Thứ Ba, 30 tháng 3, 2021

TT&HĐ III - 31/t

                           Cuộc đời George Washington

                                           Cuộc đời và sự nghiệp của Abraham Lincoln

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.


.

CHƯƠNG X (XXXI): TỘI ÁC

 

“Với việc thiết lập bạo lực và giết nhau trong loài của mình, con người tự đặt nó xuống dưới con thú”
André Bourguignon

"Lòng yêu nước là tình yêu kiên định, tuyệt đối với quốc gia, không phải là sẵn sàng phụng sự nó mà không phê phán, hay ủng hộ những yêu sách không chính đáng, mà là thẳng thắn đánh giá những tội lỗi, thói xấu của nó và sám hối cho chúng."
Aleksandr Solzhenitsyn
 
"Kẻ phạm vào tội lỗi là con người; đau buồn về nó là thánh nhân; kiêu hãnh về nó là ác quỷ."
 
"Trong giấc mơ của tao, thế giới đã phải chịu một thảm họa khủng khiếp. Một đám sương mù đen che lấp ánh nắng mặt trời, bóng tối nhấn chìm cuộc sống với những tiếng rên la gào thét của những con người hoảng loạn. Đột nhiên, một tia sáng lóe lên. Một ngọn nến lung linh thắp sáng hy vọng cho hàng triệu tâm hồn khốn khổ. Một cây nến nhỏ, tỏa sáng trong bóng tối bao la. Tao mỉm cười và thổi tắt nó…
 

"Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt" 

Napoleon Bonaparte.

 "Luôn nhớ rằng mình sẽ phải chết là cách tốt nhất mà tôi biết để tránh sa vào suy nghĩ mình có cái gì để mất. Khi bạn chẳng còn gì, không có lý do nào để bạn không đi theo chính trái tim mình" - Steve Jobs





 (Tiếp theo)



Chiếc Mayflower đưa người tìm tự do tín ngưỡng đến Tân Thế giới. Trong mùa đông đầu tiên tại Plymouth, khoảng phân nữa người trong đoàn bị thiệt mạng.
Vụ tàn sát người định cư tại Jamestown năm 1622. Chẳng bao lâu sau đó người thực dân tại miền Nam lo sợ tất cả người bản địa như kẻ thù.

Lúc đầu, 13 bang thuộc địa còn quan hệ với nhau tương đối rời rạc và đều tuân thủ luật pháp Anh. Dù thành phần cư dân là gồm nhiều quốc tịch, nhiều sắc tộc nhưng do số lượng người Anh chiếm áp đảo nên dần dần, tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ giao tiếp chung. Bên cạnh đó, quá trình vận động kinh tế - xã hội đã nảy sinh những yêu cầu làm cho 13 bang thuộc địa ngày một gần gũi, gắn bó chặt chẽ với nhau, dân cư giao lưu qua lại hòa hợp nhau, hình thành nên một cộng đồng dân cư ổn định, thống nhất như một dân tộc có chung một nền văn hóa khu vực với những nét riêng đặc thù. Một cơ thể kinh tế - xã hội tương đối độc lập với chính quốc Anh đã hình thành ở Bắc Mỹ.
Sự lớn mạnh về kinh tế, tiềm năng phát triển dồi dào về mọi mặt cũng như quyền lợi bản thân của khu vực thuộc địa Bắc Mỹ đã không còn “chịu đựng nổi” sự áp chế trái chiều của chính quốc Anh. Lúc này, quyền lợi chung của toàn dân “bản xứ” đã đối chọi với quyền lợi có tính ăn cướp của “ngoại bang” Anh. Cuộc chiến tranh giải phóng đòi độc lập tự do của nhân dân Bắc Mỹ là không thể tránh khỏi.


                                     Tranh năm 1846 mô tả Tiệc trà Boston năm 1773.
Vào tháng 5-1756, cuộc chiến tranh giành giật đất đai ở Bắc Mỹ giữa Anh và Pháp, lịch sử gọi là “chiến tranh bảy năm” (1756 - 1763) bùng nổ. Pháp thua, phải ký hòa ước. Theo đó, Canada thành đất thuộc quyền Anh. Vì “mắc tội” ủng hộ Pháp trong chiến tranh, Tây Ban Nha cũng phải mất cho Anh vùng đất Phlorida. Sau khi lũng đoạn được vùng Bắc Mỹ, Anh tăng cường chế độ cai trị chuyên chế, hà khắc, tăng cường bóc lột.
Tình hình đó đã khơi dậy phong trào đấu tranh của dân cư Bắc Mỹ với khẩu hiệu “Tự do và tư hữu”, “Thống nhất hoàn toàn hay là chết”. Những hội kín ra đời liên kết lực lượng và thống nhất tư tưởng, trong đó có tổ chức “Hội những người con tự do” (Sons of Liberty) do Tômát Ghépphécsơn (1743 - 1826), người có tư tưởng tự do, lãnh đạo.
“Những người con tự do” lấy tư tưởng của Lôcke và của Giôn Mintơn (J. Locke; John Milton) về quan niệm một nhà nước tư sản làm mục tiêu đấu tranh. Tác phẩm của Lôke, “Tiểu luận về chính quyền dân sự”, xuất bản năm 1690, đã cung cấp cho cuộc đấu tranh giành độc lập Bắc Mỹ một nội dung lý thuyết về nhà nước tư sản. Đó chính là tư tưởng cách mạng tư sản Anh lan sang Mỹ, được chấp nhận và áp dụng trong thực tiễn. Nó nêu lên nhiệm vụ của nhà nước là bảo vệ tính mạng, tự do và tài sản của nhân dân. Quyền lực chính trị là của dân và dân ủy thác quyền lực đó cho chính phủ. Chính phủ chỉ là đại diện của dân, vì thế có bổn phận thực thi quyền hành do nhân dân giao phó. Nhưng nếu chính phủ vi phạm quyền “tự nhiên” của công dân thì công dân có quyền và trách nhiệm phải lật đổ chính phủ.


                                           Tranh Tuyên ngôn Độc lập của John Trumbull
Không khí cách mạng ngày một sục sôi, ngay cả Oasinhtơn (Washington, 1732 - 1799), một chủ đồn điền - chủ nô giàu có ở Viếcginia, người có khuynh hướng ôn hòa, cũng ngả theo cách mạng.
Nước Anh điều tướng Ghêgiơ sang làm thống đốc bang Masaxuxét kiêm tổng tư lệnh quân đội Anh ở Bắc Mỹ; thông qua ngân sách chiến tranh, tăng cường quân đội, quyết tâm đàn áp thuộc địa.
Ngày 10-5-1775, những người lãnh đạo phong trào cách mạng ở các bang họp hội nghị nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể của chiến tranh, quyết định thành lập “Quân đội lục địa”, bổ nhiệm Oasinhtơn làm chỉ huy, ra lời kêu gọi nhân dân tình nguyện tham gia đóng góp. Xu hướng độc lập đã được các đại biểu như Giôn Adam (John Adams), R. H. Li (R. H. Lee) đề nghị và Hội nghị chấp thuận. Một Ủy ban 5 người, đứng đầu là Giépphécxơn được  ủy quyền thảo Tuyên ngôn độc lập và Hội nghị đã long trọng công bố ngày 4-7-1776. Bản tuyên ngôn này đã nêu lên một chân lý sáng ngời của Đức Huyền Diệu: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ những quyền không thể tước bỏ được. Trong những quyền ấy, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Oasinhtơn (George Washington, 22 tháng 2 năm 1732 – 14 tháng 12 năm 1799) là nhà lãnh đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm 1775 đến năm 1799. Ông đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với tư cách là tổng tư lệnh Lục quân Lục địa năm 1775–1783, và ông cũng đã trông coi việc viết ra Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787. Quốc hội nhất trí chọn lựa làm tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ (1789–1797). Phong cách lãnh đạo của ông đã có ảnh hưởng đến thể thức và lễ nghi cho chính quyền mà được sử dụng từ đó cho đến nay, thí dụ như dùng một hệ thống nội các và buổi đọc diễn văn nhậm chức. Với tư cách là tổng thống, ông đã xây dựng một chính quyền quốc gia mạnh mẽ và giàu tài chính mà đã tránh khỏi chiến tranh, dập tắt nổi loạn và chiếm được sự đồng thuận của tất cả người Mỹ. Ông hiện nay được biết như vị cha già của nước Mỹ. 
George Washington
Gilbert Stuart Williamstown Portrait of George Washington.jpg
Chân dung năm 1797 của George Washington
Gilbert Stuart vẽ

Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ
Nhiệm kỳ
30 tháng 4 năm 1789 – 4 tháng 3 năm 1797

Ông có một viễn tưởng về một quốc gia hùng mạnh và vĩ đại, xây dựng trên những nền tảng của nền cộng hòa, sử dụng sức mạnh của liên bang. Ông tìm cách sử dụng chính phủ cộng hòa để cải thiện hạ tầng cơ sở, mở rộng lãnh thổ phía tây, lập ra một trường đại học quốc gia, khuyến khích thương mại, tìm nơi xây dựng lên một thành phố thủ đô (sau này gọi là Washington, D.C.), giảm thiểu những sự căng thẳng giữa các vùng và vinh danh tinh thần chủ nghĩa quốc gia. Ông nói "Cái tên người Mỹ" phải xóa bỏ bất cứ những liên hệ ràng buộc nào mang tính cách địa phương. Khi mất, Washington được táng tụng như là "người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và người đầu tiên trong lòng dân tộc của ông". Những người theo chủ nghĩa liên bang đã coi ông như là biểu tượng của đảng nhưng những người theo chủ nghĩa Jefferson trong nhiều năm trời vẫn tiếp tục không tin vào ảnh hưởng của ông và cố tìm cách trì hoãn xây dựng tượng đài Washington. Với tư cách là nhà lãnh đạo cách mạng thành công đầu tiên chống lại một đế quốc thuộc địa trong lịch sử thế giới, Washington đã trở thành một hình tượng quốc tế đối với phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa quốc gia. Chủ nghĩa biểu tượng của ông đặc biệt gây âm vang tại Pháp và châu Mỹ Latin.Các học giả lịch sử luôn xếp ông là một trong số hai hoặc ba vị tổng thống vĩ đại nhất.
Sau các trận đánh tại Lexington và Concord gần thành phố Boston vào tháng 4 năm 1775, tất cả các thuộc địa đều tham chiến. Washington xuất hiện tại Đệ nhị Quốc hội Lục địa trong quân phục, chứng tỏ rằng ông đã sẵn sàng cho chiến tranh. Washington bày tỏ rõ thái độ của mình là không muốn tìm cách làm tư lệnh, và ông có nói rằng ông không xứng với chức vụ đó nhưng chẳng có ai thật sự muốn tranh chức vụ này. Quốc hội Lục địa thành lập Lục quân Lục địa vào ngày 14 tháng 6 năm 1775. Được John Adams của thuộc địa Massachusetts đề cử, Washington sau đó được bổ nhiệm làm thiếu tướng và tổng tư lệnh.

Tướng George Washington được bổ nhiệm là tổng tư lệnh Lục quân Lục địa vào ngày 15 tháng 6 năm 1775.
                                             Bộ binh của Lục quân Lục địa. 
Thoạt đầu chiến tranh, “Quân đội lục địa” với số lượng không nhiều, chỉ huy thiếu kiến thức quân sự, trang bị vũ khí còn thô sơ, nghèo nàn nên gặp nhiều bất lợi, dù mang tính chính nghĩa, được nhân dân ủng hộ và cũng đã chiến đấu rất anh dũng. Cuộc chiến đấu ở bang Niu Oóc đã có hàng ngàn người da đen hy sinh. Ngày 17-6-1775, quân Anh đánh bại nghĩa quân ở Bâncơ Hin, gần Bôxtơn nhưng cũng phải trả một giá rất đắt. Cũng trong năm 1775, nghĩa quân bị quân Anh đánh bật khỏi Long Ailan và Manhattan, phải rút về Niu Giớcxi. Đến mùa đông năm 1776, quân chủ lực trong tay Oasinhtơn chỉ còn không quá 3.000 người.
Mùa xuân năm 1777, Oasinhtơn bị thất bại ở Giécmantao. Quân Anh định mở cuộc tấn công lớn bao vây tiêu diệt nhưng bị nghĩa quân đánh tan ngày 17-10-1777. Quân Anh thất bại lớn tại Saratôga, tướng Anh là Bớcgôn phải đầu hàng. Chiến thắng Saratôga biểu hiện sự lớn mạnh và khả năng giành thắng lợi trong cuộc chiến của quân khởi nghĩa.
Dần dần, quân đội lục địa được các nước châu Âu là Pháp, Hà Lan và Tây Ban Nha ủng hộ, gửi quân tham gia chiến đấu làm hình thành một liên minh chống Anh.
Tháng 12-1778, bang Gioócgia bị quân Anh chiếm. Tháng 5-1779, quân Anh đánh bại nghĩa quân, chiếm Carôlinna Nam. Ngày 12-5, quân Anh chiếm hải cảng Saclettơn (thuộc Carôlinna Nam), bắt làm tù binh tới 6.000 nghĩa quân. Ngày 16-8-1780, tướng Anh là Coócoalít đánh tiêu diệt một cánh nghĩa quân ở Camđen.
Sau khi củng cố ổn định lại lực lượng, Oasinhtơn quyết định dùng tổng lực hải quân, bộ binh, pháo binh đánh trận sống mái ở Yoóctao. Đội quân gồm 8.000 người của Coócoalít đồn trú trên bờ sông đã bị hạm đội của Pháp chặn đường rút để rồi bị quân của Oasinhtơn và quân của Rôsămbô (tướng Pháp) bao vây. Không thể kháng cự và cũng hết đường tháo chạy, Coócoalít cùng toàn bộ quân Anh đồn trú, đã phải đầu hàng ngày 19-10-1781. Chiến thắng Yoóctao đã đánh tan hy vọng cuối cùng vào thắng lợi của nước Anh.

https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/9/95/Washington_Crossing_the_Delaware_by_Emanuel_Leutze%2C_MMA-NYC%2C_1851.jpg
George Washington bất ngờ vượt sông Delaware vào tháng 12 năm 1776 là một sự đổi ngược tình thế lớn sau khi mất Thành phố New York; quân đội của ông đánh bại người Anh tại hai trận và tái chiếm New Jersey.
Tuy chiến tranh còn kéo dài thêm một thời gian nữa nhưng tình thế của quân Anh là không thể cứu vãn. Ngày 3-9-1783, Hiệp ước Vécxai được ký kết: nước Anh thừa nhận nền độc lập của các thuộc địa ở Bắc Mỹ kể cả miền tây Mitxixipi rộng lớn, Anh trả Phlorida cho Tây Ban Nha.
Một quốc gia mới ở Bắc Mỹ ra đời, được gọi là Hợp chủng quốc Mỹ (United States of American), hay gọi là Mỹ và vì cờ Mỹ có nhiều sao thể hiện số bang nên dân ta cũng gọi là Hoa Kỳ. Hiến pháp Mỹ được phê chuẩn vào tháng 7-1788 và có hiệu lực từ ngày 4-3-1789. Oasinhtơn được bầu làm tổng thống đầu tiên.
Cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân Bắc Mỹ vừa mang hình thái của cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược Anh giành độc lập dân tộc, vừa là cuộc nổi dậy của Đại chúng chống áp bức cường quyền và cũng là cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Theo Lênin thì đó là cuộc “chiến tranh vĩ đại, chiến tranh thực sự giải phóng, thực sự cách mạng”!
Là một nước tư bản trẻ, kế thừa được những thành tựu cách mạng khoa học - kỹ thuật đương thời cùng với tiềm năng phát triển to lớn sẵn có, nước Mỹ đã có một nền kinh tế phát triển cực kỳ nhanh chóng trong thế kỷ sau.

15 anh den trang ve noi chien My
Dù sao thì cuộc cách mạng dân chủ tư sản đồng thời cũng là cuộc đấu tranh giành độc lập ấy là không triệt để vì chế độ nô lệ (chủ yếu là ở miền Nam nước Mỹ) chưa bị thủ tiêu: Sự tiếp tục tồn tại chế độ nông nô - nô lệ trở nên già cỗi, lạc hậu, cản bước tiến của sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, và vì vậy mà cũng gây ra mâu thuẫn giữa hai thế lực bảo thủ và cấp tiến ngày càng gay gắt. Tình hình đó tất yếu làm xuất hiện các cuộc khởi nghĩa của những người nô lệ và cuộc đấu đá tranh giành quyền lợi giữa hai phe: chủ nô đồn điền miền Nam và trại chủ - dân tự do.
Năm 1741 nổ ra cuộc khởi nghĩa nô lệ ở Ludiana, năm 1792 là ở Viếcginia. Mùa xuân năm 1800 gần 1.000 nô lệ nổi dậy đấu tranh vũ trang ở Risơmen (thuộc bang Viếcginia), do Cơrâybien lãnh đạo. Năm 1822 có cuộc khởi nghĩa nô lệ ở Nam Carôlinna. Năm 1831 có cuộc nổi dậy do Toocne lãnh đạo.
Do sức mạnh của công nghiệp hóa thắng lợi, ưu thế hoàn toàn thuộc về các nhà tư bản miền Bắc. Giữa thế kỷ XIX, các cuộc nổi dậy của nô lệ càng nhiều. Chế độ nô lệ đã bị lay chuyển tận gốc rễ. Tuy nhiên, vì nắm chính quyền thông qua đảng Dân Chủ (được thành lập năm 1791) đại diện cho nó nên chủ nô miền Nam đã khống chế chính quyền trung ương, sử dụng quyền lực đó để bênh vực cho chế độ nô lệ. Cuộc đấu tranh gay gắt nổ ra vào năm 1854 trong dịp bầu cử Hội đồng địa phương Kandớt và trở thành cuộc đấu tranh vũ trang 4 năm (1854 - 1858) mà thắng lợi thuộc về phía các chủ nô.

15 anh den trang ve noi chien My-Hinh-5
Tháng 10-1859, một trại chủ ở Viếcginia là Giôn Brao đã đứng lên khởi nghĩa đòi xóa bỏ chế độ nô lệ. Chính quyền Oasinhtơn đem quân tiêu diệt. Giôn Brao bị thương nặng, bị bắt và bị xử án tử. Trước khi bị hành hình ông đã nói một câu nổi tiếng: “Tôi tin rằng chỉ có máu mới rửa sạch được tội ác của xứ sở này!”

(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét