TT & HĐ III - 23/d
LSVH VƯƠNG QUỐC PHÙ NAM CHÂN LẬP SƠ LƯỢC MỠ CÕI PHƯƠNG NAM
Di Tích khảo cổ Óc Eo | Vương quốc Phù Nam cổ 1.000-2.000 năm trước
PHẦN III: NGUỒN CỘI
" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách..."
Trần Hạnh Thu
"Lịch sử hoài
thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc
cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời
giáo huấn cho thế hệ sau."
Cervantes (Tây Ban Nha)
Cervantes (Tây Ban Nha)
"Lịch sử là bằng
chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là
thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
Cicero (La Mã)
Cicero (La Mã)
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.”
Trần Hạnh Thu
CHƯƠNG XXIII: NƯỚC NON
"Kẻ phản bội tổ quốc, đầu hàng ngoại bang, vừa không được sự tôn trọng của ngoại bang, vừa bị sự khinh miệt của đồng bào."
Aisopos (Hy Lạp)
Aisopos (Hy Lạp)
"Lòng
yêu nước là tình yêu kiên định, tuyệt đối với quốc gia, không phải là
sẵn sàng phụng sự nó mà không phê phán, hay ủng hộ những yêu sách không
chính đáng, mà là thẳng thắn đánh giá những tội lỗi và thói xấu của nó
và sám hối cho chúng."
Aleksandr Solzhenitsyn "Một khi nhà nước hình thành, không còn có anh hùng nữa. Họ chỉ xuất hiện trong những điều kiện không có văn minh."
Bảo cho non chớ có buồn làm chi!
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề”
Tản Đà
(Tiếp theo)
***
Cư
dân cuối thời đại đá mới trên đất nước ta trong quá trình lao động sáng
tạo, chế tác công cụ, đã tìm được loại vật liệu mới là đồng. Những công
cụ được chế tác từ đồng đã tác động mạnh mẽ đến sức sản xuất xã hội,
làm biến chuyển tích cực đến cơ cấu xã hội nguyên thủy.
Các
nhà khảo cổ học đã định hình được văn hóa Phùng Nguyên qua các di tích
rõ ràng về hoạt động chế tác kim loại. Văn hóa Phùng Nguyên phân bố
trong lưu vực sông Hồng với nhiều di chỉ thuộc các tỉnh Phú Thọ, Bắc
Giang, Hà Tây, Hòa Bình, Hà Nội, Hải Phòng. Công cụ và đồ trang sức của
văn hóa Phùng Nguyên đều được mài nhẵn. Kỹ thuật cưa đá và tiện đá đã
đạt đến độ tinh tế. Đáng chú ý là một số loại công cụ kích thước nhỏ, có
lẽ không phải dùng để chặt mà dùng vào việc làm đồ xương, đồ gỗ, nạo
khắc đồ gốm, có tác dụng như những con dao nhỏ.
Nền
nông nghiệp trồng lúa của cư dân văn hóa Phùng Nguyên là điều không cần
bàn cãi: đã tìm thấy gạo cháy ở di chỉ Đồng Đậu (Vĩnh Phú), tìm thấy
phấn hoa của một loài lúa nước ở di chỉ Tràng Kênh (Hải Phòng).
Điều
đáng lưu ý là ngay từ giai đoạn sớm nhất, trong văn hóa Phùng Nguyên đã
xuất hiện đồng và thuật luyện kim. Tuy vậy, đồ đồng chưa lấn át được đồ
đá với vai trò là công cụ sản xuất. Theo kết quả phân tích các bon
phóng xạ (C14), người ta đoán định văn hóa Phùng Nguyên xuất hiện cách nay khoảng trên dưới 4000 năm.
Văn
hóa Phùng Nguyên đóng vai trò quyết định trong quá trình hình thành nền
văn minh sông Hồng. Đó là lực lượng tiên tiến đương thời, tạo nên những
cơ sở vật chất và tinh thần đầu tiên cho thời kỳ Hùng Vương. Quá trình
phát triển từ văn hóa Phùng Nguyên đến văn hóa Đông Sơn qua các giai
đoạn Đồng Đậu, Gò Mun ở lưu vực sông Hồng là liên tục. Điều này chứng tỏ
văn hóa Phùng Nguyên không những là cội nguồn của văn hóa sông Hồng mà
cư dân Phùng Nguyên cũng chính là cái lõi đầu tiên của dân tộc Việt.
Thời kỳ này có thể công xã thị tộc mẫu quyền đã chuyển sang công xã phụ
quyền và tiến lên thành Liên minh các bộ lạc.
Về
phía Nam, trong lưu vực sông Đồng Nai, bước phát triển văn hóa tiếp nối
sau giai đoạn Cầu Sắt là giai đoạn tương ứng với các di chỉ Bến Đò,
Phước Tân, Hội Sơn, Ngãi Thắng… Các di chỉ này đánh dấu giai đoạn mở đầu
của thời đại đồng thau, báo hiệu một bước phát triển rực rỡ của nghề
luyện đồng ở trung tâm văn hóa miền Đông Nam Bộ.
Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ là hai vùng địa lý thuộc lãnh thổ Việt Nam. Chúng ta sẽ “lược sử” lại một chút.
Tây Nguyên ngày nay gồm bốn tỉnh KonTum, Gia Lai, Đắc Lắc và Lâm Đồng với tổng diện tích là 56119 km2.
Đặc trưng cơ bản của Tây Nguyên là những cao nguyên xếp tầng, nằm sau
lưng vòng cánh cung gờ núi Trường Sơn Nam. Các cao nguyên này có độ cao
khác nhau, từ 400 đến 1500m.
Đông
Nam Bộ ở phía nam Tây Nguyên, tiếp giáp với hai tỉnh Đắc Lắc và Lâm
Đồng. Đông Nam Bộ gồm các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bình
Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh; có diện tích khoảng
23.476 km2. Về địa hình, Đông Nam Bộ hầu như đối lập với Tây
Nguyên, song vẫn là sự kéo dài nối tiếp của cao nguyên xuống phần phía
nam. Nơi đây, kế tiếp Nam Tây Nguyên là các núi thấp và bình sơn nguyên
đất đỏ badan trải rộng ở tỉnh Bình Phước, một phần ở Xuân Lộc (Đồng Nai)
với độ cao trung bình là 200m, rồi chuyển dần sang các phù sa cổ, đất
xám ở phía đông sông Sài Gòn và phía đông sông Đồng Nai (cao vài chục
mét), để rồi hạ thấp dần xuống đồng bằng thung lũng vùng Tây Ninh và
đồng bằng châu thổ Cần Giờ và Vũng Tàu (cao vài mét).
Có một nhịp cầu văn hóa cổ xưa nhất nối liền Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ.
Đã
có những dẫn liệu để xác định rằng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là nơi có
vết tích hoạt động của cư dân hậu kỳ đá cũ, cách đây vài vạn năm.
Có
thể muộn hơn một chút, trong bình tuyến sơ kỳ đá mới, trên cả hai vùng
này cùng tồn tại công cụ ghè đẽo hai mặt hình bầu dục kiểu kỹ thuật Hòa
Bình.
Mới
đây ở Tân Lộc (Đắc Lắc) đã phát hiện di cốt động vật hóa thạch có vết
chặt của con người ở độ sâu 9m dưới lớp đất đỏ badan, có niên đại cách
nay chừng 50 - 60 vạn năm, ứng với hoạt động núi lửa cuối cùng ở vùng
này (tương ứng với niên đại các hóa thạch Homoerectus, ở hang Thẩm
Khuyến - Lạng Sơn). Người ta cho rằng dưới lớp đất đỏ badan rất dày ở
Tây Nguyên và Đông Nam Bộ còn ẩn chứa những di sản văn hóa cổ xưa nhất
của nhân loại(!)...
Bước
vào giai đoạn hậu kỳ đá mới và sơ kỳ thời đồng thau, sự phát triển văn
hóa không đều diễn ra khá rõ không chỉ giữa Tây Nguyên và Đông Nam Bộ mà
còn ngay cả trong mỗi vùng đó. Ở Tây Nguyên đã nảy nở các nhóm dân cư
cổ khác nhau, cư trú trên các địa hình khác nhau, có đặc trưng văn hóa
riêng và có mối giao lưu cởi mở. Trong khi đó, cùng bình tuyến này, ở
Đông Nam Bộ tồn tại một loạt di tích cổ, song tính thống nhất hội tụ văn
hóa hầu như không rõ ràng, chưa đủ cơ sở để xác lập các văn hóa khảo cổ
thành nhóm văn hóa với sắc thái riêng (chí ít là chưa có sự nhất quán
trong các nhà khảo cổ học). Có thể cho rằng con đường và khuynh hướng
phát triển tiền - sơ sử Đông Nam Bộ không chỉ khác với Tây Nguyên mà còn
khác với các vùng đất khác như Trung Bộ và Bắc Bộ Việt Nam.
Thế
nhưng sự thống nhất văn hóa cho toàn khu vực Đông Nam Bộ mà đỉnh cao là
văn hóa Óc Eo vẫn diễn ra tuy rất muộn vài thế kỷ sau công nguyên.
Trong khi ở Bắc Bộ, từ các ngả đường của Tiền Đông Sơn tới văn hóa Đông
Sơn diễn ra khá sớm vào thế kỷ IV-V TCN, hay ở Trung Bộ, sự hình thành
văn hóa Sa Huỳnh trên cơ tầng các văn hóa Tiền Sa Huỳnh cũng chỉ muộn
hơn Đông Sơn một chút.
Người
ta đã nhận ra những ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa Đông Sơn với Đông
Nam Bộ cũng như giữa Đông Sơn và Tây Nguyên nhưng là Đông Sơn muộn…
Nam
Bộ ngày nay gồm hai vùng đất có nét riêng rõ rệt. Đông Nam Bộ, như đã
nói, là vùng đồi thấp với những thềm phù sa cổ được nhìn nhận như diềm
phía Nam của đai khối cao Tây Nguyên. Còn Tây Nam Bộ (tức đồng bằng sông
Cửu Long), là vùng đất tiếp nối địa hình bán sơn địa ấy với một đồng
bằng châu thổ phẳng và thấp, cao chừng chỉ từ 0,5 mét đến 1 mét, độ dốc
rất nhỏ (1m/km). Đây là sản phẩm bồi tụ của sông MêKông (đoạn chảy trong
lãnh thổ nước ta chia làm chín dòng chính, gọi là sông Cửu Long). Đây
là con sông dài nhất, nhiều nước và nhiều phù sa nhất Đông Nam Á trên
một khuôn vịnh nông kéo dài từ bồn địa Tông-lê-sáp (Cămpuchia) tới đồng
bằng sông Tiền và sông Hậu. Việc bồi tụ này vẫn đang tiếp diễn để nới
rộng, kéo dài những dải rừng sác mỗi năm mỗi lan ra ở Mũi Cà Mau, phần
đất tận cùng của nước ta. Đất thấp và xốp của địa hình bằng phẳng cộng
với thủy triều cao, sông nhiều nước nên đất thường bị xẻ vun bởi những
chi lưu sông ngòi dày đặc. Có những nơi tuy là đất liền nhưng lại có thể
hiểu là cù lao vì sông nước bao vây khắp phía, người ta ví như “bán đảo
của bán đảo”.
Thật
vậy, đồng bằng Cửu Long có ba phía đông, tây, nam đều giáp biển với
chiều dài là 600 km. Cũng vì thế mà kiểu khí hậu bán đảo - nhiệt đới gió
mùa thể hiện rất rõ ở vùng đất này. Hàng năm, lượng mưa ở đây biến động
từ 1500 mm đến 2500 mm cho tương đương khoảng 150 tỷ m3.
Lượng mưa cao nhất ở thời điểm tháng 8, tháng 9, có khi đạt đến 3145 mm.
Tổng lượng nước chảy các sông trong năm khoảng 400 tỷ m3.
Vào
mùa nước nổi, đồng bằng Cửu Long hầu hết bị ngập. Nước phù sa tràn về
nhấn chìm 600.000 ha đất canh tác, kéo dài từ các bờ sông Tiền, sông
Hậu đến tận bờ biển Rạch Giá - Kiên Giang. Mùa lũ, đồng bằng Cửu Long
thường ngập 1,3 đến 1,4 triệu hecta, có nơi ngập đến 10m, kéo dài 3-4
tháng, thậm chí là 5-6 tháng.
Trong
khi đó, đến mùa khô, nhiều nơi ở đồng bằng Cửu Long lại thiếu nước ngọt
trầm trọng, nhất là ở mạn biển với hiện tượng xâm mặn. Có những cánh
đồng không nước, nứt nẻ; có những vùng cây cối phải chịu cảnh khô héo…
Có
thể nói đồng bằng sông Cửu Long với điều kiện tự nhiên như vậy vừa là
ưu đãi vừa là thử thách đối với đời sống cư dân ở đó, nhất là khi sự lan
tỏa dân cư cũng như sự phát triển dân số tại chỗ làm tổng số dân tăng
lên đáng kể và ngày càng đông đúc.
Đồng
bằng Bắc Bộ thời Lạc Long Quân - Hùng Vương phải chăng cũng có điều
kiện tự nhiên như thế: sông ngòi chằng chịt, lúc nắng cháy da, lúc mưa
thối đất, khi thì lũ lụt nước nổi mênh mang, khi thì hạn hán khô cằn đến
nứt nẻ chân chim và thậm chí còn khắc nghiệt hơn thế nữa? Và con người,
trong quá trình phát triển dân cư đã buộc phải quần tụ sinh sống ở đó.
Để quần tụ định cư lâu dài được ở vùng sông nước như thế con người phải
chuyển đổi lối sống để thích nghi, phải tích cực sáng tạo để đáp ứng cho
sự phát triển trong điều kiện sống chung với hạn, lũ, bão và như lẽ của
tự nhiên, đến một giai đoạn nhất định, con người sẽ phải đi đến một
quyết định tích cực nhất, chủ động nhất có tính triệt để nhất, toàn diện
nhất, đó là trị thủy, cải tạo thiên nhiên phục vụ đời sống con người…
Từ
những tư liệu nói về thời kỳ biển tiến biển thoái; về quá trình và tiến
độ bồi tụ của sông Mê Kông, chúng ta đoán rằng thời tiền sử, tương đương
với cuộc lan tỏa dân cư giai đoạn Kinh Dương Vương, miền Tây Nam Bộ hầu
hết vẫn còn chìm trong nước biển, với vài vùng là sình lầy ngập mặn.
Căn
cứ vào các di chỉ khảo cổ đã phát hiện được thì trên đồng bằng sông Cửu
Long từ xa xưa (ít nhất là khoảng thời gian trước - sau công nguyên),
đã có sự hiện diện dân cư thuộc các cộng đồng cổ xưa như Phù Nam và sau
là Thủy Chân Lạp. Vì nhiều lý do mà trước hết có thể là vì hoàn cảnh khí
hậu thuở đó còn khắc nghiệt, mà cư dân trên địa bàn Tây Nam Bộ còn rất
thưa thớt, thậm chí có thể coi Tây Nam Bộ là vùng đất hoang hóa và tình
trạng này kéo dài hàng trăm năm. Khi người Việt, người Hoa… đặt chân đến
khai phá vùng đất này, họ thấy có sự hiện diện của người Khơme, những
hậu duệ của vương quốc Chân Lạp xưa kia, nhưng đó chỉ là những cụm dân
cư phân tán, sống rải rác chủ yếu trên những giồng đất ven sông.
Địa
hình lãnh thổ Việt Nam được mô tả gọn lại là: “tam sơn, tứ hải, nhất
phần điền” (ba phần là núi, bốn phần là nước, chỉ còn một phần là đất
ruộng). Phân chia tỷ lệ như thế chắc chỉ là định tính, không hẳn đúng theo định lượng. Đó chỉ là cách nói
ví von (và rất hay) để làm nổi bật đặc điểm hàng đầu của địa lý Việt Nam
là vùng sông nước; là đất nước của hai ngàn dòng chảy kể từ 10 km trở
lên, của hàng trăm cửa sông đổ ra biển sau khi cắt xẻ địa hình thành
từng thùy, từng giải hẹp của mấy châu thổ chi chít sông cả, sông con và
kênh rạch, mà điển hình nhất là châu thổ đồng bằng sông Cửu Long với
“chín con sông” phun nước ra biển Đông ào ạt ngày đêm.
Con
người cổ đại, khi săn bắt hái lượm còn là phương thức kiếm ăn chính thì
địa bàn cư trú của họ chủ yếu là rừng rú và những vùng “bán” vào rừng
rú. Trồng trọt chăn nuôi xuất hiện làm cho địa bàn cư trú có khả năng mở
rộng xuống những vùng khác mà chủ yếu là lưu vực hạ lưu và trung
lưu của các dòng sông. Quá trình ấy sẽ dần đưa trồng trọt, chăn nuôi lên
thành phương thức kiếm ăn chủ yếu của loài người thượng cổ và việc lan
tỏa dân cư xuống các châu thổ, những đồng bằng, những vùng đất “trũng
nước” là một quá trình tất yếu và sản xuất nông nghiệp ra đời cũng là
hiển nhiên. Quá trình phân bố dân cư thời cổ trên lãnh thổ Việt Nam cũng
không nằm ngoài qui luật ấy. Dân tộc Việt, khởi đầu quần cư vùng cao và
trung du (khảo cổ cho thấy thời kỳ Kinh Dương Vương, trồng trọt và chăn
nuôi đã đạt một trình độ nhất định), sau đó lan tỏa xuống đồng bằng -
châu thổ; ở những vùng đắc địa, nơi dồn tụ những dòng nước phù sa màu
mỡ. Sau khi đã hoàn thành cuộc “chinh phục” đồng bằng Bắc Bộ, người Lạc
Việt tiếp tục cuộc lan tỏa dân cư xuống phương Nam, đến các vùng duyên
hải miền Trung và cuối cùng là Nam Bộ.
Có
thể mường tượng tương đối về cuộc lan tỏa dân cư xuống đồng bằng Bắc Bộ
từ việc quan sát quá trình lan tỏa dân cư đã được sử sách ghi lại của
người Việt xuống vùng đồng bằng Tây Nam Bộ, nơi như đã nói là vùng sông
nước, “Sông rạch dọc ngang la liệt, đi trên sông ấy không phải người thổ
dân thuộc đường thì ắt bị cùng đường, lộn rạch” (Trịnh Hoài Đức, “Gia
định thành thông chí”), và:
“Không đi thì nhớ thì thương
Đi thì lại mắc cái mương cái cầu”
(Ca dao Việt Nam)
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------------
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét