Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2021

TT&HĐ III - 30/o

                                          

        Cuộc chiến tranh vĩ đại - Tập 4: Cuộc chiến vì Mátxcơva | Phim tài liệu lịch sử Thế chiến II

PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.


.

CHƯƠNG IX (XXX): THỜI CUỘC

“Nếu như sau cái đêm tối tăm của thời trung cổ, các ngành khoa học đột nhiên sống lại với một sức mạnh không ngờ và bắt đầu phát triển nhanh chóng một cách kỳ diệu, thì sự kỳ diệu ấy cũng chính là nhờ sản xuất mà có”
Ph. Ăngghen

"Tình yêu giống như chiến tranh, dễ bắt đầu nhưng rất khó để dừng lại."


"Tôi không biết chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ sử dụng vũ khí nào nhưng tôi biết rằng chiến tranh thế giới thứ 4 sẽ sử dụng gậy gộc và đá!"  - Albert Einstein
"Chúng ta từng tự hỏi chiến tranh sống ở đâu, và điều gì khiến nó gớm guốc như vậy. Và giờ chúng ta nhận ra mình biết nó sống ở đâu... ở trong chúng ta."  -


"Người ta vẫn gọi chiến tranh là tội giết người. Không phải: nó là tự sát."
  - Ramsay MacDonald


"Chưa từng có lúc nào thế giới không chiến tranh. Dù trong bảy nghìn, mười nghìn hay hai mươi nghìn năm. Những nhà lãnh đạo khôn ngoan nhất, hay những vị vua cao quý nhất, hay cả Nhà thờ - không ai trong số họ có thể ngăn chặn nó. Và đừng chịu thua thứ lòng tin dễ dãi rằng những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội nóng vội có thể ngăn được chiến tranh. Hay có thể chia tách được chiến tranh vì lẽ phải hay đúng đắn ra khỏi phần còn lại. Luôn có hàng nghìn hàng nghìn người mà đối với họ thậm chí cả chiến tranh theo kiểu đó cũng là vô nghĩa và phi lý." - Aleksandr Solzhenitsyn


"Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến, hóa đơn sẽ đến sau đó." - Benjamin Franklin


"Chiến tranh là sự ngu dại tột bậc của cuộc sống".  

Thầy cãi

 
 
 
 
 (Tiếp theo)
 
 

Điều quan trọng nhất là nước Đức đã huy động được nguồn nhân lực và kinh tế rất lớn vào cuộc chiến chống Liên Xô, nắm toàn bộ các kho vũ khí, dự trữ kim loại, các nguyên liệu chiến lược, huy động gần như toàn bộ bộ máy công nghiệp quân sự của Tây Âu vào cuộc chiến.

Tại Phương Đông, Nhật Bản tuy ký hiệp ước phe Trục nhưng có thái độ khác trong việc đối xử với Liên Xô vì dù sao, Nhật Bản cũng đã chiếm được những vùng giàu có ở Trung Quốc, Đông Dương và đang nhằm vào Miến Điện cùng các quốc đảo ven bờ châu Á. Vùng Siberia của Nga tuy hẫp dẫn thật nhưng chưa phải là cấp thiết. Sau các thất bại quân sự tại vùng Khalkhyl Gol và hồ Khasan, chính phủ của Thủ tướng Konoe đã đi đến kết luận: Chưa đến lúc xé bỏ hiệp ước trung lập thân thiện với Liên Xô. Họ chờ đợi sự suy yếu của Liên Xô trong cuộc chiến Xô - Đức nay mai. Họ muốn bày tỏ với nước Đức rằng: Chúng ta là đồng minh, nhưng ngoại trừ việc chống Liên Xô. Song phải đến khi Quân đội Đức chỉ còn cách Moskva trên dưới 20 km, tin tức về việc Nhật Bản "không vào cuộc" mới được Richard Sorge (nhà hoạt động tình báo kiệt xuất của Liên Xô) khẳng định và báo về Moskva.
Tuy đã chuẩn bị lên kế hoạch tấn công Liên Xô nhưng Đức Quốc xã vẫn chơi trò "bắt cá hai tay". Ngoài hiệp ước liên minh phe Trục ký với Nhật Bản và Ý năm 1938 phân chia vùng chiếm đóng trên thế giới kể cả Hoa Kỳ, Volthard - cố vấn của Hermann Göring - vẫn có cuộc đàm phán với Bộ trưởng thương mại Anh Hudson về việc phân chia ba khu vực hoạt động kinh tế chủ yếu của hai nước gồm hệ thống thuộc địa Anh, Nga và Trung Quốc. Ngay sau khi ký kết với Ý và Nhật Hiệp ước chống quốc tế cộng sản ngày 27 tháng 9 năm 1940, Ngoại trưởng Đức Von Ribbentrop vẫn mời đoàn ngoại giao Liên Xô do V. M. Molotov dẫn đầu sang thăm Đức. Tại cuộc đàm phán ngày 12 tháng 11 năm 1940, Ribbentrop đề nghị Liên Xô cùng với Đức, Ý, Nhật phân chia thế giới. Tất nhiên, đề nghị này bị phái đoàn Liên Xô bác bỏ thẳng thừng.
Ngày 3 tháng 2 năm 1941, Hitler ra "Chỉ thị đặc biệt về việc đánh lạc hướng đối phương". Trong đó, các cơ quan tình báo và phản gián Đức được giao nhiệm vụ tung ra những tin đồn về việc quân Đức chuẩn bị chiến dịch đổ bộ lên các đảo của nước Anh với hai kế hoạch có mật danh "Đinh ba" (Harpune) và "Cá mập" (Haifisch). Để cho mọi việc diễn ra "như thật", Hitler còn làm trò nổi nóng và doạ xử bắn tại chỗ hai sĩ quan Đức đã để lộ tin tức về kế hoạch "Sư tử biển". Các quân đoàn đổ bộ (chỉ có bộ khung) được thành lập, nhiều nhân viên phiên dịch tiếng Anh được điều đến các đơn vị quân đội Đức đóng trên bờ biển Manche của Pháp. Bộ máy tuyên truyền của nước Đức Quốc xã do Joseph Goebbels cầm đầu liên tục tung ra những thông tin về việc Đức giả tập trung quân ở biên giới Liên Xô để nghi binh, thực chất là tấn công Anh; những thông tin về khả năng quân Đức sẽ viễn chinh sang Ấn Độ. Tất cả động thái đó đều nhằm đánh lạc hướng bộ máy tình báo của Liên Xô, che giấu ý đồ thật sự của "Kế hoạch Barbarossa".

Vượt lên trên tất cả những màn kịch ngoại giao, những tấm mạng nhện bùng nhùng các tin tức đồn đại thật có, giả có và cả giả lẫn thật cũng có, ngày 15 tháng 6 năm 1941, cơ quan GPU của Liên Xô nhận được tin tức của điệp viên Nga gốc Đức Richard Sorge từ Tokyo, Nhật Bản: "Chiến tranh sẽ bắt đầu ngày 22 tháng 6". Sau đó sáu ngày, Richard Sorge gửi tiếp một tin nữa để xác nhận: "Cuộc tiến công sẽ được thực hiện trên toàn mặt trận lúc rạng sáng ngày 22 tháng 6". Cùng thời điểm này, một tùy viên lục quân Liên Xô tại Berlin cũng gửi báo cáo về Moskva khẳng định: Chiến sự chống Liên Xô sẽ khởi sự trong khoảng từ 15 tháng 5 đến 15 tháng 6 năm 1941. Nhưng người đứng đầu cơ quan tình báo GRU F. I. Golikov đã không nhận thức được ý nghĩa thực sự của những thông tin quý giá này. Và cả Stalin cũng đã xử lý chậm chạp do nghi ngờ tính xác thực của các thông tin đó với niềm tin thái quá vào các nỗ lực ngoại giao để tránh một cuộc chiến tranh. Ngay cả đô đốc Tư lệnh hải quân Liên Xô N. G. Kuznetsov khi nhận được báo cáo ngày 6 tháng 5 của Tùy viên hải quân Liên Xô tại Berlin về việc quân Đức có thể khởi chiến vào 14 tháng 5 cũng coi đó chỉ là tin giả do phía Đức tung ra để thăm dò phản ứng của Liên Xô.

 

Chân dung nhà tình báo Liên Xô Richard Sorge

Chiều tối 21 tháng 6 năm 1941, vài người dân Ba Lan đã liều mạng bơi qua sông Bug Tây gặp những lính biên phòng Liên Xô ở đồn số 9 và đồn số 17 Cờ Đỏ để báo cáo về việc Quân Đức chuẩn bị tiến công vào sáng sớm ngày 22. Tin tức này phù hợp với tin tình báo do trinh sát ngoại biên của các đồn biên phòng miền Tây báo cáo về việc quân Đức tập trung vô số xe tăng, pháo binh và bộ binh sát đường biên giới. Cùng thời điểm trên, một thượng sĩ Đức thuộc trung đoàn 222, sư đoàn bộ binh 73 chạy sang Liên Xô tại khu vực Tây Vladimir - Volynski thuộc Quân khu đặc biệt Kiev quả quyết rằng quân Đức sẽ tấn công vào 4 giờ sáng 22 tháng 6. Nhiều đơn vị biên phòng và quân đồn trú sát biên giới của các quân khu phía Tây Liên Xô đều qua bộ tư lệnh của mình liên tiếp gửi về Moskva những tin tức tương tự. Bộ trưởng dân ủy quốc phòng S. K. Timoshenko, Tổng tham mưu trưởng Zhukov và Cục trưởng cục tác chiến N. F. Vatutin thống nhất đề nghị khởi động khẩn cấp Kế hoạch "KOVO-41". Nhưng thay vì đưa quân đội Liên Xô vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu ngay tức khắc và tuyên bố tình trạng chiến tranh, Stalin và tập thể Hội đồng Quốc phòng Liên Xô lại nghi ngờ đó là tin tình báo giả để khiêu khích, nên quyết định chỉ tiến hành những biện pháp hạn chế, chủ yếu có tính đề phòng với tinh thần: "không được rơi vào âm mưu khiêu khích có thể gây ra những rắc rối lớn". Ngoài những biện pháp đề phòng, bức điện hỏa tốc lúc 2 giờ 30 phút sáng 22 tháng 6 được truyền đến các quân khu biên giới phía Tây còn quy định: "Không có lệnh đặc biệt, không được tiến hành bất kỳ biện pháp nào khác".

***

Vào 3 giờ 30 phút sáng, ngày 22-6-1941, không một lời tuyên chiến, phát xít Đức bất ngờ nổ súng, ào ạt tấn công trên khắp biên giới phía tây Liên Xô, từ biển Đen đến biển Bantích.
Toàn thế giới nín thở, tuyệt đại đa số lo âu nhưng không ít chính khách tư bản khấp khởi!
Trước đó, ngày 12-5-1941, Bộ chỉ huy tối cao Đức đã đề ra chỉ thị cho sĩ quan và binh lính Đức như sau:
“Hãy nhớ và thực hiện:
- Không có thần kinh, trái tim và sự thương xót - anh được chế tạo từ sắt, thép Đức…
- Hãy tiêu diệt trong mình mọi sự thương xót và đau khổ, hãy giết bất kỳ người Nga nào và không được dừng lại dù trước mặt anh là ông già hay phụ nữ, con gái hay con trai.
- Chúng ta phải bắt thế giới đầu hàng… anh là người Đức, và là người Đức thì phải tiêu diệt mọi sự sống cản trở con đường của anh”.
Ngay từ ngày đầu, phát xít Đức đã làm chủ bầu trời bằng cuộc tập kích không quân vào các sân bay nằm trong vùng phía tây Liên Xô, gây thiệt hại ghê gớm, tạo điều kiện cho lực lượng mặt đất  của chúng tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Cuộc tiến công đã ít nhiều gây ra bất ngờ đối với Nhà nước Xô Viết.

Đêm 22/6/1941, phát xít Đức bắt đầu vượt sông Bug, các cuộc đụng độ quyết liệt đã diễn ra gần thành phố Brest tại Belarus.
Dù trong tình thế chịu bất lợi to lớn về nhiều mặt, nhưng lực lượng vùng biên giới của Hồng quân đã chống cự quyết liệt và anh dũng. Một trong những tấm gương tiêu biểu là cuộc chiến đấu ở pháo đài Brét. Các chiến sĩ Xôviết, dưới sự chỉ huy của Chính ủy Trung đoàn bậc 1 Efim Fomin, người lãnh đạo cao nhất cuộc phòng thủ của Quân đội Liên Xô tại pháo đài Brest, đã ngoan cường cố thủ trong pháo đài từ những giờ phút đầu chiến tranh đến tận cuối tháng 7-1941, khi mặt trận đã lùi xa hàng trăm km về phía đông.
Từ khi khánh thành vào mùa hè năm 1842 đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất, pháo đài Brest được coi là một trong các căn cứ quân sự có tính năng phòng thủ rất mạnh như các pháo đài khác. Với thành lũy dày, nhiều lớp, có pháo binh riêng bảo vệ, pháo đài chỉ cần một đội quân không lớn vẫn có thể tiêu hao nặng nề các đội quân tấn công nó đông hơn gấp nhiều lần. Tuy nhiên, đến khi đại bác nòng rãnh xoắn ra đời với các loại đạn có sức công phá lớn thì pháo đài không còn là thành trì bất khả xâm phạm. Đặc biệt, khi máy bay ném bom ra đời thì pháo đài mất đi rất nhiều khả năng tự bảo vệ. Vào thời đại mới, các cường quốc quân sự đưa ra trận những quân đội đông hàng triệu người, có đầy đủ vũ khí nặng hiện đại như xe tăng, máy bay, đại bác cỡ lớn thì pháo đài hoàn toàn trở nên lỗi thời. Đối phương có thể đi vòng qua pháo đài để tiếp tục tiến công và chỉ để lại một đội quân nhỏ bao vây và vô hiệu hóa nó. Ngoài ra, pháo đài còn có thể trở thành nơi tập trung đông quân nhưng địa bàn tác chiến hẹp, dễ bị đối phương cô lập và tiêu diệt một số lượng lớn sinh lực bằng các loại hỏa lực hiện đại. Do gắn với phương thức phòng thủ thụ động, tại chỗ, pháo đài không còn phù hợp với các cuộc chiến tranh hiện đại với phương thức vận động chiến, phòng thủ cơ động và phòng thủ theo chiến tuyến nhiều lớp được áp dụng phổ biến.


                        Cung điện trắng, trung tâm Pháo đài Brest (ảnh chụp năm 1915)
Mặc dù không còn tác dụng phòng thủ mạnh mẽ như trước đây nhưng Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô vẫn đặt Pháo đài Brest vào kế hoạch phòng thủ biên giới và coi nó như một khu phòng ngự kiên cố của Quân khu đặc biệt miền Tây. Đây là nơi huấn luyện quân sự cho tân binh của các đơn vị thuộc tập đoàn quân 4, cũng là nơi thực hành các cuộc diễn tập quân sự đồng thời là căn cứ hậu cần, quân y tiền phương. Bản thân pháo đài và 5 đồn phòng thủ xung quanh pháo đài cũng được gấp rút củng cố để trở thành khu phòng thủ vững chắc. Tuy nhiên, Quân khu đặc biệt miền Tây không kịp hoàn thành kế hoạch này. Các công trình quân sự mới chỉ được bắt đầu đổ móng thì chiến tranh đã nổ ra.
Quân Đức lập kế hoạch đánh chiếm khu vực Brest và pháo đài Brest, vốn nằm trên đường hành tiến của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm trong những giờ đấu tiên của Chiến dịch Barbarossa. Pháo đài và thành phố Brest án ngữ con đường băng qua sông Tây Bug cũng như tuyến đường bộ và đường sắt Warsaw–Moskva. Ngoài ý nghĩa đánh chiếm một căn cứ quân sự tiền tiêu (cho dù không thật sự quan trọng), việc hạ pháo đài Brest còn có một ý nghĩa tâm lý để động viên tinh thần của quân đội Đức Quốc xã.
Do tính bất ngờ tuyệt đối của cuộc tấn công từ phía quân Đức, quân đội Liên Xô trong pháo đài không hề có một kế hoạch phòng thủ từ đầu. Chỉ đến ngày thứ ba của cuộc chiến đấu (ngày 24 tháng 6), họ mới có được một ý đồ phòng thủ khái lược thông qua bản "Mệnh lệnh số 1" do Ban chỉ huy đội quân hợp nhất của pháo đài công bố. Tuy nhiên, do không có những tin tức chính xác về tình hình mặt trận, tình hình quân đội Liên Xô và quân đội Đức nên bản mệnh lệnh này chứa đựng quá nhiều yếu tố cảm tính, nó giống một lời kêu gọi hơn là một kế hoạch tác chiến. Cũng chỉ đến ngày 24 tháng 6, các sĩ quan chỉ huy có mặt tại pháo đài mới lập được danh sách các chiến sĩ và phiên chế thành các trung đội chiến đấu và danh sách đó còn tiếp tục dài ra do ngày càng có nhiều quân nhân lạc ngũ đến nhập vào đội quân hợp nhất.


Chính ủy Trung đoàn bậc 1 Efim Fomin, người lãnh đạo cao nhất cuộc phòng thủ của Quân đội Liên Xô tại pháo đài Brest

Lúc 3 giờ 15 phút rạng sáng 22 tháng 6 (theo giờ châu Âu, tức 4 giờ 15 phút giờ Moskva), một trận cuồng phong của bom và đạn đại bác từ bên kia biên giới chụp lên pháo đài. Theo kết quả ban đầu, nhà kho bị phá hủy, nguồn cung cấp nước bị cắt đứt, liên lạc bị gián đoạn, quân đồn trú Liên Xô bị thiệt hại lớn. Lúc 3 giờ 45 phút, các cuộc tấn công bắt đầu. Tính chất bất ngờ của cuộc chiến đã làm cho quân đội Liên Xô phòng thủ tại pháo đài không kịp tổ chức phối hợp các đơn vị và họ bị chia cắt thành các ổ đề kháng biệt lập. Cuộc chống cự diễn ra ác liệt nhất tại khu vực cổng Terespolsky, quân lính Xô Viết núp trong các ô cửa sổ của pháo đài, chờ những tốp lính Đức tới gần, sau đó dùng báng súng, lưỡi lê và cả những chiếc ghế gãy, ván gỗ khô, đánh giáp lá cà. Tại đây, lưỡi lê và báng súng đã làm nốt những việc mà đạn không thể làm được. Tại khu vực cổng Kobrin, quân đội Liên Xô chống cự có tổ chức hơn. Kháng cự xảy ra yếu nhất trong khu Volyn trên đảo Nam, nơi đây chỉ có một bệnh viện cùng với đội bảo vệ nhỏ.
Vì quá nửa quân số cùng với phần lớn vũ khí nặng của đội quân đồn trú Liên Xô đang ở rải rác trên các cánh đồng và khu rừng cách xa pháo đài và không có cách gì để liên lạc với họ nên đến 9 giờ sáng, khoảng 3.500 đến 4.000 người bao gồm cả sĩ quan, binh sĩ và thường dân Liên Xô đã bị bao vây tại pháo đài. Quân đội Đức Quốc xã đã chiếm cây cầu trước cổng Terespolsky và dùng con đường này để đột nhập và đánh chiếm pháo đài, đánh chiếm gác chuông nhà thờ cũ (đã trở thành câu lạc bộ) và dùng hỏa lực súng máy kiểm soát toàn bộ khu vực quảng trường trong pháo đài. Tuy nhiên, đến 13 giờ thì quân đồn trú chuyển sang phản công, đánh bại những nỗ lực của quân Đức, chiếm lại các cổng Kholm nối với cổng Kobrin và cổng Brest nối với khu công sự hình móng ngựa mà người Nga vẫn quen gọi là Đồn Đông. Sau đó, quân đồn trú chiếm lại nhà thờ và phá hủy hỏa điểm của quân Đức trên gác chuông, quân Đức chỉ có thể chiếm được một số vị trí trong khu vực thành nội. Tại khu Doanh trại Tiểu đoàn 132 Bộ nội vụ, một số lính Đức cải trang thành binh sĩ Liên Xô nhằm làm gián đoạn hệ thống chỉ huy, nhưng không qua mắt được họ, nhiều cuộc tấn công của quân Đức bị đập tan, nhưng phía Liên Xô cũng bị thương vong khá nhiều. Tính đến ngày 23/6, chỉ còn khoảng 18 binh sĩ Liên Xô trong doanh trại còn khả năng chiến đấu, chỉ huy Bộ nội vụ-Trung úy Weinstein, đã tự sát bằng khẩu súng lục của mình ngay khi quân Đức tràn vào trung tâm, toàn bộ lực lượng đồn trú chiến đấu đến cùng với quân Đức và hầu như tất cả đều nằm lại trận địa.


Đại úy Zhubachev, một trong những chỉ huy Liên Xô tổ chức phòng thủ tại khu vực thành nội

Tiếp đó là những trận đánh ác liệt kéo dài tại khu vực biên giới, tại thành phố Brest và cả tại pháo đài Brest. Đợt tấn công đầu tiên của quân Đức kéo dài nửa giờ và diễn ra ngay sau đợt oanh kích; lực lượng Hồng quân phòng thủ tại khu vực Brest đã không kịp hình thành một tuyến phòng thủ rắn chắc chống lại quân Đức và bị quân Đức chia cắt thành từng cụm phòng thủ riêng lẻ; trong đó cụm phòng thủ mạnh nhất chính là lực lượng đồn trú trong pháo đài Brest. Một phần lực lượng Xô Viết đã thành công trong việc thoát khỏi vòng vây của quân Đức, nhưng phần lớn thì không được may mắn như vậy và họ đã phải chiến đấu gian khổ giữa vòng vây của kẻ thù. Tuy nhiên, bất chấp ưu thế về yếu tố bất ngờ, về hỏa lực, về trang bị và về quân số, người Đức đã không thể nào nhanh chóng hạ gục pháo đài Brest như dự tính và họ buộc phải chuyển sang bao vây lâu dài. Ngày 30 tháng 6 năm 1941, chỉ huy sư đoàn bộ binh số 45 Đức, tướng Fritz Schlieper đã viết một bản tường trình với Bộ Tổng tư lệnh tối cao của quân đội phát xít Đức về cuộc chiến đấu xung quanh pháo đài, báo cáo nêu rõ:

Mặc dù đã chịu những đòn choáng váng sau đợt tấn công ồ ạt và bất ngờ của một đối thủ hoàn toàn áp đảo về trang bị và quân số, mặc dù đã bị vây chặt và hoàn toàn bị cắt đứt khỏi bất cứ nguồn tiếp tế nào từ nên ngoài, lực lượng Hồng quân tại pháo đài Brest vẫn chiến đấu kiên cường và liên tục tung những đòn phản công vào đối thủ. Họ kháng cự bền bỉ, mạnh mẽ và lâu dài hơn người Đức dự tính. Quân Đức đã sử dụng đủ mọi biện pháp, từ những khẩu pháo hạng nặng, pháo phản lực 150 ly Nebelwerfer 41, hơi ngạt và súng phun lửa nhưng không thể nào bẻ gãy sức kháng cự của Hồng quân trong pháo đài Brest. Người dân sống trong pháo đài cũng tham gia cứu chữa những người bị thương, nạp đạn cho các khẩu súng máy và thậm chí cầm súng cùng chiến đấu với lực lượng phòng thủ pháo đài. Trẻ em thì tham gia tải đạn, thu nhặt lương thực, thực phẩm từ những kho quân nhu đã bị bắn phá tan tành bởi đại bác Đức; kiếm tìm và thu lượm vũ khí, đạn dược; tham gia trinh sát động tĩnh của kẻ thù.

 Пётр Михайлович Гаврилов.jpg
Pyotr Mikhaylovich Gavrilov, ảnh chụp năm 1941
Thiếu tá Piotr Mikhailovich Gavrilov, một trong các sĩ quan Liên Xô chỉ huy phòng thủ pháo đài Brest, trực tiếp chỉ huy khu phòng thủ Đồn Đông

Fritz Schlieper đã viết trong bản tường trình của ông ta như sau:
Tối 24 tháng 6, sư đoàn 45 (Đức) dùng lực lượng biệt kích bất ngờ đột nhập đánh chiếm khu Volyn trên đảo Nam, đánh úp và chiếm cổng Terespolsky, dồn quân số phòng thủ còn lại của quân đội Liên Xô về phía cổng Kobrin. Những nhóm binh sĩ Liên Xô từ đảo Tây và đảo Nam đã lợi dụng đêm tối vượt qua tường thành vào bên trong pháo đài cũng nhập vào nhóm này. Đêm 24 tháng 6, những người bảo vệ pháo đài đã bầu ra Ban chỉ huy lâm thời của họ gồm đại uý Ivan Nikolayevich Zubachyov, trung đoàn phó trung đoàn 42, chính ủy trung đoàn Yevim Moiseevich Fomin, thượng úy Alexandr Inanovich Semenenko, tham mưu phó trung đoàn 44, trung úy Anatoli Alexandrovich Vinogradov, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 5, trung đoàn bộ binh 84. Để phối hợp hành động của các nhóm phòng thủ này, trong đêm 24 tháng 6, tại Sở chỉ huy phòng thủ lâm thời đặt dưới hầm nhà doanh trại của trung đoàn 44, Ban chỉ huy lâm thời đã soạn thảo và công bố bản "Mệnh lệnh số 1" yêu cầu các sĩ quan thu thập các binh sĩ vào danh sách, biên chế thành các trung đội và phân công các vị trí phòng thủ.
Ngày 26 tháng 6, phát xít Đức đã làm chủ một phần pháo đài Brest, nhưng lực lượng Hồng quân còn lại trong pháo đài vẫn liên kết được với nhau dưới sự chỉ huy của đại uý Ivan Zubachyov và người phó chỉ huy của ông, chính ủy Yevim Moiseevich Fomin. Trong ngày hôm đó, lực lượng Hồng quân đồn trú trong pháo đài Brest tiếp tục đẩy lùi các đợt tiến công của quân Đức, khi đêm xuống đã tổ chức một cuộc phá vây nhưng không thành công và chịu tổn thất nặng. Ngày 27 tháng 6, sau một tuần kể từ ngày mở đợt công kích đầu tiên, quân Đức bắt đầu sử dụng khẩu pháo cỡ nòng 540 ly (bắn những viên đạn nặng tới 1,25 tấn) và hai khẩu pháo 600 ly nhãn hiệu Karl-Gerät (sử dụng đạn chuyên phá bê tông, nặng tới 2 tấn). Những viên đạn từ khẩu pháo 600 ly tạo ra những hố đạn khổng lồ rộng tới 30 mét cùng những thương tổn khủng khiếp cho những người lính Hồng quân chịu phải áp lực của vụ nổ do phát bắn gây ra, thậm chí những người lính nấp sâu trong pháo đài cũng bị rách phổi trước áp lực của nó. Trong các ngày 29 và 30 tháng 6 năm 1941, quân đội Đức Quốc xã mở một đợt tấn công với quy mô lớn, chọc thủng phòng tuyến của Hồng quân trong pháo đài và bắt sống cả Zubachov lẫn Fomin. Zubachov bị tống vào một trại tập trung dành riêng để tiêu diệt các tù nhân của Liên Xô trong cuộc chiến tranh theo chính sách diệt chủng của Đức Quốc xã đối với Liên Xô trong chiến tranh. Ông đã mất tại trại tập trung Hammensburg năm 1944 và được mai táng tại đó. Còn Fomin thì bị tố giác bởi một tên phản bội và bị xử bắn ngay lập tức tại cổng Kholm vì ông là một chính ủy và là một người Do Thái.
Thiếu tá Chaplain Rudolf Gschöpf, sĩ quan tác chiến thuộc Ban tham mưu sư đoàn bộ binh 45 (Đức) viết:

Trong ngày 22 tháng 6, sau những đòn tấn công bằng hỏa lực pháo và bom, quân Đức đã tiến qua cổng Brest và chia cắt Đồn Đông với khu vực thành nội của pháo đài. Một nhóm binh sĩ Liên Xô gồm khoảng 400 người đóng tại Đồn Đông (mà người Đức vẫn gọi là khu công sự hình móng ngựa) cũng đã thống nhất hành động phòng thủ dưới sự chỉ huy của thiếu tá Piotr Mikhailovich Gavrilov, trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh 42 và đại úy Konstantin Kasatkin phó ban tham mưu trung đoàn.


                                 Những người lính Đức ở Pháo đài vào tháng 7 năm 1941
Ban đầu, nhóm của Gavrilov chỉ có khoảng trên dưới 30 người, họ đã tìm thấy hơn 300 binh sĩ của mình đang tụ tập trong các hầm kho tại Đồn Đông, vốn là vị trí đóng quân trước đây của tiểu đoàn cao xạ độc lập 393. Tiểu đoàn này đã rời pháo đài ngày 15 tháng 6 đi diễn tập dã ngoại và chỉ để lại đây một khẩu cao xạ 40 mm đã bị hỏng máy ngắm và một khẩu súng máy bốn nòng nhưng chỉ còn hai nòng hoạt động được, ngoài ra còn có một khẩu pháo chống tăng 40 mm bố trí ở phía Đông Bắc của đồn. Là người có cấp hàm cao nhất trong nhóm sĩ quan, Gavrilov lãnh trách nhiệm chỉ huy toán quân này theo điều lệnh và cả trên thực tế. Konstantin Kasatkin được chỉ định làm tham mưu trưởng. Ngày 23 tháng 6, bằng các chai cháy và lựu đạn phối hợp với súng máy và khẩu cao xạ, quân của Gavrilov đã đẩy lùi các đợt tấn công của quân Đức và hạ gục ba chiếc xe tăng, nhưng ngay trong phút đầu khẩu đội chống tăng 40 mm đã bị xe tăng Đức phá hủy trước khi nó kịp khai hỏa. Ngày 25 tháng 6, trong một trận ném bom của không quân Đức xuống Đồn Đông, hai khẩu cao xạ bị phá huỷ, kho đạn cũng trúng bom và nổ tung. Đại đội chiến đấu ở phía Tây bị bộ binh Đức chia cắt. Hai đại đội còn lại bị hao hụt quân số nghiêm trọng. Bộ binh Đức đã vây kín đồn nhưng vẫn không vào được bên trong sân móng ngựa do khu vực này bị hỏa lực súng máy không chế.
Để hạn chế thiệt hại về nhân mạng cho binh lính của mình, các sĩ quan tham mưu sư đoàn bộ binh 45 (Đức) quyết định gọi không quân giúp sức. Nhật ký của Chaplain Rudolf Gschöpf viết:

Sau 6 ngày chiến đấu liên tục, đạn dược gần như chỉ còn tính từng viên, lương thực hết, nước cạn, sức chiến đấu của toán quân giảm sút rõ rệt. Gavrilov ra lệnh cho phụ nữ và trẻ em ra hàng quân đội Đức. Các sĩ quan và binh sĩ Liên Xô còn sống sót tiếp tục ở lại chiến đấu. Ngày 29 tháng 6, các chỉ huy sư đoàn 45 (Đức) gửi tối hậu thư yêu cầu nhóm của Gavrilov hạ vũ khí đầu hàng, giao nộp chỉ huy và chính uỷ, nếu không, quân Đức sẽ "trộn lẫn cả đồn cùng đội quân trú phòng ngoan cố với đất". Tuy nhiên, phía quân Đức chỉ nhận được những tràng đạn súng máy đáp trả.
Nhật ký của Chaplain Rudolf Gschöpf viết tiếp:

Đồn Đông thất thủ sáng ngày 1 tháng 7 nhưng thiếu tá Gavrilov không chết. Sau ba ngày ẩn mình trong một ngách hầm, ông đã luồn qua các ngăn hầm khác và tìm được 12 binh sĩ còn trụ lại ở lũy ngoài. Nhóm này đã hai lần phá vây về phía khu rừng Belovezha nhưng đều không thành công và thương vong gần hết. Ngày 23 tháng 7, thiếu tá Gavrilov đã cùng hai binh sĩ còn lại chiến đấu trận cuối cùng trước khi bị quân Đức bắt làm tù binh khi đang bị thương bất tỉnh.
Bản báo cáo ngày 30 tháng 6 năm 1941 của sư đoàn bộ binh 45 (Đức) sau trận đánh có đoạn viết: "Sư đoàn đã bắt sống 7.000 tù binh, trong đó có 100 sĩ quan. Thiệt hại của quân Đức là 482 người chết, trong đó có 32 sĩ quan, và trên 1 nghìn người bị thương." Thiệt hại của quân Đức tại Brest có thể được so sánh với thiệt hại chung của quân đội phát xít tại mặt trận Xô-Đức: 8.886 người chết tính đến ngày 30 tháng 6 năm 1941. Như vậy là có đến 5% thiệt hại của quân Đức tính đến thời điểm đó là do trận đánh tại pháo đài Brest gây ra.


Dòng chữ được binh sĩ Liên Xô khắc lên tường "Tôi chết nhưng không đầu hàng. Vĩnh biệt Tổ Quốc. 20-VII-1941" được trưng bày tại Bảo tàng Pháo đài Brest

Sau chín ngày chiến đấu ác liệt, Quân đội Đức Quốc xã cuối cùng đã làm chủ phần lớn pháo đài. Điều này có nghĩa là mục tiêu chiến lược của Sư đoàn 45 đã hoàn thành mặc dù họ đã tốn quá nhiều thời gian so với dự tính và cái giá phải trả về nhân mạng là không nhỏ.
Nhưng, nói cho đúng ra, trận chiến tại pháo đài Brest vẫn chưa kết thúc vào ngày 30 tháng 6. Mặc dù lúc đó pháo đài đã bị quân Đức chiếm đóng, trong những hầm ngầm của pháo đài vẫn còn những chiến sĩ Hồng quân sống sót, và, họ vẫn tiếp tục cuộc chiến đấu dai dẳng chống lại quân xâm lược trong suốt mấy tuần nữa. Chiến sự vẫn tiếp tục diễn ra tại các ổ đề kháng đã bị cô lập của Hồng quân, chủ yếu là trong các hầm ngầm, các nhà ngục thời cổ, trong pháo đài và trong công sự Kobrin. Từ cuối tháng Sáu đến tận cuối tháng Bảy, tiếng súng vẫn còn vang vọng trong các hầm ngầm và các nhà ngục đã bị bắn phá tan tành, với những nhóm nhỏ binh sĩ đồn trú trong đó. Cho đến lúc này, mặt trận đã vào sâu trong lãnh thổ Liên Xô đến 300 dặm (480 km). Về sau, người ta đã tìm thấy những hàng chữ được khắc trên tường bởi các chiến sĩ Hồng quân cuối cùng còn tử thủ ở Brest.
Trên tường của căn chòi của thợ máy chiếu phim tại câu lạc bộ (vốn là nhà thờ cũ) trong sân chính của pháo đài còn lưu lại dòng chữ:
Trên bức tường khu doanh trại phía Tây có một hàng chữ:
Thiếu tá Pyotr Mikhailovish Gavrilov, một trong những chiến sĩ trấn giữ pháo đài Brest nổi tiếng nhất và sau này được phong Anh hùng Liên Xô đã bị bắt vào ngày 23 tháng 7 năm 1941 trong tình trạng dở sống dở chết. Ông đã bắn đến viên đạn cuối cùng trong khẩu TT mà không dành cho mình viên nào. Phát xít Đức đã quẳng ông vào trại tập trung Hammensburg. Nhưng dưới sự đùm bọc của các đồng đội ông đã sống sót và được quân đội Liên Xô giải phóng khỏi địa ngục trần gian đó vào tháng 4 năm 1945.
Các báo cáo của phía Đức nói rằng những ổ đề kháng của Hồng quân đã bị tiêu diệt khi hai nhà lãnh đạo Hitler và Mussolini đến thăm pháo đài Brest, tất nhiên là dưới sự canh gác và bảo vệ nghiêm ngặt để để phòng các chiến sĩ Hồng quân còn sống sót sẽ ám sát họ. Người ta nói rằng Hitler đã nhặt một viên đá trong đống gạch vụn của pháo đài làm kỷ niệm và viên đá này được tìm thấy tại Tổng hành dinh của Đệ tam Đế chế sau chiến tranh thế giới thứ hai. Để thanh toán toàn bộ những ổ đề kháng của Hồng quân trong pháo đài Brest, Bộ Tổng tư lệnh Tối cao của quân đội phát xít Đức đã hạ lệnh tháo nước sông Tây Bug vào pháo đài để dìm chết những chiến sĩ Hồng quân vẫn còn ẩn nấp và tiếp tục chiến đấu dưới các hầm ngầm của pháo đài.
Ngày 25 tháng 7, hiệu thính viên K. I. Korshakov thuộc sư đoàn bộ binh 262 thuộc Phương diện quân Tây Nam đóng tại Staraya - Russia đã tình cờ nhận được bức điện cuối cùng được phát không mã từ Pháo đài Brest:

Thực chất sự kháng cự kiên cường của lực lượng đồn trú trong pháo đài Brest không gây ra nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đến bước tiến của Quân đội Đức Quốc xã trong thời gian đầu của cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, căn cứ vào việc quân Đức đã để mặc pháo đài Brest nằm phía sau tiền tuyến sau một tuần tấn công và đánh chiếm nó. Tuy nhiên, Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Liên Xô đã nhận thức được tầm quan trọng của sự kháng cự quyết liệt của quân đội và nhân dân Liên Xô trước sức tấn công của quân phát xít xâm lược và đã lưu ý đến cuộc phòng thủ này vào tháng 11 khi nhận được báo cáo tình báo từ hậu tuyến của quân Đức chuyển về.


                                    Bảo tàng về trận phòng thủ pháo đài Brest, phòng số 6

(Có điều là, cuộc chiến đấu anh hùng của các chiến sĩ pháo đài Brest không được phổ biến rộng rãi cho đến khi lãnh tụ I. V. Stalin qua đời. Sau chiến tranh, những chiến sĩ Hồng quân còn sống sót trong các trại tập trung của phát xít Đức lại bị cơ quan NKVD của Beria gán cho tội "làm phản", "cộng tác với địch" và phải chịu cảnh đày ải trong các trại tập trung "vì lý do họ đã bị quân thù bắt làm tù binh" (theo Chỉ thị số 270). Thật là ác! Sau khi Stalin chết, các chiến sĩ bảo vệ pháo đài Brest cuối cùng đã được trả tự do và được vinh danh. Ngày 22 tháng 6 năm 1956, Trong dịp kỷ niệm 15 năm ngày bắt đầu cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, cơ quan truyền thông chính thức của Liên Xô cho rằng những người lính Xô Viết bảo vệ pháo đài Brest là điển hình của chủ nghĩa anh hùng và tổ chức cuộc phòng thủ pháo đài trong vòng một tháng, trong vòng vây của quân Đức. Tuy nhiên, ở thời điểm đó, dư luận phương Tây cho rằng đây chỉ là chuyện tưởng tượng. Đến nay, người Nga đã chứng minh được sự thật lịch sử và vẫn giữ quan điểm của mình. Trong một bài viết của Tatyana Shvetsova cho đài phát thanh Tiếng nói của nước Nga về chủ đề này vẫn khẳng định: "Ngay cả sau khi chiến đấu trong vòng một tháng, pháo đài Brest vẫn tiếp tục kháng cự, đã giam chân một bộ phận đáng kể lực lượng của kẻ thù và làm cho chúng mệt mỏi."
Lần đầu tiên, cuộc phòng thủ của Pháo đài Brest được biết đến trong báo cáo của sư đoàn bộ binh 45 gửi Bộ tư lệnh Tập đoàn quân 4 (Đức) mà một trong các bản sao của nó bị quân đội Liên Xô thu giữ trong đống giấy tờ hỗn độn tại kho văn khố sư đoàn bị bỏ lại trong thành phố Livny tháng 2 năm 1942. Vào cuối thập niên 1940, rải rác trên các tờ báo Xô Viết đã xuất hiện một số bài viết đầu tiên về cuộc phòng thủ Pháo đài Brest nhưng thường là các tin tức không xác minh được. Năm 1951, trong khi phân tích các mảnh vỡ tại các cổng trại của Brest, người ta đã được tìm thấy bản "Mệnh lệnh số 1" và cho đến nay, đây là văn kiện viết tay duy nhất bằng tiếng Nga về cuộc phòng thủ này được soạn thảo vào thời điểm đó và còn lưu giữ được. Năm 1957, nhà báo, nhà sử học Liên Xô Sergei Sergeyevich Smirnov sau nhiều cuộc điều tra đã công bố tác phẩm Pháo đài Brest viết về cuộc chiến tại pháo đài Brest. Smirnov đã điều tra về số phận của những chiến sĩ Hồng quân bảo vệ pháo đài, về những người đã ngã xuống ngoài chiến trường, về những người đã chết trong trại tập trung của phát xít Đức, về những người còn sống sót sau chiến tranh.
Bảo tàng về trận pháo đài Brest đã chính thức hoạt động vào năm 1956, trong khi đó Khu tưởng niệm Pháo đài Anh hùng Brest chính thức hoạt động vào năm 1971. Ngày 8 tháng 5 năm 1965, pháo đài Brest được phong tặng danh hiệu Pháo đài Anh hùng nhân kỷ niệm 20 năm ngày phát xít Đức đầu hàng và được tặng thưởng Huân chương Lenin.) 
 Pháo đài Brét đã trở thành biểu tượng về tinh thần bất khuất, kiên cường và tình yêu tổ quốc vô song của Hồng quân Liên Xô nói riêng cũng như của nhân dân Liên Xô nói chung!


                                       Đài tưởng niệm cuộc phòng thủ pháo đài Brest
 
                                          ***
Với mục đích kìm chân địch càng lâu càng tốt trên các tuyến phòng ngự để tranh thủ thời gian đưa lực lượng từ phía sau tới, thành lập thêm lực lượng dự bị, di tản các mục tiêu công nghiệp vào sâu trong nước và chuyển hướng sản xuất công nghiệp sang phục vụ nhu cầu chiến tranh, Hồng quân Liên Xô đã phải chiến đấu trong tình thế vô cùng gay go trước một lực lượng quân Đức hoàn toàn áp đảo và đang giữ quyền chủ động chiến lược.

Người dân Nga trên đường sơ tán
Trước một cố gắng giành lại chủ động chiến lược và phòng ngự tích cực, từ ngày 23-6 đến ngày 29-6, các quân đoàn cơ giới của ba phương diện quân Liên Xô đã thực hiện nhiều trận phản công lớn trên nhiều địa bàn. Một trận tao ngộ chiến bằng xe tăng rất lớn đã diễn ra ở miền tây - Ucraina, khoảng giữa hai thành phố Brôda và Đúpnô. Tại đây, 4 quân đoàn cơ giới của Hồng quân đã phản kích cụm xe tăng số 1 của phát xít Đức. Quân đoàn cơ giới số 8 của Hồng quân, sau khi vượt 400 km hành quân, đã tổ chức tiến công thọc sâu vào phía sau đội hình xe tăng địch; gây ra những tổn thất và buộc chúng phải dừng lại. Tuy vậy, trong tình hình chung còn rất bất lợi, cùng những thiếu sót trong chỉ huy và thiếu sự yểm trợ của không quân đã làm cho trận phản kích ấy cũng như những trận phản kích khác kết thúc không thắng lợi, dù có gây cho quân Đức những thiệt hại đáng kể.
Trước những đòn đột kích lớn của quân Đức đã phát triển vào sâu trong đất nước, Hồng quân, sau khi đã phải chịu những hy sinh, tổn thất nặng nề và để tránh bị bao vây tiêu diệt, đã phải rút lui trên toàn mặt trận. Ở hướng tây - bắc, Hồng quân phải rút về tuyến tây - Đơrina, nhưng cũng không giữ được, đành phải tiếp tục rút lui. Quân Đức đông hơn đã xâm nhập vùng Lêningrát. Ở hướng tây (chính diện), đến ngày 29-6, quân Đức đã hợp điểm được ở khu vực Minscơ. Nhiều đơn vị Hồng quân bị vây, vừa mở đường máu vượt thoát, vừa tiếp tục chiến đấu ngoan cường đến ngày 8-7. Họ đã kìm chân được bộ binh Đức, tạo thời gian cho các lực lượng dự bị của Hồng quân từ phía sau lên, tổ chức phòng ngự ở tuyến sông Đơnhiép. Ở hướng tây - nam, Hồng quân vừa tác chiến vừa rút lui về tuyến phòng ngự đã được củng cố, dọc theo biên giới quốc gia cũ (trước năm 1939). Tuy vậy Hồng quân cũng không giữ nổi tuyến này. Cụm xe tăng số 1 của quân Đức đã chọc thủng phòng tuyến, tiến đến sát cửa ngõ thành phố Kiép mới bị chặn lại.

Các xạ thủ súng máy. (Nguồn: Sputniknews)
Đến giữa tháng 7-1941, chiến cục biên giới coi như kết thúc. Mặt trận đã di chuyển từ biên giới phía tây về phía đông, vào sâu trong lãnh thổ Liên Xô từ 350 km đến 600 km. Tuy nhiên nước Đức phát xít đã phải trả một cái giá không rẻ: trong 22 ngày chiến đấu đã có 92 ngàn quân chết và bị thương, một nửa số xe tăng và một số lớn máy bay bị phá hủy, nguy cơ phá sản rõ ràng của “chiến tranh chớp nhoáng”, và nghiêm trọng hơn cả, theo như nhận định của đảng Cộng sản Liên Xô sau này là: “ngay từ thời kỳ đầu chiến tranh đã cho thấy việc phiêu lưu quân sự của nước Đức phát xít nhất định sẽ đi đến thất bại”.
Trái lại, Bộ chỉ huy Đức cho rằng từ thời điểm quân Đức tiến được đến sông Đơnhiép, các lực lượng chủ yếu của Hồng quân đã bị đập tan và nhiệm vụ chủ yếu của cuộc chiến tranh chống Liên Xô đã được giải quyết. Đánh giá tình hình như vậy nên Tổng hành dinh Đức đã giao nhiệm vụ cho các cụm tập đoàn quân:
- Cụm tập đoàn quân “Bắc” tiếp tục tấn công vào Lêningrát.
- Cụm tập đoàn quân “Trung Tâm” bao vây và tiêu diệt Hồng quân trong khu vực Xmôlenscơ.
- Cụm tập đoàn quân “Nam” tổ chức bao vây Hồng quân ở hữu ngạn Ucraina và dùng một phần lực lượng phát triển tấn công vào Kiép.
Đại bản doanh của Bộ tổng tư lệnh tối cao Hồng quân Liên Xô (gọi tắt là Đại bản doanh; được thành lập ngày 29-6-1941) đã tổ chức triển khai nhanh chóng các lực lượng dự bị chiến lược ở những hướng bị uy hiếp, tạo ra một chiều sâu phòng thủ thích hợp, và sau khi xác định hướng chính là phía tây, đã tập trung ở đó những lực lượng dự bị chủ yếu. Ở cửa ngõ tiến vào Mátxcơva đã bắt đầu xây dựng tuyến phòng ngự Môgiaixki gồm 3 tập đoàn quân.
Cuộc chiến đấu tiếp tục sôi nổi và ác liệt ở trên cả 3 hướng phòng thủ: tây - bắc, tây và tây - nam. Nhưng diễn biến ở hướng tây là đặc biệt quan trọng.
Tại hướng tây, từ ngày 10-7 đến ngày 10-9-1941, đã diễn ra trận đánh lớn nhất của thời kỳ đầu chiến tranh ở Xmôlenxcơ. Khi bắt đầu trận đánh, lực lượng quân Đức trội hơn lực lượng Hồng quân về người là gần 2 lần, về đại bác và súng cối là hơn 2,4 lần, về máy bay là hơn 4 lần.
Chien tranh Ve quoc vi dai qua anh-Hinh-9
           Nhiều tình nguyện viên tới đăng ký nhập ngũ ở Văn phòng tuyển quân Oktyabrsky năm 1941
Trong thời gian từ ngày 10-7 đến ngày 20-7, với những cụm tập đoàn xe tăng mạnh, tập trung trên những địa đoạn hẹp của chính diện, được sự yểm trợ dày đặc của không quân, quân Đức đã đột phá sâu vài nơi. Quân đoàn 20 của Hồng quân đang phòng ngự “cửa ngõ Xmôlenxcơ” (giữa hai con sông Tây - Đơvina và Đơnhiép) có nguy cơ bị bao vây. Cụm xe tăng số 3 của quân Đức đã thực hiện được việc đánh vòng từ phía bắc vào hậu phương của lực lượng phòng thủ xô viết, tới tận Iaxêvô và cắt đứt trục đường sắt quan trọng nhất, cắt đứt xa lộ Minscơ - Mátxcơva. Ở phía nam, cụm xe tăng số 2 của quân Đức đã đột phá tới ngoại vi Xmôlenscơ vào ngày 16-7. Ở cánh phải của đội hình phòng ngự Hồng quân, quân Đức đã buộc tập đoàn quân số 22 Liên Xô phải rút về Veliki; ở cánh trái, chúng cũng đã chiếm được Ennhia, tạo được bàn đạp tiến về phía đông, tấn công Mátxcơva.
Hồng quân Liên Xô thuộc phương diện quân phía tây đã phải gồng mình chịu đựng những đòn tiến công mãnh liệt của quân Đức. Tuy nhiên họ đã không thụ động mà luôn phòng ngự tích cực bằng việc liên tục tổ chức những đòn phản kích và phản đột kích. Nhằm làm giãn lực lượng địch ở hướng chính Xmôlenscơ, tập đoàn quân 21 và cụm kỵ binh ở hướng Bôbruixki, dưới sự chỉ huy của tướng Ph. I. Cudơnhétxốp, vào ngày 13-7 đã mở chiến dịch đột kích vào hậu phương của cụm tập đoàn quân “Trung tâm”. Hành động này đã kìm chân khá lâu các lực lượng chính của tập đoàn quân số 2 Đức, không cho tập đoàn quân này phát triển tiến công. Bên cạnh đó là hàng loạt những cuộc phản đột kích của Hồng quân cũng được tổ chức ở vùng Ennhia và gần Xmôlenscơ. Một trong những trận đó là sư đoàn xe tăng số 57 của Hồng quân, dưới sự chỉ huy của đại tá V.A. Misulin đã đập tan một bộ phận lực lượng tiến công vào Xmôlenscơ của quân đoàn xe tăng số 2 của tướng Đức là Guđerian, ở gần thành phố Crátnôie.
 
Chien tranh Ve quoc vi dai qua anh-Hinh-13
                   Người dân tham gia đào hào phòng thủ thành phố cảng Odessa.
 
Ngày 14-7, ở gần Óocxa, loạt đạn súng cối phản lực của Hồng quân trên chiến trường Xô - Đức đã lần đầu tiên được bắn ra từ đại đội do đại úy I.A Plêrốp chỉ huy. Sau loạt đạn đó, trong trận địa dày đặc quân địch bốc lên ngọn lửa cháy dữ dội làm đám lính Đức còn sống sót chạy tán loạn, đầu hàng, bị bắt làm tù binh trong nỗi kinh hoàng. Loại vũ khí tầm xa lợi hại có tính uy hiếp và sát thương rất cao đó được các chiến sĩ xô viết gọi một cách trìu mến là “Cachiusa” - tên của một thiếu nữ Nga.
Tập đoàn quân số 13 của Hồng quân đã bị chia cắt thành nhiều bộ phận. Tuy nhiên họ vẫn tiếp tục ngoan cường chiến đấu. Trong nhiều ngày đêm, quân đoàn số 16 cùng với những binh đội của quân đoàn cơ giới số 20 của tập đoàn quân này, trong tình thế bị bao vây, đã anh dũng phòng ngự Môghiliép, thu hút vào đó 5 sư đoàn Đức.
Thời gian từ 21-7 đến 7-8 là giai đoạn cường độ của trận đánh lớn lên cao nhất.

Nhung canh tuong hao hung trong Chien tranh Ve quoc vi dai
Chiến sĩ Nga Yeremenko hô vang “Tấn công!” chỉ vài giây trước khi anh bị quân Đức Quốc xã bắn trọng thương và hy sinh anh dũng.
Tổng hành dinh quân Đức cho rằng lực lượng Hồng quân ở hướng Mátxcơva đã bị đánh phân tán. Trong chỉ thị số 33 ngày 19-7 về việc tiếp tục tiến hành chiến tranh ở phía Đông và chỉ thị bổ sung ký ngày 23-7, Hítle đã giao nhiệm vụ cho cụm tập đoàn quân “Trung Tâm” là “phải tiêu diệt quân địch còn đang tiếp tục kháng cự ở giữa Xmôlenxcơ và Mátxcơva… và phải chiếm bằng được Mátxcơva”. Đồng thời tổng hành dinh Đức còn vạch kế hoạch tiến công vào Cápcadơ cũng như Cận Đông và cả kế hoạch đưa quân đội trở về nước Đức “sau chiến thắng” (!?).
Đại bản doanh của Hồng quân, sau khi nhận định tình hình, đã tung lực lượng dự bị ra đối phó và chỉ trong tháng 7-1941 riêng ở hướng tây đã triển khai xong 3 thê đội gồm 74 binh đoàn mới. Ngày 20-7, Đại bản doanh đã giao nhiệm vụ cho bộ đội hướng tây chuyển sang tiến công “tiêu diệt địch, chiếm lại vùng Xmôlenscơ và đuổi quân Đức ra khỏi Óocxa”
Ngày 23-7, phương diện quân miền tây của Hồng quân chuyển sang tiến công vào Xmôlenscơ. Nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra. Ngày 27-7, các binh đoàn của tập đoàn quân 16 Liên Xô đã chiếm được nhà ga, triển khai chiến đấu nhằm giành lại phần phía bắc thành phố. Quân Đức đã đột kích vào sau lưng tập đoàn quân 16 và 20, tiến hành bao vây họ ở phía bắc và tây thành phố. Cuộc tiến công của Hồng quân không giành được thắng lợi quyết định nhưng đã bẻ gãy cuộc tiến công của cụm xe tăng số 3 của quân Đức, giúp ổn định tình hình ở hai bên sườn phương quân Miền Tây và gây cho địch nhiều thiệt hại nặng.

Nhung canh tuong hao hung trong Chien tranh Ve quoc vi dai-Hinh-8
Nữ chiến sĩ Zinaida Kozlova trên chiến trường. Ảnh: ER.
Tại khu vực Ennhia, tập đoàn quân 24, dưới sự chỉ huy của tướng K. I. Racuchin, trong suốt 26 ngày đêm đã chiến đấu rất kiên cường, buộc quân Đức phải rút khỏi bàn đạp Ennhia.
Những trận đánh ở khu vực Iaxêvô cũng không kém căng thẳng, ác liệt. Lực lượng Hồng quân ở đây đã bẻ gãy mọi ý đồ mở rộng tấn công của quân Đức, tổ chức phòng ngự vững chắc dọc đường giao thông Minxcơ…
Trong quá trình chiến đấu hết sức gay go của những ngày đầu tháng 8, trên hướng tây đã có biểu hiện về cân bằng lực lượng. Quân Đức đã bị kìm hãm và lần đầu tiên trong chiến tranh thế giới thứ hai, quân Đức ở hướng trung tâm đã buộc phải chuyển sang phòng ngự trong hai tháng.
Trận đánh lớn ở Xmôlenscơ đã đem lại thắng lợi cho Hồng quân, tỏ rõ trước thế giới lòng quả cảm vô song của các chiến sĩ Xô Viết. Ý đồ tiêu diệt Hồng quân tại khu vực trung tâm trên mặt trận Xô - Đức của Bộ chỉ huy phát xít Đức đã phá sản.
Do phương diện quân Miền Tây cũng bị thiệt hại đáng kể trong chiến đấu nên ngày 10-9-1941, Đại bản doanh ra lệnh cho lực lượng Hồng quân ở chính diện chuyển sang phòng ngự.
Tại hướng tây - bắc và tây - nam, từ tháng 7 đến tháng 9-1941, nhiều trận chiến đấu ác liệt, qui mô lớn cũng đã diễn ra.
Ở hướng tây - bắc, các phương diện quân miền Bắc, phương diện quân Tây - Bắc và cả hạm đội Bantích Cờ Đỏ đã tổ chức các chiến dịch phòng ngự chống lại cụm tập đoàn quân Bắc của phát xít Đức và lực lượng chủ yếu của quân đội Phần Lan. Bộ chỉ huy Đức chỉ thị phải chiếm Lêningrát và tiêu diệt hạm đội Bantích trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 8. Ngày 10-7, quân Đức mở cuộc tiến công từ vùng Pêscốp và Ốtstrốp theo hướng Lugiơki và Nốpgôrốt. Tập đoàn quân số 11 của Hồng quân đánh rút lui. Quân đoàn cơ giới số 56 của Đức ngày 13-7 đã thọc được vào khu vực thành phố Xonxa và chuẩn bị đánh chiếm Nốpgôrốt. Phát hiện ra những sườn hở và đội hình kéo dài của quân đoàn 56 cơ giới Đức, Hồng quân của tập đoàn quân số 11 bất ngờ tổ chức phản đột kích. Trong 4 ngày chiến đấu quyết liệt, Hồng quân đã đánh tan sư đoàn xe tăng số 8 Đức và tiến về phía tây hơn 40 km. Cuộc tiến công của cụm xe tăng số 4 của Đức cũng phải tạm thời dừng lại. Đây là một thắng lợi rất lớn của bộ đội Xô viết, góp phần làm dừng cuộc tấn công vào Lêningrát và buộc quân Đức phải tung một bộ phận lực lượng ra để đối phó.

Nhung canh tuong hao hung trong Chien tranh Ve quoc vi dai-Hinh-9
Tuy nhiên Lêningrát vẫn bị đe dọa ngày một nghiêm trọng. Ngày 25-8, một lực lượng gồm 9 sư đoàn quân Đức, có sự yểm trợ của không quân, tiếp tục mở cuộc tấn công vào Lêningrát. Quân đoàn cơ giới 39 Đức đã chọc thủng đến vùng Cônpinô mới bị chặn lại. Một lực khác của quân Đức tiến đến Xlitxenbua và phong tỏa Lêningrát từ phía đất liền. Bắt đầu từ ngày 8-9-1941, việc liên lạc của thành phố với thế giới bên ngoài chỉ còn có thể thực hiện được bằng đường không và qua hồ Lađôga. Ngày 9-9, phát xít Đức tiếp tục đột kích vào Lêningrát. Một cụm gồm 8 sư đoàn quân Đức đánh vào Urítxcơ và Lêningrát. Một mũi hỗ trợ gồm 3 sư đoàn bộ binh từ vùng Cônpinô đánh vào Lêningrát ở phía đông nam.
Lực lượng của tập đoàn quân 42, triển khai gần những vùng ngoại vi phía nam Lêningrát đã chống cự quyết liệt, làm tiêu hao và buộc quân Đức phải dừng lại gần Ligôvô. Tuy nhiên ở phía khác, gần Xtrelơmưi, quân Đức đã tiến được đến bờ biển vịnh Phần Lan, cô lập tập đoàn quân 8 của Hồng quân khỏi phương diện quân Lêningrát (lúc này phương diện quân miền Bắc đã được chia thành 2 phương diện quân là Caren và Lêningrát, trực thuộc Đại bản doanh).
Đến ngày 10-9, tình hình Lêningrát càng nghiêm trọng. Song, bằng những biện pháp tích cực, phương diện quân Lêningrát do tướng G. K. Giucốp chỉ huy, đã đẩy mạnh công cuộc phòng thủ và đã cứu vãn được tình hình. Cuối cùng cụm tập đoàn quân “Bắc” của phát xít Đức bị kiệt sức, mất hết khả năng tấn công. Ngày 23-9, cụm tập đoàn quân Bắc chuyển sang phòng thủ và Tổng hành dinh Đức quyết định bao vây phong tỏa dài ngày đối với Lêningrát.

Nhung canh tuong hao hung trong Chien tranh Ve quoc vi dai-Hinh-10
Phi công Nga tham gia cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Ảnh: ER
Tại hướng tây - nam, những chiến dịch phòng ngự của Hồng quân Liên Xô ở Ucraina từ tháng 7 đến tháng 10-1941 cũng cực kỳ căng thẳng.
Giữa tháng 7, các binh đoàn cơ động của cụm xe tăng số 1 và theo sau nó là các đơn vị tập đoàn quân số 6 của Đức đã tiến về Kiép và bị chặn lại ở đây. Lúc này phương diện quân tây - nam của Hồng quân bị chia làm 2 cụm: cụm tập đoàn phía bắc (tập đoàn quân 5) triển khai chiến đấu ở Côrốtchen và cụm tập đoàn phía nam (tập đoàn quân 6 và 12) phòng ngự chạy dọc biên giới quốc gia cũ.
(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét