Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015
HỌC THẦY KHÔNG TÀY HỌC BẠN 2
Vì sao ngành nông nghiệp Úc lại phát triển thành công đến thế?
03/05/2015
6,585 lượt xem
Nước Úc được nhìn nhận là một
quốc gia phát triển và nằm trong số các quốc gia thịnh vượng nhất trên
thế giới, với nền kinh tế lớn đứng thứ 12 trên toàn thế giới.
Vào năm 2012, thu nhập bình quân đầu
người của Úc đứng thứ năm thế giới. Nước Úc được thành lập vào ngày
01/01/1901 với tên đầy đủ tiếng Anh là Commonwealth of Australia, có
nghĩa là khối thịnh vượng chung Úc. Ngay từ khi thành lập, Úc duy trì
một hệ thống chính trị dân chủ tự do ổn định, bao gồm sáu bang và một số
lãnh thổ với tổng dân số vào khoảng 23,1 triệu người.
Với lịch sử non trẻ chỉ hơn 100 năm, với
hơn 100 dân tộc đa văn hóa, nước Úc giờ đã trở thành một đất nước giàu
mạnh, xây dựng được một nơi có đời sống tốt nhất thế giới, xuất khẩu hầu
hết các mặt hàng quan trọng kể cả dịch vụ giáo dục. Với mục tiêu ban
đầu là tự đảm bảo nguồn lương thực cho người dân Úc, Chính phủ đã thực
sự đầu tư vào việc phát triển ngành nông nghiệp Úc cho dù diện tích đất
có thể canh tác được của Úc chỉ chiếm 1% tổng diện tích lục địa Úc (tổng
diện tích Úc là 768 triệu héc ta) do chỉ có vùng ven biển là có lượng
mưa tương đối tốt. Hiện nước Úc có 18 triệu héc ta trồng trọt và 28
triệu héc ta đồng cỏ trong đó chỉ có 4 triệu héc ta là thực sự có lượng
nước đầy đủ.
Lực lượng lao động chính thức trong lĩnh
vực nông nghiệp của Úc là 400.000 người, chiếm 4% lực lượng lao động
của toàn nước Úc (vào khoảng 10 triệu người) nhưng nước Úc có chỉ số tự
cung cao nhất thế giới (nông nghiệp Mỹ có kim ngạch xuất khẩu nông sản
đứng đầu thế giới nhưng chỉ số tự cung tự cấp lại thấp hơn Úc), cụ thể
là tính trung bình một nông dân Úc có thể nuôi 190 người. Sản phẩm nông
nghiệp chính của Úc là lúa mì, lúa mạch, mía, hoa quả, gia súc, cừu, gia
cầm.
Nền nông nghiệp Úc cung cấp nông sản đầy đủ cho thị trường nội địa và xuất khẩu 80% tổng sản lượng, thu nhập của mỗi người nông dân Úc lên đến 100.000 USD/ năm, cao hơn so với GDP bình quân đầu người của Úc (60.000 USD/năm).
Chính sách đầu tư nghiên cứu vào công nghệ và quy trình
Úc là một quốc gia có đất rộng người
thưa, ít mưa, tình trạng khô hạn xảy ra thường xuyên, Úc không có một
ngành nghề nào gọi là truyền thống, kể cả nông nghiệp – vốn là ngành
nghề cổ xưa nhất của loài người. Cho nên có thể nói tất cả các cây, con
và công nghệ sản xuất hiện đang sử dụng trong nông nghiệp Úc hiện nay
đều có nguồn gốc nhập khẩu. Chính vì vậy, để phát huy tối đa hiệu quả
của việc nhập khẩu trong việc phát triển nông nghiệp, Chính phủ Úc đã
cho xây dựng các Trung tâm nghiên cứu để nhập khẩu giống và công nghệ,
kiểm chứng, ứng dụng đại trà và thực hiện tiếp thu công nghệ. Để hỗ trợ
hoạt động của các trung tâm này, Chính phủ Úc đã thành lập Hội đồng
Nghiên cứu Úc nhằm xây dựng chiến lược và cung cấp kinh phí cho các công
trình nghiên cứu khoa học. Hội đồng này đưa ra danh sách những hạng mục
ưu tiên có lợi cho quốc gia và đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải lập dự
án theo sát danh sách ưu tiên này nếu muốn nhận được tiền tài trợ cho
việc nghiên cứu.
Đặc biệt hơn, đối với những lĩnh vực mà
chính phủ xác định là thực sự cấp thiết đến sự phát triển của nền nông
nghiệp, Chính phủ Úc thành lập các Trung tâm chuyên ngành hay còn gọi là
Trung tâm ưu tú (Centre of Excellence) để nghiên cứu, cải thiện, ứng
dụng và chuyển giao từ kiến thức công nghệ cho nông dân. Bộ Nông nghiệp
Úc đã xây dựng 11 Trung tâm như vậy đều khắp trong bang, mỗi Trung tâm
phụ trách một ngành hàng nông nghiệp đặc biệt trên một vùng sinh thái
thích hợp để giải quyết dứt điểm những khó khăn của vùng đó.
Ví dụ như vùng lục địa Narrabri miền tây
bắc Úc có khí hậu khô, nóng nên có Trung tâm chuyên về ngành bông vải
và cải dầu, vùng miền bắc gần duyên hải vùng Armidale có khí hậu khô
nhưng mát mẻ nên có trung tâm về ngành bò thịt, vùng miền trung duyên
hải Gosford có khí hậu ôn hoà, gần Sydney nên có Trung tâm Tiếp thị và
ngành Làm vườn nhà kính, vùng lục địa Yanco phía tây nam có khí hậu khô,
nóng, nhiều ánh sáng nên có Trung tâm Lúa gạo và tưới tiêu.
Việc vận hành các trung tâm này đã giúp
Bộ Nông nghiệp Úc giải quyết kịp thời các vấn đề theo từng loại nông
sản. Các quy trình sản xuất tốt nhất trên thế giới được nhập vào Úc qua
các trung tâm này, ví dụ như Quy trình chăm sóc rau quả tươi sạch dành
cho việc sản xuất rau quả (được gọi là Fresh care), Quy trình sản xuất
thịt tươi sống (được gọi là Cattle Care), Quy trình sản xuất ngũ cốc
(được gọi là Grain Care), qua đó, Úc đã có được thương hiệu về an toàn
vệ sinh thực phẩm, gia tăng sức cạnh tranh cho xuất khẩu.
Theo như số liệu của Cục Kinh tế, khoa
học nông nghiệp và nguồn lợi Úc (Abarres), giá trị sản lượng nông nghiệp
Úc đạt 43 tỷ đô la Mỹ, tương đương với 3% GDP vào năm 2013. Riêng về
sản lượng lúa của bang New South Wales (là bang sản xuất 99% sản lượng
lúa của Úc) từ tháng 04/2014 đến tháng 03/2015 đạt 894.000 tấn trên diện
tích gieo cấy 90.000 héc ta, tương đương với năng suất là 9,89 tấn/héc
ta (năng suất lúa của toàn Việt Nam đạt 6,6 tấn/héc ta vào năm 2014).
Chính sách đầu tư vào người nông dân
Nền nông nghiệp Úc được quản lý dưới
hình thức nông trại, với khoảng 130.000 nông trại trên diện tích 46
triệu héc ta, trung bình một nông trại có diện tích 354 héc ta. Chính
sách của chính phủ Úc là xây dựng một nền nông nghiệp vì nông dân, vậy
nên Chính phủ giảm tối đã những điều luật, quy định bắt buộc đối với
nông dân như các quy định về thuế hay hải quan, đồng thời đưa ra những
chính sách hữu hiệu giúp đỡ nông dân ổn định trong sản xuất, tránh hiện
tượng bỏ đất lên các thành phố lớn, đồng thời nâng cao năng suất lao
động và khả năng cạnh tranh.
Vào năm 1997, Úc thực hiện chương trình “Một nền nông nghiệp Úc tiên tiến”
và hướng đến xuất khẩu với mục đích nâng cao thu nhập cho nông dân và
nâng cao sức cạnh tranh quốc tế cho nông dân. Đặc điểm nội bật của
chương trình này như sau:
- Hỗ trợ tài chính cho nông dân trong các chương trình giáo dục và đào tạo về kỹ năng quản lý tài nguyên thiên nhiên;
- Hỗ trợ nông dân thay đổi ngành nghề cho hợp với thay đổi trong thực tế;
- Hỗ trợ nông dân nâng cao kỹ năng về quản lý tài chính;
- Tư vấn cho nông dân tình hình tài chính trong và ngoài nước;
- Hỗ trợ tài chính cho nông dân về các dịch vụ tư vấn của chuyên gia, cũng như tổ chức các lớp tập huấn để nâng cao năng lực phát triển kỹ năng;
- Cung cấp thông tin giúp nông dân nắm vững biến động thị trường trong và ngoài nước.
- Nâng cao khả năng đáp ứng của nông dân trước các yêu cầu mới của thị trường và chuỗi cung ứng;
- Giúp nông dân nâng cao năng lực cạnh tranh;
- Hỗ trợ nông dân về kỹ năng quản lý tài nguyên thiên nhiên;
- Bảo đảm môi trường kinh doanh tốt nhất, thông thoáng nhất để các doanh nghiệp tự do hoạt động, tăng mạnh sức cạnh tranh.
Xét về mặt bằng chung, nông dân Úc có
trình độ giáo dục cao, khoảng 31% có bằng đại học hoặc cao đẳng (trung
bình toàn quốc 52%). Các chính sách đầu tư vào nông dân Úc có thể tóm
lại theo ba mục chính, đó là:
- Nông dân Úc là chủ thể của nền nông nghiệp Úc, thể hiện trên thực tế đối với các chính sách này là việc một hộ nông dân Úc được cấp giấy phép sở hữu diện tích đất rất lớn chứ không phải được thuê lại đất của Nhà nước và Nhà nước sẽ xem xét lại tình trạng cho thuê đất sau một thời gian.
- Nông dân Úc sản xuất theo chuỗi giá trị và phân phối theo chuỗi cung ứng, thể hiện ở điểm các mặt hàng nông nghiệp Úc được đóng gói bao bì đầy đủ với nhãn hiệu “made in Australia” có mặt trên toàn thế giới.
- Nông dân Úc áp dụng hiệu quả các công nghệ hiện đại bao gồm các máy móc và kỹ thuật công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp. Tại các cánh đồng rộng ngút tầm mắt, những mày cày, máy hái không cần người lái được sử dụng rộng rãi. Đồng thời, nông dân Úc biết cách dùng hệ thống vệ tinh để định vị đường cày cho máy cày qua các thiết bị điện toán tính toán chính xác.
Nói tóm lại, với các chính sách hữu hiệu
của Chính phủ, Úc đã thành công không chỉ trong vấn đề tự cung tự cấp
nguồn lương thực cho người dân trong nước mà còn xuất khẩu các sản phẩm
nông nghiệp sang các nước trên toàn thế giới, nổi bật nhất là các sản
phẩm gồm thịt bò, ngũ cốc, hoa quả, sữa và các sản phẩm thuộc sữa, rượu
nho, lông cừu, bông vải, đường.
Mặc dù liên bang Úc mới được thành lập
vào năm 1901, tính đến nay mới được 114 năm, nhưng Úc đã được tạp chí
The Economist bình chọn đứng thứ 6 trên toàn thế giới về chỉ số chất
lượng cuộc sống vào năm 2005, được Liên Hiệp Quốc xếp hạng ba về chỉ số
phát triển con người vào năm 2007. Nước Úc còn nắm giữ một kỷ lục chưa
có nước nào có, đó là hầu hết các thành phố lớn của Úc đều nằm trong
“top 10” những thành phố có đời sống tốt nhất thế giới: Melbourne (hạng
2), Perth (hạng 4), Adelaide (hạng 7) và Sydney (hạng 9).
Nhật Hạ tổng hợp
Vì sao ngành nông nghiệp Mỹ đứng hàng đầu thế giới?
28/04/2015
15,213 lượt xem
Nước Mỹ có ngành nông nghiệp tân
tiến, hiện đại nhất thế giới. Lao động nông nghiệp chiếm khoảng 1%
trong tổng dân số 322 triệu người. Nếu tính dưới góc độ lực lượng lao
động thì lao động ngành nông nghiệp của Mỹ chỉ chiếm 0,7% tổng số lực
lượng lao động của toàn nước Mỹ tính đến thời điểm năm 2014 (với
155.421.000 người).
Diện tích nước Mỹ là 9,161,923 km2,
trong đó diện tích đất có thể canh tác được chiếm 18,1%. Theo thống kê
của Bộ Nông nghiệp Mỹ, tháng 02/2014, Mỹ có 2,109,363 tổng số nông trại,
trung bình mỗi trại có diện tích 174 héc ta.
Năm 2012, tổng giá trị sản phẩm nông
nghiệp đạt 394.6 tỷ đô la Mỹ, tăng 33% so với năm 2007, trong đó giá trị
các sản phẩm trồng trọt là 219.6 tỷ đô la, giá trị sản phẩm chăn nuôi
đạt 171.7 tỷ đô la.
Xuất nhập khẩu nông sản, Mỹ là nước dẫn
đầu thế giới, ước tính chiếm 18% thị phần thương mại nông sản của toàn
cầu.Từ năm 1960 đến năm 2014, Mỹ luôn thặng dư về thương mai các sản
phẩm nông nghiệp, ví dụ như xuất khẩu nông sản năm năm 2014 ước tính đạt
149.5 tỷ đô la, chiếm hơn 10% tổng số kim ngạch xuất khẩu tất cả các
mặt hàng và thặng dư mậu dịch nông nghiệp lên đến hơn 38.5 tỷ đô la Mỹ.
Dưới đây là một số lý do giải thích vì
sao nước Mỹ có một tỷ lệ nông dân rất nhỏ so với tổng lực lượng lao
động, mà lại có một nền nông nghiệp lớn mạnh như vậy.
1- Chính sách hỗ trợ nông nghiệp của chính phủ
Các chính sách ủng hộ việc phát triển
nông nghiệp của chính phủ Mỹ đã làm nên sự thành công của ngành nông
nghiệp Mỹ. Ngay từ thời kỳ đầu, Chính phủ đã ban hành luật đất đai vào
năm 1862 quy định phát không đất đai cho những người đến sống và làm
việc trên các mảnh đất trống tại miền Tây nước Mỹ, tạo điều kiện cho một
số nông dân được định cư, lập nghiệp dễ dàng.
Vào năm 1914, Quốc hội Mỹ đã lập ra cơ
quan Dịch vụ phát triển nông nghiệp, cơ quan này tuyển dụng đội ngũ cán
bộ để cố vấn cho các hộ nông dân từ bước sử dụng phân bón cho đến các
khâu sau của quy trình sản xuất nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp đảm nhiệm
tiến hành các nghiên cứu mới, cho ra đời những loại phân bón làm tăng
sản lượng hạt, các loại giống lai cho cây trồng khoẻ hơn, các phương
pháp chữa trị nhằm bảo vệ và cứu chữa cây trồng vật nuôi chống được bệnh
tật, và nhiều phương pháp khác kiểm soát các loài vật gây hại.
Vào năm 1929, tổng thống Herbert Hoover
thành lập ban nông nghiệp liên bang nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế cho
nông dân. Năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt cho phép thực hiện
một hệ thống trợ giá cho nông dân một mức giá gần bằng giá lúc thị
trường ở điều kiện ổn định bình thường. Đồng thời, trong khoảng thời
gian từ 1933 đến 1996, chính phủ cho nông dân vay tiền canh tác, nông
dân có quyền trả nợ theo giá quy định trong hợp đồng. Cụ thể là vào
những thời điểm sản xuất dư thừa, nông dân bán sản phẩm cho chính phủ,
còn vào lúc giá nông phẩm cao, nông dân có quyền bán sản phẩm cho các
công ty kinh doanh lương thực để tăng lợi tức.
Ngoài ra, chính phủ còn đề ra chính sách
bảo tồn, dưỡng đất dự trữ. Sự can thiệp với quy mô lớn vào ngành nông
nghiệp Mỹ được kéo dài cho đến tận cuối những năm 1990. Sau đó, chính
sách trợ giá nông nghiệp chỉ duy trì ở mức thấp, chính phủ tập trung vào
chương trình dự trữ chiến lược, chống thiên tai, bảo vệ môi trường,
nghiên cứu khoa học, để phục vụ hiệu quả cho ngành nông nghiệp Mỹ.
Hiện nay, chính phủ đang chú trọng đến
xuất khẩu nông sản, và đặc biệt quan tâm đến tính vững bền của lực lượng
lao động nông nghiệp. Thượng viện vừa thông qua dự luật di dân nhằm mục
đích bảo đảm có đủ số công nhân cần thiết cho nền nông nghiệp, đặc biệt
là vào mùa gặt hái, chăn nuôi gia súc, và sản xuất nông phẩm cần thiết
cho xuất khẩu. Đạo luật này cũng mở đường cho những người làm việc trong
ngành nông nghiệp Mỹ mà chưa có giấy tờ hợp lệ được phép nhập cư vào
Mỹ.
Chính nhờ các chính sách hỗ trợ một cách hiệu quả này đã mang lại cho ngành nông nghiệp Mỹ một kết quả tốt đẹp như ngày hôm nay.
Tính tự chủ và sáng kiến của nông dân
Xét trên giác độ lịch sử, nông dân Mỹ
được nhìn nhận với tính tự chủ rất cao, cần cù, sáng tạo, kiên nhẫn và
đầy nhiệt huyết. Và thời kỳ đầu, những người nông dân này đến Mỹ với bàn
tay trắng, tự làm việc trên những mảnh đất không có giấy tờ sở hữu.
Năm 1790 nông dân Mỹ chiếm 90% dân số.
Số lượng nông dân giảm liên tiếp qua thời gian, đến năm 1920, nông dân
Mỹ chiếm 30.8% tổng dân số, đến năm 1960, họ chiếm 8,3% tổng dân số và
đến thời điểm năm 2014, ước tính số lượng nông dân Mỹ thực sự hoạt động
trên đồng ruộng chỉ chiếm khoảng 1% trong tổng số toàn dân Mỹ.
Những người nông dân này thực hiện vận
hành các nông trại nhỏ và vừa được của chính gia đình họ, hay họ thành
lập nên những công ty do chính họ làm chủ, chiếm tới 95% tổng diện tích
đất nông nghiệp được canh tác, 5% còn lại thuộc về các tập đoàn lớn làm
chủ.
Nông dân Mỹ sử dụng máy móc rất thành
thạo, có trình độ hiểu biết cao về nông nghiệp và kinh tế, nhiều người
có bằng đại học. Họ chú trọng vào việc cải thiện kỹ thuật trồng trọt, kỹ
thuật chăn nuôi gia súc dẫn đến sản lượng nông nghiệp tăng mạnh. Hình
ảnh người nông dân Mỹ ngày nay là hình ảnh của người công nhân nông
nghiệp. Họ hay mặc quần jean, áo carô màu, sống trong những khu vực đầy
đủ tiện nghi.
Thu nhập của người làm nghề nông ở Mỹ
khá cao, mức lương trung bình hiện nay của một công nhân nông nghiệp Mỹ
là 61.000 đô la/năm. Tính trên hộ gia đình thì thu nhập trung bình của
một gia đình nông dân năm 1960 là 4.654 đô la, đến năm 2012 thì thu nhập
trung bình là 108.814 đô la, tăng 23,38 lần trong thời gian 52 năm.
Áp dụng phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp
Nước Mỹ đặc biệt nhấn mạnh đến việc cơ
giới hóa các phương tiện canh tác, sử dụng máy móc thay thế cho sức
người và sức súc vật. Chi phí máy móc chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng
chi phí đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Việc cơ giới hóa máy móc không
chỉ đơn thuần là tăng số lượng máy móc trên cánh đồng mà còn chú ý đến
thực hiện kết hợp các tính năng để tạo ra các máy liên hoàn, kết hợp máy
kéo với máy cày, máy gieo trồng, máy gặt. Hay các sáng kiến về các loại
máy móc có thể canh tác được ở những vùng đất cứng mà sức người khó có
thể làm được. Hầu như mọi hoạt đông trong sản xuất nông nghiệp đều thực
hiện bằng máy móc, từ làm đất, gieo trồng, bón phân, tưới tiêu đến gặt
hái. Nông dân còn dùng máy bay để phun thuốc trừ sâu, dùng máy điện toán
đề theo dõi kết quả thu hoạch. Ngày nay, không có gì lạ khi nhìn thấy
những người nông dân lái máy kéo với các ca bin lắp điều hòa nhiệt độ,
gắn kèm theo những máy cày, máy xới và máy gặt có tốc độ nhanh và rất
đắt tiền.
Vào đầu thế kỷ 20, phải có 4 nông dân mới sản xuất nông phẩm đủ nuôi cho 10 người, ngày nay, một nông dân Mỹ có thể cung cấp đủ lương thực nuôi 100 người Mỹ và 32 người đang sống tại các nước trên thế giới.
Với diện tích đất canh tác rộng lớn nên
việc áp dụng các phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông
nghiệp đã khiến cho năng suất lao động tăng mạnh. Bên cạnh đó, mặc dù có
những đợt lũ lụt và hạn hán nhưng nhìn chung lượng nước mưa tương đối
đấy đủ, nước sông và nước ngầm cho phép tưới tiêu tại các tiểu bang
thiếu nước. Vùng đất phía Tây thuộc miền Trung nước Mỹ có đất đai canh
tác màu mỡ. Chính vì vậy khi đến Mỹ, người ta thường thấy những cánh
đồng ngô, đậu nành, lúa mì, cam, cánh đồng cỏ, rộng mênh mông, xanh
tươi, bát ngát.
Với những lý do trên, ngành nông nghiệp
Mỹ đã đạt được những thành tựu to lớn, thực sự đóng một vai trò rất quan
trọng trong nền kinh tế Mỹ, với các loại thực phẩm dồi dào với giá rẻ,
tạo thêm công ăn, việc làm cho các ngành chế biến, sản xuất máy móc, và
đặc biệt dịch vụ xuất khẩu nông phẩm đi khắp các nước trên thế giới.
Bài học cho chúng ta
Nhìn lại ngành nông nghiệp Việt Nam, cho
đến thời điểm này, năng suất lao động trong ngành nông nghiệp của Việt
Nam luôn thấp nhất trong nhóm các nước có mức thu nhập trung bình thấp
và không thể bắt kịp được năng suất lao động của các nước này kể từ năm
2005. Trong khi đó, năng suất lao động của ngành nông nghiệp lại đang có
xu hướng chững lại, hiện chỉ bằng 1/3 so với năng suất chung của cả
nước.
Theo thông tin từ Viện Chính sách và
chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD), giá trị gia tăng
nông nghiệp trên mỗi lao động của Việt Nam năm 2011 đạt chưa tới 400
USD/người, thấp hơn cả Lào và Campuchia. Mặc dù nông nghiệp cũng là lĩnh
vực duy nhất của Việt Nam luôn có xuất siêu trong nền kinh tế. Trong
vòng gần 3 thập niên, nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng đều đặn, đưa Việt
Nam trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới với các sản
phẩm như gạo, tiêu, điều, sắn, chè, cao su.
Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là tăng
trưởng nông nghiệp và năng suất có xu hướng chững lại, tăng trưởng tổng
sản phẩm nội địa (GDP) của nông nghiệp giảm dần từ mức bình quân 4,5%
giai đoạn 1995-2000 xuống 3,8% giai đoạn 2000-2005 và chỉ còn 3,4% giai
đoạn 2006-2012.
Chính vì vậy, để có được những bước đột
phá cho ngành nông nghiệp Việt Nam, có lẽ cần có những chính sách sát
hữu hiệu giúp đỡ người nông dân một cách toàn diện hơn nữa. Có như vậy
ngành nông nghiệp Việt Nam mới có thể phát triển bền vững.
Nhật Hạ tổng hợp
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét