Thứ Ba, 17 tháng 11, 2020

TT & HĐ III - 23/c

                                            Người Mường thờ cúng gia tiên như thế nào?

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 

Trần Hạnh Thu
.

CHƯƠNG XXIII: NƯỚC NON

"Kẻ phản bội tổ quốc, đầu hàng ngoại bang, vừa không được sự tôn trọng của ngoại bang, vừa bị sự khinh miệt của đồng bào."
                                                                                              Aisopos (Hy Lạp)
  "Lòng yêu nước là tình yêu kiên định, tuyệt đối với quốc gia, không phải là sẵn sàng phụng sự nó mà không phê phán, hay ủng hộ những yêu sách không chính đáng, mà là thẳng thắn đánh giá những tội lỗi và thói xấu của nó và sám hối cho chúng."  
                                                                                           Aleksandr Solzhenitsyn 
"Một khi nhà nước hình thành, không còn có anh hùng nữa. Họ chỉ xuất hiện trong những điều kiện không có văn minh."
                                                                                                            Hegel


“- Non cao đã biết hay chưa:
 Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
 Nước non hội ngộ còn luôn

Bảo cho non chớ có buồn làm chi!
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề”

                                                               
                                                                           Tản Đà 

 

 

 

(Tiếp theo)

***
Tuy nhiên vào thời hình thành nên đất nước, ngoài pho đá bách khoa toàn thư đó ra, chúng ta cho rằng còn có (những) cuốn sách đá “mini” gọi là “Lạc thư” như đã từng nói tới nữa. Nếu không như thế thì những hoang tưởng “hùng hồn” trước đây của chúng ta sẽ trở thành… bố láo bố toét. Chúng ta không muốn thế! Vậy thì phải cho rằng có cuốn sách ấy. Nhưng nó xuất hiện vào lúc nào trong thời đại ấy?
Dù có lần giở, soi mói từng tảng một của bãi đá cổ Sapa, chúng ta cũng chẳng thể nào thấy được bóng dáng của Hà Đồ - Lạc Thư đâu cả, thậm chí là những gợi ý để liên tưởng đến chúng cũng khó mà có nốt. Thế nhưng cuốn sách đá Lạc Thư không thể xuất hiện vào đời vua Hùng thứ 6, có thời gian tương đương với thời nhà Ân - Thương bên Trung Quốc được, vì chúng ta cho rằng nó đã xuất hiện vào thời vua Nghiêu (được người Việt - Thường tặng!). Chỉ còn một khả năng là cuốn sách đó ra đời vào khoảng thời gian thời Lạc Long Quân và vì thế mà ở bãi đá cổ đã không thấy sự hiện diện của Hà Đồ - Lạc Thư. Dù sao thì những vòng tròn nhỏ dùng để ký hiệu như những đơn vị đếm thể hiện trên Hà Đồ - Lạc Thư sau này đã nằm chờ sẵn trong hình vẽ của bãi đá cổ Sapa rồi!.
Chúng ta cho rằng khi thực hiện “ghi chép” lên bãi đá cổ đó, con người Lạc Việt đã có quan niệm rõ ràng về tính lưỡng phân lưỡng hợp, tương phản đối ứng, tam thể (thiên, địa, nhân) thống nhất của tự nhiên, Vũ Trụ và quan niệm ấy đã thể hiện xuyên suốt và nhất quán trong pho sách cổ. Từ những hình vẽ trên bãi đá, chúng ta có thể suy diễn ra ý tưởng ấy dễ dàng hơn nhiều so với việc suy ra Kinh Dịch với những “Quái” của nó.
Hà Đồ - Lạc Thư được sáng tạo ra, vào buổi đầu tiên, từ yêu cầu toán học thuần túy nhằm phục vụ cho thực tiễn đời sống. Tuy nhiên chính sự sắp xếp hợp lý của chúng, phù hợp với nguyên lý tương tự của Tư Nhiên, đã phần nào thỏa mãn được sự giải thích Vũ Trụ theo quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp, tam tài đồng nhất thể… Và, sau này,“người Việt Thường” nào đó đã có “sáng kiến” dùng nó để kể câu chuyện về cuộc khai thiên lập địa theo quan niệm của dân tộc Lạc Việt cho vua Nghiêu nghe (?)!
Trên cơ sở cuốn sách đá Lạc Thư và tính chân lý hàm chứa trong đó, người Trung Hoa cổ đã phát triển nên, sáng tạo ra những khái niệm mới như lưỡng nghi, âm dương, ngũ hành, tứ tượng, bát quái… mà có được thiên cổ kỳ thư Kinh Dịch.
Nền tảng của Kinh Dịch là Hà Đồ - Lạc Thư. Hà Đồ - Lạc Thư, sau khi mất đi công dụng toán học của nó, trở thành một “mô hình Vũ Trụ”, được xây dựng nên từ quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp, tương phản đối ứng. Điều này đã lý giải vì sao mà có những nhà nghiên cứu nhìn thấy ở bãi đá cổ Sapa những biểu hiện rất giống Kinh Dịch và sự lập luận của họ nghe thật là bùi tai! (Cầu mong cho ai đó cũng bùi tai như thế khi nghe chúng ta “ní nuận”. Được vậy thì thật là hân hạnh!).
Sự hoang tưởng giúp cho chúng ta phán đoán thêm điều này nữa: Phải chăng thần Kim Qui chính là con rùa đá mang trên mình nó cuốn sách Lạc Thư? Nhờ có cuốn sách ấy, nhờ có hình tượng với cách sắp xếp hợp lý các dấu tròn cũng như sự biến hóa của mối tương phản đối ứng đã gợi ý tưởng mà Cổ Loa thành được xây dựng thành công, bắt đầu cho một công cuộc trị thủy hào hùng và dài lâu của dân tộc Lạc Việt?
Quá trình trị thủy thời dựng nước xảy ra như thế nào nhỉ? Nếu không chú ý đến tính thời đại cũng như phương tiện và công cụ có được của từng thời đại thì về mặt hình thức, có lẽ tất cả các công cuộc trị thủy đều tương tự nhau. Và nếu điều vừa nói là xác đáng thì có thể hình dung công cuộc trị thủy của tổ tiên ta từ việc quan sát công cuộc trị thủy gần đây, ở Nam Bộ - Việt Nam của ông cha ta. (thực ra là sự “âm thầm rút tỉa” từ những trang viết của cuốn “Lịch sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến năm 1884”, NXB Thành phố HCM, năm 2005 và cuốn “Nam Bộ - Đất và Người” tập II, NXB Trẻ, năm 2003).
Nước Việt Nam ở Đông - Nam lục địa Châu Á với diện tích đất liền 329.600 km2, diện tích thềm lục địa 700.000 km2. Vào thế kỷ thứ ba thời tân sinh, do biển lùi, toàn bộ lục địa châu Á được dâng lên một lần nữa. Cộng thêm sự bồi đắp phù sa của các con sông lớn, hiện tượng nâng đất tạo thành nhiều đồng bằng ven biển.
Những kết quả khảo cổ được về dấu tích con người (xương cốt vượn người Java sống cách đây khoảng 70 - 80 vạn năm (Indonexia); xương cốt người vượn Bắc Kinh (Trung Quốc) sống cách nay khoảng 40 - 50 vạn năm…) đã đưa đến kết luận: miền nam châu Á, trong đó có Việt Nam, là một trong những quê hương, những nơi định cư đầu tiêu của loài người (cùng với Châu Phi và Nam Âu).
Phần đất liền của nước ta có một hình dáng đặc biệt: hai đầu phình ra (Bắc bộ và Nam bộ), ở giữa thu hẹp lại. Địa thế miền Bắc tương đối phức tạp: rừng núi nhiều, kéo dài từ biên giới Việt - Trung đến vùng Tây Bắc Thanh Hóa, nổi bật là các dải núi đá vôi (ở Cao bằng, Bắc Sơn, Hà Bình, Ninh Bình, Quảng Bình). Sự xâm thực của thời tiết - nhất là nước - ăn mòn đá vôi tạo nên nhiều hang động. Những thung lũng màu mỡ rải rác khắp nơi với những vùng đất trũng bao phủ rừng rậm (ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Đông Triều…) rất thuận lợi cho cuộc sống của loài người thời cổ. Vùng đất đỏ Tây Nguyên do sự xâm thực của mưa nắng tạo nên, là một vùng thuận lợi cho sự sinh trưởng của cây cối và động vật, đặc biệt là việc trồng trọt các loại cây nhiệt đới. Từ xưa, rừng núi Trung bộ đã nổi tiếng về nguồn hương liệu, lâm sản quí.
Việt Nam là một nước có nhiều sông ngòi. Hai sông lớn nhất là sông Hồngsông Cửu Long. Sông Hồng với tốc độ và lưu lượng rất lớn (từ 700 m3/s đến 2800 m3/s), hàng ngày hàng giờ chuyển phù sa bồi lấp vịnh biển, góp phần tạo nên cả đồng bằng Bắc Bộ rộng lớn. Sông Cửu Long (MêKông) khi chảy vào nước ta chia làm hai nhánh (sông Tiền, sông Hậu) cùng với các sông Đồng Nai, Vàm Cỏ đem phù sa tạo nên đồng bằng Nam Bộ. Lưu lượng của sông Cửu Long rất lớn (4000 m3/s), nhưng vì lòng sông rộng, độ dốc thấp, lại đã chảy qua Biển Hồ ở Cămpuchia nên không gây nạn lũ lụt lớn như sông Hồng ở đồng bằng Bắc Bộ.
Bên cạnh những thuận lợi do nguồn nước dồi dào của các con sông đem lại, Việt Nam còn được ưu đãi bởi khí hậu nhiệt đới gió mùa rất thuận lợi cho việc phát triển động thực vật cũng như cây lúa và các loại hoa màu khác. Nhờ vậy, từ ngày dựng nước, dân tộc Việt Nam đã là một cư dân nông nghiệp; sách xưa chép: “đất đai có ruộng gọi là ruộng Lạc, theo nước thủy triều lên xuống mà làm, dân khẩn lấy ruộng để ăn”
Trước khi tập hợp thành thị tộc là thời kỳ bầy người nguyên thủy. Trong khảo cổ học, thời kỳ này tương ứng với thời kỳ đá cũ và trong nhân loại học thì tương ứng với thời của những người vượn.
Công cụ bằng đá của người vượn tìm thấy trên đất Việt Nam lần đầu vào năm 1960 ở núi Đọ, Thanh Hóa. Núi Đọ thực ra chỉ là một ngọn đồi không cao lắm, đã bị bào mòn nhiều, sườn thoải, cách sông Chu khoảng 5000m. Hàng vạn mảnh đá ghè mà các nhà khảo cổ học gọi là mảnh tước, cho đến nay vẫn còn nằm trên sườn núi Đọ. Những mảnh tước thô, nặng nói lên kỹ thuật ghè đẽo vụng về, thô sơ, được người vượn dùng để cắt, nạo. Những di vật quan trọng hơn, tìm thấy trên núi Đọ là những hòn đá được ghè đẽo qua loa, dùng làm công cụ chặt thô sơ mà các nhà khảo cổ học thường gọi là “Trốp-pơ” (chopper). Hiếm hơn là những chiếc rìu tay, được ghè đẽo nhiều hơn và có hình dáng cân xứng hơn, dùng để cắt hay chặt; là công cụ được chế tác công phu nhất của người vượn. Theo đoán định thì núi Đọ là một “di chỉ xưởng”, vừa là nơi cư trú của con người, vừa là nơi chế tác công cụ.
Tại núi Quảng Yên (cách núi Đọ khoảng 3km) và núi Nuông (cách núi Đọ khoảng 3,5km), các nhà khảo cổ cũng tìm thấy công cụ đá giống như ở núi Đọ, có thể cùng niên đại.
Ở các địa điểm Hang Gòn và Dầu Giây trong vùng Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai) cũng đã tìm thấy công cụ đá của người vượn, tuy số lượng rất ít, gồm một số rìu tay và “Trốp-pơ” nằm rải rác trên mặt đất.
Các nhà khảo cổ học cũng đoán rằng bầy người nguyên thủy ở Việt Nam có thể đã phát triển đến trình độ những “nhóm địa phương” sống bằng săn bắt hái lượm, và cũng có thể đã xuất hiện các gia đình (mỗi bầy khoảng 20-30 người, có từ 5 đến 7 gia đình) và có tính mẫu quyền. Như vậy, bầy người nguyên thủy ở núi Đọ đã vượt qua giai đoạn tạp hôn và bước vào giai đoạn tiền thị tộc.
Tuy nhiên, có thể người vượn núi Đọ, Lạng Sơn và Xuân Lộc chưa phải là những con người xưa nhất ở Việt Nam, còn có khả năng tìm ra dấu vết của những người cổ xưa hơn nữa trên đất nước ta.
Những kết quả thu được chứng minh rằng cách đây khoảng 10.000 đến 4.000 năm, hầu như trên khắp dải đất Việt Nam ngày nay đã là nơi cư trú của người nguyên thủy. Việc mở rộng từng bước địa bàn sinh hoạt phản ánh các bước tiến về sản xuất, chế tạo công cụ của người nguyên thủy cũng như sự biến đổi dần từ những vùng ngập nước ven biển, những vùng ngập mặn sình lầy thành đất có thể canh tác nông nghiệp…
hang Thẩm Ồm trên miền Tây Nghệ An đã tìm thấy những chiếc răng vừa có đặc điểm của răng người vượn vừa có đặc điểm của răng người hiện đại. Có thề cho rằng người Thẩm Ồm là dạng người vượn đi thẳng muộn ở Việt Nam, đang chuyển hóa thành dạng tiến bộ hơn. Ở hang Hùm thuộc tỉnh Yên Bái lại tìm được răng người có nhiều đặc điểm hiện đại trong lớp trầm tích có niên đại từ 140.000 năm đến 80.000 năm. Một số nhà khảo cổ học cho rằng người Hang Hùm là người hiện đại đầu tiên ở Việt Nam. Đặc biệt, đã tìm thấy răng và mảnh xương trán của người hiện đại mà các nhà khảo cổ khẳng định họ là chủ nhân của văn hóa hậu kỳ đá cũ.
Văn hóa hậu kỳ đá cũ ở Việt Nam có thể xác định chắc chắn cho đến nay là văn hóa Sơn Vi. Các bộ lạc chủ nhân của văn hóa này đã cư trú trên một địa bàn rất rộng ở miền Bắc nước ta, từ Lào Cai ở phía bắc đến Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía nam, từ Sơn La ở phía tây đến vùng sông Lục Nam ở phía đông. Đó là các bộ lạc săn bắt hái lượm, hoặc sống ngoài trời hoặc sống trong hang động các núi đá vôi. Ở vùng Phú Thọ và Bắc Giang, nhiều gò đồi có di tích văn hóa Sơn Vi nằm gần nhau, có thể là nơi cư trú của các thị tộc trong một bộ lạc, chủ nhân văn hóa Sơn Vi dùng đá cuội để chế tác công cụ, tiêu biểu là những hòn cuội được ghè đẽo ở rìa cạnh, phần lớn những công cụ đó là dùng để chặt, nạo, cắt. Nhìn chung công cụ của người Sơn Vi vẫn còn thô sơ nhưng đã có những bước tiến lớn trong kỹ thuật chế tác đá (nhiều loại hình công cụ ổn định, rìu lưỡi được ghè đẽo tỉ mỉ, cẩn thận).
Trong hang Con Moong ở huyện Cẩm Thủy (Thanh Hóa) thuộc khu vực rừng Cúc Phương, các nhà khảo cổ đã tìm thấy lớp chứa công cụ văn hóa Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn. Đó là hai văn hóa muộn hơn văn hóa Sơn Vi. Tuy nhiên ngay trong lớp văn hóa Sơn Vi, người ta cũng đã thấy xuất hiện những công cụ đặc trưng cho văn hóa Hòa Bình, tuy số lượng rất ít. Từ đó có thể kết luận lớp văn hóa Sơn Vi phát hiện ở hang Con Moong thuộc giai đoạn cuối cùng của nền văn hóa này, có niên đại được xác định cách nay vào khoảng 11.000-12.000 năm. Có thể coi niên đại đó cũng là lúc mở đầu cho văn hóa Hòa Bình.
Hiện nay người ta vẫn chưa xác định được thời điểm bắt đầu của văn hóa Sơn Vi nhưng đã phát hiện được hai địa điểm văn hóa Sơn Vi có niên đại sớm hơn, là hang Núi Một ở huyện Cẩm Thủy (Thanh Hóa), cách nay khoảng 14.500 năm, và hang Ông Quyền ở huyện Mai Châu (Hòa Bình), cách nay khoảng hơn 18.000 năm.
Đặc biệt, vừa mới đây, tiến sĩ Nguyễn Việt, Giám đốc trung tâm Tiền sử Đông Nam Á, vào ngày 9-1-2009, đã có buổi thuyết trình tại Viện Gớt (Hà Nội) về kết quả khảo cổ trong 20 năm qua tại hang Xóm Trại đi đến kết luận rằng tầng văn hóa ở đó có niên đại cách đây 18.000 - 22.000 năm. Trong số những phát hiện khảo cổ quan trọng, có một bộ xương người 17.000 năm tuổi và dấu vết một đường mòn của người nguyên thủy tồn tại cách nay 21.000 năm.
Một nhóm các nhà khoa học Hàn Quốc đã tiến hành định tuổi mẫu khảo cổ tại hang Xóm Trại bằng phương pháp AMS hiện đại nhất cũng cho kết quả tương đồng với kết luận của tiến sĩ Nguyễn Việt.
Trong năm 1982, các dấu tích khảo cổ về thực vật tại khu vực hang Xóm Trại được tìm thấy rất nhiều, đặc biệt trong đó có lúa. Trung Quốc đã phát hiện dấu tích hạt lúa cách nay 12.000 năm và từng được cho là quê hương của lúa nước. Nếu người nguyên thủy tại khu vực Xóm Trại thực sự đã sử dụng lúa làm  một dạng của lương thực từ 18.000 - 22.000 năm trước thì quả thật vùng hang Xóm Trại mới là nơi xuất hiện cây lúa nước do người trồng sớm nhất trên thế giới mà giới khảo cổ biết được.
Khu vực có hang Xóm Trại là một thung lũng đồng bằng được bao bọc kín xung quanh bởi núi đá vôi. Thung lũng này có địa tầng nguồn gốc Các-tơ, có chiều rộng từ 2 đến 4 km, kéo dài theo hướng Bắc - Nam 7km. Toàn khu vực thuộc thượng nguồn sông Dôm có mạng dòng chảy hình nan quạt với hướng chảy từ Bắc đến Nam. Thung lũng nằm ở độ cao 60 - 70 m so với mặt nước biển.
Cách đây khoảng hơn 20.000 năm, thế giới dần qua một thời kỳ băng hà, lạnh nhất cho đến nay. Lòai người lúc đầu trốn chạy băng giá bằng cách tụ hội về những vùng xích đạo nhưng đến lúc đó lại bắt đầu lan tỏa ra nhờ hiện tượng “ấm” dần lên toàn cầu. Nhiệt độ trung bình ở khu vực Xóm Trại trong thời gian này vào khoảng 18 oC, đã tạo ra một vùng có khí hậu tối ưu cho đời sống con người cũng như cho việc phát triển phong phú hệ thống rừng, thảm thực vật với nhiều thứ củ, hạt có giá trị lương thực cao, ví dụ như hạt dẻ…
Gotman, chuyên gia người Mỹ về khảo cổ học, khi đến đến hang Xóm Trại nghiên cứu, đã khẳng định: “Ở nơi đây là quê hương trồng lúa, Hòa Bình - Việt Nam mới là cái nôi của văn hóa Hòa Bình chứ không phải Thái Lan như nhiều nhà khoa học giả định”.
Các cư dân thuộc văn hóa Hòa Bình sống chủ yếu trong hang động, phân bố rộng rãi từ vùng núi Tây Bắc và vùng núi đá vôi thuộc các tỉnh Hòa Bình, Hà Tây, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Có lẽ người văn hóa Hòa Bình đã biết nấu ăn trong ống tre, bương hay trong vỏ quả bầu.
Công cụ văn hóa Hòa Bình cũng đều bằng đá cuội, nhưng đã tiến bộ rất nhiều trong kỹ thuật chế tác. Phần lớn công cụ đá của văn hóa Hòa Bình dùng vào việc chế tác ra những công cụ và phương tiện bằng tre, gỗ. Chính những công cụ tre gỗ mới đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân nguyên thủy Việt Nam và Đông Nam Á, nhất là trong hoạt động săn bắt hái lượm. Săn bắt và hái lượm vẫn còn là phương thức kiếm ăn chủ yếu của cư dân văn hóa Hòa Bình. Tuy nhiên trồng trọt và chăn nuôi sơ khai đã bắt đầu hình thành như một nguồn kiếm ăn bổ sung quan trọng. Theo phát hiện của khảo cổ học thì nông nghiệp đã nảy sinh trong lòng văn hóa Hòa Bình, mà dấu vết hoa của họ rau đậu tìm thấy trong một số hang động thuộc văn hóa Hòa Bình ở Hòa Bình, Hà Tây và Lai Châu là những chứng cứ, có niên đại hơn 10 ngàn năm cách ngày nay.
Hoạt động nghệ thuật của văn hóa Hòa Bình đã khá phong phú: những hình khắc mặt người và con thú trên vách đá trong hang Đồng Nội (Hòa Bình), những viên cuội khắc hình cành cây hay lá cây (hang Làng Bon ở Thanh Hóa), những đồ trang sức bằng vỏ ốc biển được mài thủng lưng để xâu dây đeo (hang Bưng ở Hòa Bình)…
Văn hóa Bắc Sơn nảy sinh từ văn hóa Hòa Bình, tuy vẫn giữ truyền thống chế tác công cụ bằng đá cuội nhưng đã biết mài đá, đánh dấu một thành tựu lớn trong kỹ thuật chế tác công cụ. Những chiếc rìu đá được mài lưỡi có hiệu suất lao động hơn hẳn so với các công cụ ghè đẽo. Rìu mài lưỡi của văn hóa Bắc Sơn đã phát huy tính ưu việt của nó, thao tác dễ dàng hơn trong việc xử lý những vật liệu tre, gỗ; còn có thể chặt cây, phá rừng, phát triển nghề trồng trọt, đặc biệt là trong việc làm nương rẫy vùng núi.
Một thành tựu kỹ thuật nữa của cư dân văn hóa Bắc Sơn là đã biết đến chế tác đồ gốm bằng tay (lấy đất sét nhào trộn với cát rồi nặn ra các vật dụng đem nung lửa). Người ta gọi đó là văn hóa đá mới có gốm sơ kỳ. Tuy nhiên cư dân Bắc Sơn vẫn nằm trong khuôn khổ công xã thị tộc mẫu hệ.
Người Bắc Sơn đã có nhiều loại đồ trang sức hơn người Hòa Bình. Ngoài những vỏ ốc biển xuyên lỗ, người Bắc Sơn còn có đồ trang sức bằng đá phiến có lỗ đeo và những hạt chuỗi bằng đất nung hình trụ hay hình thoi, giữa có xuyên lỗ.
Một văn hóa đá mới có gốm khác phân bố ở vùng ven biển là văn hóa Quỳnh Văn mà tiêu biểu là di chỉ Quỳnh Văn ở huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An). Dù các công cụ được phát hiện thuộc văn hóa này vẫn là do ghè đẽo, chưa có dấu vết mài, nhưng đã xuất hiện đồ gốm nên người vẫn coi là đã bước vào thời đại đá mới. Kết quả nghiên cứu cho thấy cư dân của văn hóa này sống chủ yếu bằng điệp, sò, ốc ở bờ biển và vùng nước lợ, và có thể đã có thuyền ra biển để đánh bắt xa bờ, do tìm thấy các đốt xương sống và vẩy của các loài cá biển khá lớn.
Tóm lại cư dân văn hóa Bắc Sơn hay Quỳnh Văn đều đã phát triển nghề nông sơ khai từ sự kế thừa tiền nông nghiệp trồng rau củ và có thể là cả lúa nước đã phôi thai trong văn hóa Hòa Bình.
Đến nay vẫn chưa biết chính xác, nông nghiệp trồng lúa nước trở thành đại trà, đóng vai trò là phương thức tìm nguồn thức ăn chủ yếu của con người ở Việt Nam và Đông Nam Á bắt đầu vào niên đại nào. Nhưng có thể nói rằng vào cuối thời đại đá mới, khoảng 5000 - 6000 năm trước đây phần lớn cư dân cổ trên đất nước ta đều đã ở giai đoạn nông nghiệp trồng lúa này. Và sự phân bố dân cư cũng đã rộng khắp các miền của đất nước trên các địa hình khác nhau, từ Bắc xuống Nam, từ vùng núi đến đồng bằng, tận ven biển và hải đảo. Đáng chú ý là các văn hóa sau:
- Văn hóa Hạ Long: người của văn hóa này ngoài mài đá còn biết cưa đá, khoan đá. Khoan tách lõi là một kỹ thuật phổ biến của nhiều bộ lạc hậu kỳ đá mới ở Việt Nam. Trong di chỉ văn hóa Hạ Long có rất nhiều đồ gốm làm bằng bàn xoay (nồi, niêu, vò, hũ, bát, ống…). Họ đã có cuộc sống định cư lâu dài. Săn bắt và đánh cá không còn đóng vai trò chủ yếu trong đời sống văn hóa Hạ Long nữa.
- Văn hóa Bàu Tró: địa bàn phân bố dọc vùng ven biển và đồng bằng các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, bắt nguồn và phát triển từ văn hóa Quỳnh Văn. Trong di chỉ văn hóa Bàu Tró tìm được rất nhiều đồ gốm làm bằng tay và bằng bàn xoay, có kích thước lớn, chứa đựng nhiều, miệng rộng, thêm nữa, còn phát hiện được những bàn nghiền, bàn xát rất lớn, đặc biệt là những chiếc cuốc đá có chuôi lắp vào cán, lưỡi cuốc mỏng và thường cong về phía trước. Điều đó chứng tỏ đối với con người văn hóa Bàu Tró, nông nghiệp đã trở thành phương thức tạo nguồn thức ăn chủ yếu…
- Di chỉ Cầu Sắt: ở huyện Xuân Lộc (Đồng Nai) được coi là thuộc hậu kỳ đá mới. Di chỉ chứa nhiều đồ sắt và gốm, trong đó có những chiếc dao đá hình bán nguyệt, lưỡi cong và sóng thẳng được mài nhẵn mà có khả năng dùng để gặt lúa…
Nhìn chung vào cuối thời đại đá mới, nông nghiệp trồng lúa đã thực sự phát triển ở mọi miền đất nước. Nhờ thế đời sống cư dân đã ổn định, lối sống định cư lâu dài đã trở thành nổi trội. Những di chỉ có diện tích lớn gần nhau chứng tỏ thời đó đã hình thành sự quần tụ dân cư kiểu xóm làng đông đúc. Với sự phát triển của nông nghiệp dùng cuốc, có thể thấy hình thái xã hội đã ở giai đoạn công xã thị tộc mẫu hệ. Đã xuất hiện các công xưởng chế tác đá rộng lớn. Như vậy là trong công xã đã có sự chuyên môn hóa sản xuất để thỏa mãn nhu cầu nhiều mặt; đã nổi trội sự trao đổi sản phẩm lao động trong nội bộ công xã cũng như giữa các cộng đồng thị tộc.
(Còn tiếp)
---------------------------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét