Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015

HỌC THẦY KHÔNG TÀY HỌC BẠN 2

(ĐC sưu tầm trên NET)

Vì sao ngành nông nghiệp Úc lại phát triển thành công đến thế?

Uc
Nước Úc được nhìn nhận là một quốc gia phát triển và nằm trong số các quốc gia thịnh vượng nhất trên thế giới, với nền kinh tế lớn đứng thứ 12 trên toàn thế giới.
Vào năm 2012, thu nhập bình quân đầu người của Úc đứng thứ năm thế giới. Nước Úc được thành lập vào ngày 01/01/1901 với tên đầy đủ tiếng Anh là Commonwealth of Australia, có nghĩa là khối thịnh vượng chung Úc. Ngay từ khi thành lập, Úc duy trì một hệ thống chính trị dân chủ tự do ổn định, bao gồm sáu bang và một số lãnh thổ với tổng dân số vào khoảng 23,1 triệu người.
Với lịch sử non trẻ chỉ hơn 100 năm, với hơn 100 dân tộc đa văn hóa, nước Úc giờ đã trở thành một đất nước giàu mạnh, xây dựng được một nơi có đời sống tốt nhất thế giới, xuất khẩu hầu hết các mặt hàng quan trọng kể cả dịch vụ giáo dục. Với mục tiêu ban đầu là tự đảm bảo nguồn lương thực cho người dân Úc, Chính phủ đã thực sự đầu tư vào việc phát triển ngành nông nghiệp Úc cho dù diện tích đất có thể canh tác được của Úc chỉ chiếm 1% tổng diện tích lục địa Úc (tổng diện tích Úc là 768 triệu héc ta) do chỉ có vùng ven biển là có lượng mưa tương đối tốt. Hiện nước Úc có 18 triệu héc ta trồng trọt và 28 triệu héc ta đồng cỏ trong đó chỉ có 4 triệu héc ta là thực sự có lượng nước đầy đủ.


(Ảnh: theaustralian.com.au)
(Ảnh: theaustralian.com.au)

Lực lượng lao động chính thức trong lĩnh vực nông nghiệp của Úc là 400.000 người, chiếm 4% lực lượng lao động của toàn nước Úc (vào khoảng 10 triệu người) nhưng nước Úc có chỉ số tự cung cao nhất thế giới (nông nghiệp Mỹ có kim ngạch xuất khẩu nông sản đứng đầu thế giới nhưng chỉ số tự cung tự cấp lại thấp hơn Úc), cụ thể là tính trung bình một nông dân Úc có thể nuôi 190 người. Sản phẩm nông nghiệp chính của Úc là lúa mì, lúa mạch, mía, hoa quả, gia súc, cừu, gia cầm.

Nền nông nghiệp Úc cung cấp nông sản đầy đủ cho thị trường nội địa và xuất khẩu 80% tổng sản lượng, thu nhập của mỗi người nông dân Úc lên đến 100.000 USD/ năm, cao hơn so với GDP bình quân đầu người của Úc (60.000 USD/năm).



(Ảnh: coles.com.au)
(Ảnh: coles.com.au)

Chính sách đầu tư nghiên cứu vào công nghệ và quy trình
Úc là một quốc gia có đất rộng người thưa, ít mưa, tình trạng khô hạn xảy ra thường xuyên, Úc không có một ngành nghề nào gọi là truyền thống, kể cả nông nghiệp – vốn là ngành nghề cổ xưa nhất của loài người. Cho nên có thể nói tất cả các cây, con và công nghệ sản xuất hiện đang sử dụng trong nông nghiệp Úc hiện nay đều có nguồn gốc nhập khẩu. Chính vì vậy, để phát huy tối đa hiệu quả của việc nhập khẩu trong việc phát triển nông nghiệp, Chính phủ Úc đã cho xây dựng các Trung tâm nghiên cứu để nhập khẩu giống và công nghệ, kiểm chứng, ứng dụng đại trà và thực hiện tiếp thu công nghệ. Để hỗ trợ hoạt động của các trung tâm này, Chính phủ Úc đã thành lập Hội đồng Nghiên cứu Úc nhằm xây dựng chiến lược và cung cấp kinh phí cho các công trình nghiên cứu khoa học. Hội đồng này đưa ra danh sách những hạng mục ưu tiên có lợi cho quốc gia và đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải lập dự án theo sát danh sách ưu tiên này nếu muốn nhận được tiền tài trợ cho việc nghiên cứu.
armidale-smart-farm-david-lamb
Đặc biệt hơn, đối với những lĩnh vực mà chính phủ xác định là thực sự cấp thiết đến sự phát triển của nền nông nghiệp, Chính phủ Úc thành lập các Trung tâm chuyên ngành hay còn gọi là Trung tâm ưu tú (Centre of Excellence) để nghiên cứu, cải thiện, ứng dụng và chuyển giao từ kiến thức công nghệ cho nông dân. Bộ Nông nghiệp Úc đã xây dựng 11 Trung tâm như vậy đều khắp trong bang, mỗi Trung tâm phụ trách một ngành hàng nông nghiệp đặc biệt trên một vùng sinh thái thích hợp để giải quyết dứt điểm những khó khăn của vùng đó.
Ví dụ như vùng lục địa Narrabri miền tây bắc Úc có khí hậu khô, nóng nên có Trung tâm chuyên về ngành bông vải và cải dầu, vùng miền bắc gần duyên hải vùng Armidale có khí hậu khô nhưng mát mẻ nên có trung tâm về ngành bò thịt, vùng miền trung duyên hải Gosford có khí hậu ôn hoà, gần Sydney nên có Trung tâm Tiếp thị và ngành Làm vườn nhà kính, vùng lục địa Yanco phía tây nam có khí hậu khô, nóng, nhiều ánh sáng nên có Trung tâm Lúa gạo và tưới tiêu.
image-966-644
Việc vận hành các trung tâm này đã giúp Bộ Nông nghiệp Úc giải quyết kịp thời các vấn đề theo từng loại nông sản. Các quy trình sản xuất tốt nhất trên thế giới được nhập vào Úc qua các trung tâm này, ví dụ như Quy trình chăm sóc rau quả tươi sạch dành cho việc sản xuất rau quả (được gọi là Fresh care), Quy trình sản xuất thịt tươi sống (được gọi là Cattle Care), Quy trình sản xuất ngũ cốc (được gọi là Grain Care), qua đó, Úc đã có được thương hiệu về an toàn vệ sinh thực phẩm, gia tăng sức cạnh tranh cho xuất khẩu.
Theo như số liệu của Cục Kinh tế, khoa học nông nghiệp và nguồn lợi Úc (Abarres), giá trị sản lượng nông nghiệp Úc đạt 43 tỷ đô la Mỹ, tương đương với 3% GDP vào năm 2013. Riêng về sản lượng lúa của bang New South Wales (là bang sản xuất 99% sản lượng lúa của Úc) từ tháng 04/2014 đến tháng 03/2015 đạt 894.000 tấn trên diện tích gieo cấy 90.000 héc ta, tương đương với năng suất là 9,89 tấn/héc ta (năng suất lúa của toàn Việt Nam đạt 6,6 tấn/héc ta vào năm 2014).


(Picture : Ian Munro The West Australian)
(Ảnh: Ian Munro The West Australian)

Chính sách đầu tư vào người nông dân
Nền nông nghiệp Úc được quản lý dưới hình thức nông trại, với khoảng 130.000 nông trại trên diện tích 46 triệu héc ta, trung bình một nông trại có diện tích 354 héc ta. Chính sách của chính phủ Úc là xây dựng một nền nông nghiệp vì nông dân, vậy nên Chính phủ giảm tối đã những điều luật, quy định bắt buộc đối với nông dân như các quy định về thuế hay hải quan, đồng thời đưa ra những chính sách hữu hiệu giúp đỡ nông dân ổn định trong sản xuất, tránh hiện tượng bỏ đất lên các thành phố lớn, đồng thời nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh.


(Ảnh: calclimateag.org)
(Ảnh: calclimateag.org)

Vào năm 1997, Úc thực hiện chương trình “Một nền nông nghiệp Úc tiên tiến” và hướng đến xuất khẩu với mục đích nâng cao thu nhập cho nông dân và nâng cao sức cạnh tranh quốc tế cho nông dân. Đặc điểm nội bật của chương trình này như sau:
  • Hỗ trợ tài chính cho nông dân trong các chương trình giáo dục và đào tạo về kỹ năng quản lý tài nguyên thiên nhiên;
  • Hỗ trợ nông dân thay đổi ngành nghề cho hợp với thay đổi trong thực tế;
  • Hỗ trợ nông dân nâng cao kỹ năng về quản lý tài chính;
  • Tư vấn cho nông dân tình hình tài chính trong và ngoài nước;
  • Hỗ trợ tài chính cho nông dân về các dịch vụ tư vấn của chuyên gia, cũng như tổ chức các lớp tập huấn để nâng cao năng lực phát triển kỹ năng;
  • Cung cấp thông tin giúp nông dân nắm vững biến động thị trường trong và ngoài nước.
Vào năm 2004, Chính phủ Úc đã thành lập một nhóm tư vấn xây dựng định hướng và chiến lược cho ngành nông nghiệp và thực phẩm, theo đó Chính phủ điều chỉnh các chính sách và đưa ra các giải pháp về:
  • Nâng cao khả năng đáp ứng của nông dân trước các yêu cầu mới của thị trường và chuỗi cung ứng;
  • Giúp nông dân nâng cao năng lực cạnh tranh;
  • Hỗ trợ nông dân về kỹ năng quản lý tài nguyên thiên nhiên;
  • Bảo đảm môi trường kinh doanh tốt nhất, thông thoáng nhất để các doanh nghiệp tự do hoạt động, tăng mạnh sức cạnh tranh.
274822-mcgraths
Xét về mặt bằng chung, nông dân Úc có trình độ giáo dục cao, khoảng 31% có bằng đại học hoặc cao đẳng (trung bình toàn quốc 52%). Các chính sách đầu tư vào nông dân Úc có thể tóm lại theo ba mục chính, đó là:
  • Nông dân Úc là chủ thể của nền nông nghiệp Úc, thể hiện trên thực tế đối với các chính sách này là việc một hộ nông dân Úc được cấp giấy phép sở hữu diện tích đất rất lớn chứ không phải được thuê lại đất của Nhà nước và Nhà nước sẽ xem xét lại tình trạng cho thuê đất sau một thời gian.
  • Nông dân Úc sản xuất theo chuỗi giá trị và phân phối theo chuỗi cung ứng, thể hiện ở điểm các mặt hàng nông nghiệp Úc được đóng gói bao bì đầy đủ với nhãn hiệu “made in Australia” có mặt trên toàn thế giới.
  • Nông dân Úc áp dụng hiệu quả các công nghệ hiện đại bao gồm các máy móc và kỹ thuật công nghệ hiện đại trong sản xuất nông nghiệp. Tại các cánh đồng rộng ngút tầm mắt, những mày cày, máy hái không cần người lái được sử dụng rộng rãi. Đồng thời, nông dân Úc biết cách dùng hệ thống vệ tinh để định vị đường cày cho máy cày qua các thiết bị điện toán tính toán chính xác.
Nói tóm lại, với các chính sách hữu hiệu của Chính phủ, Úc đã thành công không chỉ trong vấn đề tự cung tự cấp nguồn lương thực cho người dân trong nước mà còn xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp sang các nước trên toàn thế giới, nổi bật nhất là các sản phẩm gồm thịt bò, ngũ cốc, hoa quả, sữa và các sản phẩm thuộc sữa, rượu nho, lông cừu, bông vải, đường.


(Ảnh: Fonterra)
(Ảnh: Fonterra)

Mặc dù liên bang Úc mới được thành lập vào năm 1901, tính đến nay mới được 114 năm, nhưng Úc đã được tạp chí The Economist bình chọn đứng thứ 6 trên toàn thế giới về chỉ số chất lượng cuộc sống vào năm 2005, được Liên Hiệp Quốc xếp hạng ba về chỉ số phát triển con người vào năm 2007. Nước Úc còn nắm giữ một kỷ lục chưa có nước nào có, đó là hầu hết các thành phố lớn của Úc đều nằm trong “top 10” những thành phố có đời sống tốt nhất thế giới: Melbourne (hạng 2), Perth (hạng 4), Adelaide (hạng 7) và Sydney (hạng 9).
Nhật Hạ tổng hợp

Vì sao ngành nông nghiệp Mỹ đứng hàng đầu thế giới?

(Shutterstock)
(Shutterstock)
Nước Mỹ có ngành nông nghiệp tân tiến, hiện đại nhất thế giới. Lao động  nông nghiệp chiếm khoảng 1% trong tổng dân số 322 triệu người. Nếu tính dưới góc độ lực lượng lao động thì lao động ngành nông nghiệp của Mỹ chỉ chiếm 0,7% tổng số lực lượng lao động của toàn nước Mỹ tính đến thời điểm năm 2014 (với 155.421.000 người).
Diện tích nước Mỹ là 9,161,923 km2, trong đó diện tích đất  có thể canh tác được chiếm 18,1%. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Mỹ, tháng 02/2014, Mỹ có 2,109,363 tổng số nông trại, trung bình mỗi trại có diện tích 174 héc ta.
Năm 2012, tổng  giá trị sản phẩm nông nghiệp đạt 394.6 tỷ đô la Mỹ, tăng 33% so với năm 2007, trong đó giá trị các sản phẩm trồng trọt là 219.6 tỷ đô la, giá trị sản phẩm chăn nuôi đạt 171.7 tỷ đô la.
Xuất nhập khẩu nông sản, Mỹ là nước dẫn đầu thế giới, ước tính chiếm 18% thị phần thương mại nông sản của toàn cầu.Từ năm 1960 đến năm 2014, Mỹ luôn thặng dư về thương mai các sản phẩm nông nghiệp, ví dụ như xuất khẩu nông sản năm năm 2014 ước tính đạt 149.5 tỷ đô la, chiếm hơn 10% tổng số kim ngạch xuất khẩu tất cả các mặt hàng và thặng dư mậu dịch nông nghiệp lên đến hơn 38.5 tỷ đô la Mỹ.
Dưới đây là một số lý do giải thích vì sao nước Mỹ có một tỷ lệ nông dân rất nhỏ so với tổng lực lượng lao động, mà lại có một nền nông nghiệp lớn mạnh như vậy.
1- Chính sách hỗ trợ nông nghiệp của chính phủ
Các chính sách ủng hộ việc phát triển nông nghiệp của chính phủ Mỹ đã làm nên sự thành công của ngành nông nghiệp Mỹ. Ngay từ thời kỳ đầu, Chính phủ đã ban hành luật đất đai vào năm 1862 quy định phát không đất đai cho những người đến sống và làm việc trên các mảnh đất trống tại miền Tây nước Mỹ, tạo điều kiện cho một số nông dân được định cư, lập nghiệp dễ dàng.
Vào năm 1914, Quốc hội Mỹ đã lập ra cơ quan Dịch vụ phát triển nông nghiệp, cơ quan này tuyển dụng đội ngũ cán bộ để cố vấn cho các hộ nông dân từ bước sử dụng phân bón cho đến các khâu sau của quy trình sản xuất nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp đảm nhiệm tiến hành các nghiên cứu mới, cho ra đời những loại phân bón làm tăng sản lượng hạt, các loại giống lai cho cây trồng khoẻ hơn, các phương pháp chữa trị nhằm bảo vệ và cứu chữa cây trồng vật nuôi chống được bệnh tật, và nhiều phương pháp khác kiểm soát các loài vật gây hại.
Vào năm 1929, tổng thống Herbert Hoover thành lập ban nông nghiệp liên bang nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế cho nông dân. Năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt cho phép thực hiện một hệ thống trợ giá cho nông dân một mức giá gần bằng giá lúc thị trường ở điều kiện ổn định bình thường. Đồng thời, trong khoảng thời gian từ 1933 đến 1996, chính phủ cho nông dân vay tiền canh tác, nông dân có quyền trả nợ theo giá quy định trong hợp đồng. Cụ thể là vào những thời điểm sản xuất dư thừa, nông dân bán sản phẩm cho chính phủ, còn vào lúc giá nông phẩm cao, nông dân có quyền bán sản phẩm cho các công ty kinh doanh lương thực để tăng lợi tức.


(Shutterstock)
(Ảnh: Shutterstock)

Ngoài ra, chính phủ còn đề ra chính sách bảo tồn, dưỡng đất dự trữ. Sự can thiệp với quy mô lớn vào ngành nông nghiệp Mỹ được kéo dài cho đến tận cuối những năm 1990. Sau đó, chính sách trợ giá nông nghiệp chỉ duy trì ở mức thấp, chính phủ tập trung vào chương trình dự trữ chiến lược, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học, để phục vụ hiệu quả cho ngành nông nghiệp Mỹ.
Hiện nay, chính phủ đang chú trọng đến xuất khẩu nông sản, và đặc biệt quan tâm đến tính vững bền của lực lượng lao động nông nghiệp. Thượng viện vừa thông qua dự luật di dân nhằm mục đích bảo đảm có đủ số công nhân cần thiết cho nền nông nghiệp, đặc biệt là vào mùa gặt hái, chăn nuôi gia súc, và sản xuất nông phẩm cần thiết cho xuất khẩu. Đạo luật này cũng mở đường cho những người làm việc trong ngành nông nghiệp Mỹ mà chưa có giấy tờ hợp lệ được phép nhập cư vào Mỹ.
Chính nhờ các chính sách hỗ trợ một cách hiệu quả này đã mang lại cho ngành nông nghiệp Mỹ một kết quả tốt đẹp như ngày hôm nay.
Tính tự chủ và sáng kiến của nông dân 
Xét trên giác độ lịch sử, nông dân Mỹ được nhìn nhận với tính tự chủ rất cao, cần cù, sáng tạo, kiên nhẫn và đầy nhiệt huyết. Và thời kỳ đầu, những người nông dân này đến Mỹ với bàn tay trắng, tự làm việc trên những mảnh đất không có giấy tờ sở hữu.
Năm 1790 nông dân Mỹ chiếm 90% dân số. Số lượng nông dân giảm liên tiếp qua thời gian, đến năm 1920, nông dân Mỹ chiếm 30.8% tổng dân số, đến năm 1960, họ chiếm 8,3% tổng dân số và đến thời điểm năm 2014, ước tính số lượng nông dân Mỹ thực sự hoạt động trên đồng ruộng chỉ chiếm khoảng 1% trong tổng số toàn dân Mỹ.
Những người nông dân này thực hiện vận hành các nông trại nhỏ và vừa được của chính gia đình họ, hay họ thành lập nên những công ty do chính họ làm chủ, chiếm tới 95% tổng diện tích đất nông nghiệp được canh tác, 5% còn lại thuộc về các tập đoàn lớn làm chủ.


(Shutterstock)
(Shutterstock)

Nông dân Mỹ sử dụng máy móc rất thành thạo, có trình độ hiểu biết cao về nông nghiệp và kinh tế, nhiều người có bằng đại học. Họ chú trọng vào việc cải thiện kỹ thuật trồng trọt, kỹ thuật chăn nuôi gia súc dẫn đến sản lượng nông nghiệp tăng mạnh. Hình ảnh người nông dân Mỹ ngày nay là hình ảnh của người công nhân nông nghiệp. Họ hay mặc quần jean, áo carô màu, sống trong những khu vực đầy đủ tiện nghi.
Thu nhập của người làm nghề nông ở Mỹ khá cao, mức lương trung bình hiện nay của một công nhân nông nghiệp Mỹ là 61.000 đô la/năm. Tính trên hộ gia đình thì thu nhập trung bình của một gia đình nông dân năm 1960 là 4.654 đô la, đến năm 2012 thì thu nhập trung bình là 108.814 đô la, tăng 23,38 lần trong thời gian 52 năm.
Áp dụng phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp
Nước Mỹ đặc biệt nhấn mạnh đến việc cơ giới hóa các phương tiện canh tác, sử dụng máy móc thay thế cho sức người và sức súc vật. Chi phí máy móc chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng chi phí đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Việc cơ giới hóa máy móc không chỉ đơn thuần là tăng số lượng máy móc trên cánh đồng mà còn chú ý đến thực hiện kết hợp các tính năng để tạo ra các máy liên hoàn, kết hợp máy kéo với máy cày, máy gieo trồng, máy gặt. Hay các sáng kiến về các loại máy móc có thể canh tác được ở những vùng đất cứng mà sức người khó có thể làm được. Hầu như mọi hoạt đông trong sản xuất nông nghiệp đều thực hiện bằng máy móc, từ làm đất, gieo trồng, bón phân, tưới tiêu đến gặt hái. Nông dân còn dùng máy bay để phun thuốc trừ sâu, dùng máy điện toán đề theo dõi kết quả thu hoạch. Ngày nay, không có gì lạ khi nhìn thấy những người nông dân lái máy kéo với các ca bin lắp điều hòa nhiệt độ, gắn kèm theo những máy cày, máy xới và máy gặt có tốc độ nhanh và rất đắt tiền.

Vào đầu thế kỷ 20,  phải có 4 nông dân mới sản xuất nông phẩm đủ nuôi cho 10 người, ngày nay, một nông dân Mỹ có thể cung cấp đủ lương thực nuôi 100 người Mỹ và 32 người đang  sống tại các nước trên thế giới.

Với diện tích đất canh tác rộng lớn nên việc áp dụng các phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp đã khiến cho năng suất lao động tăng mạnh. Bên cạnh đó, mặc dù có những đợt lũ lụt và hạn hán nhưng nhìn chung lượng nước mưa tương đối đấy đủ, nước sông và nước ngầm cho phép tưới tiêu tại các tiểu bang thiếu nước. Vùng đất phía Tây thuộc miền Trung nước Mỹ có đất đai canh tác màu mỡ. Chính vì vậy khi đến Mỹ, người ta thường thấy những cánh đồng ngô, đậu nành, lúa mì, cam, cánh đồng cỏ, rộng mênh mông, xanh tươi, bát ngát.


(Shutterstock)
(Shutterstock)

Với những lý do trên, ngành nông nghiệp Mỹ đã đạt được những thành tựu to lớn, thực sự đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Mỹ, với các loại thực phẩm dồi dào với giá rẻ, tạo thêm công ăn, việc làm cho các ngành chế biến, sản xuất máy móc, và đặc biệt dịch vụ xuất khẩu nông phẩm đi khắp các nước trên thế giới.
Bài học cho chúng ta
Nhìn lại ngành nông nghiệp Việt Nam, cho đến thời điểm này, năng suất lao động trong ngành nông nghiệp của Việt Nam luôn thấp nhất trong nhóm các nước có mức thu nhập trung bình thấp và không thể bắt kịp được năng suất lao động của các nước này kể từ năm 2005. Trong khi đó, năng suất lao động của ngành nông nghiệp lại đang có xu hướng chững lại, hiện chỉ bằng 1/3 so với năng suất chung của cả nước.
Theo thông tin từ Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD), giá trị gia tăng nông nghiệp trên mỗi lao động của Việt Nam năm 2011 đạt chưa tới 400 USD/người, thấp hơn cả Lào và Campuchia. Mặc dù nông nghiệp cũng là lĩnh vực duy nhất của Việt Nam luôn có xuất siêu trong nền kinh tế. Trong vòng gần 3 thập niên, nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng đều đặn, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới với các sản phẩm như gạo, tiêu, điều, sắn, chè, cao su.


(Ảnh: internet)
(Ảnh: internet)

Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là tăng trưởng nông nghiệp và năng suất có xu hướng chững lại, tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) của nông nghiệp giảm dần từ mức bình quân 4,5% giai đoạn 1995-2000 xuống 3,8% giai đoạn 2000-2005 và chỉ còn 3,4% giai đoạn 2006-2012.
Chính vì vậy, để có được những bước đột phá cho ngành nông nghiệp Việt Nam, có lẽ cần có những chính sách sát hữu hiệu giúp đỡ người nông dân một cách toàn diện hơn nữa. Có như vậy ngành nông nghiệp Việt Nam mới có thể phát triển bền vững.
Nhật Hạ tổng hợp


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét