Thứ Hai, 8 tháng 3, 2021
TT&HĐ III - 30/r
Trận Trân Châu Cảng
Trận chiến Midway 1942 - Đại chiến tàu sân bay xoay chuyển Thái Bình Dương
CHƯƠNG IX (XXX): THỜI CUỘC
“Nếu
như sau cái đêm tối tăm của thời trung cổ, các ngành khoa học đột nhiên
sống lại với một sức mạnh không ngờ và bắt đầu phát triển nhanh chóng
một cách kỳ diệu, thì sự kỳ diệu ấy cũng chính là nhờ sản xuất mà có”
Ph. Ăngghen
"Tình yêu giống như chiến tranh, dễ bắt đầu nhưng rất khó để dừng lại."
"Tôi
không biết chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ sử
dụng vũ khí nào nhưng tôi biết rằng chiến tranh thế giới thứ 4 sẽ sử
dụng gậy gộc và đá!" - Albert Einstein
"Chưa từng có lúc nào thế giới không chiến tranh. Dù
trong bảy nghìn, mười nghìn hay hai mươi nghìn năm. Những nhà lãnh đạo
khôn ngoan nhất, hay những vị vua cao quý nhất, hay cả Nhà thờ - không
ai trong số họ có thể ngăn chặn nó. Và đừng chịu thua thứ lòng tin dễ
dãi rằng những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội nóng vội có thể ngăn được
chiến tranh. Hay có thể chia tách được chiến tranh vì lẽ phải hay đúng
đắn ra khỏi phần còn lại. Luôn có hàng nghìn hàng nghìn người mà đối với
họ thậm chí cả chiến tranh theo kiểu đó cũng là vô nghĩa và phi lý." - Aleksandr Solzhenitsyn
"Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến, hóa đơn sẽ đến sau đó." - Benjamin Franklin
"Chiến tranh là sự ngu dại tột bậc của cuộc sống".
Thầy cãi
(Tiếp theo)
Khi
quân Đức đang sa lầy ở Mátxcơva, Phôn Ribentrốp, ngoại trưởng Đức đã
hối thúc Nhật mở mặt trận phía Đông đánh Liên Xô để phối hợp. Nhật trả
lời chưa sẵn sàng vì gặp nhiều khó khăn.
Đúng
thật là Nhật đang thiếu trầm trọng nhiên liệu, nhất là khí đốt. Nhưng
đó không phải là nguyên nhân sâu xa. Dù đã hợp thành phe Trục nhưng cả
ba nước phát xít đầu sỏ Đức, Ý, Nhật, do bản chất ích kỷ, vụ lợi sẵn có
nên luôn muốn lợi dụng nhau để mưu hưởng lợi riêng.
Chính
phủ Nhật tính rằng gây chiến ngay với Liên Xô là không có lợi; cứ để
“ông bạn” Hítle đấm đá với “gã khổng lồ”. Nếu Đức chiếm được Mátxcơva,
đánh quị Liên Xô thì lúc đó mới xông vào từ phía Đông để vừa được tiếng
là giúp đỡ bạn bè, vừa dính máu ăn phần, kiếm chác chút cháo mà cũng đỡ
tốn máu xương.
Nguyên
nhân sâu xa hơn là Nhật đang “bận rộn” với kế hoạch bàng trướng xuống
Nam - Thái Bình Dương, vùng thuộc địa của các nước tư bản Châu Âu thua
trận và lực lượng của Anh, Mỹ ở đó không mạnh lắm. Chiếm được vùng này,
nước Nhật phát xít sẽ mở được cánh cửa đi vào Ấn Độ Dương, nhưng trước
hết sẽ giải quyết được vấn đề nhiên liệu từ nguồn dầu lửa ở Inxulin và
Xinhgapo và Indonêxia. Phương án “Nam tiến” của Nhật được phác thảo từ
năm 1938.
Trân Châu Cảng vào ngày 30 tháng 10 năm 1941.
Trân Châu Cảng vào ngày 30 tháng 10 năm 1941.
Nhưng
muốn thế, phải làm chủ được Thái Bình Dương. Muốn làm chủ được Thái
Bình Dương thì phải áp chế được lực lượng hải quân của Anh và Mỹ. Áp chế
bằng cách nào nếu không tranh quyền đoạt lợi bằng bạo lực? Cuộc chiến
tranh Châu Á - Thái bình Dương là điều không thể tránh khỏi đối với thế
giới mà nước Nhật phát xít là kẻ khởi xướng. Cuối năm 1940, Tổng tư lệnh
hải quân Nhật, Thủy sư đô đốc Isôrôku Yamamôtô đã đề xuất mục tiêu cụ
thể đối với trận đánh đầu tiên của cuộc chiến tranh này là quân cảng
Trân Châu ở quần đảo Haoai nước Mỹ.
Quần đảo Hawaii của Hoa Kỳ ở giữa Thái Bình Dương là một chuỗi đảo dài nối tiếp nhau theo hướng từ Tây-tây Bắc sang Đông-đông Nam có diện tích tổng cộng gần 17.000 km² với khoảng nửa triệu người (ở thập kỉ 40). Lớn nhất là đảo Hawaii (trên 10.000 km²) nằm ở cực trong quần đảo, nhưng quan trọng nhất lại là đảo Oahu với diện tích khoảng 1500 km², nằm cách Hawaii khoảng 140 dặm về phía Tây Bắc. Trên bờ biển phía Nam đảo Oahu có thành phố Honolulu (200.000 dân), thủ phủ của cả quần đảo. Cũng trên bờ biển phía Nam đảo, cách Honolulu về phía Tây chừng 6 dặm là Trân Châu Cảng, căn cứ chính của hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ (kể từ năm 1940). Dựng trên một vịnh biển ăn sâu vào đất liền của đảo rồi chia thành nhiều vụng biển và luồng lạch kín đáo lại có một cù lao ở giữa vịnh được gọi là "đảo Ford" như một cầu tàu thiên nhiên. Trân Châu Cảng có điều kiện tự nhiên lý tưởng để bảo vệ hạm đội chống lại mọi sự tấn công từ bên ngoài. Việc bố phòng ở cảng hết sức cẩn mật với một hệ thống lưới thép đặc biệt chống ngư lôi và tàu ngầm. Ngoài Trân Châu Cảng ra, hạm đội còn một căn cứ khác là cảng Lahaina trên đảo Maui, một đảo nằm ở khoảng giữa Oahu và Hawaii.
Ảnh chụp Trân Châu
Cảng từ một máy bay Nhật cho thấy các thiết giáp hạm Mỹ vào lúc mở đầu
trận đánh. Vụ nổ ở giữa bức ảnh là một quả ngư lôi đánh trúng chiếc
thiết giáp hạm USS West Virginia
Trân Châu Cảng có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ vùng Bắc Thái Bình Dương. Với khoảng cách tương ứng với một tầm bay tối đa của các "pháo đài bay" B-17 từ Oahu đến bờ biển phía Tây Hoa Kỳ, Trân Châu Cảng có thể trở thành căn cứ triển khai các hoạt động của không quân oanh tạc ở Tây Thái Bình Dương. Vai trò vị trí của Trân Châu Cảng đối với hải quân còn quan trọng hơn. Do vị trí gần như ở giữa vùng Bắc Thái Bình Dương, Trân Châu Cảng vừa là căn cứ chỉ huy, căn cứ hậu cần, là cơ sở bảo duỡng, sửa chữa các chiến hạm của hạm đội Thái Bình Dương. Từ căn cứ này, Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Hoa Kỳ có thể tung sức mạnh của họ khống chế toàn bộ vùng Bắc Thái Bình Dương bằng các lực lượng tàu nổi, tàu ngầm và không quân của Hạm đội. Nếu như đối với Hoa Kỳ, Trân Châu Cảng và Midway là hai bàn đạp quan trọng nối tiếp nhau để vươn sang lục địa châu Á thì đối với Nhật Bản, Trân Châu Cảng là bàn đạp để tiến đến Hoa Kỳ và toàn bộ lục địa Bắc Mỹ. Tuy nhiên, vào những năm 1941-1942, lục quân và hải quân Nhật Bản không có tham vọng đánh chiếm hoàn toàn quần đảo này như họ đã làm với quần đảo Midway. Với trận tấn công Trân Châu Cảng, Nhật Bản chỉ đủ sức làm tê liệt Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ trong một khoảng thời gian vừa đủ để họ có thể rảnh tay đánh chiếm toàn bộ vùng bờ biển và các quần đảo Tây Thái Bình Dương, uy hiếp Ấn Độ và Australia, đẩy lùi ảnh hưởng của Hoa Kỳ khỏi châu Á, chia đôi Thái Bình Dương với Hoa Kỳ trong một thế cân bằng chiến lược mới ở đại dương rộng nhất thế giới này, tiến tới hiện thực hóa học thuyết "Đại Đông Á".
Quần đảo Hawaii của Hoa Kỳ ở giữa Thái Bình Dương là một chuỗi đảo dài nối tiếp nhau theo hướng từ Tây-tây Bắc sang Đông-đông Nam có diện tích tổng cộng gần 17.000 km² với khoảng nửa triệu người (ở thập kỉ 40). Lớn nhất là đảo Hawaii (trên 10.000 km²) nằm ở cực trong quần đảo, nhưng quan trọng nhất lại là đảo Oahu với diện tích khoảng 1500 km², nằm cách Hawaii khoảng 140 dặm về phía Tây Bắc. Trên bờ biển phía Nam đảo Oahu có thành phố Honolulu (200.000 dân), thủ phủ của cả quần đảo. Cũng trên bờ biển phía Nam đảo, cách Honolulu về phía Tây chừng 6 dặm là Trân Châu Cảng, căn cứ chính của hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ (kể từ năm 1940). Dựng trên một vịnh biển ăn sâu vào đất liền của đảo rồi chia thành nhiều vụng biển và luồng lạch kín đáo lại có một cù lao ở giữa vịnh được gọi là "đảo Ford" như một cầu tàu thiên nhiên. Trân Châu Cảng có điều kiện tự nhiên lý tưởng để bảo vệ hạm đội chống lại mọi sự tấn công từ bên ngoài. Việc bố phòng ở cảng hết sức cẩn mật với một hệ thống lưới thép đặc biệt chống ngư lôi và tàu ngầm. Ngoài Trân Châu Cảng ra, hạm đội còn một căn cứ khác là cảng Lahaina trên đảo Maui, một đảo nằm ở khoảng giữa Oahu và Hawaii.
Trân Châu Cảng có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ vùng Bắc Thái Bình Dương. Với khoảng cách tương ứng với một tầm bay tối đa của các "pháo đài bay" B-17 từ Oahu đến bờ biển phía Tây Hoa Kỳ, Trân Châu Cảng có thể trở thành căn cứ triển khai các hoạt động của không quân oanh tạc ở Tây Thái Bình Dương. Vai trò vị trí của Trân Châu Cảng đối với hải quân còn quan trọng hơn. Do vị trí gần như ở giữa vùng Bắc Thái Bình Dương, Trân Châu Cảng vừa là căn cứ chỉ huy, căn cứ hậu cần, là cơ sở bảo duỡng, sửa chữa các chiến hạm của hạm đội Thái Bình Dương. Từ căn cứ này, Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Hoa Kỳ có thể tung sức mạnh của họ khống chế toàn bộ vùng Bắc Thái Bình Dương bằng các lực lượng tàu nổi, tàu ngầm và không quân của Hạm đội. Nếu như đối với Hoa Kỳ, Trân Châu Cảng và Midway là hai bàn đạp quan trọng nối tiếp nhau để vươn sang lục địa châu Á thì đối với Nhật Bản, Trân Châu Cảng là bàn đạp để tiến đến Hoa Kỳ và toàn bộ lục địa Bắc Mỹ. Tuy nhiên, vào những năm 1941-1942, lục quân và hải quân Nhật Bản không có tham vọng đánh chiếm hoàn toàn quần đảo này như họ đã làm với quần đảo Midway. Với trận tấn công Trân Châu Cảng, Nhật Bản chỉ đủ sức làm tê liệt Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ trong một khoảng thời gian vừa đủ để họ có thể rảnh tay đánh chiếm toàn bộ vùng bờ biển và các quần đảo Tây Thái Bình Dương, uy hiếp Ấn Độ và Australia, đẩy lùi ảnh hưởng của Hoa Kỳ khỏi châu Á, chia đôi Thái Bình Dương với Hoa Kỳ trong một thế cân bằng chiến lược mới ở đại dương rộng nhất thế giới này, tiến tới hiện thực hóa học thuyết "Đại Đông Á".
Tàu khu trục Cassin bị chìm tại Trân Châu Cảng.
Đô đốc Yamamôtô đã có công lớn trong việc xây dựng hải quân Nhật thành một
lực lượng hùng mạnh. Lịch sử quân sự thế giới đã ghi nhận ông là một tư
lệnh lỗi lạc về mặt chiến lược, chiến thuật trên biển; là một vị chỉ
huy có biệt tài nhìn xa, phán đoán đúng, xông xáo, táo bạo và cực kỳ
linh hoạt, bất ngờ trong khi đặt kế hoạch tác chiến. Chính Yamamôtô là
một trong số ít tướng lĩnh Nhật tỏ ý không tán thành việc Nhật liên minh
với Đức quốc xã và Ý phát xít cũng như gây chiến với Mỹ. Năm 1940, ông
có nói: “Nếu không còn cách nào khác nữa mà tôi phải chiến đấu thì cần
kết thúc chiến tranh trong 6 tháng hay một năm… Tôi cho rằng chính phủ
nên tránh một cuộc chiến tranh với Mỹ”. Kể ra như thế để thấy rằng trong
hàng ngũ quân đội phe phát xít không thiếu gì những tướng lĩnh đầy năng
lực, tài giỏi. Nhưng kết cuộc phe phát xít vẫn là kẻ bại trận. Điều đó
cho thấy sự không thể chống lại ý chí của Đức Huyền Diệu; không thể một
mình chống lại cả thế giới đã đứng dậy vũ trang.
Yamamoto Isoroku
Ngày
6-9-1941, cuộc họp tuyệt mật của Hội đồng quốc phòng do Nhật hoàng Hirô
Hitô chủ trì, đã phê duyệt cái gọi là “Khối thịnh vượng chung Đông Nam
Á” với nội dung:
-
Đánh đòn bất ngờ, giành thắng lợi ở cảng Trân Châu, rồi tiến sâu vào
Philippin, Luxông, Guam, Boócnêô, Malaixia sau khi chủ lực Anh, Mỹ ở đây
đã quị.
-
Phát triển về hướng Manila, Xingapo, Thái Lan, Inđônêxia, Miến Điện, Ấn
Độ, phối hợp với Đức tiến vào khu dầu lửa Trung Cận Đông…
Ngày 7-12-1941: Chiến hạm USS Arizona chìm trong khói lửa và lật nhào xuống biển. Hơn 80% trong 1500 thủy thủ đoàn thiệt mạng. Cuộc tấn công của Nhật vào Trân châu cảng đã làm thiệt mạng 2,343 lính, 916 mất tích. Cuộc tấn công gần như xóa xổ hạm đội Thái bình dương của hải quân Mỹ và đưa nước Mỹ tham gia trực tiếp vào cuộc chiến. Tổng thống Franklin D. Roosevelt tuyên bố đây là ngày hổ thẹn của nước Mỹ và quốc hội tuyên chiến với Nhật ngay trong buổi sáng hôm sau . (Ảnh AP )
Trận tập kích cảng Trân Châu là trận đánh hiệu quả nhất trong chiến tranh
thế giới thứ hai: chỉ trong 3 giờ tiến công, quân Nhật đã loại khỏi vòng
chiến đấu 75% lực lượng nòng cốt của hải quân và không quân Mỹ ở Thái
Bình Dương trong khi chỉ chịu những tổn thất không đáng kể. Chiến thắng
vang dội đó của quân Nhật như sau này các nhà lý luận quân sự phương Tây
nhất trí nhận định là: “Nó tỏ rõ sự thành công tuyệt đỉnh về phạm vi
chiến lược, chiến dịch và thực hành chiến đấu, từ cả ý đồ, quá trình tổ
chức và thực hiện cụ thể. Nhưng kết quả đó đã vượt xa hơn nhiều, ngoài
dự tính của những người lạc quan nhất”. Quân Nhật có được chiến thắng
đó, trước hết và trên hết, là nhờ vào việc đảm bảo gần như tuyệt đối yếu
tố bất ngờ.
Đành
rằng để đảm bảo yếu tố quyết định đó, quân Nhật đã thực hiện công tác
bảo mật hết sức nghiêm ngặt, đã khôn khéo nghi binh, đánh lạc hướng trên
nhiều phương diện, kể cả về mặt ngoại giao, nhưng khó mà hình dung được
việc xây dựng một hạm đội cỡ lớn, việc tổ chức diễn tập, rồi đưa cả hạm
đội ấy vượt qua khoảng cách đến 3500 hải lý (1 hải lý = 1,852 km) đường
biển, rồi làm cho xuất hiện đột ngột trước cảng Trân Châu, đánh một
trận tiêu diệt kinh hoàng, rồi rút lui an toàn, mà chẳng có “tai, mắt”
nào của Mỹ phát hiện ra, thậm chí là không có một sự đánh trả đáng kể
nào từ lực lượng hùng hậu tại quân cảng. Lý giải điều này chỉ có thể là:
phía Mỹ đã chủ quan khinh địch đến tê liệt cả cảnh giác và sự mất cảnh
giác đó thể hiện ra cứ như là định mệnh.
Trong
việc thành lập hạm đội đánh cảng Trân Châu, quân Nhật đã sắp xếp tổ
chức, tuyển chọn có cân nhắc kỹ càng các kíp thủy thủ, các kíp bay; huy
động từ nhiều nơi, riêng lẻ từ nhiều căn cứ, tập trung đến trong những
thời điểm khác nhau. Vị trí tập kết của hạm đội tham chiến là vịnh
Tankan (có tên là Hito kappu), ở đảo Etorophu, thuộc quần đảo Curin, nằm
ở cực Bắc - Nhật Bản. Đó là nơi hoang vắng, dân cư thưa thớt, xa đường
hàng hải quốc tế, trong một khu vực khí hậu ẩm ướt, có nhiều mây mù
thấp, dày đặc, lại thường xuyên có bão và gió xoáy bất ngờ.
Máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A "Val" chuẩn bị cất cánh từ Akagi trong thành phần đợt thứ hai của cuộc tấn công Trân Châu Cảng
Đoàn
tàu chiến của hạm đội lúc đầu đóng ở vịnh Curê. Khi hạm đội rời đi và
đã tập trung đầy đủ ở Tankan thì việc liên lạc vô tuyến vẫn được duy trì
theo đúng chế độ, giờ giấc phát sóng tại căn cứ cũ. Trò đó đã đánh lừa
được tình báo Mỹ. Ngay cả các sĩ quan và đô đốc Nhật không tham gia cũng
bị bất ngờ. Trên đường di chuyển, đoàn tàu chiến vẫn chạy với tốc độ
tàu buôn thường. Việc dùng cờ, đèn, pháo hiệu bị cấm ngặt. Các thức ăn
thừa, vỏ đồ hộp, thư từ, giấy tờ và mọi thứ rác thải đều phải thu gom
hết và lưu giữ trên tàu, không được ném xuống biển…
Đúng
15 giờ ngày 26-11-1941, hạm đội đi đánh cảng Trân Châu, gồm 31 tàu
chiến, do Nagumô chỉ huy, tuần tự nhổ neo với đội hình như sau:
- Đi trước là 6 tàu sân bay (hàng không mẫu hạm) của 3 sư đoàn không quân.
- Tiếp theo là các thiết giáp hạm cũ nhưng tốc độ nhanh và các tàu tuần dương kiểu mới.
- Bảo vệ hai bên sườn là nhiều tàu tuần dương loại nhẹ, tàu phóng ngư lôi và tàu khu trục trang bị mạnh.
- Cuối đội hình là 8 tàu chở dầu.
- Phía dưới là 3 tàu ngầm mẹ chứa các tàu ngầm mini.
Để
đánh lạc hướng, hạm đội tiến theo hướng bắc rồi đi theo đường vòng dài
gấp đôi, tránh xa đường hàng hải quốc tế, chọn những đoạn đường sóng to,
hay có bão để đi, hết sức né tránh các tàu lạ dọc đường. Theo chỉ thị
của Yamamôtô: trong trường hợp gặp lực lượng hải quân của bất cứ nước
nào, nếu trước ngày J (ngày tiến công) 2 ngày thì hạm đội nhất thiết
phải quay về Nhật, còn trước 1 ngày thì quyền quyết định được trao cho
tư lệnh Nagumo; trường hợp gặp tàu buôn lẻ thì phải thủ tiêu cho được để
bịt đầu mối.
Sau
7 ngày vật lộn với sóng gió, hạm đội đã đi qua đảo Mítxây và ngày
2-12-1941, Nagumô nhận được một mật lệnh từ Tôkiô: “Niitakayama -
nobore” (mang ý nghĩa: vượt qua đỉnh núi Niita Kayama - Oasintơn chưa
biết gì, cứ đúng ngày J hành động).
Trước
đó, lãnh sự quán Nhật ở Hônôlulu, thừa lệnh chính phủ Nhật, lấy cớ giảm
bớt căng thẳng trong đàm phán Mỹ - Nhật, đề nghị Mỹ cho quan hệ buôn
bán bình thường. Hai bên đồng thuận: trong 3 tháng cuối năm 1941 sẽ có 3
chuyến tàu Nhật được đến Hônôlulu vào 3 thời điểm khác nhau.
Ngày
23-10, tàu Tatu Tamaru cặp bến cảng Trân Châu. Khi viên lãnh sự Nhật
lên tàu, thuyền trưởng tàu này đã trao cho một phong bì dán kín: “Đây là
những chỉ thị tối mật khẩn cấp, phải điều tra và báo cáo về nước”.
Ngày
1-11, tàu Tayoman đến, lưu lại 5 ngày ở Hônôlulu. Có hai chuyên viên
quân sự trên tàu, không lên bờ, dùng kính tiềm vọng và ống nhòm quan sát
mọi chi tiết trong vịnh. Viên lãnh sự Nhật đã chuyển tài liệu trinh sát
được ở đảo cho viên thuyền trưởng. Hải quan Mỹ đã khám xét kỹ nhưng
không phát hiện thấy điều gì bất thường.
Ngày 5-11-1941, tàu này nhổ neo.
Ngày
20-11, đàm phán Mỹ - Nhật đi vào ngõ cụt. Ngày 27-11, Tôkiô tuyên bố bỏ
họp. Ngày 29-11, nội các Nhật, do Tojo mới thành lập, quyết định dùng
vũ lực. Tuy nhiên, tổng thống Mỹ là Rudơven vẫn gửi công hàm cho Nhật
hoàng Hirô Hitô yêu cầu giữ nguyên tình trạng hòa hoãn.
Được
Mỹ cho phép, tàu Tatu Tamaru sẽ quá cảnh Hônôlulu (chuyến tàu thứ ba
theo thỏa thuận trước đây) để giàn xếp việc hồi hương kiều dân hai nước.
Báo chí Mỹ và Nhật rùm beng về chuyện này. Tờ “Nữu Ước thời báo” bình
luận: “Trong tương lai gần, vẫn còn dấu hiệu hòa hoãn, chưa thể nổ ra
chiến tranh…”. Thực tế, đó chỉ là đòn nghi binh đánh lạc hướng bằng
ngoại giao của Nhật, vì sau khi tàu Tatu Tamaru khởi hành rời cảng
Yokoyama không lâu đã nhận được điện quay trở lại.
Ở
Hônôlulu và trên khu vực đảo Oahu (thuộc quần đảo Haoai), 6 tháng cuối
năm đã rộ lên tin đồn: chiến tranh sẽ nổ ra ở Thái Bình Dương. Nhưng
binh lính, các sĩ quan và cả đô đốc ở đây chẳng mấy ai tưởng tượng được
chiến tranh lại có thể xảy ra trước tiên tại chốn này. Đối với họ, không
thể tin được chuyện từ nước Nhật xa lắc xa lơ, một lực lượng đồ sộ đến
được đây mà không phát lộ trong suốt chặng quá dài hành quân trên biển.
Vả lại phong cảnh nơi đây thật thanh bình, yên ả: bãi biển trong xanh,
rặng dừa thơ mộng, quán rượu vũ trường nhộn nhịp nhạc Jazz và nổi tiếng
nhiều gái đẹp. Tất cả đều làm quên lãng chiến tranh…
Tổng
chỉ huy lực lượng Mỹ vùng Thái Bình Dương, tướng Mác Áctơ đã từng gửi
điện nhắc nhở tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ là Hơxbơn Kimen,
nhưng các sĩ quan cao cấp ở đây vẫn thấy chẳng có gì cấp thiết. Hơn nữa,
họ cũng đã tiến hành tăng cường lực lượng cho một số đảo phía bắc. Ngày
8-11, tàu sân bay Lexintơn, 3 tàu tuần dương loại nặng, 5 tàu khu trục
cùng một số quân và 12 máy bay chiến đấu tăng cường cho đảo Mítuây. Ngày
5-12, tàu sân bay Intơprai với 3 tàu tuần dương, 9 tàu khu trục bảo vệ
cũng đang trên đường đến tăng cường cho đảo Uâyk (tuy nhiên do bị hỏng
máy dọc đường, phải sửa chữa suốt 15 tiếng đồng hồ nên tàu Intơprai đã
không đến được căn cứ trước trận đánh và đó là điều may cho nó).
7h55 sáng ngày 7/12/1941, hải quân và không quân Đế quốc Nhật Bản bất
ngờ tấn công vào căn cứ hải quân Mỹ ở Trân Châu Cảng, Hawaii. Ảnh: Library of Congress.
Thực
ra tin tức về một trận tập kích của Nhật vào cảng Trân Châu đã được
nhiều quan chức Mỹ biết và cũng đã có những cảnh báo từ rất sớm. Nhưng
tất cả đều bị “bỏ xó” cứ như chuyện đùa. Câu chuyện tiếp theo cho thấy
sự chủ quan, lơ là cảnh giác của quân đội Mỹ đến cỡ không thể nói khác
hai từ: định mệnh.
Vào
tháng 5-1940, tại vùng biển Bêrinh, gần Alaska một tàu đánh cá Nhật bị
bão đánh chìm. Người ta vớt được xác chết của viên thuyền trưởng tàu đó
và trao cho đội tuần tra Mỹ. Trong túi của tử thi có một quyển sách có
bìa là hai tấm chì. Sau khi tìm hiểu, xác định, Mỹ biết người chết là
một đại úy tình báo Nhật và quyển sổ đó chính là quyển ghi chép mật mã
cơ yếu dùng thông tin vô tuyến điện của hải quân Nhật (Thật ra đây là
bản mật mã cơ yếu dùng chung cho cả hải quân, không quân và Bộ ngoại
giao Nhật. Điều ngạc nhiên là nó đã không được Nhật thay đổi trong suốt
cuộc chiến tranh. Lục quân Nhật dùng mật mã riêng. Mật mã này khó tới
mức tất cả các chuyên gia hàng đầu của Mỹ đều chịu thua, không giải
được).
Sau
một thời gian ngắn, Mỹ đã mở được khóa mật mã này. Mỹ cố giữ kín và ra
sức tận dụng sự phát hiện tình cờ nhưng vô giá này. Nhờ thế, tình báo Mỹ
đã biết được nhiều nội dung thông tin tình báo từ Tôkiô đi các nơi và
từ các nơi gửi về.
Nhật
đã không mảy may hay biết gì và đó chính là nguyên nhân dẫn đến cái
chết của thủy sư đô đốc Yamamôtô sau này trên chiến trường ở quần đảo
Salômôn, nơi ông đang điều binh khiển tướng, phát huy đến cao độ lối
đánh gần, đánh tiêu hao đầy hiệu quả của mình. Sáng sớm ngày 17-4-1943,
trung tâm do thám vô tuyến điện của Mỹ đặt tại vùng Alaska bắt được một
bức điện mật phát đi từ thiết giáp hạm Yamatô, mang cờ hiệu của đô đốc
Yamamôtô. Lập tức bức điện được giải mã và có nội dung: Đô đốc Yamamôtô
đi thị sát các căn cứ hải quân trên đảo Buganhvin, Salômôn; cùng đi có
tổng tham mưu trưởng và 7 sĩ quan cao cấp hải quân hoàng gia; Đoàn khởi
hành từ Truk, vào 8 giờ sáng nay, theo 2 máy bay Sally (loại 2 động cơ
ném bom), có 6 máy bay khu trục hộ tống; từ đảo Buganhvinh sẽ có các máy
bay khu vực của phi trường Kahili bảo vệ, hành trình dự kiến: Rêban,
Búcka 16 giờ 30, nghỉ đêm ở Búcka và sáng sớm hôm sau đi Kahili, tới nơi
9 giờ 45. Mỹ đã lên kế hoạch chớp nhoáng: dùng máy bay P38 ở sân bay
Hendécxơn Phin trên đảo Goađêcanên để đón đánh Yamamôtô ngay trên sân
bay Kahili vào ngày hôm sau. Sáng chủ nhật, ngày 18-4-1941, một phi đội
gồm 16 chiếc P38 của Mỹ cất cánh, bay thấp, giữ im lặng, vòng ra xa các
hòn đảo có quân Nhật chiếm giữ để tránh bị phát hiện, hướng tới mục tiêu
là đảo Bunganhvin. Khi phát hiện ra máy bay Mỹ, 6 chiến khu trục hộ
tống của Nhật tổ chức đánh chặn, 2 chiếc Sally vội vàng đâm thẳng về
phía đảo. Nhưng đã không còn kịp. Chiếc chở Yamamôtô bị một chiếc P38
lách được đến gần bắn trúng một loạt đạn 20 mm từ 4 trọng liên. Động cơ
bên phải bốc cháy, máy bay này sà xuống, vướng vào các ngọn cây, gãy
thêm cánh bên phải, bốc cháy và đâm xuống khu rừng. Chiếc Sally thứ hai
chở ban tham mưu cao cấp bị một chiếc P38 khác đuổi kịp, bắn trúng. Nó
đâm đầu xuống một bãi san hô rồi nổ tung. Các đội tìm kiếm thấy đô đốc
Yamamôtô bị chết thiêu, nhưng vẫn trong tư thế ngồi thẳng, hai bàn tay
chống trên đốc chiếc kiếm của võ sĩ Samurai. Sau này nhận định về sự
kiện Yamamôtô, bộ trưởng hải quân Mỹ là Phren Xnốc viết rằng: việc chiếm
dụng bản mật mã của hải quân Nhật có giá trị tương đương với việc hải
quân Mỹ được trang bị thêm một hạm đội.
Trong bài phát biểu trước quốc hội một ngày sau đó, tổng thống Mỹ khi
đó là Franklin D. Roosevelt gọi ngày 7/12/1941 là "ngày sẽ sống mãi
trong nỗi ô nhục".
Trong ảnh là căn cứ không quân Hickam Field. Các oanh tạc cơ Nhật Bản
ngăn Mỹ phản công bằng cách vô hiệu hóa máy bay tại đây. Ảnh: Bettmann Archive
Quay
lại chuyện chính. Nhờ có bản mật mã, Mỹ đã có thể nắm bắt nội dung của
nhiều bức điện của một tình báo Nhật lợi hại nằm vùng ở Hônôlulu, tên là
Yo Slu Kava Takeo. Mỹ cũng khám phá được một số tin mật từ sứ quán Nhật
ở Oasintơn gửi về Tôkiô. Ấy vậy mà nhiều tin tức quan trọng đó đã bị
chôn vùi trong đống hồ sơ lưu của Bộ tổng tham mưu Mỹ, trong đó có nhiều
bản tin đã giải mã xong nhưng chưa dịch ra tiếng Anh.
Ngay
từ ngày 24-7-1941, Xnốc đã báo cáo với bộ trưởng Bộ chiến tranh Mỹ là
Henri Xtimsơn như sau: “Nếu xảy ra chiến tranh với Nhật, thì đòn bất ngờ
đầu tiên sẽ là cảng Trân Châu”.
Ngày
27-7-1941, Đại sứ Mỹ ở Nhật gửi thông báo về Oasintơn, có đoạn: “Do
nhiều nguồn tin, trong đó có cả từ phía Nhật, ông Pớcgu bạn tôi ở đây
cho biết là khi xảy ra rắc rối giữa Mỹ và Nhật thì trận đụng độ đầu tiên
là ở cảng Trân Châu - Hônôlulu”. Thông tin này phải qua nhiều khâu chậm
trễ mới đến được Cục tình báo hải quân. Cục này không tin đó là việc có
thật, chỉ thêm phần bình luận rồi gửi cho đô đốc Kimen ở Hônôlulu. Ông
này bỏ qua mà không có ý kiến gì.
Ngày
20-8-1941, Henri Xtimxơn nhận được một báo cáo chi tiết của đại tá
không quân Pátrinh về cuộc diễn tập của các tàu sân bay Nhật, chuẩn bị
cho trận tiến công cảng Trân Châu. Trong đó cũng dự kiến thời điểm tiến
công là lúc mờ sáng vào những ngày cuối năm, hướng xuất phát không bình
thường, có thể là hướng bắc. Không hiểu sao bộ hồ sơ này nằm chết dí
luôn ở văn phòng bộ trưởng Xtimxơn.
Đến
tận những ngày cuối cùng trước trận đánh, Oasintơn mới thấy cần báo
động khẩn cấp cho Haoai. Tướng Gioóc Mácsan, tổng tham mưu trưởng Liên
quân Mỹ, gửi cho đô đốc Kimen một công văn khẩn “Nhật đang chuẩn bị gửi
tối hậu thư cho Mỹ ngày 7-12-1941. Toàn căn cứ phải ở trong tình trạng
báo động khẩn cấp”. Công văn gọi là “khẩn” mà lại đi gửi theo đường hàng
hải thương mại thông thường , nên khi đến nơi thì chiến sự đã nổ ra và
đô đốc Kimen nhận được nó cùng với lệnh triệu hồi.
Thật là chủ quan, lơ là đến ngỡ ngàng!
Chưa
hết! Đêm 6-12-1941, lợi dụng tối thứ bảy (ngày cuối tuần), người Mỹ
thường nghỉ việc, tàu lặn mini I.16 của Nhật đã xâm nhập đến gần đảo để
trinh sát. I.16 là loại tàu ngầm chỉ dài 13m, có một máy nổ nhỏ, 2 người
điều khiển và trang bị 2 thủy lôi 450mm. Chúng thường được tàu ngầm mẹ
mang đến gần căn cứ đối phương thả ra và hoạt động độc lập. Nhờ hệ thống
giảm âm, tốc độ chậm, lướt rất nhẹ, ít để lại gợn sóng trên mặt nước
nên khó bị phát hiện. Nó hoạt động có tính cảm tử, khi cần phải tự hủy
để khỏi lộ tung tích. Do vậy nó ra đi ít có khả năng quay về.
Đêm
đó các tàu I.16 xâm nhập đến cách đảo 8 dặm, nhô kính tiềm vọng để quan
sát rồi sau đó nổi hẳn lên mặt nước. Dưới ánh đèn bảo vệ sáng rực, ánh
đèn pha cực mạnh và quét thấp theo chu kỳ, toàn bộ quang cảnh căn cứ,
các vị trí tàu đậu… hiện lên rõ ràng trong tầm ngắm quan sát của các
thủy thủ Nhật.
Ngay sau đó, quốc hội Mỹ tuyên bố chiến tranh với Nhật Bản. Ngày
11/12/1941, Đức và Italy cũng tuyên chiến với Mỹ. Mỹ chính thức tham gia
Thế Chiến II.
Khói bao trùm tàu USS Arizona khi nó bị nghiêng và chuẩn bị chìm. Ảnh: AP
Từ
2 giờ đến gần sáng ngày 7-12, hai tàu tuần tiễu loại nhỏ của Mỹ đi tuần
ngoài khơi. Trên đường về căn cứ, một tàu phát hiện cách xa khoảng
1000m loáng có vết di động, sóng bị dạt và chao đảo, vạch một đường trên
mặt nước hướng vào căn cứ. Thuyền trưởng cho tàu bám sát, nghi là một
kính tiềm vọng. Tàu này liên lạc với hai tàu tuần tiễu lớn hơn là tàu
Scot và Oát trao đổi thông tin về mục tiêu lạ. Sau đó 15 phút, tàu Oát
báo động toàn tàu, tăng tốc độ bám sát vệt nước đang vào. Để khỏi chạm
mìn và thủy lôi rào quanh căn cứ, tàu Oát phải giảm tốc độ, quay vòng
thì mục tiêu cũng mất hút. Bấy giờ là khoảng 4 giờ 30. Sau đó cửa khẩu
ngầm mở rộng để các tàu tuần tra hết phiên trực trở vào căn cứ. Chớp
thời cơ, các tàu I.16 của Nhật lẻn vào trót lọt.
Trời mờ sáng, tàu công trình Andares dắt tàu bia (tập xạ kích) trở về. Cửa ngầm lại mở. Hai tàu I.16 tiếp tục lọt được vào.
Đến
6 giờ 30, một thủy phi cơ trinh sát Mỹ cất cánh tuần tiễu. Nhờ biển
lặng, phi công nhìn thấy từ trên cao một vệt di động, bèn cho máy bay
lượn nhiều vòng, sà thấp, quan sát kỹ hơn rồi liên lạc với đội tàu tuần
tra của căn cứ. Mục tiêu lộ rõ. Sợ nhầm phải tàu ngầm Mỹ đi lạc, họ cho
báo động và sau khi chờ trả lời không kết quả, thuyền trưởng tàu Oát ra
lệnh nổ súng. Một chiếc I.16 bị diệt.
Ở
Sở chỉ huy, sau khi nhận được báo cáo từ tàu Óat, phó đô đốc Blốc cũng
chỉ báo động cho riêng tàu khu vực Monaghon, các chiến hạm khác vẫn
không hay biết gì.
Không
quân Mỹ phát hiện thêm 2 tàu I.16 nữa trong tuyến hàng rào thủy lôi. Ba
tàu Mỹ dùng pháo và lựu đạn chống tàu ngầm bắn chế áp mãnh liệt. Hai
tàu I.16 buộc phải nổi lên để rồi bị bắn chìm. Hai tài I.16 còn lại, sau
khi đã báo về chỉ huy đầy đủ thông tin quan sát được, lúc quay ra bị
lạc hướng, vướng mìn, thủy lôi, và bị tàu khu vực Hâym bắn chìm nốt.
Trạm
rađa trên đồi Opana (bắc đảo Oahu) vào phiên trực từ 4 giờ đến 7 giờ.
Tốp trực là các trắc thủ giỏi và có tinh thần trách nhiệm. Hồi 6 giờ 15,
họ bỗng phát hiện có những chấm sáng rung động, nháy mạnh, từ ít đến
nhiều ở mép cuối màn rađa. Sau 8 -9 phút, những vết sáng càng lúc càng
đậm nét, di động xuyên tâm màn hình rađa (nghĩa là đang bay đến căn cứ).
Tín hiệu chỉ ra rằng đó là một lực lượng lớn máy bay. Kíp trắc thủ bàng
hoàng, vừa ghi tọa độ vừa quay chuông điện thoại báo khẩn cấp về Sở chỉ
huy. Liên lạc thời đó rất tệ, mãi 6 - 7 phút sau mới gọi được sĩ quan
trực chiến. Còn ngái ngủ, nghe báo cáo xong bèn quát: “Đồ điên!” rồi cúp
máy.
Các
trắc thủ rađa đứng ngồi không yên, cố tìm cách liên lạc đến mãi 7 giờ
02 phút mới gọi lại được: “Báo cáo có mục tiêu trên không, biên độ lớn,
cự ly 113 dặm…”
Lần
này, tiếng viên sĩ quan trực chiến trả lời vừa bực dọc vừa châm biếm
vài ba câu rồi kết: “Đừng có mà báo cáo gì thêm nữa!”. Vậy là lần thứ
hai, tinh thần trách nhiệm cao của các trắc thủ vẫn không được tôn
trọng. Họ cứ tiếp tục ghi chép nhưng không biết thông báo đi đâu. Cơ hội
cuối cùng và duy nhất cứu vãn sự sống của toàn căn cứ đã bị bỏ lỡ một
cách đau xót…
Phi cơ B-17E hạ cánh ở Hickam Field. Căn cứ này chịu tổn thất nặng nề về cả quân nhân và máy bay. Ảnh: Universal History Archive.
Sau đây là diễn biến trận tập kích:
Đúng
3 giờ ngày 7-12-1941, các tàu dầu được lệnh tiếp đầy dầu cho toàn hạm
đội rồi quay về Nhật. Các tàu tiến công tăng tốc nhằm rút ngắn thời gian
bay cho không quân đến mục tiêu. Trong lễ chào cờ truyền thống chữ Z
của hải quân Nhật được tiến hành trang nghiêm, đô đốc Nagumô đọc thư
động viên của Thủy sư đô đốc Yamamôtô. Lễ tuyên thệ được tiến hành trong
từng chiến hạm trước bàn thờ nhỏ. Toàn thể các phi công tham chiến đều
làm lễ Seppeiku (quỳ và chắp tay hướng về phía mặt trời mọc - tỏ lòng
trung thành với Thiên hoàng, Hirô Hirô). Trước khi ngồi vào khoang lái
để chuẩn bị cất cánh, họ còn hô vang “Temo benzai!” (Thiên hoàng vạn
tuế!).
Lúc
6 giờ, lực lượng máy bay tham gia đợt không kích đầu tiên xuất phát.
Từ hạm chỉ huy Agaki, cờ lệnh được kéo lên, 183 máy bay lần lượt rời
đường băng. Hạm đội còn cách Oahu 230 dặm, thời gian máy bay đến được
mục tiêu không kích là 1 giờ 30 phút. Chỉ huy đợt này là đại tá không
quân Mitsuô Fuchiđa. Fuchiđa chủ trương tiến công cả hai hướng đông và
tây, tránh hướng bắc vì có dãy núi trên đảo Oahu.
Trong
vịnh Trân Châu có 96 tàu các loại, nhưng không có quả khinh khí cầu nào
được thả ở lưng chừng trời để chống máy bay bay thấp.
Đô
đốc Kimen, chiều thứ bảy ăn cơm và chơi khuya tại nhà tướng Sót. Sáng
sớm, ông ta chuẩn bị đi chơi gôn ở ngoài thị trấn, vừa lên xe con thì
máy bay Nhật ập tới trên đầu.
Trong
căn cứ, mọi người đang chuẩn bị cho buổi chào cờ thường lệ vào 8 giờ
sáng. Trên chiến hạm Ôridôna, đội kèn đồng đã chờ sẵn. Lá cờ Mỹ đang
được kéo lên ở cột cờ cao của tàu công trình. Đúng lúc đó (7 giờ 55
phút, giờ Haoai), máy bay Achi 99 của Nhật lần lượt bổ nhào xuống đảo
Pho. Trên tàu phóng lôi, phó đô đốc Uyliam Phơlơn, người đầu tiên nhận
ra có máy bay Nhật xuất hiện ở hai phía. Ông ta ra lệnh bắn nhưng chẳng
có thứ gì trong tay để chỉ huy.
Tham
mưu trưởng không quân tại căn cứ, đại tá Morixơn, báo cáo cho đại tá
Philíp, sĩ quan giúp việc cho tướng Sót: máy bay Nhật đang khống chế sân
bay. Philíp trả lời: “Này anh bạn, anh điên à!”. Khi bom đã rơi nổ và
lửa bốc cháy dữ dội thì nhiều sĩ quan và quân lính Mỹ hãy còn ngáy ngủ.
Còi báo động rúc lên nhưng đã muộn.
Khu
tập trung các thủy phi cơ bị tấn công đầu tiên, tiếp đó là các sân bay,
kho tàng, bến cảng và suốt dãy hành lang neo đậu của các tàu thiết
giáp, tàu tuần dương loại nặng và vừa. Các máy bay Nhật sà thấp, thả
bom, thả thủy lôi thia lia, xả súng liên thanh quét dọc các hạm. Tàu
Ralâu trúng bom vào ống khói, tàu Uta trúng giữa thân gần như bị đứt
đôi, tàu Ôridôna và những chiếc khác cũng trúng bom, thủy lôi xuyên từ
chiếc này sang chiếc kia, có chiếc bị trúng bồi nhiều lần trước khi chìm
hẳn. Đội danh dự, thủy thủ và sĩ quan ở tư thế chào cờ trên boong, bị
súng liên thanh quét dữ dội, thương vong nặng nề, một số bị hất xuống
biển. Lẫn trong tiếng còi báo động, tiếng gầm rú của máy bay, tiếng đạn
bom ầm ĩ là tiếng gào thét điên loạn. Lửa bốc càng lúc càng mạnh ở khu
vực tàu chủ lực.
Chiến hạm USS Arizona bốc cháy. Ảnh chụp từ máy bay Nhật.
Các
máy bay đậu trên sân bay Hicơn Phin, một số bốc cháy và nổ tung, vài
chiếc phát động được máy, sắp rời đường băng cũng bị bắn hạ. Sân bay
Uynlơ Phin bị tổn thất nặng nề, riêng máy bay đã bị hủy diệt 33 chiếc
trên tổng số 49 chiếc ngay trong đợt không kích đầu tiên. Sau đợt này,
hàng loạt sân bay của lục quân và hải quân Mỹ ở căn cứ đã bị oanh tạc và
đều không sử dụng được.
Chỉ
huy đợt không kích thứ hai là đại tá Shigekaku Shimazaki. Đợt này với
170 máy bay các loại, đã cất cánh lúc 8 giờ 30. Thời gian bay tới mục
tiêu đã được rút ngắn nhờ tư lệnh Nagumô cho hạm đội tiến gần hơn.
Tại
sân bay Belao, một số máy bay Mỹ chuẩn bị xuất kích, nhưng do tổ chức
bị động, rời rạc, chỉ huy rối loạn nên bị triệt ngay trên đường băng,
vài chiếc kịp cất cánh được thì ngay lập tức cũng bị bắn rơi.
Hỏa
lực phòng không đã bắt đầu hoạt động nhưng lẻ tẻ, rời rạc, kém chính
xác nên đến 9 giờ 6 phút, tàu thiết giáp chỉ huy dự bị Penxivơniơ, các
tàu khu trục Koxin và Đaox cũng phải chịu những tổn thất…
Đến
9 giờ 45, toàn bộ trận đánh lớn của quân Nhật vào cảng Trân Châu kết
thúc. Vào lúc 13 giờ ngày 7-12, chiếc máy bay cuối cùng tham gia cuộc
tập kích hạ cánh an toàn xuống tàu sân bay Agaki.
Toàn hạm đội do đô đốc Nagumô chỉ huy cặp quân cảng Nahinajima ngày 23-12-1941.
Kết quả trận đánh:
-
Thiệt hại về phía Mỹ: Đắm và trọng thương 19 tàu chiến lớn cùng một số
lớn tàu chiến nhỏ; 188 máy bay bị tiêu diệt, 159 chiếc bị phá hỏng; chết
và mất tích 2.403 người, bị thương 1.188 người.
-
Thiệt hại về phía Nhật: 29 máy bay bị rơi do tai nạn, do hết xăng không
hạ cánh được; 5 tàu mini I.16 bị tiêu diệt; chết và mất tích 64 người, 1
người bị bắt làm tù binh.
Nhiều sĩ quan cấp dưới của Nhật Bản, trong đó có cả Mitsuo Fuchida và Minoru Genda, kiến trúc sư chính của cuộc tấn công, đã thuyết phục Đô đốc Nagumo tiếp tục thực hiện đợt không kích thứ ba nhằm tiêu diệt càng nhiều càng tốt nhiên liệu và ngư lôi dự trữ tại Trân Châu Cảng, cũng như các cơ sở sửa chữa và ụ tàu. Các sử gia quân sự đều cho rằng việc phá hủy các cơ sở này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của Hạm đội Thái Bình Dương nặng nề hơn nhiều so với phá hủy các thiết giáp hạm.[ Nếu chúng bị quét sạch, "các chiến dịch quân sự nghiêm túc tại Thái Bình Dương phải bị trì hoãn hơn một năm. Tuy nhiên, Nagumo đã quyết định rút lui vì nhiều lý do:
Một đợt tấn công thứ ba đòi hỏi phải có sự chuẩn bị thích đáng và thời gian quay vòng, điều này có nghĩa là những máy bay tấn công khi quay trở về sẽ phải hạ cánh lúc trời tối. Cho đến thời ấy, chưa có lực lượng hải quân nào phát triển hay thực hành kỹ thuật tàu sân bay ban đêm, nên đây là rủi ro lớn.
Tình hình nhiên liệu của Lực lượng Đặc nhiệm không cho phép ông nán lại vùng biển phía Bắc Hawaii lâu hơn nữa, vì ông đang ở sát giới hạn của khả năng tiếp vận. Việc tiếp tục tấn công sẽ mạo hiểm làm cạn đáng kể nhiên liệu, thậm chí đến mức phải bỏ lại các tàu khu trục trên đường quay trở về.
Ông tin rằng đợt tấn công thứ hai về cơ bản đã thỏa mãn mục đích chủ yếu của nhiệm vụ, đó là vô hiệu hóa Hạm đội Thái Bình Dương, và không cần thiết phải mạo hiểm để gánh thêm nhiều thiệt hại khác. Hơn nữa, hoạt động của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thiên về việc bảo toàn sức mạnh hơn là tiêu diệt toàn bộ đối phương...
Trong một hội nghị trên chiếc thiết giáp hạm Yamoto vào buổi sáng ngày hôm sau, Yamamoto thoạt tiên ủng hộ Nagumo. Sau này, khi nhìn lại, việc bỏ sót các ụ tàu, công xưởng sửa chữa và kho dầu mang ý nghĩa sống còn đó khiến cho người Mỹ có thể phản ứng tương đối nhanh chóng các hoạt động của Nhật tại Thái Bình Dương. Yamamoto sau đó đã lấy làm tiếc cho quyết định rút lui của Nagumo và thẳng thừng cho rằng đó là một sai lầm lớn khi không tung ra đợt tấn công thứ ba.
Cho dù cuộc tấn công gây thiệt hại trên diện rộng cho tàu chiến và máy bay Mỹ, nó đã không ảnh hưởng đến các cơ sở dự trữ nhiên liệu, xưởng sửa chữa và các cơ quan tình báo tại Trân Châu Cảng.
May mắn cho phía Hoa Kỳ, các tàu sân bay Hoa Kỳ đã không bị đụng đến trong cuộc tấn công của Nhật; nếu không thì khả năng tiến hành các chiến dịch tấn công của Hạm đội Thái Bình Dương sẽ bị tê liệt trong khoảng một năm (nếu không chuyển hướng một phần lực lượng Hạm đội Đại Tây Dương). Như đã thấy, lực lượng thiết giáp hạm bị loại bỏ khiến Hải quân Hoa Kỳ không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cách dựa vào các tàu sân bay và tàu ngầm, chính những vũ khí đã giúp Hoa Kỳ chặn đứng và đảo ngược thế thượng phong của Nhật Bản. Năm trong số tám thiết giáp hạm được sửa chữa và quay trở lại hoạt động, nhưng vận tốc chậm của chúng làm giới hạn hoạt động được bố trí, và chúng phục vụ chủ yếu trong vai trò bắn phá bờ biển. Một thiếu sót lớn trong tư duy chiến lược của Nhật Bản là niềm tin về một trận chiến Thái Bình Dương cuối cùng được đấu giữa những thiết giáp hạm theo đúng học thuyết của Thuyền trưởng Alfred Mahan. Hậu quả là, Yamamoto (và những người kế tiếp ông) cố dành dụm những chiếc thiết giáp hạm cho một "trận chiến quyết định" không bao giờ xảy ra.
Đô đốc Hara Tadaichi đã tóm lược kết quả cuộc tấn công về phía Nhật Bản bằng một câu nói súc tích: "Chúng ta thắng một chiến thắng chiến thuật vĩ đại tại Trân Châu Cảng, và do đó đã thua cả cuộc chiến." .
Cuộc tấn công là một cú sốc thật sự đối với tất cả các nước Đồng Minh tại Mặt trận Thái Bình Dương. Các thiệt hại tiếp theo sau tạo ra một sự thụt lùi đáng báo động. Ba ngày sau, tức ngày 10-12-1941, xảy ra trận thủy chiến Kwantan (Xingapo). Ngay trong 15 phút đầu tiên giao chiến, 2 chiến hạm chủ lực nổi tiếng thời đó của hải quân Anh là Prinxơn Uâyx và Ripơn bị không quân của Nhật đánh chìm. Hạm đội Anh do thủy sư đô đốc Tôm Philip chỉ huy nhanh chóng tan tác. Tư lệnh Philíp tuẫn tiết theo kỳ hạm (tàu chỉ huy), giữ truyền thống của hải quân Anh. Trong phiên họp khẩn của Quốc hội Anh đêm 10-12 về sự kiện các tàu chiến Prince of Wales và Repulse bị đánh chìm ngoài khơi bờ biển Malaya, Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill chua chát nhớ lại: "Trong suốt cuộc chiến tranh tôi chưa bao giờ nhận được một cú sốc trực tiếp đến như thế. Khi tôi trăn trở trên giường, nỗi sợ hãi bao trùm lấy tâm trí tôi. Không còn chiếc tàu chiến chủ lực Anh hay Hoa Kỳ nào còn lại trên Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương trừ những chiếc của Hoa Kỳ còn sống sót tại Trân Châu Cảng đang vội vã lui về California. Trên các vùng biển mênh mông này người Nhật đang là bá chủ, và chúng ta đang yếu đuối và trần trụi ở mọi nơi".
Nhiều sĩ quan cấp dưới của Nhật Bản, trong đó có cả Mitsuo Fuchida và Minoru Genda, kiến trúc sư chính của cuộc tấn công, đã thuyết phục Đô đốc Nagumo tiếp tục thực hiện đợt không kích thứ ba nhằm tiêu diệt càng nhiều càng tốt nhiên liệu và ngư lôi dự trữ tại Trân Châu Cảng, cũng như các cơ sở sửa chữa và ụ tàu. Các sử gia quân sự đều cho rằng việc phá hủy các cơ sở này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của Hạm đội Thái Bình Dương nặng nề hơn nhiều so với phá hủy các thiết giáp hạm.[ Nếu chúng bị quét sạch, "các chiến dịch quân sự nghiêm túc tại Thái Bình Dương phải bị trì hoãn hơn một năm. Tuy nhiên, Nagumo đã quyết định rút lui vì nhiều lý do:
Một đợt tấn công thứ ba đòi hỏi phải có sự chuẩn bị thích đáng và thời gian quay vòng, điều này có nghĩa là những máy bay tấn công khi quay trở về sẽ phải hạ cánh lúc trời tối. Cho đến thời ấy, chưa có lực lượng hải quân nào phát triển hay thực hành kỹ thuật tàu sân bay ban đêm, nên đây là rủi ro lớn.
Tình hình nhiên liệu của Lực lượng Đặc nhiệm không cho phép ông nán lại vùng biển phía Bắc Hawaii lâu hơn nữa, vì ông đang ở sát giới hạn của khả năng tiếp vận. Việc tiếp tục tấn công sẽ mạo hiểm làm cạn đáng kể nhiên liệu, thậm chí đến mức phải bỏ lại các tàu khu trục trên đường quay trở về.
Ông tin rằng đợt tấn công thứ hai về cơ bản đã thỏa mãn mục đích chủ yếu của nhiệm vụ, đó là vô hiệu hóa Hạm đội Thái Bình Dương, và không cần thiết phải mạo hiểm để gánh thêm nhiều thiệt hại khác. Hơn nữa, hoạt động của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thiên về việc bảo toàn sức mạnh hơn là tiêu diệt toàn bộ đối phương...
Máy bay ném bom Type 99 của Hải quân Nhật Bản chuẩn bị cất cánh từ tàu sân bay để làm nhiệm vụ tấn công Trân Châu cảng sáng ngày 7/12/1941. Tàu đằng sau là tàu sân bay Soryu. Ảnh Reuters
Trong một hội nghị trên chiếc thiết giáp hạm Yamoto vào buổi sáng ngày hôm sau, Yamamoto thoạt tiên ủng hộ Nagumo. Sau này, khi nhìn lại, việc bỏ sót các ụ tàu, công xưởng sửa chữa và kho dầu mang ý nghĩa sống còn đó khiến cho người Mỹ có thể phản ứng tương đối nhanh chóng các hoạt động của Nhật tại Thái Bình Dương. Yamamoto sau đó đã lấy làm tiếc cho quyết định rút lui của Nagumo và thẳng thừng cho rằng đó là một sai lầm lớn khi không tung ra đợt tấn công thứ ba.
Cho dù cuộc tấn công gây thiệt hại trên diện rộng cho tàu chiến và máy bay Mỹ, nó đã không ảnh hưởng đến các cơ sở dự trữ nhiên liệu, xưởng sửa chữa và các cơ quan tình báo tại Trân Châu Cảng.
May mắn cho phía Hoa Kỳ, các tàu sân bay Hoa Kỳ đã không bị đụng đến trong cuộc tấn công của Nhật; nếu không thì khả năng tiến hành các chiến dịch tấn công của Hạm đội Thái Bình Dương sẽ bị tê liệt trong khoảng một năm (nếu không chuyển hướng một phần lực lượng Hạm đội Đại Tây Dương). Như đã thấy, lực lượng thiết giáp hạm bị loại bỏ khiến Hải quân Hoa Kỳ không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cách dựa vào các tàu sân bay và tàu ngầm, chính những vũ khí đã giúp Hoa Kỳ chặn đứng và đảo ngược thế thượng phong của Nhật Bản. Năm trong số tám thiết giáp hạm được sửa chữa và quay trở lại hoạt động, nhưng vận tốc chậm của chúng làm giới hạn hoạt động được bố trí, và chúng phục vụ chủ yếu trong vai trò bắn phá bờ biển. Một thiếu sót lớn trong tư duy chiến lược của Nhật Bản là niềm tin về một trận chiến Thái Bình Dương cuối cùng được đấu giữa những thiết giáp hạm theo đúng học thuyết của Thuyền trưởng Alfred Mahan. Hậu quả là, Yamamoto (và những người kế tiếp ông) cố dành dụm những chiếc thiết giáp hạm cho một "trận chiến quyết định" không bao giờ xảy ra.
Đây là 12 bức ảnh hiếm về nước Mỹ sau trận Trân Châu cảng. Ảnh: Xác chiến hạm USS Arizona đang dần chìm xuống đại dương vào buổi sáng định mệnh năm 1941 đó. Ảnh Time
Đô đốc Hara Tadaichi đã tóm lược kết quả cuộc tấn công về phía Nhật Bản bằng một câu nói súc tích: "Chúng ta thắng một chiến thắng chiến thuật vĩ đại tại Trân Châu Cảng, và do đó đã thua cả cuộc chiến." .
Cuộc tấn công là một cú sốc thật sự đối với tất cả các nước Đồng Minh tại Mặt trận Thái Bình Dương. Các thiệt hại tiếp theo sau tạo ra một sự thụt lùi đáng báo động. Ba ngày sau, tức ngày 10-12-1941, xảy ra trận thủy chiến Kwantan (Xingapo). Ngay trong 15 phút đầu tiên giao chiến, 2 chiến hạm chủ lực nổi tiếng thời đó của hải quân Anh là Prinxơn Uâyx và Ripơn bị không quân của Nhật đánh chìm. Hạm đội Anh do thủy sư đô đốc Tôm Philip chỉ huy nhanh chóng tan tác. Tư lệnh Philíp tuẫn tiết theo kỳ hạm (tàu chỉ huy), giữ truyền thống của hải quân Anh. Trong phiên họp khẩn của Quốc hội Anh đêm 10-12 về sự kiện các tàu chiến Prince of Wales và Repulse bị đánh chìm ngoài khơi bờ biển Malaya, Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill chua chát nhớ lại: "Trong suốt cuộc chiến tranh tôi chưa bao giờ nhận được một cú sốc trực tiếp đến như thế. Khi tôi trăn trở trên giường, nỗi sợ hãi bao trùm lấy tâm trí tôi. Không còn chiếc tàu chiến chủ lực Anh hay Hoa Kỳ nào còn lại trên Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương trừ những chiếc của Hoa Kỳ còn sống sót tại Trân Châu Cảng đang vội vã lui về California. Trên các vùng biển mênh mông này người Nhật đang là bá chủ, và chúng ta đang yếu đuối và trần trụi ở mọi nơi".
Trận
cảng Trân Châu đã kích hoạt làm bùng nổ chiến tranh Thái Bình Dương.
Vào 12 giờ 30 phút ngày 8 tháng 12, tổng thống Roosevelt đã đọc Tuyên cáo
chiến tranh của Hoa Kỳ đối với Nhật Bản. Ông mở đầu bài diễn văn như
sau: “ Hôm qua, ngày 7-12, một ngày của sự nhục nhã – Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
đã bị các lực lượng hải quân và không quân của đế quốc Nhật tấn công bất
ngờ và không tuyên chiến….”. Sau khi nói rõ thiện chí hòa bình và sự tráo trở của Nhật Bản trong các
cuộc hội đàm và trong hành động thực tế để dẫn đến chiến tranh, tổng
thống Roosevelt tuyên bố: “ Tôi yêu cầu lưỡng viện của quốc hội Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật Bản, kể từ ngày chủ nhật hôm qua.”.
Như vậy, Hoa Kỳ đã chính thức bước vào cuộc chiến tranh tổng lực với Nhật Bản. Trong ngày 7 tháng 12, Úc cũng tuyên chiến với Nhật Bản và một ngày sau đến lượt Anh, Hà Lan. Tiếp đó, nước Pháp , New Zealand, Canada,… tất cả hơn 20 nước cũng lần lượt tuyên chiến với Nhật. Ngày 11-2, Mỹ tuyên chiến với Đức và Ý. Cùng ngày, Đức và Ý cũng tuyên chiến với Mỹ.
Như vậy, Hoa Kỳ đã chính thức bước vào cuộc chiến tranh tổng lực với Nhật Bản. Trong ngày 7 tháng 12, Úc cũng tuyên chiến với Nhật Bản và một ngày sau đến lượt Anh, Hà Lan. Tiếp đó, nước Pháp , New Zealand, Canada,… tất cả hơn 20 nước cũng lần lượt tuyên chiến với Nhật. Ngày 11-2, Mỹ tuyên chiến với Đức và Ý. Cùng ngày, Đức và Ý cũng tuyên chiến với Mỹ.
Các thủy thủ Mỹ đứng giữa các xác máy bay tại căn cứ đảo Ford. Tàu khu trục USS Shaw nổ ở giữa hậu cảnh.
Cách
thủy chiến bằng hải quân kết hợp với không quân chiến đấu của Nhật đã
chỉ ra: từ đây, một hạm đội, dù hỏa lực có mạnh đến mức nào, cũng không
thể trụ nổi trước đối phương, nếu không có máy bay chiến đấu yểm trợ.
Trong chiến tranh Thái Bình Dương, xuất phát từ đặc tính môi trường tác
chiến là biển cả, việc loại khỏi vòng chiến đấu các căn cứ hải quân và
không quân của đối phương là một yếu tố rất quan trọng để giành thế chủ
động chiến lược. Không quân của lực lượng hải quân trên các tàu sân bay
đã trở nên giữ vai trò chính yếu trong việc giải quyết nhiệm vụ đó…
Khi
bắt đầu chiến tranh, các lực lượng vũ trang của Mỹ, Anh, Hà Lan… ở Thái
Bình Dương có 22 sư đoàn (420 ngàn người), 237 tàu chiến (trong đó chỉ
có 3 tàu sân bay), 88 tàu ngầm và 1.290 máy bay. Nhưng các lực lượng đó
bị dàn mỏng ra nhiều căn cứ, hơn nữa lại ít hơn Nhật hai lần về tàu sân
bay và số máy bay đậu trên tàu sân bay. Ngoài ra, tại khu vực này chưa
thành lập được một bộ chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang Đồng
Minh.
Trong
vòng 5 tháng sau trận tập kích thắng lợi, gây thiệt hại nặng không kịp
phục hồi cho hải quân Mỹ ở cảng Trân Châu, phát xít Nhật, với tương quan
lực lượng vượt trội, đã giành tiếp hết thắng lợi này đến thắng lợi
khác, đánh bật Anh, Mỹ ra khỏi Thái Bình Dương, chiếm được một vùng lãnh
thổ rộng lớn đến 3,8 triệu km2 với hơn 150 triệu dân (nếu tính cả phần đất Trung Quốc đã chiếm được trước đó thì lúc này Nhật chiếm khoảng 7 triệu km2 và 500 triệu dân cư)
Tuy
nhiên, năng lực quân sự của Nhật không phải là vô hạn. Đến thời gian
này, những mâu thuẫn giữa khả năng và mục đích của phát xít Nhật đã được
bộc lộ. Hàng loạt khó khăn xuất hiện đã buộc các mũi tiến công chiến
lược của quân Nhật phải dừng lại.
Mỹ
cấp tốc đề ra các biện pháp tăng cường sức mạnh cho không quân và hải
quân. Lực lượng vũ trang Nhật dàn mỏng trong không gian rộng lớn Thái
Bình Dương đã bắt đầu cảm thấy sức chống cự của đối phương ngày một
tăng.
Tháng
5-1942, hải quân Nhật mở cuộc tiến công nhằm chiếm một cảng quan trọng
trong vùng biển San hô (Corail), giữa Úc và quần đảo Salômôn - cảng
Môtơsơbi. Trong cuộc giao chiến ngày 7 và 8-5, quân Nhật đã buộc phải
rút lui sau khi mất 1 tàu sân bay, 1 khu trục hạm và trên 80 máy bay.
Đây là thắng lợi đầu tiên của Mỹ và cũng là thất bại đầu tiên của Nhật
trên chiến trường Thái Bình Dương.
Máy bay Nhật chuẩn bị cất cánh tấn công Trân Châu Cảng.
Máy bay Nhật chuẩn bị cất cánh tấn công Trân Châu Cảng.
Sau
thất bại đó, bộ chỉ huy Nhật chọn quần đảo Mituây (Midway) làm mục tiêu
tấn công.
Trận Midway là một trận hải chiến quan trọng trong thế chiến thứ hai tại chiến trường Thái Bình Dương, diễn ra ngày từ ngày 4 tháng 6 – 7 tháng 6 năm 1942. Hai bên tham chiến là hạm đội Nhật Bản và hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Chỉ một tháng sau trận chiến biển Coral quyết định, hải quân Hoa Kỳ đã đánh bại một cuộc tấn công nữa của Hải quân Nhật Bản tại đảo san hô Midway, đánh dấu bước ngoặt trong chiến tranh Thái Bình Dương (1937–1945)
Thành công của chiến dịch này được coi là bước chuẩn bị cho những chiến dịch kế tiếp ở Fiji và Samoa, cũng thúc đẩy chiến dịch đánh chiếm Hawaii. Nếu người Nhật thành công trong mục tiêu Midway, vùng phía đông bắc vành đai Thái Bình Dương sẽ là vùng không có nguy cơ đối với Hải quân Nhật Bản. Nhờ vậy, chiến dịch Midway, cũng như cuộc tấn công Trân Châu Cảng đã mở ra chiến tranh, không phải là một phần của chiến dịch chinh phục nước Mỹ mà là để chiếm lấy sức mạnh chiến lược ở Thái Bình Dương. Trong những hoàn cảnh tốt nhất, họ hy vọng rằng người Mỹ sẽ bắt buộc phải tìm giải pháp đàm phán để chấm dứt Chiến tranh Thái Bình Dương.
Tương tự như nhiều kế hoạch hải quân của Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai, kế hoạch trận đánh của Đô đốc Yamamoto Isoroku rất phức tạp và khó hiểu. Tin rằng người Mỹ đã mất tinh thần vì phải chịu nhiều thất bại trước người Nhật trong vòng sáu tháng trước đó, Yamamoto cảm thấy rằng mánh khóe cần thiết phải nhử được những phần chính của hạm đội Hoa Kỳ vào trong một tình huống đặc biệt nguy hiểm. Hiểu theo nghĩa thường, ông chia các lực lượng của mình theo kiểu ở quy mô rộng nhất khiến cho chúng không bị người Mỹ phát hiện trước trận đánh có tính chất quyết định. Vì vậy, Yamamoto dàn các lực lượng tàu chiến và tuần dương hạm của mình và lực lượng tàu sân bay tấn công của Phó đô đốc Chuichi Nagumo thành một vệt dài hàng trăm dặm; kiểu này nhằm để đối đầu với các lực lượng bất kỳ nào của hạm đội Mỹ có ý định tới cứu trợ cho Midway, một khi các tàu sân bay của Nagumo đã tấn công làm cho chúng bị yếu đi. Không may cho người Nhật, vì nhấn mạnh tới yếu tố bí mật và việc phân chia lực lượng của họ đồng nghĩa với việc không một lực lượng nào trong hạm đội của họ có thể giúp đỡ được nhau, và nó đã dẫn tới sự chôn vùi lực lượng tàu sân bay của Nagumo trong cuộc chiến.
Tình báo hải quân Hoa Kỳ (hợp tác với tình báo Anh và Hà Lan) đã biết được một số phần trong hệ thống bộ giải mã liên lạc gốc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (JN-25), và đã rất gắng sức nhằm có được những phiên bản về sau này, nó chỉ được tung ra ngay trước cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Việc thu thập được nhiều thông tin tình báo qua radio của hải quân Nhật từ cuộc không kích Doolittle càng làm JN-25 mất giá trị.
Vì vậy, tới tháng 5 năm 1942 người Mỹ đã biết rằng người Nhật đang chuẩn bị tung ra một cuộc tấn công lớn nhằm vào một mục tiêu (được gọi là "AF" từ đầu tháng 6), và có thể hy vọng phục kích trước cuộc tấn công này. Mặc dù những phân tích về các dữ kiện đó, "Hypo," đơn vị mật mã của Nimiz tại Trân Châu Cảng, đã tin rằng "AF" chính là Midway.Cuộc chiến lớn trên biển giữa hải quân Nhật và hải quân Mỹ - Anh đã xảy ra từ ngày 4 đến ngày 6-6-1942. Thất bại thuộc về quân Nhật với thiệt hại: mất 4 tàu sân bay, 1 tàu tuần dương loại nặng và 253 máy bay (dẫn đến mất ưu thế trước đây về tàu sân bay so với Mỹ - Anh).Với việc bẻ gãy cuộc tiến công của quân Nhật, Hoa Kỳ đã đạt được thắng lợi quyết định cho cả cuộc chiến.
Trận Midway là một trận hải chiến quan trọng trong thế chiến thứ hai tại chiến trường Thái Bình Dương, diễn ra ngày từ ngày 4 tháng 6 – 7 tháng 6 năm 1942. Hai bên tham chiến là hạm đội Nhật Bản và hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Chỉ một tháng sau trận chiến biển Coral quyết định, hải quân Hoa Kỳ đã đánh bại một cuộc tấn công nữa của Hải quân Nhật Bản tại đảo san hô Midway, đánh dấu bước ngoặt trong chiến tranh Thái Bình Dương (1937–1945)
Thành công của chiến dịch này được coi là bước chuẩn bị cho những chiến dịch kế tiếp ở Fiji và Samoa, cũng thúc đẩy chiến dịch đánh chiếm Hawaii. Nếu người Nhật thành công trong mục tiêu Midway, vùng phía đông bắc vành đai Thái Bình Dương sẽ là vùng không có nguy cơ đối với Hải quân Nhật Bản. Nhờ vậy, chiến dịch Midway, cũng như cuộc tấn công Trân Châu Cảng đã mở ra chiến tranh, không phải là một phần của chiến dịch chinh phục nước Mỹ mà là để chiếm lấy sức mạnh chiến lược ở Thái Bình Dương. Trong những hoàn cảnh tốt nhất, họ hy vọng rằng người Mỹ sẽ bắt buộc phải tìm giải pháp đàm phán để chấm dứt Chiến tranh Thái Bình Dương.
Tương tự như nhiều kế hoạch hải quân của Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai, kế hoạch trận đánh của Đô đốc Yamamoto Isoroku rất phức tạp và khó hiểu. Tin rằng người Mỹ đã mất tinh thần vì phải chịu nhiều thất bại trước người Nhật trong vòng sáu tháng trước đó, Yamamoto cảm thấy rằng mánh khóe cần thiết phải nhử được những phần chính của hạm đội Hoa Kỳ vào trong một tình huống đặc biệt nguy hiểm. Hiểu theo nghĩa thường, ông chia các lực lượng của mình theo kiểu ở quy mô rộng nhất khiến cho chúng không bị người Mỹ phát hiện trước trận đánh có tính chất quyết định. Vì vậy, Yamamoto dàn các lực lượng tàu chiến và tuần dương hạm của mình và lực lượng tàu sân bay tấn công của Phó đô đốc Chuichi Nagumo thành một vệt dài hàng trăm dặm; kiểu này nhằm để đối đầu với các lực lượng bất kỳ nào của hạm đội Mỹ có ý định tới cứu trợ cho Midway, một khi các tàu sân bay của Nagumo đã tấn công làm cho chúng bị yếu đi. Không may cho người Nhật, vì nhấn mạnh tới yếu tố bí mật và việc phân chia lực lượng của họ đồng nghĩa với việc không một lực lượng nào trong hạm đội của họ có thể giúp đỡ được nhau, và nó đã dẫn tới sự chôn vùi lực lượng tàu sân bay của Nagumo trong cuộc chiến.
Tình báo hải quân Hoa Kỳ (hợp tác với tình báo Anh và Hà Lan) đã biết được một số phần trong hệ thống bộ giải mã liên lạc gốc của Hải quân Đế quốc Nhật Bản (JN-25), và đã rất gắng sức nhằm có được những phiên bản về sau này, nó chỉ được tung ra ngay trước cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Việc thu thập được nhiều thông tin tình báo qua radio của hải quân Nhật từ cuộc không kích Doolittle càng làm JN-25 mất giá trị.
Vì vậy, tới tháng 5 năm 1942 người Mỹ đã biết rằng người Nhật đang chuẩn bị tung ra một cuộc tấn công lớn nhằm vào một mục tiêu (được gọi là "AF" từ đầu tháng 6), và có thể hy vọng phục kích trước cuộc tấn công này. Mặc dù những phân tích về các dữ kiện đó, "Hypo," đơn vị mật mã của Nimiz tại Trân Châu Cảng, đã tin rằng "AF" chính là Midway.Cuộc chiến lớn trên biển giữa hải quân Nhật và hải quân Mỹ - Anh đã xảy ra từ ngày 4 đến ngày 6-6-1942. Thất bại thuộc về quân Nhật với thiệt hại: mất 4 tàu sân bay, 1 tàu tuần dương loại nặng và 253 máy bay (dẫn đến mất ưu thế trước đây về tàu sân bay so với Mỹ - Anh).Với việc bẻ gãy cuộc tiến công của quân Nhật, Hoa Kỳ đã đạt được thắng lợi quyết định cho cả cuộc chiến.
Trong
6 tháng cuối năm 1942 và trong năm 1943, nhờ có tiềm lực lớn lao về
kinh tế và quân sự, lực lượng Mỹ - Anh đã dần dần lấy lại được quyền chủ
động chiến lược, hoạt động có phần tích cực hơn. Đến cuối năm 1943, Mỹ -
Anh đã đuổi sạch quân Nhật khỏi các đảo Ghinbéctơ, Alêuchiên, phần lớn
các đảo trên biển San hô và phần phía đông - nam đảo Tân Ghinê.
Lính Mỹ nghe đài đưa tin Tổng thống Franklin D. Roosevelt trình Quốc hội việc tham gia Thế chiến 2 một ngày sau khi Trân Châu Cảng bị tấn công. (Ảnh: Reuters)
Lính Mỹ nghe đài đưa tin Tổng thống Franklin D. Roosevelt trình Quốc hội việc tham gia Thế chiến 2 một ngày sau khi Trân Châu Cảng bị tấn công. (Ảnh: Reuters)
Sự
gây chiến qui mô lớn của ba nước phát xít Đức, Ý, Nhật đã gây ra khói
lửa, chết chóc trên hầu khắp các châu lục Á - Âu - Phi, chà đạp thô bạo
lên quyền sống cơ bản của các dân tộc ở đó và do đó mà cũng thổi bùng
lên phong trào chống phát xít trên khắp thế giới. Việc thành lập một
liên minh quốc tế nhằm chống lại sự đe dọa hủy diệt của lực lượng phát
xít, giành lại hòa bình cho thế giới đã trở thành nguyện vọng và đòi hỏi
bức thiết của Đại chúng nhân loại.
Ngày
15-8-1941, tổng thống Mỹ và thủ tướng Anh đã gửi bức thông điệp chung
cho chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô, trong đó đề nghị tổ chức tại
Mátxcơva một hội nghị để bàn về việc cung cấp cho nhau những nguyên liệu
và vật tư chiến tranh. Chính phủ Liên Xô đã chấp thuận và Hội nghị đã được tiến hành từ ngày 29-9 đến ngày 1-10 và văn kiện Hội nghị được ký kết vào ngày 1-10.
Sau
khi chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra, Anh và nhất là Mỹ dù vẫn muốn
hòa hoãn với Nhật thì cũng đã bị lôi tuột vào vòng chiến. Giờ đây, trực
tiếp hay gián tiếp thì không những toàn thể loài người mà núi rừng, sông
hồ, biển cả đều tham gia cuộc chiến; hay có thể nói Trái Đất đã lâm
chiến tự hủy diệt mình do đứa con hư của nó gây ra. Và thuận theo lẽ tự
nhiên, sự tích cực thích nghi để sống còn đòi hỏi phải có một lực lượng
thống nhất của loài người, dùng chiến tranh để cứu vãn hòa bình, lấy
tiêu diệt để loại trừ sự tiêu diệt; phải có một trận tuyến mà một bên là
đa số không phân biệt đảng phái, tôn giáo, chế độ, tư tưởng, miễn là
biết chính nghĩa và một bên là thiểu số phát xít tham tàn, bạo ngược,
ích kỷ. Hồng quân Liên Xô đã là người lính đầu tiên trên tuyến đầu, phản
kích lại quyết liệt cuộc thập tự chinh nô dịch thế giới của chủ nghĩa
phát xít và với trận đánh phòng thủ thắng lợi trước cửa ngõ Mátxcơva, họ
đã đem lại niềm tin lớn lao cho lực lượng cần lao và yêu chuộng hòa
bình thế giới. Nhân dân Liên Xô trong khi chiến đấu bất khuất tự cứu
mình thì cũng đồng thời trở thành những người phất cao ngọn cờ khởi
nghĩa cho bốn phương hướng về.
Đến
cuối năm 1941, điều kiện và hoàn cảnh đã chín muồi để làm xuất hiện một
mặt trận liên minh trên phạm vi toàn thế giới chống chủ nghĩa phát xít.
Ngày
1-1-1942, tại Oasintơn đã ký kết bản “Tuyên bố Liên Hợp Quốc” của 26
nước, trong đó có Liên Xô, Mỹ, Anh. Bản tuyên bố qui định:
“-
Các chính phủ cam kết dốc toàn bộ sức mạnh quân sự và kinh tế của đất
nước vào cuộc chiến tranh chống lực lượng phát xít và chư hầu của chúng.
-
Mỗi chính phủ cam kết hợp tác với các chính phủ tham gia bản tuyên bố
chung, không được ký hiệp định đình chiến hay hòa ước riêng với các nước
thù địch.
- Bất cứ nước nào có đóng góp vào cuộc đấu tranh chiến thắng chủ nghĩa phát xít đều có thể tham gia bản tuyên bố trên”.
Ngày
26-5-1942, tại Luân Đôn đã ký kết hiệp ước giữa Anh và Liên Xô về việc
liên minh chống nước Đức phát xít cùng các nước chư hầu của nó ở Châu Âu
và việc tương trợ lẫn nhau sau chiến tranh.
Ngày
11-7-1942, tại Oasintơn đã ký kết hiệp ước Xô - Mỹ về những nguyên tắc
tương trợ trong quá trình đấu tranh chống phát xít xâm lược.
Như
vậy, Mặt trận Đồng Minh chống phát xít toàn thế giới, mà nòng cốt là sự
liên minh Xô - Mỹ - Anh đã được thành lập. Mặt trận này đã có tác dụng
tích cực và to lớn đối với việc tạo nên sự đoàn kết, phối hợp, hỗ trợ
giữa các lực lượng chính nghĩa trong chiến tranh thế giới thứ hai.
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------
-------------------------------------------------------
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét