“Với việc thiết lập bạo lực và giết nhau trong loài của mình, con người tự đặt nó xuống dưới con thú”
André Bourguignon
"Lòng
yêu nước là tình yêu kiên định, tuyệt đối với quốc gia, không phải là
sẵn sàng phụng sự nó mà không phê phán, hay ủng hộ những yêu sách không
chính đáng, mà là thẳng thắn đánh giá những tội lỗi, thói xấu của nó
và sám hối cho chúng."
Aleksandr Solzhenitsyn
"Kẻ phạm vào tội lỗi là con người; đau buồn về nó là thánh nhân; kiêu hãnh về nó là ác quỷ."
"Trong giấc mơ của tao, thế giới đã
phải chịu một thảm họa khủng khiếp. Một đám sương mù đen che lấp ánh
nắng mặt trời, bóng tối nhấn chìm cuộc sống với những tiếng rên la gào
thét của những con người hoảng loạn. Đột nhiên, một tia sáng lóe lên.
Một ngọn nến lung linh thắp sáng hy vọng cho hàng triệu tâm hồn khốn
khổ. Một cây nến nhỏ, tỏa sáng trong bóng tối bao la. Tao mỉm cười và thổi tắt nó…"
"Luôn
nhớ rằng mình sẽ phải chết là cách tốt nhất mà tôi biết để tránh sa vào
suy nghĩ mình có cái gì để mất. Khi bạn chẳng còn gì, không có lý
do nào để bạn không đi theo chính trái tim mình" - SteveJobs
(Tiếp theo)
Harry
S. Truman lên làm tổng thống Mỹ. Vào ngày 25-4-1945, vị tổng thống mới
đã được Steamson thông báo đầy đủ kế hoạch tuyệt mật về ném bom nguyên
tử. Thời gian lúc này là rất quí báu đối với Szillard. Ông đã khẩn
trương nhờ một cộng tác viên khoa học của mình ở Chicago có quen biết
với thư ký của Truman, tên là Matt Connelly, tác động vào người này để
xin được trực tiếp tiếp kiến. Có lẽ do quá bận bịu công việc trong những
ngày đầu với vai trò tổng thống mà Truman đã không có thời giờ nói
chuyện riêng với Szillard. Vì vậy, Connelly giới thiệu nhà bác học đến
gặp James F. Bearns, một nhà hoạt động chính trị đang thành đạt và có
thế lực của đảng Cộng Hòa, là thẩm phán của Tòa án tối cao (năm 1944
đứng đầu Cục động viên quân sự). Trước vị thẩm phán đang thăng hoa trên
bước đường công danh, Szillard đã trình bày những điều ghi trong bị vong
lục của mình. Nội dung trình bày của Szillard toát lên những gì đó xa
xôi, lạ lẫm, chưa từng nghe thấy, chẳng hạn như việc cho rằng cần phải
từ bỏ một phần chủ quyền quốc gia để cho các cơ quan kiểm soát của Liên
Xô có mặt trên lãnh thổ Mỹ, và các cơ quan kiểm soát của Mỹ có mặt trên
lãnh thổ Liên Xô; sự kiểm tra quốc tế đối với việc sản xuất urani và
năng lượng nguyên tử… Đối với vị thẩm phán thì những ý nghĩ loại đó là
không thực tế, có vẻ ngông cuồng, thậm chí là loạn thần kinh. Chẳng mấy
chốc mà nhà vật lý học đã hiểu ra rằng những lý lẽ của ông không được vị
thẩm phán tán thành, khi ông này, với thái độ lịch sự có thừa của một
nhà chính trị, nói: “Ông có lo lắng quá nhiều đến những cái chẳng có gì
thật cần lo lắm không? Theo chỗ tôi biết thì ở nước Nga hoàn toàn không
có tí urani nào cả”. Vài tuần lễ sau Bearns được tổng thống Truman cử
làm Quốc vụ khanh của nước Mỹ.
Ông Raymond "Speedy" Biel trong một chiếc oanh tạc cơ B-29 trong thời gian thế chiến thứ II - Ảnh: Raymond Biel
Dù
sao thì một tổ chức có tên “Ủy ban lâm thời” để xem xét về vấn đề - nói
theo bản chỉ thị của Marshall - “năng lượng nguyên tử không những theo
khía cạnh chiến tranh mà cả theo khía cạnh quan hệ mới của con người với
Vũ Trụ”. Nhìn vào thành phần của Ủy ban, những nhà bác học đang lo lắng
việc bom nguyên tử sẽ được đưa ra sử dụng, đã không bớt đi được sự lo
lắng đó một chút nào. Trong ủy ban có 5 nhà hoạt động chính trị nổi
tiếng là Bộ trưởng chiến tranh Steamson, phó của ông ta là (thứ trưởng)
Harrison, đại diện riêng của tổng thống là Bearns, đại diện hải quân
Berd và người của Quốc vụ viện là Cleiton; có 3 nhà bác học đứng đầu một
cơ quan đặc biệt tiến hành những nghiên cứu có mục đích quân sự từ năm
1940: Bush, Carl. T. Compton và Conent; các chuyên gia nguyên tử đóng
vai trò như “bác học đầu ngành”: Oppenheimer, Fermi, Arthur. H. Compton.
Chính Arthur H. Compton nhớ lại rằng vấn đề được đặt ra trước nhóm bác
học này, trong đó có bản thân ông, không phải là có nên chăng sử dụng
bom nguyên tử, mà là sử dụng bom nguyên tử như thế nào. Có một người
không có tên trong danh sách các thành viên của Ủy ban, nhưng cũng gây
được những ảnh hưởng nhất định, người đó có cái tên mà chúng ta rất
quen: Lesley R. Groves. Ông này đã nói thẳng thừng: “Nếu như tôi chính
thức tham gia vào ủy ban mà thành phần là những nhân vật dân sự thì thật
là không tiện. Nhưng tôi đã có mặt trong tất cả các cuộc họp của Ủy
ban, và bao giờ tôi cũng coi nhiệm vụ của mình là phải khuyến nghị việc
sử dụng bom nguyên tử. Suy đến cùng thì vào lúc đó, nhiều thanh niên của
chúng ta hàng ngày bỏ mình trong những trận đánh với quân Nhật. Theo
chỗ tôi biết, trong số các nhà bác học lên tiếng chống lại việc sử dụng
bom nguyên tử, chẳng ai có người thân thích trên các chiến trường. Vì
vậy, họ hoàn toàn có thể cho phép mình tỏ ra độ lượng”.
Kết
quả các buổi họp của Ủy ban lâm thời đã là thắng lợi hoàn toàn đối với
Groves. Trong bản kết luận gửi lên tổng thống Truman, có những khuyến
nghị sau:
1-Phải sử dụng bom nguyên tử để chống Nhật càng sớm càng tốt.
2-Cần dùng bom nguyên tử đánh vào đối tượng quân sự thuần túy hoặc nhà máy quân sự có tầm quan trọng lớn.
3-Phải ném bom mà không cảnh báo trước.
Những
khuyến nghị đó được giữ tuyệt mật, song vẫn lọt ra ngoài, tới Chicago,
Ocridge, Los Alamos, nơi mà các nhà bác học, đặc biệt là giới trẻ, càng
ngày càng công khai đứng lên chống việc sử dụng bom nguyên tử. Trường
đại học Chicago đã lập ra một hội đồng để xem xét và bàn bạc về “những
vấn đề xã hội và chính trị có liên quan đến năng lượng nguyên tử”. Đứng
đầu hội đồng là James Franck, người được giải thưởng Nôben, nguyên là
giáo sư ở Gottingen. Ngoài Franck ra, Szillard và nhà sinh hóa học
Rabinovich đã đề xuất nhiều đề nghị nhất để đưa vào bản bị vong lục của
hội đồng. Về sau này, bản bị vong lục đó được gọi là “Bản báo cáo của
Franck”.
Cách
đây 70 năm trước, ngày 6-9/8/1945, hai máy bay B-29 của Không lực Mỹ đã
ném bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật
Bản khiến hàng trăm nghìn người thiệt mạng ngay lập tức, để lại vô số di
chứng do phóng xạ tới tận ngày hôm nay. Thực tế, không phải là Nhật Bản
không phát hiện được các máy bay B-29 khi tiến vào không phận hai thành
phố trên, mà họ đã phát hiện từ khi chúng còn cách rất xa. Tuy nhiên,
thay vì đánh chặn hay bắn hạ chúng, lực lượng phòng không – không quân
Đế quốc Nhật Bản khi đó đã không coi đó là mối đe dọa lớn.
Theo
các tài liệu được giải mã sau này, khoảng một tiếng (ném bom xảy ra lúc
8h15 giờ Hiroshima) trước vụ tấn công khủng khiếp, lực lượng quân đội
Nhật Bản bằng radar đã phát hiện một số máy bay Mỹ tiếp cận lãnh thổ
phía Nam (gồm cả Hiroshima). Trước 15 phút vụ tấn công, trạm radar ở
Hiroshima đã thấy số lượng máy bay gồm 3 chiếc tiến vào.
Tuy
nhiên, ở khoảnh khắc sống còn đó, họ đã bỏ lệnh đánh chặn bằng không
quân. Hành động này được cho là để tiết kiệm nhiên liệu và gìn giữ lực
lượng không quân, người Nhật không đánh chặn những đội hình máy bay nhỏ.
Thậm chí họ còn đánh giá đó là cuộc do thám chứ không phải là đột kích
bằng không quân.
Rõ
ràng, quân đội Đế quốc Nhật Bản đã bỏ qua “thời gian vàng” chặn đánh
máy bay ném bom nguyên tử ngay khi nó còn trên mặt biển. Ảnh: Máy bay
ném bom B-29 cùng loại chiếc Enola Gay không kích hạt nhân Hiroshima bị
bắn hạ năm 1944.
Ngày
11-6-1945, báo cáo của các nhà bác học Chicago được gởi tới Bộ trưởng
chiến tranh, như một điều trần nhằm khuyến cáo không nên sử dụng bom
nguyên tử đánh Nhật. Trong đó, có đoạn viết: “Như vậy, ưu thế quân sự
đạt được bằng cách dùng bom nguyên tử bất thần tấn công Nhật sẽ bị thủ
tiêu do sự mất lòng tin về sau này. Làn sóng sợ hãi và kinh tởm sẽ bao
trùm thế giới chắc hẳn sẽ phân chia dư luận xã hội trong nước”.
“Báo
cáo của Franck” cũng đã đề nghị thay thế việc ném bom nguyên tử xuống
Nhật như đã hoạch định bằng việc biểu diễn sức mạnh của vũ khí mới trước
tất cả các đại biểu của Liên Hiệp Quốc trong một hoang mạc, hoặc trên
một hòn đảo không có người ở. Sẽ tạo được bầu không khí tốt đẹp nhất để
đạt tới một sự thỏa thuận quốc tế nếu như nước Mỹ có thể nói với thế
giới: “Các bạn thấy đấy, chúng tôi có thứ vũ khí như thế nào, nhưng
chúng tôi không sử dụng nó. Chúng tôi sẵn sàng từ bỏ, không sử dụng nó
cả trong tương lai nữa, nếu như các nước khác đồng ý với chúng tôi và
tán thành lập ra một sự kiểm soát quốc tế có hiệu quả”.
Uy
tín của các nhà bác học Chicago đã khiến Steamson gửi ngay bản “Báo cáo
của Franck” cho Ủy ban lâm thời. Ủy ban này nhóm họp lần thứ hai ở Los
Alamos vào ngày 16-6-1945 (nhóm họp lần thứ nhất vào ngày 31-5-1945).
Oppi kể lại: “Người ta yêu cầu chúng tôi phát biểu ý kiến về vấn đề có
nên sử dụng bom nguyên tử không. Nguyên cớ là có bản điều trần của các
nhà khoa học nổi tiếng và có uy tín, họ đã đi đến kết luận là không nên
sử dụng bom nguyên tử. Đối với tất cả chúng tôi, giá họ đừng làm như thế
thì tốt hơn. Chúng tôi không biết về tình hình quân sự của Nhật, và vì
vậy không biết được có thể bắt Nhật đầu hàng bằng những phương tiện nào
khác không. Nhưng trong tiềm thức, chúng tôi cảm thấy rằng việc sử dụng
bom nguyên tử là không thể tránh được… Dù sao thì việc sử dụng bom
nguyển tử là có thể chấm dứt chiến tranh và có ảnh hưởng đến sự ổn định
của thế giới sau chiến tranh. Chúng tôi cũng đã tuyên bố rằng việc cho
nổ một quả bom như vậy trên hoang mạc chắc gì đã gây ra được một ấn
tượng lớn”.
Thế là ước mơ ngăn chặn việc ném bom nguyên tử xuống đất Nhật đã tan biến.
Ngày
12 và 13-7-1945, những bộ phận cấu thành của cơ cấu nổ bên trong quả
bom thí nghiệm được mang ra khỏi Los Alamos theo “cổng hậu”, đưa đến khu
thử nghiệm mang tên “Miền chết” (Jornada del Muerto), ở gần làng “Tối
tăm” (Oscuro). Tại đây, giữa hoang mạc, một cơ cấu thép được dựng lên để
đặt quả bom trên đó. Vì ở đấy thường có những cơn giông mạnh nên người
ta quyết định sẽ đợi đến tận lúc cuối cùng mới đặt quả bom lên. Để kiểm
tra lại mọi điều kiện, ít lâu trước khi thử quả bom nguyên tử, người ta
đặt lên cơ cấu đó một quả bom có kích thước gần như thế nhưng bên trong
nhồi bằng chất nổ thông thường. Trong một cơn giông, sét đã đánh trúng
nó. Quả bom đã nổ với một tiếng rền vang thật đáng sợ.
Quả
bom thử nghiệm được quyết định cho nổ vào 5 giờ 30 phút. Vào 5 giờ 10
phút, người phó của Oppi là nhà vật lý nguyên tử S. C. Allison, một
trong 20 người có mặt tại trạm quan sát, bắt đầu phát tín hiệu báo giờ.
Mọi người phải nằm sấp và đeo kính bảo vệ để tránh bị mù.
Sau
chiến tranh, ít nhất 25 quả bom nguyên tử Little Boy đã được lắp ráp
vào năm 1947 và sử dụng cho máy bay tuần tra chống ngầm Lockheed P2V.
Tất cả số bom này chính thức ra khỏi biên chế và bị phá hủy vào tháng
1/1951.
Quả
bom nguyên tử thứ 2 được ném xuống Nhật Bản được định danh là “Fat Man”
(ông mập) có kích cỡ rất lớn, khác xa so với Little Boy. Sau vụ đánh
bom Nhật Bản, hơn 120 quả bom Fat Man được sản xuất từ 1947-1949, tuy
nhiên nó đồng loạt cho nghỉ hưu trong năm 1950. Ảnh: Mô hình tương đương
kích thước thật bom Fat Man.
Bom
nguyên tử Fat Man có chiều dài 3,25m nhưng đường kính thân lên tới
1,52, trọng lượng 4,63 tấn chỉ nhỉnh hơn một chút so với Little Boy. Tuy
nhiên, đường kính thân đã khiến cho Fat Man khiến người ta trông như là
to gấp đôi Little Boy.
“Fat
Man” là vũ khí hạt nhân thuộc loại kép-sử dụng lõi plutonium. Nó có một
hình cầu nhỏ bằng plutonium được đặt ở trong tâm của một khối cầu bằng
thuốc nổ mạnh rỗng giữa.
Bom
nguyên tử Fat Man đang được đưa vào khoang bom máy bay B-29 mang tên
“Block’s Car” do thiếu tá Charles Sweeny điều khiển. Quả bom có sức công
phá lớn hơn so với Little Boy, 21 kiloton tương đương 21.000 tấn TNT.
Thuở
hồng hoang, khi lần đầu tiên con người nguyên thủy tự nhóm lên ngọn lửa
từ sự sáng tạo của mình, họ đã hân hoan biết chừng nào và vì nhận thức
còn thấp kém mà vô tình không thấy được mặt trái tai hại của ngọn lửa.
Đến giữa thế kỷ XX, sau một quá trình không ngừng nhận thức và sáng tạo
ngày càng cao siêu và ngày một tài tình, con người đã biết thắp nên một
ngọn lửa vĩ đại hơn nhiều: ngọn lửa nguyên tử. Điều dị thường là lần này
họ cũng hân hoan không kém dù đã thấy trước mặt trái hủy diệt khủng
khiếp của ngọn lửa nguyên tử, còn mặt phải thì chưa biết thế nào. Nền
văn minh đã làm cho sự điên rồ hết thuốc chữa rồi chăng?...
Không
một ai trông thấy những tia lửa đầu tiên của ngọn lửa nguyên tử. Tất cả
chỉ là đột ngột bừng lên một ánh sáng trắng xóa, chói lòa, phản chiếu
từ bầu trời và từ các quả đồi tới. Những người sau đó đánh liều quay đầu
lại đã nhìn thấy một quả cầu lửa sáng chói càng ngày càng lớn mãi lên.
Karson Mark, một trong những thành viên xuất sắc nhất của Ban lý thuyết
cảm giác rằng quả cầu lửa sẽ không ngừng lớn lên, cho tới khi nó choáng
hết bầu trời, dù ý thức mách bảo rằng điều đó không thể xảy ra. Vào lúc
này, mọi người đều quên mất những công việc phải làm theo dự định.
Groves viết: “Một vài người bị nỗi kích động xâm chiếm đã nhảy ra khỏi ô
tô mà quên không đeo mặt nạ. Sau 2 hay 3 giây, họ bị mù và mất đi khả
năng nhìn thấy quang cảnh mà họ đã chờ đợi suốt 3 năm”.
Nỗi
bàng hoàng trước vụ nổ mãnh liệt đã bao trùm khắp mọi người. Oppi dán
mình vào một chiếc cột chống trong căn phòng của trạm quan sát. Trong
trí nhớ của ông bỗng hiện lên một đoạn trong thiên sử thi Bhagabad Gita
của Ấn Độ cổ đại:
“Với sức mạnh bất tử và khủng khiếp
Bầu trời sẽ chói lọi trên cõi trần
Nếu như ngàn ánh Mặt trời
Đồng thời lóe lên trên đó…”
Tướng
Farell diễn tả: “Tất cả khu vực đều được chiếu rọi bằng một thứ ánh
sáng chói chang, cường độ của nó lớn gấp nhiều lần cường độ Mặt trời
giữa trưa… Ba mươi giây sau vụ nổ, cơn gió mạnh đầu tiên đập vào mọi
người và mọi vật. Kèm theo nó là tiếng gầm rú kéo dài khiến người ta
kinh hoàng nghĩ đến Ngày xử án cuối cùng. Chúng tôi tự cảm thấy mình là
sinh vật nhỏ mọn đã dám cả gan báng bổ Chúa mà động vào những sức mạnh
cho tới nay chưa từng ai động đến. Ngôn ngữ là một phương tiện quá không
hoàn chỉnh để diễn đạt tất cả những gì mà chúng tôi cảm xúc vào lúc
đó”.
Có
lẽ tướng Groves là người đầu tiên tự chủ lại được. Khi một nhà bác học
nhảy bổ đến chỗ ông, suýt nữa thì phát khóc, nói rằng vụ nổ đã tiêu hủy
hết cả dụng cụ quan sát và đo đạc của mình, thì Groves đã động viên:
“Thế là tuyệt! Nếu dụng cụ đã không đứng vững được thì nghĩa là sức nổ
khá mạnh và đó chính là cái mà chúng ta muốn biết”. Rồi ông nói với
tướng Farell: “Chiến tranh phải chấm dứt! Chỉ một hay hai của cái này là
bọn Nhật đi đời”.
Những người ở gần khu vực thử nghiệm trong phạm vi 200 km đã trông thấy một chớp sáng chói lọi khác thường trên trời.
Vài
ngày sau, tin tức về cuộc thử bom thành công đã lan tới mọi phòng thí
nghiệm của Đề án Manhattan. Một lần nữa, cuộc vận động chống sử dụng bom
nguyên tử và sử dụng nó để đánh Nhật của các nhà bác học tiến bộ Mỹ lại
nổi lên như một phong trào. Trong đó có việc Szillard cố gắng đi thu
thập chữ ký càng nhiều càng tốt của các nhân viên Đề án Manhattan để
phản đối. Song tất cả, vì nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, đã hoàn
toàn thất bại.
Ngay
từ tháng 5-1945, người Mỹ đã sống với những ấn tượng sâu sắc của những
thông báo về những trận đánh quá ư đẫm máu trên đảo Okinawa. Chỉ riêng
trên đảo này, quân Mỹ chết và bị thương nhiều hơn suốt toàn bộ chiến
dịch đánh chiếm Philippines. Tình hình đó khiến người Mỹ lo sợ rằng nếu
tiến quân vào chính nước Nhật thì số thương vong sẽ còn tăng cao đến mức
nào nữa. Một tình thế được đặt ra là hoặc thả bom nguyên tử, hoặc để
cho chiến tranh kéo dài vô hạn định.
Cảnh đổ nát tại Hiroshima sau vụ ném bom của Mỹ.
Cả thành phố dường như bị san phẳng trong phút chốc.
Toàn cảnh thành phố Hiroshima sau vụ tấn công bằng vũ khí hủy diệt.
Người dân Hiroshima sau vụ ném bom lịch sử.
Một thành phố lớn đã trở thành thành phố chết.
Di chứng để lại sau vụ tấn công vẫn còn kéo dài tới ngày nay.
Bức ảnh hiếm hoi chụp cảnh người dân Hiroshima sau vụ tấn công bằng bom nguyên tử.
Đám mây nấm khổng lồ xuất hiện trên bầu trời Hiroshima sau khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống thành phố này.
Tổng thống tạm quyền Harry S. Truman không hề biết dự án Manhattan cho đến khi Franklin D. Roosevelt qua đời. Truman đề nghị Bộ trưởng chiến tranh Hoa Kỳ lúc đó là Henry Lewis Stimson
chủ trì một nhóm các nhân viên xuất sắc gọi là Ủy ban Nội chính bao gồm
cả các nhà khoa học uy tín để cố vấn cho Tổng thống các vấn đề quân sự,
chính trị và khoa học phát sinh từ việc sử dụng bom nguyên tử. Ngày 31
tháng 5, Stimson đệ trình các kết luận của ông ta trước Ủy ban này và
nhóm khoa học của Ủy ban. Stimson ủng hộ việc sử dụng bom nguyên tử, "nhiệm vụ của chúng ta là kết thúc chiến tranh nhanh chóng và có lợi". Nhưng tiến sĩ Robert Oppenheimer,
thành viên của nhóm khoa học, tuyên bố rằng một quả bom đó thôi cũng có
thể giết tới 20 ngàn sinh mạng và nên hướng vào mục tiêu quân sự chứ
không phải dân sự. Một nhà khoa học khác, Tiến sĩ Arthur Compton,
đề nghị rằng nên thả quả bom vào một hòn đảo hoang vu của Nhật Bản để
thị uy đồng thời giảm thiểu thiệt hại sinh mạng thường dân. Nhưng lời đề
nghị này sớm bị từ chối với lý lẽ rằng, nếu phía Nhật biết trước về
cuộc tấn công, máy bay ném bom sẽ bị bắn hạ hoặc quả bom đầu tiên có thể không phát nổ.
Ngày 6 và 9/8/1945, quân đội Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống hai
thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản, để lại nhiều hậu quả thảm
khốc.
Theo lệnh của Tổng thống Harry S Truman,
lúc 8h15 (giờ Hiroshima) ngày 6/8/1945, máy bay B-29 “Enola Gay” của
quân đội Mỹ thả quả bom nguyên tử "Little Boy" xuống trung tâm thành phố
Hiroshima. Quả bom chứa khoảng 60 kg Uranium 235 và đương lượng 13
kiloton đã phát nổ cách mặt đất khoảng 600 m. Ngay lập tức, nó giết chết
ít nhất 90.000 người. 90% nhà cửa ở Hiroshima bị hủy diệt hoặc hư hại.
Một kỹ sư Australia công tác tại thành phố
cảng Kure đã ghi lại hình ảnh đám khói lớn bốc lên từ vụ nổ tại thị trấn
Yoshiura thuộc Hiroshima. Tại thời điểm bị đánh bom, Hiroshima là thành
phố quan trọng cả về quân sự và công nghiệp.
Siêu pháo đài bay Boeing B-29 “Enola Gay” hạ cánh tại căn cứ quân sự Tinia sau khi hoàn thành nhiệm vụ.
Quả bom nguyên tử mang tên “Little Boy” có
chiều dài 3 m, đường kính 71 cm và khối lượng 4.000 kg. Sức công phá của
nó tương đương 13 đến 16 nghìn tấn thuốc nổ TNT.
Tổ bay nhận nhiệm vụ ném quả bom nguyên tử
đầu tiên xuống thành phố Hiroshima trong Thế chiến II chụp ảnh trước
“Enola Gay”. Cơ trưởng của máy bay là Đại tá Paul Tibbets (đứng giữa).
Đại úy William Sterling Parsons là người đưa quả bom "Little Boy" vào
tình trạng sẵn sàng sau khi máy bay cất cánh và phụ tá của ông là Morris
R. Jeppson nhận nhiệm vụ dỡ các thiết bị an toàn của quả bom 30 phút
trước khi tới mục tiêu. Đây là lần đầu tiên vũ khí hạt nhân được sử dụng
trong chiến tranh.
Vụ ném bom kinh hoàng đã phá hủy hầu hết
cấu trúc của thành phố vốn được coi là căn cứ hậu cần nhỏ của quân đội
Nhật Bản. Hiroshima cũng là mục tiêu ưu tiên số 1 của nhiệm vụ tấn công
nguyên tử. Mục tiêu số hai là thành phố Kokura và mục tiêu dự bị là
Nagasaki.
Đầu tháng 7, trên đường đi dự Hội nghị Potsdam,
Truman xem xét một lần nữa quyết định sử dụng bom nguyên tử. Cuối cùng,
ông ra quyết định thả bom nước Nhật. Ông tuyên bố ý định của việc yêu
cầu đánh bom là để nhanh chóng mang lại giải pháp cho chiến tranh bằng
cách gây ra sự tàn phá và gieo rắc kinh hoàng về những thiệt hại tiếp
theo, điều đó đủ làm cho Nhật Bản chấp nhận đầu hàng. Ngày 26 tháng 7, Truman và các lãnh tụ phe Đồng minh ra bản Tuyên bố Potsdam, vạch ra điều kiện đầu hàng cho nước Nhật:
"Chúng tôi kêu gọi chính phủ Nhật Bản ra tuyên bố đầu hàng vô
điều kiện ngay lập tức cho toàn bộ lực lượng vũ trang Nhật, và đưa ra sự
đảm bảo thích đáng và đầy đủ đối với thiện ý của họ trong hành động như
vậy. Sự lựa chọn khác cho Nhật Bản là sự hủy diệt toàn bộ ngay lập tức."
Ngày hôm sau, các báo chí Nhật nêu rằng, bản tuyên bố, văn bản được
truyền bá và trong những tờ truyền đơn thả xuống Nhật Bản đều bị từ
chối. Những quả bom nguyên tử vẫn được giữ bí mật và không hề đả động
trong bản tuyên bố. Chính phủ Nhật Bản không thể hiện ý định chấp nhận
tối hậu thư. Thủ tướng Nhật Suzuki Kantaro còn phát biểu tại họp báo rằng Tuyên bố Potsdam chỉ là sự lặp lại của Tuyên bố Cairo và chính phủ của ông không quan tâm đến nó. Thiên hoàng Chiêu Hòa, người đang chờ đợi Liên Xô
trả lời những thăm dò về hòa bình, đã không có bất kỳ thay đổi lập
trường của chính phủ. Ngày 31 tháng 7, ông tuyên bố rõ ràng rằng quyền
lực của hoàng đế phải được bảo vệ bằng mọi giá.
Như
bây giờ người ta đã biết, tình thế đó được đặt ra không phải là một
phản ánh đúng thực tại mà chỉ là do ý chí của một ai đó rất muốn “xài”
bom nguyên tử. Cơ quan tình báo của bộ binh và hải quân Mỹ vào lúc đó đã
cùng tin chắc như nhau rằng sự sụp đổ của phát xít Nhật chỉ còn là vấn
đề của vài tuần lễ nữa mà thôi. Alfred Mac Cormac, chỉ huy cơ quan tình
báo Mỹ trên chiến trường Thái Bình Dương đã nhớ lại: “Chúng ta nắm vững
quyền kiểm soát trên không ở Nhật đến mức là đối với từng con tàu, chúng
ta hoàn toàn biết được nó đã rời cảng nào và vào lúc nào để đi ra biển.
Nhật đã sử dụng hết dự trữ lương thực, và dự trữ nhiên liệu trên thực
tế cũng đã cạn. Chúng ta bắt đầu một chiến dịch bí mật thả mìn xuống tất
cả các vịnh và các bến cảng của họ, điều đó tăng thêm không ngừng sự cô
lập của họ đối với thế giới bên ngoài. Nếu như chúng ta đưa chiến dịch
này đến sự hoàn tất lôgic của nó thì việc phá hủy các thành phố Nhật Bản
bằng bom cháy và các loại bom khác sẽ là hoàn toàn không cần thiết”.
Nhà
sử học Mỹ là Robert J. S. Batow, nghiên cứu những sự kiện xảy ra trước
lúc Nhật sụp đổ còn cho rằng vào lúc đó có thể chấm dứt chiến tranh một
cách nhanh chóng bằng con đường ngoại giao.
Thế
thì vì sao Mỹ vẫn cố tình ném cho được hai quả bom xuống hai thành phố
của Nhật, giết chết trong nháy mắt hơn 200 ngàn người dân vô tội, chưa
kể một số lượng người không ít chết “chậm”, từ từ, lần lượt đến mãi sau
này, thậm chí là ở thế hệ kế tiếp do bị nhiễm bức xạ và di họa để lại
của nó?
Hai quả bom do Mỹ ném xuống thành phố
Hiroshima (6/8/1945) và Nagasaki (9/8/1945), Nhật Bản, cướp sinh mạng
của ít nhất 250.000 người. Đây là một trong những vụ thảm sát khốc liệt
nhất trong lịch sử nhân loại. Nhiều năm sau, chính phủ Nhật công bố
những bức ảnh kinh hoàng về 2 vụ nổ bom.
Đúng 8h15 sáng 6/8/1945, quả bom mang biệt danh Little Boy phát nổ ở
độ cao 580 m trên bầu trời thành phố Hiroshima. Nó tạo ra quả cầu lửa
khổng lồ và khiến nhiệt độ bề mặt lên tới 4.000 độ C.
Bức xạ và sóng nén áp suất cao tỏa ra các phía, thiêu sống hàng chục
nghìn người và gia súc. Trong phút chốc, các tòa nhà và xe cộ tan chảy.
Thành phố 400 năm tuổi tan thành tro bụi.
Tất cả đồng hồ được tìm thấy ở thành phố Hiroshima dừng lại lúc 8h15 sáng, thời điểm quả bom nguyên tử Little Boy phát nổ.
Bê tông và thép chảy nhão. Chỉ vài phút, 75.000 người chết và bị
thương nặng, 65% trong số đó là trẻ dưới 9 tuổi. Số người chết tiếp tục
tăng vài ngày sau do bức xạ.
Với những người may mắn sống sót, sức khỏe
của họ suy giảm trầm trọng. Họ mất cảm giác ngon miệng, tóc rụng, nhiều
đốm xanh lợt xuất hiện trên cơ thể. Máu chảy ra từ tai, mũi, miệng.
Mắt một người bị đục thủy tinh thể do ảnh hưởng từ vụ nổ.
Phụ nữ không kết hôn vì lo sợ sinh con dị dạng. Đàn ông không thể lập
gia đình vì không ai muốn lấy người chỉ có thể sống vài năm.
Ngày 10/8/1945, một ngày sau khi quả bom
nguyên tử thứ 2 Fat Man phát nổ trên bầu trời thành phố Nagasaki, phóng
viên ảnh Yosuke Yamahata tới hiện trường để ghi lại hiện thực thảm khốc.
Nagasaki giống như thành phố chết. Lửa cháy âm ỉ khắp nơi, nhà cửa đổ nát, xác người cháy rụi nằm la liệt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét