TT & HĐ - 22/m
Top 10 Quái Vật Khiến Tổ Tiên Chúng Ta Phải Trốn Chui Trốn Lủi
PHẦN III: NGUỒN CỘI
" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."
Trần Hạnh Thu
"Lịch sử hoài
thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc
cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời
giáo huấn cho thế hệ sau."
Cervantes (Tây Ban Nha)
Cervantes (Tây Ban Nha)
"Lịch sử là bằng
chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là
thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
Cicero (La Mã)
Cicero (La Mã)
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
Trần Hạnh Thu
.
CHƯƠNG XXII: TỔ TIÊN
- "Dù ai đi ngược về xuôi
- Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba"
- Ca dao
Nối nghiệp ông cha phát huy khí thế vạn đời vinh."
câu đối thờ gia tiên
“Ta
có tai, mắt, ta nghe, ta trông; ta có tâm tư ta suy, ta nghĩ; đối với
người xưa có lúc ta thờ như thầy, có lúc ta kính như bạn, cũng có lúc ta
kình địch không chịu, ta theo cái lý nhất quyết không làm tôi tớ cổ
nhân.”
"Cuộc
sống phản bội lại tổ tiên là cuộc sống bấp bênh nhất, trơ tráo nhất.
Nếu không muốn phản bội lại tổ tiên, thì trước hết, đừng làm nô lệ cho
bất kỳ kẻ ngoại xâm nào khác, tin theo bất kỳ thứ chủ nghĩa nào khác."
Trần Hạnh Thu
(Tiếp theo)
***
Chẳng
làm sao mà ngủ lại được nữa! Chúng ta ngồi đây, trên cái chạc ba cổ thụ
này, nơi tổ tiên chúng ta đã từng trú ngụ, với bao nhiêu suy nghĩ cứ
miên man nối đuôi nhau đổ về không ngớt. Chúng ta yêu đất nước này vì tổ
tiên ông bà của chúng ta ở đây, vì chúng ta được chôn nhau cắt rốn tại
đây, vui sống tại đây và vì thế mà chúng ta có quyền được ca ngợi nó, cũng như mọi người
yêu quê hương họ và có quyền được ca ngợi đất nước họ. Tình yêu đó là
chính đáng, là phù hợp với Đạo Lý và Đức Huyền Diệu!…
Trăng
đã sà xuống và khuất lấp tự lúc nào. Cái tịch mịch của trời đất không
còn nữa. Bóng tối đã nhạt nhòa bởi cái quầng sáng chớm hé ở chân trời
phía đông. Mãi suy tư nên đến bây giờ chúng ta mới chú ý lắng nghe âm
thanh của sự sống. Đó đây đã lác đác tiếng hót chào, gáy sáng của chim
muông, tiếng voi kêu vang vọng, tiếng vượn hú lói chói, tiếng hổ gầm
trầm hùng từ xa đâu đó khắp nơi vang vọng về hòa điệu báo hiệu một ngày
mới, ráo hoảnh nhờ nắng và gió. Ấy vậy mà không phải vậy. Một ngày mới
sáng trong mà chúng ta hy vọng đã không xuất hiện. Thiên nhiên đã không chiều theo ý chúng
ta. Chẳng biết vì sao mà mây đen ùn ùn kéo về vần vũ trước sự bất lực
của vầng sáng phương đông. Trời vừa mới hửng lên ngon trớn đã đột ngột u
ám. Lại một cơn mưa như trút nữa đây! Qua một đêm, nước vẫn chưa kịp
rút hết. Mặt đất vẫn còn loang lổ nước như một tấm da báo, đang khấp
khởi đón bình minh, chợt trở nên ỉu xìu trước mối đe dọa bị nhấn chìm
lần nữa. Thời tiết của thời đại này chuyển biến bất ngờ đến lạ lùng.
Nhưng dù sao thì chúng ta cũng chứng kiến được một thực trạng là ở đây
nhiều nước quá. Từ vùng lưng chừng đồi này nhìn xuống, ra xa, thấy sông,
hồ đan xen, không thể không làm nhà sàn, nhà treo, nhà thuyền được.
Tổ
tiên của chúng ta đã thích nghi được với khu vực tuy dồi dào về nguồn
thức ăn nhờ thiên nhiên ưu đãi nhưng đồng thời muốn như thế phải chịu
được cuộc sống chung đụng với sông nước đan giăng, với thường xuyên bão
dông, thác lũ, lụt lội và hơn thế nữa, sau này, là nạn ngoại xâm từ
phương Bắc. Quá trình thích nghi để sống còn và đi tìm hạnh phúc ấy của
tổ tiên chúng ta đã để lại cho đời sau những trang sử đầu tiên hết sức
chói lọi của thời kỳ khai hoang bờ cõi, đắp thành Tổ Quốc từ Đất và
Nước, đó là: Huyền thoại về nguồn gốc con rồng cháu tiên từ một “đồng
bào” - kết quả của mối tình thuận vợ thuận chồng Âu - Lạc; là bản anh
hùng ca Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc cứu nước; là công cuộc trị thủy
cam go được tạc lại thành biểu tượng truyền kỳ hào sảng Sơn Tinh - Thủy
Tinh, từ sự xây dựng nhà cửa, thành quách trong vùng lụt lội đầy khó khăn gian khổ nhưng thành công mĩ mãn nhờ sự mách bảo của Thần Kim Qui…
Mây
ùn về nhanh thế, tưởng sẽ phải nổi lên cuồn cuộn, nào ngờ nó dàn trải
ra như một tấm nệm bông dày cộm phủ kín bầu trời. Kiểu này làm sao mà
hình thành nên một cơn mưa như trút được? Thà cứ trút ào đi một cái rồi
tạnh hoảnh chứ cứ tầm tã lúc nhặt lúc khoang như hôm qua thì… thương cho
chúng ta quá! Tốn một mớ tiền hơi “bị” nhiều để về đây leo lên cây ngồi
ngắm mưa rõ ràng là chả hiệu quả tí nào! Mặc lại áo mưa và thu xếp hành
trang xong, chúng ta cứ lưỡng lự mãi, không biết có nên “chào tạm biệt”
cái chạc ba này không nữa? Nếu trời chỉ âm u thôi mà không mưa, trong
khi chúng ta ở lại đây thì sẽ bỏ lỡ cơ hội đi diện kiến tổ tiên để hỏi
cho ra lẽ nhiều điều, nhất là sự tích về Cổ Loa thành. Nhưng nếu chúng
ta đi về phía vùng loang lổ da báo ấy mà bị trời mưa như hôm qua thì
chắc chắn là sẽ bị chìm ngỉm ngay khi nước dâng cao vì chúng ta… không
biết bơi! (Nghĩ mà thẹn với tổ tiên!)…
Rồi
thì mưa cũng bắt đầu lác đác và vì thế mà tình trạng lưỡng lự cũng chấm
dứt. Chúng ta ngồi phịch trở lại, bước vào cuộc chờ đợi mới và thở dài
ngao ngán!
Mưa
lác đác rồi dần trở nên rả rích và lại tầm tã, tuy không bằng sự tầm tã
của ngày hôm qua. Trời mát đến hơi lạnh. Thời tiết này hao hao với thời
tiết của vùng Nam Bộ - Việt Nam thời hiện đại với một năm gồm hai mùa
mưa, nắng và không qua mùa đông. Nghĩ ra, chúng ta thấy mình thật đáng
trách: cắm đầu cắm cổ về đây mà không chịu xem ngày, chọn tháng để phải
ngồi thu lu trên cây giữa mưa tuôn như thế này. Nguy cơ về một cuộc hành
trình vô tích sự đã manh nha thành hiện thực. Chiều nay chúng ta đã
phải theo tàu vượt thời gian trở về mất rồi!...
Mưa
vẫn nhạt nhòa và nước ngày một lênh láng. Vùng này khá cao mà nhiều
nước thế thì ở những vùng đồng bằng châu thổ còn nhiều nước đến cỡ nào
nữa? Và vào những khoảng thời gian như thế này, con người tiền sử ngụ cư
ở đó chắc là khó khăn lắm rồi chứ nói chi đến trồng trọt - chăn nuôi?
Có
lẽ, chốn dung thân thuở ban đầu của vượn người là rừng rú, về sau, vượn
người rồi đến người vượn đã chọn hang động làm nơi “thường trú”. Đó
chính là những ngôi nhà thiên nhiên an toàn nhất để tránh thiên tai. Gọi
là “thường trú” vì không phải và cũng không thể ngày nào cũng ở hang
động. Cuộc sống lang thang kiếm ăn có khi là dài ngày đã không cho phép
người tối cổ thực hiện được điều đó. Không những thế, sự phát triển dân
số của giống loài buộc những bộ phận người phải sống tách rời ngày một
xa rừng núi, phải tìm cách thích nghi với điều kiện sống mới. Quan sát
thiên nhiên, học hỏi thiên nhiên và sáng tạo, dần dà con người đã bỏ lối
sống hang động với kiếm ăn chủ yếu là săn bắt - hái lượm sang lối sống
định cư ở đồng bằng với kiếm ăn chủ yếu bằng trồng trọt - chăn nuôi. Lúc
đó, chắc là họ đã biết xếp đá, đắp đất, kết cây, đan lá… làm ra những
cái “hang nhân tạo” để trú ngụ mà sau này được gọi là “nhà”…
Sự
tưởng tượng làm chúng ta thấy vui vui: nếu công cuộc khai hoang thời
nay chủ yếu là phá núi mở rừng, cải tạo đồi trọc thì thời xa xưa là tiến
về đồng bằng và ra ven biển. Sự lan tỏa dân cư từ miền ngược xuống miền
xuôi Bắc Bộ, bắt đầu là từ Lạc Long Quân, về mặt hình thức, có thể được
hình dung ra từ cuộc lan tỏa dân cư từ Bắc vào Nam bắt đầu vào cuối thế
kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII. Đến đây, chúng ta chợt nhớ đến bài thơ nổi
tiếng của tướng Huỳnh Văn Nghệ. Nó thế này:
“Ai ra ngoài Bắc ta theo với
Thăm lại non sông, giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”
…
Sự
lan tỏa dân cư bao giờ cũng có hướng ưu tiên (nghĩa là có lựa chọn) đến
khu vực cho là “dễ sống” hơn. Do đó sự lan tỏa dân cư ở vùng này đồng
thời cũng làm xuất hiện sự quần tụ dân cư ở vùng khác. Theo phỏng đoán,
đã có một bộ phận dân cư mà biểu tượng là Kinh Dương Vương, tách ra từ
cộng đồng Bách Việt, dần dần đến định cư tại các vùng cao và trung du
Bắc Bộ, hòa hợp với dân bản địa mà hình thành nên người Lạc Việt. Sự
quần cư mới hình thành và phát triển đến thời Lạc Long Quân thì xuất
hiện nổi trội quá trình lan tỏa dân cư xuống những vùng thấp hơn, tìm
cách sống thích nghi với sông nước chằng chịt, lũ lụt quanh năm. Quá
trình thích nghi và thích nghi ngày một tốt hơn để sống còn và cải thiện
đời sống tốt hơn ấy đã hoàn toàn tự nhiên đặt ra vấn đề cần giải quyết
mang tính cốt lõi: trị thủy. Nếu trị thủy thành công thì vùng đồng bằng
màu mỡ sẽ hứa hẹn những mùa lúa nước bội thu!...
Ôi,
những con đê dọc theo những dòng sông miền Bắc, nơi chứng kiến biết bao
nhiêu cuộc chia ly, tương phùng, biết bao nhiêu cuộc hò hẹn trai gái;
nơi mà biết bao mồ hôi nước mắt con người đổ xuống để giữ gìn đồng lúa
ruộng khoai, để bảo toàn cuộc sống làng xã, đã hình thành nên từ bao
đời? Chúng ta không biết điều đó nhưng có lẽ chúng là kết quả của ý niệm
nảy sinh từ thời kỳ đầu dựng nước và được bồi đắp liên tục qua từng thế
hệ!...
Thui
thủi trong mưa với những dòng suy tưởng mê man, đến đây, lòng chúng ta
bỗng dưng bừng sáng: một hoang tưởng về Cổ Loa thành hiện lên, rõ mồn
một. Vì là hoang tưởng nên không phải là sự thực lịch sử nhưng một câu
chuyện không có thực đôi khi vẫn hàm chứa chân lý. Người ta nói ảo thuật
là bịp bợm nhưng lại là sự bịp bợm có lý. Chúng ta nói thêm: một khi
không phát hiện ra bất cứ xảo thuật nào đằng sau một trò ảo thuật thì đó
phải là sự thật, chỉ có đức tin mới nói được nó là bịp bợm!
Tạm
tin rằng Địa Đàng đã từng hiện hữu trên Trái Đất này và nền văn minh
Địa Đàng đã tan biến vào đúng giai đoạn cực thịnh của nó. Tuy vậy, nền
văn minh ấy đã kịp truyền bá phần nào ra khắp thế giới, trong đó có dải
đất mà sau này là lãnh thổ Việt Nam. Trên dải đất này, con người nguyên
thủy đã có mặt rất sớm ở rải rác các nơi. Ở đây, qua di tích khảo cổ có
được cho đến nay, có thể thấy rằng trước thời Kinh Dương Vương, cũng đã
từng xuất hiện những trung tâm văn hóa nổi trội (còn gọi là văn minh?)
với qui mô và sức lan tỏa ở chừng mực nhất định (bị hạn chế bởi địa
hình, bởi thiên tai thường gặp ở những miền duyên hải).
Cũng
có thể thấy được, do đặc tính của lối sống man khai hồi đó đem lại mà
sự chung cư còn mang nặng tính “mẫu tử”, huyết thống, bầy đàn; tính xã
hội còn chưa bộc lộ hoặc đang manh nha, cho nên sự hiện diện của các
vùng có con người sinh sống như là những lãnh thổ xác định còn chưa
thành hình hoặc đã hình thành nhưng còn mờ nhạt, sơ khai, manh mún, theo
cảm tính bản năng chứ chưa dựa trên một ý thức rõ ràng. Chính cuộc cách
mạng trong trồng trọt (phát hiện ra cây lúa nước và lấy nó làm nguồn
lương thực chủ yếu) cùng với quá trình phát triển và tương tác giữa các
lực lượng dân cư của khu vực đã dần làm xuất hiện hình thái sống quần tụ
dân cư đông đúc, định cư ổn định, lâu dài và từ đó mà cũng hình thành ý
thức về cộng đồng xã hội, về chủ quyền lãnh thổ.
Không
có gì đặc biệt, chưa kể đến những tác động từ môi trường thiên nhiên,
với những nguyên nhân từ sự đan xen của các quá trình giao lưu, trao đổi
văn hóa, từ sự lan tỏa và hội tụ dân cư… mà xảy ra hiện tượng có những
trung tâm văn hóa (nền văn minh) chựng lại, thậm chí là thui tàn đi,
đồng thời xuất hiện những trung tâm văn hóa mới, kế thừa và phát triển
nổi trội trở thành nền văn minh. Có khả năng tại khu vực khoảng vùng Cực
Nam Trung Quốc ngày nay đã từng xuất hiện và tồn tại một nền văn minh
Bách Việt và ở thời gian phát triển nào đó, nó đã là một trung tâm lan
tỏa dân cư. Quá trình lan tỏa dân cư của cộng đồng dân cư Bách Việt đã
làm một bộ phận dân cư của nó dần tràn xuống xa hơn nữa về phương Nam,
đến phần đất thuộc Bắc Việt Nam ngày nay, sinh cơ lập nghiệp, hòa hợp
với dân cư bản địa để từ đó xuất hiện dân tộc Lạc Việt, thủy tổ của
người Việt chúng ta. Từ đó, những yếu tố văn minh Bách Việt đã hòa quyện
với văn minh bản thổ - một nền tảng văn minh lâu đời hơn, có tính cách
cội nguồn của chính văn minh Bách Việt, đã làm hình thành nên một nền
móng văn minh cho văn minh Văn Lang rực rỡ sau này.
Dựa
vào các truyền thuyết lịch sử, chúng ta có thể hình dung ra quá trình
khai mở và dựng nước của tổ tiên gồm ba giai đoạn; là:
- Thời kỳ Kinh Dương Vương: Đây là thời kỳ hình thành những cụm dân cư, sinh sống chủ yếu ở những vùng cao và trung du Bắc Bộ.
-
Thời kỳ Lạc Long Quân (cũng như tên gọi Kinh Dương Vương), chúng ta coi
Lạc Long Quân là tên gọi chung để chỉ một thời kỳ lịch sử). Đặc trưng
của thời kỳ này là chế độ mẫu quyền (Âu Cơ) chuyển sang chế độ phụ
quyền. Sự phát triển về mọi mặt của thời kỳ trước như mức sống, trình độ
canh tác, dân số… đã làm cho thời kỳ này mang một đặc trưng nữa là quá
trình di dân xuống định cư ở các vùng thấp trũng hơn, các vùng đồng bằng
hạ lưu các con sông và ven biển, thích nghi với đời sống sông nước bằng
những kỹ năng đầu tiên đã đúc kết được trước đó.
Có
thể rằng khoảng cuối thời kỳ Lạc Long Quân, các bộ lạc đã hình thành từ
lâu và cũng đã xảy ra các cuộc đấu tranh nhằm khuất phục nhau giữa các
bộ lạc.
-
Thời kỳ các vua Hùng: Vua Hùng đời thứ nhất nổi lên như người đứng đầu
bộ lạc hùng mạnh nhất, đã thuần phục được tất cả các bộ lạc, thống nhất
thành một khối gọi là liên minh các bộ lạc mà những người trưởng các bộ
lạc đó, dưới trướng vua Hùng, được gọi là Lạc Tướng hoặc Lạc Hầu. Tất cả
các khu vực lãnh thổ bộ lạc được liên kết lại thành một lãnh thổ duy
nhất được đặt tên là Văn Lang - Tổ Quốc của mọi người Lạc Việt thuở đầu
tiên, của mọi người Việt Nam ngày nay. (Cũng có thể là đời vua Hùng thứ
nhất chỉ là người khởi xướng quá trình thống nhất các bộ lạc nhưng sự
nghiệp chưa hoàn thành mà phải đợi đến đời vua Hùng thứ hai hay thứ ba.
Nhưng nếu có thế thì ở đây, đối với chúng ta chẳng có gì quan trọng!).
Chúng
ta tin rằng sau khi dựng nước và đặt tên nước là Văn Lang. Các vua Hùng
cũng như cộng đồng dân cư Lạc Việt đã có được những điều kiện rất thuận
lợi, những tiềm lực mới to lớn trong công cuộc lao động và sáng tạo để
đưa đời sống vươn nhanh lên tầm cao mới cả về vật chất lẫn tinh thần.
Có
thể nói sự lan tỏa dân cư và cùng với nó là sự giao hòa văn minh đã như
một luồng sinh khí mới, tạo nên một sức sống mới và nửa sau thời kỳ
Kinh Dương Vương đã xây dựng được những cơ sở vững chắc cho bước phát
triển mạnh mẽ hơn ở thời Lạc Long Quân với quá trình mở rộng địa bàn dân
cư ra đều khắp khu vực đồng thời với quá trình chuyển hóa hình thái
kinh tế xã hội từ bộ tộc lên bộ lạc, tiền thân của nước Văn Lang và nhà
nước cộng đồng các bộ lạc sau này - thời các vua Hùng.
Sau
khi thu phục được các bộ lạc, thống nhất dân cư theo hình thức liên
kết, liên minh các bộ lạc, định hình lãnh thổ chung (trên cơ sở tập hợp
các vùng đất sở hữu riêng đã xác nhận của từng bộ lạc), lập nên nước Văn
Lang, các vua Hùng ở những đời đầu, cùng cả dân tộc đưa đất nước tiến
nhanh đến phú cường và đạt đến cực thịnh vào đời vua Hùng thứ sáu. Có
thể đoán quá trình này có tính thần kỳ và thành quả của nó đã là nguyên
nhân chủ yếu làm nên chiến thắng thần tốc của quân dân ta trước quân xâm
lược nhà Ân, một đội quân cực mạnh thời bấy giờ. Ước chừng ba mươi mấy
thế kỷ sau, quân dân ta đã lập lại chiến tích này chỉ bằng một trận
quyết chiến chiến lược do hoàng đế Quang Trung, một thiên tài quân sự
của nước ta chỉ huy, đại phá 30 vạn quân xâm lược nhà Thanh, vào xuân Kỷ
Dậu (năm 1789).
Phải
chăng hiện thực của thời kỳ đầu các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã
từng là như thế và đã được truyền kỳ bằng thiên anh hùng ca Phù Đổng
Thiên Vương? Phù Đổng Thiên Vương chỉ có thể là con đẻ của một đất nước
đầy tiềm lực, có thể chế nhà nước mang tính dân chủ cao độ, có một quốc
sách trăm họ vi binh - toàn dân đánh giặc. Phù Đổng Thiên Vương chính là
biểu tượng của một đội quân hùng hậu được huy động nhanh chóng từ quốc
sách nói trên, được trang bị đầy đủ phương tiện chiến tranh như ngựa
chiến, giáp sắt, roi sắt… và được nuôi nấng, cấp dưỡng kịp thời vể mọi
mặt nhờ sự đóng góp, ủng hộ của toàn dân đã và đang sung sức. Hình tượng
Phù Đổng Thiên Vương sau khi đại phá giặc Ân, cưỡi Long Mã bay về trời
(xung thiên), thực ra cũng là nói đến cái quan niệm toàn dân vi binh:
cái đội quân dân binh vô địch vì được toàn dân ủng hộ ấy, sau khi đánh
tan quân xâm lược lại nhanh chóng giải tán “ai về nhà nấy” tiếp tục làm
ăn sinh sống. Các đời sau đã phong cho anh hùng Phù Đổng đủ mọi danh
xưng cao quí (Vương, Thánh, Thần) thực ra chính là tôn vinh Nhân Dân Vĩ
Đại! Ngay từ trang đầu của lịch sử nước nhà, tổ tiên ta đã để lại bài
học chí lý về giữ nước, đó là: muốn dành thắng lợi trong công cuộc trị thủy hoặc muốn chiến thắng quân xâm lược, thì phải phát động cho được sức người sức của của toàn dân tộc, phải thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân. Muốn thế, phải làm cho nước mạnh; nước mạnh là nhờ
có sức dân mạnh, muốn có sức dân mạnh thì phải làm cho dân được sung
túc, ấm no và đoàn kết thành một khối cùng chung ý chí, nghĩa là dân
giàu và đoàn kết thì nước mạnh; muốn dân giàu và đoàn kết thì phải thực
hiện dân chủ và tự do theo nguyện vọng và ý chí của toàn dân tộc; và để
làm được như thế thì những thế lực điều hành đất nước phải tài năng,
thấm nhuần tư tưởng lấy dân làm gốc; trên cơ sở nhận thức rằng nhân dân
là nền tảng, là nội dung và cũng chính là người chủ đích thực của đất
nước, quyết định vận mệnh của đất nước. “Quan nhất thời, dân vạn đại”,
ông bà ta nói thế và rất đúng! “Bèo thì trôi đi, nước cũng trôi đi, chỉ
còn dòng sông ở lại với… nước mới và bèo mới!”, chúng ta nói thế và đã
không thêm được chút hay ho nào ở đây mà còn gây ra cái cảm giác… buồn
tênh quá!)…
Sau
khi đánh bại quân xâm lược nhà Ân, khắc phục và hàn gắn vết thương
chiến tranh, vua Hùng lại cùng dân chúng tiếp tục sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước còn dở dang của mình. Đất nước tiếp tục cường thịnh!
Ở
những giai đoạn phát triển trước, từ khoảng cuối thời kỳ Lạc Long Quân,
chuyển tiếp đến lúc này, đã xuất hiện những công việc trị thủy nhưng
chỉ có tính nhỏ lẻ, cục bộ chứ chưa thành hệ thống. Có thể phỏng đoán
rằng vào giai đoạn này, khi sự phát triển đã đạt đến mức độ mà mặt trái
của nó làm nảy sinh ra những đòi hỏi mới, bức thiết về quốc kế dân sinh,
thì để duy trì sự thịnh vượng và tiếp tục phát triển hơn nữa, cần phải
tìm ra những biện pháp mới, những hoạch định mới, những cách thức và kỹ
thuật mới trong trồng trọt chăn nuôi cũng như trong lao động - sản xuất
nói chung, chẳng hạn như phân bố lại dân cư, tận dụng hiệu quả đất đai,
khai hoang những vùng đất mới…
Đối
với một khu vực mà sông ngòi chằng chịt, nước nổi mênh mang, năm nào
cũng bão giông, lũ lụt như chúng ta “từng thấy” thì để ổn định dân cư
ngày một đông về số lượng, cần phải có biện pháp gì? Chúng ta tin rằng
nhiệm vụ được đặt ra đầu tiên trong tình hình mới ấy phải là trị thủy và
trị thủy phải được nâng lên thành một quốc sách, thành một kế hoạch có
tính qui mô, rộng khắp, có hệ thống.
Để
sống chung được với nước, lũ, lụt lội thì phải tìm cách thích nghi theo
chu kỳ biến động của chúng và tiến tới chế ngự được chúng để thích nghi
là tiến trình tất yếu trong hoạt động sống của mọi cư dân vùng sông
nước trên thế giới nói chung và của tổ tiên ta nói riêng.
Công
việc thủy lợi đã có từ lâu, phát triển dần từ nhỏ lẻ, manh mún đến ngày
một lớn, có tính tự giác và sự hợp tác. Đến giai đoạn đầu thời các vua
Hùng, trước yêu cầu bức bách do mặt trái của sự phát triển xã hội đặt ra
mà cách thức làm thủy lợi cho đến lúc đó không còn đủ sức đáp ứng cho
đời sống của lực lượng dân cư nữa. Cần phải có một phương thức làm thủy
lợi mới, chế ngự và điều tiết được nước ở qui mô rộng khắp, có tính hệ
thống, thống nhất toàn vùng. Chúng ta tạm gọi phương thức làm thủy lợi
mới ấy là “công cuộc trị thủy”. Công cuộc trị thủy là công tác thủy lợi
được đặt ra ở tầm “quốc sách”, việc thực hiện có tính kế hoạch, triệt để
nên cũng lâu dài và là sự nghiệp của toàn dân, thu hút vô vàn công sức.
Vì
những lẽ nên trên mà chúng ta cho rằng một công cuộc trị thủy với qui
mô to lớn và rộng khắp so với trước đó chỉ có thể được đặt ra vào thời
các vua Hùng; khi trình độ nhận thức cũng như sự phát triển của nhân tài
vật lực đã đạt đến độ chín muồi, thấy được tầm quan trọng cũng như khả
năng thực hiện được một sự nghiệp như vậy.
Suy
tư chồng chất suy tư, hoang tưởng kế tiếp hoang tưởng và đến đây, giữa
cảnh mưa tuôn nước nổi này, một hoang tưởng mới lại ra đời.
Sự
lan tỏa dân cư về vùng sông nước đồng bằng, nổi trội bắt đầu từ thời
Lạc Long Quân, đến đầu thời các vua Hùng; đã tạo nên sự biến đổi về phân
bố dân cư, làm trung tâm của sự quần cư cũng dịch chuyển theo hướng đó.
Có thể là đến đời vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đại thắng giặc Ân,
trước tình hình phát triển mới của đất nước, vấn đề dời đô, vấn đề thiết lập một trung tâm kinh tế và văn hóa ở vùng châu thổ sông Hồng đã được đặt
ra và đó chính là nguyên nhân của việc xây dựng Cổ Loa thành.
Nơi
xây dựng Cổ Loa thành, trước đó chắc là vùng đất tương đối cao. Tuy
nhiên cần phải bồi đắp nhân tạo cao hơn nữa để khắc phục hẳn tình trạng
nước lụt. Hình dáng ban đầu của Cổ Loa thành có thể chỉ như một quả đồi
có tre mọc xung quanh tạo nên bức lũy để chống sạt lở. Đó cũng chính là
hình ảnh chung nhất của làng mạc Bắc Bộ Việt Nam sau này! Ôi, lũy tre
làng, mấy ai còn thấy được cái công lao bất diệt của nó đối với dân tộc
Việt! Nhưng hàng năm, tình trạng sạt lở vẫn cứ xảy ra do nước lũ xói mòn
mạnh mẽ làm tốn rất nhiều công sức tu bổ. Tình hình ấy đòi hỏi phải có
một phương kế khắc phục, tạo nên sự bền vững lâu dài cho Cổ Loa thành,
khi mà nó đã là Trung tâm điều hành đất nước, có vai trò là kinh đô của
nước Văn Lang. Phải chăng là từ kinh nghiệm được kế thừa từ quan sát,
nhận thức thực tại, từ suy nghĩ sáng tạo mà tổ tiên chúng ta đã có ý
tưởng qui hoạch bảo vệ Cổ Loa thành bằng cách be bờ, đắp đất, trồng tre
tạo thành lúc đầu là một lươn đất, sau là nhiều lươn đất kế tiếp nhau
bao quanh nhằm phòng chống lũ lụt từ xa? Đúng là như vậy vì sự hoang
tưởng của chúng ta được xây dựng nên từ bài viết của Quang Khải trong
tạp chí “Thế giới mới” số 807, năm 2008. Theo Quang Khải thì nước ta,
vào khoảng vài ba thế kỷ trước và đầu công nguyên, đã có đê điều khoanh
vùng. Ngay cả nhiều người Trung Hoa thời đó, đến nước ta đã chứng kiến
cảnh tượng ấy mà thư tịch cổ của họ còn lưu lại. “Giao châu” chép:
“Huyện Phong Châu đã có đê để đề phòng nước sông Long Môn (sông Đà)”.
(Nguyễn Văn Siêu dẫn trong bản điều trần về đê viết ngày 20-10-1852, Tự
Đức thứ 5). “Hán Thư quận huyện chí” chép: “Phía tây bắc quận Long Biên
đã có đê để giữ nước sông”. Vào thế kỷ III trước Công Nguyên, trong nông
nghiệp nước ta đã có công cụ bằng đồng, sắt và cày bừa bằng trâu, bò.
Nhiều người cho rằng vùng Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) còn dấu vết của
cả một chuyên ngành trồng dâu, nuôi tằm tiền sử. Vào buổi đầu Công
nguyên, quân xâm lược nhà Hán không thể đóng trụ sở của bộ máy đô hộ ở
thành Luy Lâu (Dâu) được nếu không có đê bao bọc trong điều kiện tự
nhiên của lũ sông Hồng và sông Thái Bình hàng năm nước ngập vài ba
thước. Vào thế kỷ IX, Cao Biền (nhà Đường phong làm tiết độ sứ, quan đô
hộ nước ta) đã huy động dân An Nam (tên nhà Đường đặt cho nước ta lúc
đó) đắp đê bao quanh thành Đại La (Hà Nội ngày nay): đê dài 125 trượng 8
thước (khoảng 8500 m), cao 1 trượng 5 thước (khoảng 8m), chân đê rộng 2
trượng. Dấu vết của công trình vẫn còn lưu đến ngày nay. Thiên tai, hạn
hán lũ lụt được ghi chép trong lịch sử nước ta sau khi Lý Công Uẩn dời
đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Nhiều lần nước lũ tràn ngập cả kinh thành
(năm Mậu Ngọ, 1078), tràn đến cửa Đại Hưng (năm Tân Sửu, 1121)… Năm
1077, nhà Lý đắp đê sông Như Nguyệt (sông Cầu), đê dài 64.380 bộ (khoảng
30 km). Hai mươi năm sau, theo sử chép, “năm Quí Mùi (1103) hiệu Long
Phù Nguyên Hòa thứ 3, mùa xuân tháng giêng (nhà Lý) xuống chiếu cho
trong và ngoài kinh thành đều đắp đê ngăn nước” (Việt sử lược). Sử còn
chép: “Năm Mậu Tý (1108), niên hiệu Long Phù thứ 8, mùa xuân tháng 2,
đắp đê gấp bội thời Bắc thuộc", theo Nguyễn Văn Siêu: “Nhân sinh đẻ ngày
càng nhiều, làng mạc nhiều như sao sa, như quân cờ bày chứ không như
ngày trước cứ tìm chỗ cao mà ở". Năm 1218 (Mậu Thân), Trần Thái Tông
xuống chiếu đắp đê Đỉnh Nhĩ, “đắp suốt từ đầu nguồn cho đến của biển để
giữ nước lụt tràn ngập”… Theo “Việt sử thông giám chương mục” thì “Năm
Ất Mão (1255), vua sai Lưu Miễu bồi đắp đê sông ở xứ Thanh Hóa. Mùa hạ
tháng 4, cho chọn các tân quan, làm Hà đê. Chánh, phó sứ ở các lộ khi
nào rỗi việc đồng ruộng thì đốc thúc quân lính đắp đê để phòng lụt”. Vào
thời ấy, chỉ riêng đê sông Hồng đã được mô tả: “Ở bên kia sông Phú
Lương (sông Hồng) đều có đê ngăn nước. Một con đê chạy dài từ sông Việt
Trì, sông Lô, sông Đại Lũng đến cửa Mạch, cửa Ninh Cơ thì dứt, mỗi bên
đê cao 3 trượng, rộng 5 trượng” (theo “An Nam Chí nguyện”). Trong việc
bồi trúc đê điều, nhà Trần huy động toàn dân tham gia, ngay cả sử còn kể
rằng vào năm 1315, nước sông lên to, vua Trần Minh Tông thân chinh đi
xem hộ đê. Lúc đó, quan ngự sử can: “Bệ hạ nên chăm sửa sang Đức Chính,
đắp đê là việc nhỏ, đi xem làm gì?”. Quan Hành Khiển (tương đương Tể
tướng) Trần Khắc Chung đáp lại: “Phàm dân gặp lũ lụt, người làm vua phải
lo cấp cứu chứ sửa sang Đức Chính không gì to bằng việc ấy”. Nhà vua
nghe lời Đức Chung. Từ năm Giáp Thân (1464), dưới triều Lê Thánh Tông,
bắt đầu có công trình qui mô là đắp đê ngăn ngập mặn ở vùng biển, gọi là
đê Hồng Đức. Điển hình là hai dải đê Hồng Đức vùng biển Ninh Bình: một
dải từ phía Bắc Thần Phù đến bờ Nam cửa Cồn, phía ngoài có kè đá để
chống sóng; một dải khác chạy từ xã Côi Trì, huyện Yên Mô đến xã Hồng
Hải, huyện Yên Khánh. Đến triều Lê, bắt đầu việc đắp đê sông Tô Lịch,
“đắp từ Cồn Trát đến Công Xuyên để trừ thủy họa”. Sông Tô Lịch xưa thông
với sông Đáy, sông Đáy thông với sông Hồng. Phân tranh Lê - Mạc, Trịnh -
Nguyễn liên miên làm cho công việc đê điều, trị thủy bị ngưng trệ.
Quang Trung là ông vua trọng nông, đã ra kế hoạch đắp lại đê sông Nhị
nhưng chưa kịp thực hiện. “Dĩ nông vi bản” (lấy nông nghiệp làm gốc) là
một quốc sách đã được nhận biết từ lâu trong thời quân chủ. Một triều
đại muốn tồn tại lâu dài không thể không quan tâm tới điều ấy. Năm 1803,
Nguyễn Ánh vừa lên ngôi, quan lại Bắc Hà đã tâu: “Thế nước sông Nhị lên
rất mạnh, đê Tả Hữu thuộc Tây Sơn, Kinh Bắc, Sơn Nam, thượng và hạ
nhiều chỗ vỡ lở, xin cho dân sửa đắp ngay đề chống lụt mùa thu. Thủy đạo
các trấn nhiều nơi ứng tắc, xin bệ hạ cho trấn thần tùy thế “khơi vét”
(theo “Đại Nam thực lục chính biên”). Năm đó, Gia Long đã chuẩn cho đắp 7
đoạn đê mới trong các tỉnh nói trên, triều đình chi hết 80.100 quan
tiền… Riêng thời Minh Mạng, đê mới được đắp ở Bắc hà nhiều hơn dưới bất
cứ triều nào khác của nhà Nguyễn". Triều Minh Mạng cũng tiến hành nhiều
biện pháp khơi sông thoát lũ, điển hình là sông Đuống được người phương
Tây gọi là con sông đào lớn nhất xứ ta thời ấy…
Có
thể nói, xuyên suốt quá trình tồn tại của dân tộc Việt cho đến tận ngày
nay là hai công trình dựng nước và giữ nước đầy hy sinh gian khổ nhưng
cũng thật chói lọi vẻ vang. Hệ thống đê điều đường xá có được hôm nay là
thành quả của hàng ngàn thế hệ, được đắp nên từ công sức máu xương của
hết đời này đến đời khác. Khởi đầu của công cuộc tạo dựng vĩ đại này đã
được tiến hành ngay từ thời còn phôi thai của dân tộc Việt, còn trứng
nước của giang sơn Việt, và đó là việc be bờ đắp lũy Cổ Loa. Cuộc sống
đã nảy sinh yêu cầu phải chấp nhận sống chung với lũ lụt, phải định cư
lâu dài được ở miền sông ngòi chằng chịt, nước nổi mênh mang hàng năm đã
tự nhiên làm hình thành nên ý tưởng trong tổ tiên chúng ta về việc xây
thành đắp lũy nhằm chế ngự, điều dẫn nước. Có lẽ công dụng nguyên thủy,
thuở ban sơ của việc xây thành, lũy trên trái đất này của con người chỉ
nhằm đấu tranh chống lại thiên nhiên hoang dã, chế ngự thiên tai, cụ thể
hơn là nhằm trị thủy khi đã chuyển sang lối sống lấy trồng trọt chăn
nuôi, lấy nông nghiệp làm phương thức sống chủ yếu…
Ý
tưởng là một chuyện nhưng việc thực hiện ý tưởng lại là chuyện khác.
Việc xây đắp một bờ đất bao quanh như vậy không phải là công việc của
một ngày, cũng không phải là công việc của một năm mà có thể là vài năm
hoặc thậm chí là nhiều năm. Và nếu chỉ là sự đào đắp đất đơn giản thì cứ
qua mỗi mùa lũ lụt, công việc chưa kịp hoàn thành lại bị phá hỏng nhiều
chỗ đến mức trầm trọng. Quả thực, thời gian đầu xây đắp Cổ Loa thành là
rất khó khăn, ý tưởng qui hoạch có nguy cơ không thực hiện được nhưng
rồi thần Kim Quy hiện lên mách bảo cho vua Hùng bí quyết để thành công.
Bí
quyết đó là gì? Đồ rằng thần Kim Quy đã thì thầm đại khái thế này: tức
nước thì vỡ bờ, lấy cứng làm giáp làm cốt để trụ vững, lấy mềm làm thịt
làm thân để che chắn. Và vua Hùng đã hiểu ra được: phải kết hợp giữa đất
và đá, đá xếp dưới làm móng như yếm rùa, đất đắp thành đê như thân rùa
và đá đắp lên mặt đê như mai rùa rồi trồng tre như chân rùa để làm lũy,
đi đôi với việc đó phải tạo thế thoát cho nước cường. Từ đó việc xây
thành Cổ Loa tiến triển thuận lợi và có cấu trúc xoắn trôn ốc hết sức
độc đáo.
Có
thể là một sự khập khểnh nhưng cấu trúc ba vòng thành xoắn trôn ốc cứ
gợi cho chúng ta man mác nhờ về thái cực; thần Kim Quy và Long Mã (con
ngựa của Thánh Gióng!) cứ gợi nhớ đến Hà Đồ, Lạc Thư. Phải chăng quan
niệm lưỡng phân lưỡng hợp đã có từ thời Lạc Long Quân và đến thời kỳ các
vua Hùng ở những thời đầu tiên đã xuất hiện Hà Đồ, Lạc Thư kiểu như mô
tả ở hình 27? Phải chăng chúng cũng đã từng là nguồn cảm hứng trong việc
tạo nên vóc dáng Cổ Loa thành? Chẳng có một chút xíu bằng chứng nào!
Hầu hết mọi thứ đã chìm nghỉm rất sâu trong đại dương thời gian và dù
chúng ta đã “lặn” được đến độ sâu ấy thì cũng đành bất lực ngồi trên
chạc ba, không phát hiện ra thứ gì cả vì… trời mưa tầm tã và nước nổi
quá xá cỡ!
Dù
sao đi nữa việc xây dựng Cổ Loa thành thuở ban đầu không nhằm vào mục
đích quân sự mà chủ yếu chỉ là để chế ngự lũ lụt, phòng ngự cho Kinh đô.
Đó chính là công trình trị thủy có qui mô lớn đầu tiên của dân tộc ta.
Có thể cho rằng Cổ Loa thành là biểu tượng bi hùng của công cuộc trị
thủy thời các vua Hùng ở những đời đầu. Các vua Hùng đời sau trên cơ sở
đó đã bồi đắp, tu bổ, cải tạo để nó mang thêm chức năng thành lũy phòng
thủ về mặt quân sự…
Chúng
ta giật bắn mình khi sực nhớ đến thời điểm phải theo tàu vượt thời gian
trở về với hiện tại thực. Vì mãi suy nghĩ nên không biết bao nhiêu thời
gian đã trôi qua; vì trời mịt mờ quá nên cũng không biết vẫn còn là
buổi sáng hay đã là buổi chiều. Chúng ta vội vàng lục túi để biết chắc
là chiếc vé khứ hồi vẫn còn đó và điều quan trọng hơn là vẫn còn đó xấp
tiền Euro mới cáu cạnh, cái một nửa còn lại mà chúng ta phải “kính biếu”
khi gặp lại trưởng tàu. Rồi chúng ta tụt nhanh xuống đất, chạy thục
mạng đến địa điểm đã hẹn trước. Thà cứ đến đó sớm rồi chờ đợi cho chắc
ăn kẻo lỡ chuyến, ở lại đây thành tổ tiên của vợ con và bạn bè thì thật
chẳng ra thể thống gì! Cầu trời không “đụng độ” phải lão hổ, báo, hay
lão đười ươi, gấu… nào!
May
mắn làm sao! Con tàu cũng vừa liệng xuống. Nó không dừng hẳn lại mà chỉ
có một bàn tay thò ra túm lấy cổ áo của chúng ta kéo lên. Thật hú vía! Ông trưởng tàu dã không quên chúng ta!
Tuy không thỏa mãn bao nhiêu nhưng cuộc hành trình đã kết thúc có hậu:
chúng ta đã lên tàu trở về thế kỷ XXI!
(Hết Chương XXII)
------------------------------------------------------------------
(Hết Chương XXII)
------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét