnh của nhà Hán. Đàm là một người học rộng, rất thích học thuyết Lão Trang. Chức sử quan ngoài việc chép sử còn coi thiên văn, làm lịch, bói toán. “Nghề viết văn, viết sử, xem sao, xem lịch thì cũng gần với bọn thầy bói, thầy cúng. Chúa thượng vẫn đùa bỡn nuôi như bọn con hát, còn thế tục vẫn coi thường”. Tuy vậy, Tư Mã Đàm vẫn thấy cái nghề của mình là cao qúi vì ông biết nó có tác dụng to lớn đối với sự thịnh suy, hưng vong của một nước. Trong các sử quan thời trước, cũng có những người dám hy sinh đời mình để viết sự thật, dù sự thật ấy làm vua chúa tức giận. Chẳng hạn khi Thôi Trữ giết vua Tề thì quan thái sử nước Tề viết: “Thôi Trữ giết vua của mình là Trang Công”. Quan thái sử bị giết, người em lên thay vẫn viết như vậy nên bị giết luôn. Ngay lúc đó, người em thứ ba xin lên thay, cũng không thêm bớt một chữ. Thôi Trữ sợ không dám giết nữa (…).
Tư Mã Thiên sống thời thơ ấu ở Long Môn, cày ruộng, chăn trâu, làm bạn với những người nông dân bình thường và học các sách sử cổ. Lên mười tuổi, ông đã học “Tả Truyện”, “Quốc ngữ”, “Thế bản” và thuộc lòng hầu hết những bài văn nổi tiếng của thời trước.
Tư Mã Đàm hết sức chú ý đến việc giáo dục con. Năm Tư Mã Thiên hai mươi tuổi, ông bảo con lên đường đi du lịch để xem tận mắt những nơi sau này Tư Mã Thiên sẽ phải viết sử. Tư Mã Thiên trước tiên đi về nam đến Trường Giang, vượt sông Hoài, sông Tử, thăm mộ mẹ Hàn Tín, đoạn lên núi Cối Kê xem nơi vua Hạ Vũ triệu tập chư hầu, vào hang Vũ Đông tìm di tích vua Vũ. Ở Cối Kê ông đã nghe những câu chuyện kể về vua Việt Câu Tiễn. Ông lên Cô Tô tìm di tích Ngũ Tử Tư, đi thuyền đến Thái Hồ sưu tầm truyền thuyết về Tây Thi, Phạm Lãi. Sau đó, ông đi ngược lên Trường Sa, đến bến Mịch La khóc Khuất Nguyên, đến sông Tương trèo lên núi Cửu Nghi nhìn dấu vết mộ vua Thuấn và khảo sát những tục cũ từ thời Hoàng Đế. Ông lên miền Bắc, vượt sông Vần, sông Tứ đến nước Tề, nước Lỗ, bồi hồi nhìn lăng miếu của Khổng Tử, say sưa nghe nhân dân kể chuyện Trần Thiệp, đến đất Tiết thăm hỏi di tích của Mạnh Thường Quân, lên Bành Thành quê hương Lưu Bang để tìm hiểu rõ thời niên thiếu của những con người đã dựng nên nhà Hán. Ông sang nước Sở thăm đất phong của Xuân Thân Quân, đến nước Ngụy hỏi chuyện Tín Lăng Quân rồi trở về Tràng An. Sau chuyến đi kéo dài ba năm ấy, ông còn đi những chuyến khác cũng để tìm tài liệu. (…) Có thể nói trừ miền Quảng Đông, Quảng Tây, còn từ Vân Nam, Tứ Xuyên cho đến Vạn Lý Trường Thành, ở đâu cũng có vết chân của ông. Ông là một trong những nhà du lịch lớn nhất của thời cổ.
Những cuộc du lịch đã cung cấp cho ông vô số tài liệu, truyền thuyết, giúp ông thấy được thái độ của nhân dân đối với những nhân vật, những biến cố lịch sử và cho ông rất nhiều chi tiết điển hình, về đời sống từng người trong lúc còn hàn vi.
Chính những cuộc “đi chơi” như vậy đã làm cho Tư Mã Thiên thấy cái bao la hùng vĩ của đất nước, có được một ý thức sâu sắc về sự vĩ đại của tổ quốc về tất cả mọi mặt để thành nhà sử gia vĩ đại của cả một dân tộc. Mã Tồn, một văn sĩ đời sau, nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Câu nói đó không phải là quá đáng.
(…)
Năm 110 TCN, Vũ Đế chuẩn bị làm lễ phong thiệu ở Thái Sơn. Tư Mã Đàm trên đường đi theo nhà vua, mắc bệnh nặng, cầm tay con khóc mà rằng:
- Tổ ta đời đời làm sử quan. Sau khi ta chết đi, thế nào con cũng nối nghiệp ta làm thái sử. Khi làm thái sử, chớ quên những điều ta muốn bàn, muốn viết… Hiện nay bốn biển một nhà, vua sáng tôi hiền, ta làm thái sử mà không chép được rất lấy làm xấu hổ. Con hãy nhớ lấy!
Ông khóc mà vâng lời!
Ba năm mãn tang, ông thay cha làm thái sử lệnh (năm 108 TCN) chuẩn bị viết bộ “Sử ký”, thực hiện cái hoài bão lớn nhất của người cha, đồng thời là điều mong ước duy nhất của mình. Từ năm 106 TCN, ông không giao tiếp với khách khứa, bỏ cả việc nhà, ngày đêm miệt mài biên chép. Như thế được bảy năm thì xảy ra cái vạ Lý Lăng.
Năm 99 TCN, Vũ Đế sai Lý Quảng Lợi cầm ba vạn quân đánh Hung Nô. Bấy giờ Lý Lăng, cháu của danh tướng Lý Quảng, cầm năm ngàn quân vào biên giới Hung Nô. Bị tám vạn quân Hung Nô bao vây. Lăng chỉ huy cuộc chiến đấu suốt 10 ngày liền, giết hơn vạn quân địch. Nhưng cuối cùng vì cách xa biên giới, bị chặn mất đường về, quân sĩ chết hầu hết, mệt mỏi không còn sức chiến đấu, Lăng phải đầu hàng. Vũ Đế nổi giận, muốn giết cả nhà Lăng, quần thần đều hùa theo ý nhà vua. Thiên biết Lăng từ hồi hai người còn làm lang trung, tuy không đi lại chơi bời, nhưng mến phục Lăng là người can đảm, có phong thái của người quốc sĩ, nên tâu:
- Lý Lăng mang năm ngàn quân, thâm nhập vào nước địch đánh nhau với quân địch mạnh luôn 10 ngày liền, giết và làm bị thương vô số. Vua tôi Thuyền Vu sợ hãi, đem tất cả kỵ binh toàn quốc bao vây, Lăng một mình hăng hái chiến đấu ở ngoài ngàn dặm, tên hết, đường về bị cắt, cứu binh không đến, người chết và bị thương chồng như núi, nhưng nghe Lý Lăng hô hào, binh lính đều phấn chấn vuốt máu, chảy nước mắt giơ nắm tay không xông vào mũi nhọn cùng Hung Nô quyết chiến. Thần cho rằng Lý Lăng có thể sánh với những danh tướng ngày xưa. Nay tuy thất bại nhưng xem ông ta còn muốn có cơ hội báo đáp nước nhà.
Ông hy vọng lời nói của mình có thể giảm nhẹ tội cho Lý Lăng, không ngờ Vũ Đế càng giận, cho ông cố ý đề cao Lăng để chê Lý Quảng Lợi nhút nhát không lập nên công lao gì mà Quảng Lợi lại là anh của Kỳ phu nhân rất được nhà vua yêu quí. Vũ Đế bèn sai bắt giam Tư Mã Thiên giao cho Đỗ Chu xét xử.
Nhân vật Đỗ Chu đã được Thiên nói đến trong “Khốc lại truyện”. Có người trách y: “Ông thay nhà vua coi pháp luật, tại sao không căn cứ vào pháp luật mà xét; trái lại chỉ lo chiều theo ý nhà vua?”. Đỗ Chu đáp: “Luật lệnh ở đâu mà ra? Chẳng phải là do nhà vua mà ra đó sao?”. Gặp phải bọn quan lại như vậy, cố nhiên ông không có cách nào khỏi tội. Bấy giờ có phép lấy tiền chuộc tội. Chỉ cần 50 vạn đồng tiền là chuộc được tội chết. Trong bức thư ông viết sau này cho Nhâm An, một người bạn cũ sắp bị chém, một người cùng chung cảnh ngộ, ông đã kể lại nỗi cay đắng của mình. Nhà ông nghèo, ông mải mê theo đuổi sự nghiệp của mình, quên cả gia sản; nên không sao chuộc được tội. Bạn bè, thân thích không ai nói hộ một lời, không ai giúp cho một đồng. Kết quả, con người ngang tàng, hai mươi ba tuổi đầu đi khắp Trung Quốc, nhà học giả lớn nhất của thời đại, con người ôm cái hoài bão của Chu Công, Khổng Tử, cuối cùng bị khép vào tội “coi thường nhà vua” và bị thiến!
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------------



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét