Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2021
TT&HĐ III - 30/o
Cuộc chiến tranh vĩ đại - Tập 4: Cuộc chiến vì Mátxcơva | Phim tài liệu lịch sử Thế chiến II
CHƯƠNG IX (XXX): THỜI CUỘC
"Chiến tranh là sự ngu dại tột bậc của cuộc sống".
Thầy cãi
Điều quan trọng nhất là nước Đức đã huy động được nguồn nhân lực và kinh tế rất lớn vào cuộc chiến chống Liên Xô, nắm toàn bộ các kho vũ khí, dự trữ kim loại, các nguyên liệu chiến lược, huy động gần như toàn bộ bộ máy công nghiệp quân sự của Tây Âu vào cuộc chiến.
Tại Phương Đông, Nhật Bản tuy ký hiệp ước phe Trục nhưng có thái độ khác trong việc đối xử với Liên Xô vì dù sao, Nhật Bản cũng đã chiếm được những vùng giàu có ở Trung Quốc, Đông Dương và đang nhằm vào Miến Điện cùng các quốc đảo ven bờ châu Á. Vùng Siberia của Nga tuy hẫp dẫn thật nhưng chưa phải là cấp thiết. Sau các thất bại quân sự tại vùng Khalkhyl Gol và hồ Khasan, chính phủ của Thủ tướng Konoe đã đi đến kết luận: Chưa đến lúc xé bỏ hiệp ước trung lập thân thiện với Liên Xô. Họ chờ đợi sự suy yếu của Liên Xô trong cuộc chiến Xô - Đức nay mai. Họ muốn bày tỏ với nước Đức rằng: Chúng ta là đồng minh, nhưng ngoại trừ việc chống Liên Xô. Song phải đến khi Quân đội Đức chỉ còn cách Moskva trên dưới 20 km, tin tức về việc Nhật Bản "không vào cuộc" mới được Richard Sorge (nhà hoạt động tình báo kiệt xuất của Liên Xô) khẳng định và báo về Moskva.Tuy đã chuẩn bị lên kế hoạch tấn công Liên Xô nhưng Đức Quốc xã vẫn chơi trò "bắt cá hai tay". Ngoài hiệp ước liên minh phe Trục ký với Nhật Bản và Ý năm 1938 phân chia vùng chiếm đóng trên thế giới kể cả Hoa Kỳ, Volthard - cố vấn của Hermann Göring - vẫn có cuộc đàm phán với Bộ trưởng thương mại Anh Hudson về việc phân chia ba khu vực hoạt động kinh tế chủ yếu của hai nước gồm hệ thống thuộc địa Anh, Nga và Trung Quốc. Ngay sau khi ký kết với Ý và Nhật Hiệp ước chống quốc tế cộng sản ngày 27 tháng 9 năm 1940, Ngoại trưởng Đức Von Ribbentrop vẫn mời đoàn ngoại giao Liên Xô do V. M. Molotov dẫn đầu sang thăm Đức. Tại cuộc đàm phán ngày 12 tháng 11 năm 1940, Ribbentrop đề nghị Liên Xô cùng với Đức, Ý, Nhật phân chia thế giới. Tất nhiên, đề nghị này bị phái đoàn Liên Xô bác bỏ thẳng thừng.
Vượt lên trên tất cả những màn kịch ngoại giao, những tấm mạng nhện bùng nhùng các tin tức đồn đại thật có, giả có và cả giả lẫn thật cũng có, ngày 15 tháng 6 năm 1941, cơ quan GPU của Liên Xô nhận được tin tức của điệp viên Nga gốc Đức Richard Sorge từ Tokyo, Nhật Bản: "Chiến tranh sẽ bắt đầu ngày 22 tháng 6". Sau đó sáu ngày, Richard Sorge gửi tiếp một tin nữa để xác nhận: "Cuộc tiến công sẽ được thực hiện trên toàn mặt trận lúc rạng sáng ngày 22 tháng 6". Cùng thời điểm này, một tùy viên lục quân Liên Xô tại Berlin cũng gửi báo cáo về Moskva khẳng định: Chiến sự chống Liên Xô sẽ khởi sự trong khoảng từ 15 tháng 5 đến 15 tháng 6 năm 1941. Nhưng người đứng đầu cơ quan tình báo GRU F. I. Golikov đã không nhận thức được ý nghĩa thực sự của những thông tin quý giá này. Và cả Stalin cũng đã xử lý chậm chạp do nghi ngờ tính xác thực của các thông tin đó với niềm tin thái quá vào các nỗ lực ngoại giao để tránh một cuộc chiến tranh. Ngay cả đô đốc Tư lệnh hải quân Liên Xô N. G. Kuznetsov khi nhận được báo cáo ngày 6 tháng 5 của Tùy viên hải quân Liên Xô tại Berlin về việc quân Đức có thể khởi chiến vào 14 tháng 5 cũng coi đó chỉ là tin giả do phía Đức tung ra để thăm dò phản ứng của Liên Xô.
Chân dung nhà tình báo Liên Xô Richard Sorge
Chiều tối 21 tháng 6 năm 1941, vài người dân Ba Lan đã liều mạng bơi qua sông Bug Tây
gặp những lính biên phòng Liên Xô ở đồn số 9 và đồn số 17 Cờ Đỏ để báo
cáo về việc Quân Đức chuẩn bị tiến công vào sáng sớm ngày 22. Tin tức
này phù hợp với tin tình báo do trinh sát ngoại biên của các đồn biên
phòng miền Tây báo cáo về việc quân Đức tập trung vô số xe tăng, pháo
binh và bộ binh sát đường biên giới.
Cùng thời điểm trên, một thượng sĩ Đức thuộc trung đoàn 222, sư đoàn bộ
binh 73 chạy sang Liên Xô tại khu vực Tây Vladimir - Volynski thuộc
Quân khu đặc biệt Kiev quả quyết rằng quân Đức sẽ tấn công vào 4 giờ
sáng 22 tháng 6. Nhiều đơn vị biên phòng và quân đồn trú sát biên giới
của các quân khu phía Tây Liên Xô đều qua bộ tư lệnh của mình liên tiếp
gửi về Moskva những tin tức tương tự. Bộ trưởng dân ủy quốc phòng S. K. Timoshenko, Tổng tham mưu trưởng Zhukov và Cục trưởng cục tác chiến N. F. Vatutin
thống nhất đề nghị khởi động khẩn cấp Kế hoạch "KOVO-41". Nhưng thay vì
đưa quân đội Liên Xô vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu ngay tức khắc và
tuyên bố tình trạng chiến tranh, Stalin và tập thể Hội đồng Quốc phòng
Liên Xô lại nghi ngờ đó là tin tình báo giả để khiêu khích, nên quyết
định chỉ tiến hành những biện pháp hạn chế, chủ yếu có tính đề phòng với
tinh thần: "không được rơi vào âm mưu khiêu khích có thể gây ra những rắc rối lớn".
Ngoài những biện pháp đề phòng, bức điện hỏa tốc lúc 2 giờ 30 phút sáng
22 tháng 6 được truyền đến các quân khu biên giới phía Tây còn quy
định: "Không có lệnh đặc biệt, không được tiến hành bất kỳ biện pháp nào khác".
Vào 3 giờ 30 phút sáng, ngày 22-6-1941, không một lời tuyên chiến, phát xít Đức bất ngờ nổ súng, ào ạt tấn công trên khắp biên giới phía tây Liên Xô, từ biển Đen đến biển Bantích.
Từ khi khánh thành vào mùa hè năm 1842 đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất, pháo đài Brest được coi là một trong các căn cứ quân sự có tính năng phòng thủ rất mạnh như các pháo đài khác. Với thành lũy dày, nhiều lớp, có pháo binh riêng bảo vệ, pháo đài chỉ cần một đội quân không lớn vẫn có thể tiêu hao nặng nề các đội quân tấn công nó đông hơn gấp nhiều lần. Tuy nhiên, đến khi đại bác nòng rãnh xoắn ra đời với các loại đạn có sức công phá lớn thì pháo đài không còn là thành trì bất khả xâm phạm. Đặc biệt, khi máy bay ném bom ra đời thì pháo đài mất đi rất nhiều khả năng tự bảo vệ. Vào thời đại mới, các cường quốc quân sự đưa ra trận những quân đội đông hàng triệu người, có đầy đủ vũ khí nặng hiện đại như xe tăng, máy bay, đại bác cỡ lớn thì pháo đài hoàn toàn trở nên lỗi thời. Đối phương có thể đi vòng qua pháo đài để tiếp tục tiến công và chỉ để lại một đội quân nhỏ bao vây và vô hiệu hóa nó. Ngoài ra, pháo đài còn có thể trở thành nơi tập trung đông quân nhưng địa bàn tác chiến hẹp, dễ bị đối phương cô lập và tiêu diệt một số lượng lớn sinh lực bằng các loại hỏa lực hiện đại. Do gắn với phương thức phòng thủ thụ động, tại chỗ, pháo đài không còn phù hợp với các cuộc chiến tranh hiện đại với phương thức vận động chiến, phòng thủ cơ động và phòng thủ theo chiến tuyến nhiều lớp được áp dụng phổ biến.
Cung điện trắng, trung tâm Pháo đài Brest (ảnh chụp năm 1915)
Mặc dù không còn tác dụng phòng thủ mạnh mẽ như trước đây nhưng Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô vẫn đặt Pháo đài Brest vào kế hoạch phòng thủ biên giới và coi nó như một khu phòng ngự kiên cố của Quân khu đặc biệt miền Tây. Đây là nơi huấn luyện quân sự cho tân binh của các đơn vị thuộc tập đoàn quân 4, cũng là nơi thực hành các cuộc diễn tập quân sự đồng thời là căn cứ hậu cần, quân y tiền phương. Bản thân pháo đài và 5 đồn phòng thủ xung quanh pháo đài cũng được gấp rút củng cố để trở thành khu phòng thủ vững chắc. Tuy nhiên, Quân khu đặc biệt miền Tây không kịp hoàn thành kế hoạch này. Các công trình quân sự mới chỉ được bắt đầu đổ móng thì chiến tranh đã nổ ra.
Quân Đức lập kế hoạch đánh chiếm khu vực Brest và pháo đài Brest, vốn nằm trên đường hành tiến của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm trong những giờ đấu tiên của Chiến dịch Barbarossa. Pháo đài và thành phố Brest án ngữ con đường băng qua sông Tây Bug cũng như tuyến đường bộ và đường sắt Warsaw–Moskva. Ngoài ý nghĩa đánh chiếm một căn cứ quân sự tiền tiêu (cho dù không thật sự quan trọng), việc hạ pháo đài Brest còn có một ý nghĩa tâm lý để động viên tinh thần của quân đội Đức Quốc xã.
Do tính bất ngờ tuyệt đối của cuộc tấn công từ phía quân Đức, quân đội Liên Xô trong pháo đài không hề có một kế hoạch phòng thủ từ đầu. Chỉ đến ngày thứ ba của cuộc chiến đấu (ngày 24 tháng 6), họ mới có được một ý đồ phòng thủ khái lược thông qua bản "Mệnh lệnh số 1" do Ban chỉ huy đội quân hợp nhất của pháo đài công bố. Tuy nhiên, do không có những tin tức chính xác về tình hình mặt trận, tình hình quân đội Liên Xô và quân đội Đức nên bản mệnh lệnh này chứa đựng quá nhiều yếu tố cảm tính, nó giống một lời kêu gọi hơn là một kế hoạch tác chiến. Cũng chỉ đến ngày 24 tháng 6, các sĩ quan chỉ huy có mặt tại pháo đài mới lập được danh sách các chiến sĩ và phiên chế thành các trung đội chiến đấu và danh sách đó còn tiếp tục dài ra do ngày càng có nhiều quân nhân lạc ngũ đến nhập vào đội quân hợp nhất.
Chính ủy Trung đoàn bậc 1 Efim Fomin, người lãnh đạo cao nhất cuộc phòng thủ của Quân đội Liên Xô tại pháo đài Brest
Lúc 3 giờ 15 phút rạng sáng 22 tháng 6 (theo giờ châu Âu, tức 4 giờ 15 phút giờ Moskva), một trận cuồng phong của bom và đạn đại bác từ bên kia biên giới chụp lên pháo đài. Theo kết quả ban đầu, nhà kho bị phá hủy, nguồn cung cấp nước bị cắt đứt, liên lạc bị gián đoạn, quân đồn trú Liên Xô bị thiệt hại lớn. Lúc 3 giờ 45 phút, các cuộc tấn công bắt đầu. Tính chất bất ngờ của cuộc chiến đã làm cho quân đội Liên Xô phòng thủ tại pháo đài không kịp tổ chức phối hợp các đơn vị và họ bị chia cắt thành các ổ đề kháng biệt lập. Cuộc chống cự diễn ra ác liệt nhất tại khu vực cổng Terespolsky, quân lính Xô Viết núp trong các ô cửa sổ của pháo đài, chờ những tốp lính Đức tới gần, sau đó dùng báng súng, lưỡi lê và cả những chiếc ghế gãy, ván gỗ khô, đánh giáp lá cà. Tại đây, lưỡi lê và báng súng đã làm nốt những việc mà đạn không thể làm được. Tại khu vực cổng Kobrin, quân đội Liên Xô chống cự có tổ chức hơn. Kháng cự xảy ra yếu nhất trong khu Volyn trên đảo Nam, nơi đây chỉ có một bệnh viện cùng với đội bảo vệ nhỏ.
Vì quá nửa quân số cùng với phần lớn vũ khí nặng của đội quân đồn trú Liên Xô đang ở rải rác trên các cánh đồng và khu rừng cách xa pháo đài và không có cách gì để liên lạc với họ nên đến 9 giờ sáng, khoảng 3.500 đến 4.000 người bao gồm cả sĩ quan, binh sĩ và thường dân Liên Xô đã bị bao vây tại pháo đài. Quân đội Đức Quốc xã đã chiếm cây cầu trước cổng Terespolsky và dùng con đường này để đột nhập và đánh chiếm pháo đài, đánh chiếm gác chuông nhà thờ cũ (đã trở thành câu lạc bộ) và dùng hỏa lực súng máy kiểm soát toàn bộ khu vực quảng trường trong pháo đài. Tuy nhiên, đến 13 giờ thì quân đồn trú chuyển sang phản công, đánh bại những nỗ lực của quân Đức, chiếm lại các cổng Kholm nối với cổng Kobrin và cổng Brest nối với khu công sự hình móng ngựa mà người Nga vẫn quen gọi là Đồn Đông. Sau đó, quân đồn trú chiếm lại nhà thờ và phá hủy hỏa điểm của quân Đức trên gác chuông, quân Đức chỉ có thể chiếm được một số vị trí trong khu vực thành nội. Tại khu Doanh trại Tiểu đoàn 132 Bộ nội vụ, một số lính Đức cải trang thành binh sĩ Liên Xô nhằm làm gián đoạn hệ thống chỉ huy, nhưng không qua mắt được họ, nhiều cuộc tấn công của quân Đức bị đập tan, nhưng phía Liên Xô cũng bị thương vong khá nhiều. Tính đến ngày 23/6, chỉ còn khoảng 18 binh sĩ Liên Xô trong doanh trại còn khả năng chiến đấu, chỉ huy Bộ nội vụ-Trung úy Weinstein, đã tự sát bằng khẩu súng lục của mình ngay khi quân Đức tràn vào trung tâm, toàn bộ lực lượng đồn trú chiến đấu đến cùng với quân Đức và hầu như tất cả đều nằm lại trận địa.
Đại úy Zhubachev, một trong những chỉ huy Liên Xô tổ chức phòng thủ tại khu vực thành nội
Tiếp đó là những trận đánh ác liệt kéo dài tại khu vực biên giới, tại thành phố Brest và cả tại pháo đài Brest. Đợt tấn công đầu tiên của quân Đức kéo dài nửa giờ và diễn ra ngay sau đợt oanh kích; lực lượng Hồng quân phòng thủ tại khu vực Brest đã không kịp hình thành một tuyến phòng thủ rắn chắc chống lại quân Đức và bị quân Đức chia cắt thành từng cụm phòng thủ riêng lẻ; trong đó cụm phòng thủ mạnh nhất chính là lực lượng đồn trú trong pháo đài Brest. Một phần lực lượng Xô Viết đã thành công trong việc thoát khỏi vòng vây của quân Đức, nhưng phần lớn thì không được may mắn như vậy và họ đã phải chiến đấu gian khổ giữa vòng vây của kẻ thù. Tuy nhiên, bất chấp ưu thế về yếu tố bất ngờ, về hỏa lực, về trang bị và về quân số, người Đức đã không thể nào nhanh chóng hạ gục pháo đài Brest như dự tính và họ buộc phải chuyển sang bao vây lâu dài. Ngày 30 tháng 6 năm 1941, chỉ huy sư đoàn bộ binh số 45 Đức, tướng Fritz Schlieper đã viết một bản tường trình với Bộ Tổng tư lệnh tối cao của quân đội phát xít Đức về cuộc chiến đấu xung quanh pháo đài, báo cáo nêu rõ:
"Nếu chỉ đơn thuần bố trí các lực lượng bộ binh tấn công nơi này thì chúng tôi không thể nào tiến thêm một bước vì hỏa lực súng trường và súng máy của đối phương được tổ chức tốt. Các hỏa điểm được bố trí trong các lỗ châu mai sâu trong sân khu công sự hình móng ngựa sẵn sàng tiêu diệt bất cứ ai mon men tới gần. Chỉ có một cách duy nhất giải quyết tình huống này, đó là buộc bọn Xô Viết phải đầu hàng trước cái đói và cái khát. Chúng tôi đã sẵn sàng để thực hiện tất cả các biện pháp nhằm vắt kiệt sức lực của chúng... Chúng từ chối tất cả những lời đề nghị đầu hàng của chúng tôi..." |
Fritz Schlieper đã viết trong bản tường trình của ông ta như sau:
"... trung đoàn công binh số 81 được trao nhiệm vụ phá nổ công trình án ngữ tại cụm Trung tâm... nhằm thanh toán hỏa lực của bọn Nga tại cụm phía Bắc. Từ phía tầng dưới cùng của tòa nhà cho đến các cửa sổ đã phát nổ khi kíp nổ được kích hoạt. Khi tòa nhà nổ tung, chúng tôi có thể nghe thấy tiến gào thét và tiếng rên rỉ của bọn lính Xô Viết, nhưng chúng vẫn tiếp tục chiến đấu đến cùng." |
Ngày 26 tháng 6, phát xít Đức đã làm chủ một phần pháo đài Brest, nhưng lực lượng Hồng quân còn lại trong pháo đài vẫn liên kết được với nhau dưới sự chỉ huy của đại uý Ivan Zubachyov và người phó chỉ huy của ông, chính ủy Yevim Moiseevich Fomin. Trong ngày hôm đó, lực lượng Hồng quân đồn trú trong pháo đài Brest tiếp tục đẩy lùi các đợt tiến công của quân Đức, khi đêm xuống đã tổ chức một cuộc phá vây nhưng không thành công và chịu tổn thất nặng. Ngày 27 tháng 6, sau một tuần kể từ ngày mở đợt công kích đầu tiên, quân Đức bắt đầu sử dụng khẩu pháo cỡ nòng 540 ly (bắn những viên đạn nặng tới 1,25 tấn) và hai khẩu pháo 600 ly nhãn hiệu Karl-Gerät (sử dụng đạn chuyên phá bê tông, nặng tới 2 tấn). Những viên đạn từ khẩu pháo 600 ly tạo ra những hố đạn khổng lồ rộng tới 30 mét cùng những thương tổn khủng khiếp cho những người lính Hồng quân chịu phải áp lực của vụ nổ do phát bắn gây ra, thậm chí những người lính nấp sâu trong pháo đài cũng bị rách phổi trước áp lực của nó. Trong các ngày 29 và 30 tháng 6 năm 1941, quân đội Đức Quốc xã mở một đợt tấn công với quy mô lớn, chọc thủng phòng tuyến của Hồng quân trong pháo đài và bắt sống cả Zubachov lẫn Fomin. Zubachov bị tống vào một trại tập trung dành riêng để tiêu diệt các tù nhân của Liên Xô trong cuộc chiến tranh theo chính sách diệt chủng của Đức Quốc xã đối với Liên Xô trong chiến tranh. Ông đã mất tại trại tập trung Hammensburg năm 1944 và được mai táng tại đó. Còn Fomin thì bị tố giác bởi một tên phản bội và bị xử bắn ngay lập tức tại cổng Kholm vì ông là một chính ủy và là một người Do Thái.
Thiếu tá Chaplain Rudolf Gschöpf, sĩ quan tác chiến thuộc Ban tham mưu sư đoàn bộ binh 45 (Đức) viết:
"Chúng tôi chỉ có thể tiến quân từ từ, từ điểm phòng thủ này sang điểm khác sau những trận chiến kéo dài dai dẳng. Lực lượng đồn trú trong cái gọi là Sở chỉ huy tại cụm Trung tâm chỉ bị tiêu diệt khi tòa nhà chứa họ chịu cùng số phận... Lực lượng kháng cự trong tòa nhà vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến khi các bức tường của tòa nhà bị san bằng thành đống gạch vụn bởi những liều thuốc nổ mạnh hơn." |
Những người lính Đức ở Pháo đài vào tháng 7 năm 1941
Ban đầu, nhóm của Gavrilov chỉ có khoảng trên dưới 30 người, họ đã tìm thấy hơn 300 binh sĩ của mình đang tụ tập trong các hầm kho tại Đồn Đông, vốn là vị trí đóng quân trước đây của tiểu đoàn cao xạ độc lập 393. Tiểu đoàn này đã rời pháo đài ngày 15 tháng 6 đi diễn tập dã ngoại và chỉ để lại đây một khẩu cao xạ 40 mm đã bị hỏng máy ngắm và một khẩu súng máy bốn nòng nhưng chỉ còn hai nòng hoạt động được, ngoài ra còn có một khẩu pháo chống tăng 40 mm bố trí ở phía Đông Bắc của đồn. Là người có cấp hàm cao nhất trong nhóm sĩ quan, Gavrilov lãnh trách nhiệm chỉ huy toán quân này theo điều lệnh và cả trên thực tế. Konstantin Kasatkin được chỉ định làm tham mưu trưởng. Ngày 23 tháng 6, bằng các chai cháy và lựu đạn phối hợp với súng máy và khẩu cao xạ, quân của Gavrilov đã đẩy lùi các đợt tấn công của quân Đức và hạ gục ba chiếc xe tăng, nhưng ngay trong phút đầu khẩu đội chống tăng 40 mm đã bị xe tăng Đức phá hủy trước khi nó kịp khai hỏa. Ngày 25 tháng 6, trong một trận ném bom của không quân Đức xuống Đồn Đông, hai khẩu cao xạ bị phá huỷ, kho đạn cũng trúng bom và nổ tung. Đại đội chiến đấu ở phía Tây bị bộ binh Đức chia cắt. Hai đại đội còn lại bị hao hụt quân số nghiêm trọng. Bộ binh Đức đã vây kín đồn nhưng vẫn không vào được bên trong sân móng ngựa do khu vực này bị hỏa lực súng máy không chế.
Để hạn chế thiệt hại về nhân mạng cho binh lính của mình, các sĩ quan tham mưu sư đoàn bộ binh 45 (Đức) quyết định gọi không quân giúp sức. Nhật ký của Chaplain Rudolf Gschöpf viết:
"Ngày 28 tháng 6, từ 8 giờ sáng, không quân đã ném xuống những quả bom phá nặng 500 kg nhưng không thấy rõ kết quả. Cuộc bắn phá bằng pháo tăng và pháo xung kích cũng vô hiệu mặc dù đã quan sát thấy các bức tường sụp đổ ở nhiều nơi." |
Nhật ký của Chaplain Rudolf Gschöpf viết tiếp:
"Ngày 30 tháng 6, không quân đã ném xuống một quả bom phá nặng 1.800 kg xuống khu công sự hình móng ngựa. Sức nổ làm rung chuyển cả thành phố Brest gần đó. Đã chuẩn bị cuộc tấn công bằng xăng, dầu, mỡ. Tất cả những thứ đó được nhồi vào các thùng nhỏ và lăng vào trong các hầm hào của đối phương, sau đó dùng thủ pháo và chai cháy để đốt. Mặc dù đã chiếm được đồn nhưng chúng tôi không tìm thấy thiếu tá và chính uỷ, chỉ nghe lính Nga nói hình như chúng đã tự sát bằng súng." |
Bản báo cáo ngày 30 tháng 6 năm 1941 của sư đoàn bộ binh 45 (Đức) sau trận đánh có đoạn viết: "Sư đoàn đã bắt sống 7.000 tù binh, trong đó có 100 sĩ quan. Thiệt hại của quân Đức là 482 người chết, trong đó có 32 sĩ quan, và trên 1 nghìn người bị thương." Thiệt hại của quân Đức tại Brest có thể được so sánh với thiệt hại chung của quân đội phát xít tại mặt trận Xô-Đức: 8.886 người chết tính đến ngày 30 tháng 6 năm 1941. Như vậy là có đến 5% thiệt hại của quân Đức tính đến thời điểm đó là do trận đánh tại pháo đài Brest gây ra.
Dòng chữ được binh sĩ Liên Xô khắc lên tường "Tôi chết nhưng không đầu hàng. Vĩnh biệt Tổ Quốc. 20-VII-1941" được trưng bày tại Bảo tàng Pháo đài Brest
Sau chín ngày chiến đấu ác liệt, Quân đội Đức Quốc xã cuối cùng đã làm chủ phần lớn pháo đài. Điều này có nghĩa là mục tiêu chiến lược của Sư đoàn 45 đã hoàn thành mặc dù họ đã tốn quá nhiều thời gian so với dự tính và cái giá phải trả về nhân mạng là không nhỏ.
Nhưng, nói cho đúng ra, trận chiến tại pháo đài Brest vẫn chưa kết thúc vào ngày 30 tháng 6. Mặc dù lúc đó pháo đài đã bị quân Đức chiếm đóng, trong những hầm ngầm của pháo đài vẫn còn những chiến sĩ Hồng quân sống sót, và, họ vẫn tiếp tục cuộc chiến đấu dai dẳng chống lại quân xâm lược trong suốt mấy tuần nữa. Chiến sự vẫn tiếp tục diễn ra tại các ổ đề kháng đã bị cô lập của Hồng quân, chủ yếu là trong các hầm ngầm, các nhà ngục thời cổ, trong pháo đài và trong công sự Kobrin. Từ cuối tháng Sáu đến tận cuối tháng Bảy, tiếng súng vẫn còn vang vọng trong các hầm ngầm và các nhà ngục đã bị bắn phá tan tành, với những nhóm nhỏ binh sĩ đồn trú trong đó. Cho đến lúc này, mặt trận đã vào sâu trong lãnh thổ Liên Xô đến 300 dặm (480 km). Về sau, người ta đã tìm thấy những hàng chữ được khắc trên tường bởi các chiến sĩ Hồng quân cuối cùng còn tử thủ ở Brest.
Trên tường của căn chòi của thợ máy chiếu phim tại câu lạc bộ (vốn là nhà thờ cũ) trong sân chính của pháo đài còn lưu lại dòng chữ:
"Ba chúng tôi đều là người Moskva: Ivanov, Stepantsikov, Zhultiaev. Chúng tôi chống giữ nhà thờ này và chúng tôi đã thề: thà chết chứ không chịu rời bỏ nơi đây. | ||
tháng 7 năm 1941"
|
"Tôi chết, nhưng không đầu hàng. Vĩnh biệt Tổ Quốc." |
Các báo cáo của phía Đức nói rằng những ổ đề kháng của Hồng quân đã bị tiêu diệt khi hai nhà lãnh đạo Hitler và Mussolini đến thăm pháo đài Brest, tất nhiên là dưới sự canh gác và bảo vệ nghiêm ngặt để để phòng các chiến sĩ Hồng quân còn sống sót sẽ ám sát họ. Người ta nói rằng Hitler đã nhặt một viên đá trong đống gạch vụn của pháo đài làm kỷ niệm và viên đá này được tìm thấy tại Tổng hành dinh của Đệ tam Đế chế sau chiến tranh thế giới thứ hai. Để thanh toán toàn bộ những ổ đề kháng của Hồng quân trong pháo đài Brest, Bộ Tổng tư lệnh Tối cao của quân đội phát xít Đức đã hạ lệnh tháo nước sông Tây Bug vào pháo đài để dìm chết những chiến sĩ Hồng quân vẫn còn ẩn nấp và tiếp tục chiến đấu dưới các hầm ngầm của pháo đài.
Ngày 25 tháng 7, hiệu thính viên K. I. Korshakov thuộc sư đoàn bộ binh 262 thuộc Phương diện quân Tây Nam đóng tại Staraya - Russia đã tình cờ nhận được bức điện cuối cùng được phát không mã từ Pháo đài Brest:
"Tình hình nguy kịch, pháo đài sắp thất thủ, chúng tôi tiêu diệt lũ súc sinh, chúng tôi sẽ nổ mìn bắt chúng chết theo chúng tôi." |
Bảo tàng về trận phòng thủ pháo đài Brest, phòng số 6
(Có điều là, cuộc chiến đấu anh hùng của các chiến sĩ pháo đài Brest không được phổ biến rộng rãi cho đến khi lãnh tụ I. V. Stalin qua đời. Sau chiến tranh, những chiến sĩ Hồng quân còn sống sót trong các trại tập trung của phát xít Đức lại bị cơ quan NKVD của Beria gán cho tội "làm phản", "cộng tác với địch" và phải chịu cảnh đày ải trong các trại tập trung "vì lý do họ đã bị quân thù bắt làm tù binh" (theo Chỉ thị số 270). Thật là ác! Sau khi Stalin chết, các chiến sĩ bảo vệ pháo đài Brest cuối cùng đã được trả tự do và được vinh danh. Ngày 22 tháng 6 năm 1956, Trong dịp kỷ niệm 15 năm ngày bắt đầu cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, cơ quan truyền thông chính thức của Liên Xô cho rằng những người lính Xô Viết bảo vệ pháo đài Brest là điển hình của chủ nghĩa anh hùng và tổ chức cuộc phòng thủ pháo đài trong vòng một tháng, trong vòng vây của quân Đức. Tuy nhiên, ở thời điểm đó, dư luận phương Tây cho rằng đây chỉ là chuyện tưởng tượng. Đến nay, người Nga đã chứng minh được sự thật lịch sử và vẫn giữ quan điểm của mình. Trong một bài viết của Tatyana Shvetsova cho đài phát thanh Tiếng nói của nước Nga về chủ đề này vẫn khẳng định: "Ngay cả sau khi chiến đấu trong vòng một tháng, pháo đài Brest vẫn tiếp tục kháng cự, đã giam chân một bộ phận đáng kể lực lượng của kẻ thù và làm cho chúng mệt mỏi."
Lần đầu tiên, cuộc phòng thủ của Pháo đài Brest được biết đến trong báo cáo của sư đoàn bộ binh 45 gửi Bộ tư lệnh Tập đoàn quân 4 (Đức) mà một trong các bản sao của nó bị quân đội Liên Xô thu giữ trong đống giấy tờ hỗn độn tại kho văn khố sư đoàn bị bỏ lại trong thành phố Livny tháng 2 năm 1942. Vào cuối thập niên 1940, rải rác trên các tờ báo Xô Viết đã xuất hiện một số bài viết đầu tiên về cuộc phòng thủ Pháo đài Brest nhưng thường là các tin tức không xác minh được. Năm 1951, trong khi phân tích các mảnh vỡ tại các cổng trại của Brest, người ta đã được tìm thấy bản "Mệnh lệnh số 1" và cho đến nay, đây là văn kiện viết tay duy nhất bằng tiếng Nga về cuộc phòng thủ này được soạn thảo vào thời điểm đó và còn lưu giữ được. Năm 1957, nhà báo, nhà sử học Liên Xô Sergei Sergeyevich Smirnov sau nhiều cuộc điều tra đã công bố tác phẩm Pháo đài Brest viết về cuộc chiến tại pháo đài Brest. Smirnov đã điều tra về số phận của những chiến sĩ Hồng quân bảo vệ pháo đài, về những người đã ngã xuống ngoài chiến trường, về những người đã chết trong trại tập trung của phát xít Đức, về những người còn sống sót sau chiến tranh.
Bảo tàng về trận pháo đài Brest đã chính thức hoạt động vào năm 1956, trong khi đó Khu tưởng niệm Pháo đài Anh hùng Brest chính thức hoạt động vào năm 1971. Ngày 8 tháng 5 năm 1965, pháo đài Brest được phong tặng danh hiệu Pháo đài Anh hùng nhân kỷ niệm 20 năm ngày phát xít Đức đầu hàng và được tặng thưởng Huân chương Lenin.)
Pháo đài Brét đã trở thành biểu tượng về tinh thần bất khuất, kiên cường và tình yêu tổ quốc vô song của Hồng quân Liên Xô nói riêng cũng như của nhân dân Liên Xô nói chung!
Đài tưởng niệm cuộc phòng thủ pháo đài Brest
***
Nhiều tình nguyện viên tới đăng ký nhập ngũ ở Văn phòng tuyển quân Oktyabrsky năm 1941.
Người dân tham gia đào hào phòng thủ thành phố cảng Odessa.
--------------------------------------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét