Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015
CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 94
Bảo ấn của vua chúa xưa được chế tác thế nào?
(Kiến Thức) - Bảo ấn biểu trưng cho đế quyền của thiên tử. Để tạo nên tín vật thiêng
liêng này, người xưa đã phải kỳ công ra sao, chưa hẳn ai cũng biết.
Chuyên gia nghiên cứu
Guo Fuxiang thuộc Viện bảo tàng Cố Cung nhận định, bảo ấn là biểu tượng
cho quyền lực tối thượng của hoàng đế. Mất ngự ấn không khác gì hoàng đế
mất đi quyền thống trị giang sơn của mình. Nói cách khác, tín vật
thiêng liêng này được xem là trọng khí của một vương triều, dùng để xác
nhận ý chí và mệnh lệnh của hoàng đế.
Theo trang Sohu, đa phần ấn
của hoàng gia đều được lưu giữ tại các bảo tàng lớn như Cố Cung (Bắc
Kinh), chỉ số ít lưu lạc trong dân gian. Trước triều Thanh, bảo ấn không
có số lượng cố định, tới thời Càn Long, nhà vua đã hết sức đề cao tầm
quan trọng của ấn ngọc.
Tại Viện bảo tàng Cố Cung và Bảo tàng
sơn trang nghỉ mát Thừa Đức, Trung Quốc hiện vẫn còn lưu giữ vô vàn
những bảo ấn của hoàng đế, vương hậu nhà Thanh. Những ấn tỷ này hoặc
được làm bằng vàng, hoặc bằng ngọc với những hình dáng, màu sắc phong
phú đa dạng. Đây đều là những cổ vật quý giá, những tinh hoa nghệ thuật
của quốc gia này. Các hiện vật là minh chứng cho một thời hoàng kim của
vương triều nhà Thanh, Trung Quốc. Trải bao năm tháng, chúng vẫn hiện
hữu với thực tại, như một nhân chứng vô giá của lịch sử. Vậy, những ấn
tỷ này được chạm khắc, chế tác thế nào?
Theo những ghi chép trong “Khâm định
Đại Thanh hội điển sự liệt”: “Vào năm đầu thời vua Thuận Trị, việc đúc
bảo ấn do bộ Lễ phụ trách, bên trái của ấn là Thanh văn, bên phải là Hán
văn. Nét chữ do Nội viện ban hành. Vàng bạc phèn the do bộ Hộ lo liệu,
những vật phẩm tế lễ thuộc trách nhiệm của chùa Quang Lộc”. Các tình
tiết cụ thể hơn, hậu thế không được tỏ tường, nhưng những mẫu ấn còn
được bảo tồn tới ngày nay và một số tư liệu, ghi chép rải rác cũng giúp
chúng ta phần nào hình dung được quá trình chế tác bảo ấn dành cho các
đế hậu diễn ra theo trình tự như sau:
Trước hết, Bộ Lễ sẽ căn cứ theo tiền
lệ đã định sẵn, tấu báo lên vua những bảo ấn cần chế tác và đợi chỉ thị
của đấng thiên tử. Sau đó, bộ phận chế tạo sẽ dùng giấy, gỗ, lụa hoặc
sáp nến làm thành mẫu ấn, viết chữ lên rồi dâng hoàng thượng ngự lãm.
Được sự đồng ý, ưng thuận của đấng quân vương, người chịu trách nhiệm
bên bộ Lễ sẽ phát mẫu ấn tới bộ phận chế tác để đúc hoặc khắc sản phẩm
theo đúng nguyên mẫu được duyệt.
Đầu tiên, bộ phận chế tác sẽ lĩnh về
những nguyên vật liệu để đúc ấn, sau khi phía Khâm thiên giám chọn ra
ngày lành tháng tốt, họ mới tiến hành đúc, khắc ấn theo như nguyên mẫu.
Những công đoạn chế tác sẽ bao gồm: làm núm ấn, chỉnh hình, đánh
bóng…sau đó đưa vào ngân khố đợi khắc chữ. Khi khắc, Khâm thiên giám sẽ
chọn ra giờ tốt, riêng bộ Lễ có nhiệm vụ tấu báo lên trên để được phê
chuẩn. Lúc này, bảo ấn sẽ được đem tới Nội các, sau thủ tục hành lễ tại
đại đường Nội các, người chịu trách nhiệm khắc ấn sẽ tiến hành công việc
theo đúng mẫu chữ do Viện hàn lâm Nội các đưa ra. Hoàn thành xong, ấn
sẽ được lưu trữ trong kho của Nội các. Khi đấng quân vương chính thức cử
hành hôn lễ với hoàng hậu, Thị nghênh chánh phó sứ sẽ trực tiếp lấy ấn
“Hoàng hậu chi bảo” từ trong kho ra. Nếu là những bảo ấn khác, có thể
trực tiếp sử dụng sau công đoạn khắc chữ….
(*) Bài viết tham khảo các nguồn Sohu.com, Wikipedia.org, Ourjg.com, Jinshizhuanke.com.
10 trận thủy chiến kinh điển trong sử Việt (2)
(Kiến Thức) - Một số trận thủy chiến quy mô không lớn
nhưng mang tầm vóc trọng đại; đơn cử như chiến thắng của người Việt
trước pháo hạm phương Tây hùng
mạnh.
Trận Bạch Đằng năm 1288 – sự hồi sinh của lịch sử
Vào năm 1287, nhà Nguyên mở đầu cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ ba nhưng chỉ chiếm được kinh thành Thăng Long
không một bóng người, lại bị mất đoàn thuyền chở lương trong trận Vân
Đồn. Trước tình thế bất lợi, quân Nguyên tổ chức rút về nước theo nhiều
hướng khác nhau.
Vào tháng 3/1288, đạo quân thủy của kẻ xâm lược do Ô Mã Nhi thống lĩnh
rút qua ngả sông Bạch Đằng, nơi đã diễn ra chiến thắng lịch sử bằng trận
địa cọc gỗ của Ngô Quyền trước quân Nam Hán năm 938. Lần này, danh
tướng Trần Hưng Đạo quyết định áp dụng kế sách của tiền nhân để tiêu diệt quân xâm lược.
Trần Hưng Đạo nghiên cứu kỹ lưỡng quy luật thủy triều của sông Bạch Đằng để
vạch ra thế trận cọc và bố trí mai phục quân Nguyên. Trận đánh mở đầu
bằng những đòn nhử của thủy quân Đại Việt. Quân Nguyên tiến hành truy
kích và rơi vào bãi cọc lúc nào không hay. Khi nước triều rút, thảm họa
đã ập xuống đầu quân xâm lược.
Những con thuyền lớn của phương Bắc bị dồn ứ, tan vỡ khi va vào những
chiếc cọc nhọn hoắt, trong khi quân mai phục của Đại Việt tràn ra từ hai
bên bờ với khí thế ngút trời. Kết cục tất yếu đã xảy ra: quân Nguyên
thảm bại, mất 4 vạn quân, 400 chiến thuyền và nhiều tướng lĩnh chủ chốt
bị bắt sống.
Trận thắng trên sông Bạch Đằng của quân và dân nhà Trần dẫn đến thắng
lợi hoàn toàn của Đại Việt trong cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông lần
3. Kể từ đó về sau, nhà Nguyên không bao giờ còn dám nghĩ đến chuyện xâm
chiếm Đại Việt nữa.
Đại thắng trên sông Bạch Đằng được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong
lịch sử Việt Nam và là một trong những trận đánh nổi bật nhất trong
lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt.
Trận Cảng Eo: Người Việt đánh bại hạm đội châu Âu
Từ đầu thế kỷ 17, Công ty Đông Ấn Hà Lan nổi lên như một thế lực hùng
mạnh trong công cuộc khai thác thuộc địa châu Á của thực dân phương Tây
và trở thành nỗi sợ hãi của nhiều triều đại phong kiến trong khu vực.
Tại Việt Nam thời kỳ này, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài đã có sự liên kết với
lực lượng Đông Ấn Hà Lan để chống lại chúa Nguyễn. Từ năm 1641, giữa
quân của chúa Nguyễn và người Hà Lan đã có nhiều cuộc đụng độ nhưng chưa
có trận chiến quyết định nào để thay đổi cục diện giằng co.
Chiến hạm Hà Lan từng làm mưa làm gió trên các đại dương. |
Biết tin, vào ngày 7/7/1643, đích thân chúa Nguyễn Phúc Lan và Thế tử
Nguyễn Phúc Tần dẫn 50 thuyền tiến thẳng ra cảng Eo. Khi nhìn thấy đối
phương, thủy binh Nguyễn lao thẳng vào tấn công. Với số lượng vượt trội,
đội thuyền chúa Nguyễn nhanh chóng bao vây ba chiến hạm Hà Lan và đánh
phá quyết liệt.
Quân Nguyễn đã tràn lên boong chiến hạm lớn nhất của Hà Lan mang tên De
Wijdeness do thuyền trưởng Pieter Baek chỉ huy, bẻ bánh lái, chặt gẫy
cột buồm khiến chiến hạm này bị tê liệt hoàn toàn. Bị dồn vào bước đường
cùng, thuyền trưởng Hà Lan cho châm lửa đốt kho thuốc súng, khiến tàu
nổ tung. Hầu như toàn bộ những người có mặt trên tàu, gồm quân chúa
Nguyễn và 200 binh sĩ Hà Lan, kể cả Baek thiệt mạng.
Hai chiến hạm còn lại cố thoát vòng vây và tăng hết tốc lực để bỏ chạy.
Một chiếc trong số đó đâm vào đá ngầm và chìm xuống biển khi bị truy
đuổi.
Thủy quân của chúa Nguyễn đã giành chiến thắng, dù hỏa lực mạnh của
người Hà Lan đã khiến họ chìm 7 thuyền và mất 700-800 binh sĩ. Trận đánh
này là lần đầu tiên trong lịch sử thuỷ quân của người Việt chiến thắng
trước một hạm đội châu Âu.
Sau trận đánh, do e ngại thủy binh chúa Nguyễn mà Công ty Đông Ấn Hà Lan không còn dám đưa tàu thuyền vào Đàng Trong nữa.
Tử địa của người Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút
Tháng 7/1784, mượn cớ giúp Nguyễn Ánh chống Tây Sơn, khoảng 50.000 quân
Xiêm với hơn 300 chiến thuyền cùng khoảng 4.000 quân Nguyễn Ánh theo 2
đường thuỷ bộ tiến vào vùng đất Kiên Giang của Việt Nam.
Đến cuối năm 1784, liên quân Xiêm - Nguyễn đã chiếm được một số vùng đất
phía Tây Gia Định, đóng quân ở căn cứ Trà Tân (nay thuộc tỉnh Tiền
Giang) để chuẩn bị đánh thành Mỹ Tho và Gia Định.
Trước tình hình này, tháng 1/1785, lãnh tụ của nghĩa quân Tây Sơn là Nguyễn Huệ
đã đưa 20.000 quân thuỷ bộ từ Quy Nhơn vào Gia Định. Không chủ trương
phòng thủ Gia Định đang bị uy hiếp, ông đã đưa quân lên Mỹ Tho quyết
chiến với quân Xiêm.
Trong những ngày đầu, Nguyễn Huệ dùng lực lượng nhỏ thăm dò, nghi binh,
cử người mang của cải cầu hoà với tướng giặc nhằm tạo sự chủ quan, gây
chia rẽ nội bộ và dụ quân Xiêm - Nguyễn sớm tiến đánh Mỹ Tho. Đoạn sông
Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút (khoảng 6-7 km) được chọn làm nơi quyết
chiến.
Rạng sáng ngày 19/1/1785, toàn bộ lực lượng Xiêm – Nguyễn theo đường
thuỷ tiến đánh thành Mỹ Tho. Khi kẻ thù lọt vào trận địa phục kích tại
Rạch Gầm - Xoài Mút, quân Tây Sơn dùng pháo đặt trên thuyền, trên bờ và
cù lao Thới Sơn bắn áp đảo, đồng thời thuỷ binh từ các nhánh sông tiến
ra và từ Mỹ Tho kéo lên chặn đầu, khoá đuôi, đánh tạt sườn, bộ binh đón
lõng diệt tàn quân chốn chạy trên bờ.
Kết quả là toàn bộ chiến thuyền và phần lớn quân Xiêm - Nguyễn bị tiêu
diệt. Quân Xiêm chỉ sống sót khoảng vài ngàn, phải mở đường máu chạy về
nước. Nguyễn Ánh cũng vội vã tìm đường chạy sang Xiêm.
Với chiến thắng có ý nghĩa chiến lược này, Nguyễn Huệ đã đập tan ý đồ
“cõng rắn cắn gà nhà” của Nguyễn Ánh và âm mưu xâm lược của quân Xiêm.
Đại thủy chiến Thị Nại – trận Xích Bích của người Việt
Năm 1800, thế trận giữa nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn rơi vào thế giằng co.
Vào thời điểm này, thành Quy Nhơn - một địa điểm tối quan trọng về
chiến của chúa Nguyễn đang bị quân Tây Sơn uy hiếp mạnh mẽ. Quân tiếp
viện cho thành không thể đến bằng đường thủy do phía Tây Sơn bố trí một
đội thủy quân cực mạnh để bảo vệ cửa biển Thị Nại.
Quyết cứu thành Quy Nhơn, chúa Nguyễn Ánh đưa hạm đội hùng hậu chưa từng
có tiến ra phá vòng vây của Tây Sơn ở đầm Thị Nại, với trên dưới 1.000
chiến hạm, trong số đó có 5 chiếc mang được 46 khẩu đại bác.
Quân Tây Sơn không thua kém khi cho án ngữ ở cửa biển Thị Nại 3 chiến
hạm khổng lồ Định Quốc - trang bị hơn 60 đại bác. Phía sau là gần 2.000
chiến thuyền lớn nhỏ. Lực lượng Tây Sơn còn được hỗ trợ bởi nhiều đại
pháo đặt trên cửa ngõ vào Thị Nại.
Trận Thị Nại có nhiều điểm tương đồng với trận Xích Bích của Trung Quốc cổ đại. |
Đêm rằm tháng Giêng năm Tân Dậu (1801), 1.200 quân Nguyễn bí mật đổ bộ
lên bờ, đánh úp các pháo đài của Tây Sơn nhằm hóa giải các cỗ đại pháo.
Quân tiên phong của chúa Nguyễn cũng cải trang thành thuyền Tây Sơn vượt
qua cửa phòng thủ tiến sâu vào bên trong bắn phá.
Trước sự bối rối của đối phương, toàn bộ hạm đội của nhà Nguyễn tổng tấn
công bằng hỏa lực mạnh. 3 chiến hạm Định Quốc của Tây Sơn bị trên 60
chiếc thuyền tiên phong của quân Nguyễn bao vây và đánh chìm. Thủy quân
Nguyễn đánh thọc sâu, và thuận hướng gió nên sức mạnh tấn công phát huy
tối đa, khiến hạm đội Tây Sơn cháy phần phật trong một biển lửa.
Trận Thị Nại đã kết thúc với chiến thắng toàn diện của chúa Nguyễn. Sau
trận đánh này, Nguyễn Ánh liên tiếp giành chiến thắng và nắm quyền kiểm
soát toàn bộ đất nước.
Trận thủy chiến Thị Nại có rất nhiều điểm tương đồng với một trận thủy
chiến nổi tiếng khác diễn ra trước đó 16 thế kỷ, đó là trận Xích Bích ở
cuối thời Đông Hán bên Trung Quốc.
Cả hai trận đánh đều diễn ra trong các cuộc nội chiến giành quyền làm
chủ đất nước, đều diễn ra trên mặt nước với quy mô rất lớn, quy tụ hầu
như toàn bộ lực lượng của thủy quân của các bên tham chiến, và đặc biệt
là lực lượng chiến thắng đã dùng lối đánh hỏa công dựa vào hướng gió
thuận lợi.
Trận Nhật Tảo – trận đánh nhỏ mang tầm vóc lịch sử vĩ đại
Năm 1861 là thời điểm thực dân Pháp đang mở rộng cuộc xâm chiến Nam Kỳ.
Ngày 23/6 năm đó, quân Pháp đánh chiếm Gò Công (Tiền Giang), rồi cho
tiểu hạm Espérance (tiếng Pháp nghĩa là Hy Vọng), đến đồn trú ở sông
Nhật Tảo.
Espérance là một tàu bọc đồng chạy bằng hơi nước, có thể ra vào những
luồng lạch cạn, được trang bị một đại bác cùng nhiều vũ khí đa năng. Đây
là một trong những tàu chiến mạnh nhất trên sông nước của quân Pháp lúc
bấy giờ.
Quyền quản cơ Nguyễn Trung Trực của nhà Nguyễn cùng các đồng sự đã chuẩn
bị kế hoạch tấn công chiếc tiểu hạm này trong một thời gian dài.
Nguyễn Trung Trực, người anh hùng của Trận Nhật Tảo. |
Bằng vũ khí thô sơ, nghĩa quân bất thần nhảy lên boong tàu, diệt 37 tên
địch (có 17 người Pháp). Sau khi lấy búa phá tàu không được, nghĩa quân
bèn nổi lửa đốt cháy con tàu – được coi là biểu tượng cho sự xâm lược
của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Chiến thắng này đã làm nức lòng nhân dân Việt Nam thời điểm đó. Khi tin
ra đến Huế, vua Tự Đức liền cho ban lệnh trọng thưởng cho tất cả những
người tham gia trận đánh.
Viên thanh tra bản xứ tại Nam Kỳ tên Paulin Vial gọi đây là “một sự kiện đau đớn làm người An Nam phấn chấn và gây xúc động, đau lòng sâu sắc trong lòng người Pháp”.
Những vua chúa đánh trận siêu đẳng trong sử Việt (1)
(Kiến Thức) - Nhiều vị vua chúa đã được lịch sử Việt
Nam ghi danh vì những chiến công quân sự xuất sắc, trước hoặc sau khi
lên nắm quyền.
An Dương Vương
An Dương Vương, tên thật là Thục Phán, là vị vua đầu tiên và duy nhất
của nhà nước Âu Lạc - nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam sau nhà
nước Văn Lang của các vua Hùng. Theo sử cũ, ông làm vua trong khoảng
thời gian từ 257 TCN đến 208 TCN.
Vào thời kỳ đó, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất Trung Hoa và tiếp tục tham
vọng xâm chiếm vùng đất phía Nam của các bộ tộc người Việt. Quân Tần do
Đồ Thư chỉ huy đã đánh chiếm nhiều vùng đất của Bách Việt, nhập vào lãnh
thổ Trung Hoa.
Trước tình hình này An Dương Vương đã chỉ huy cuộc kháng chiến chống Tần
của quân dân Âu Lạc. Khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Lạc Việt,
Thục Phán lãnh đạo nhân dân chống giặc. Quân Tần đi đến đâu, Nhân dân
Việt làm vườn không nhà trống đến đó. Quân Tần dần lâm vào tình trạng
suy yếu do thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã kiệt sức thì
quân Âu Lạc xuất trận. Đồ Thư mất mạng, quân Tần thua to, phải bỏ chạy
về phương Bắc.
Sơ đồ thành Cổ Loa. |
Ít lâu sau, Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc. Nhờ sự chuẩn bị quân sự
tốt và ưu thế của thành Cổ Loa, An Dương Vương đã chống cự hiệu quả cuộc
xâm lược này.
Triệu Đà buộc phải dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn giữa con trai
mình, Trọng Thủy, và con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau khi nắm được
bí mật quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, Triệu Đà đã thành
công trong việc chinh phục Âu Lạc, buộc An Dương Vương bỏ chạy và tự
tử, kết thúc thời kỳ An Dương Vương.
Lý Nam Đế
Lý Nam Đế (503–548) tên thật là Lý Bí, còn gọi là Lý Bôn, sinh ra trong
hoàn cảnh nước Việt bị nhà Lương đô hộ. Có tư chất thông minh, thể chất
mạnh khỏe từ nhỏ, khi lớn lên Lý Bí trở thành một người văn võ song
toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương.
Ông được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức châu
(huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay), nhưng do bất bình với các quan
lại đô hộ tàn ác nên bỏ quan, về quê, chiêu binh mãi mã chống lại chính
quyền đô hộ.
Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh và thu phục
được nhiều nhân vật xuất chúng như tù trưởng Triệu Túc cùng con là Triệu
Quang Phục, Tinh Thiều, lão tướng Phạm Tu…
Lý Bí đã liên kết với các châu lân cận và cuối năm 541 chính thức khởi
binh chống nhà Lương, khí thế rất mạnh. Tiêu Tư liệu không chống nổi
quân Lý Bí, phải sai người mang của cải đến đút lót cho Lý Bí để được
tha chạy thoát về Quảng Châu để quân của Lý Bí chiếm thành Long Biên.
Tháng 4/542, vua Lương Vũ Đế sai quân từ phường Bắc kết hợp với quân của
các châu còn kiểm soát ở phía Nam tạo thành gọng kìm đánh Lý Bí. Lý Bí
đã chủ động ra quân đánh trước, phá tan lực lượng quân Lương ở phía Nam
đánh lui cuộc phản công của nhà Lương, làm chủ toàn bộ Giao Châu.
Cuối năm 542, quân Lương lại tiến sang, Lý Bí chủ động mang quân ra bán
đảo Hợp Phố đón đánh khiến quân xâm lược thảm bại, 10 phần chết đến 6-7
phần. Sau chiến thắng này, Lý Bí kiểm soát thêm quận Hợp Phố (thuộc
Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay).
Trong khi Lý Bí bận đối phó với nhà Lương ở phía Bắc thì tại phía Nam,
vua nước Lâm Ấp “đục nước béo cò”, đem quân đánh Giao Châu vào tháng
5/543. Lý Bí sai Phạm Tu cầm quân đánh Lâm Ấp và thắng lớn.
Đầu năm 544, Lý Bí lên ngôi, tự xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn
Xuân, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội).
Đến năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Phiêu sang đánh nước Vạn
Xuân, Lý Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục.
Triệu Việt Vương
Triệu Quang Phục (?-571) là con Triệu Túc, tù trưởng huyện Chu Diên. Ông
cùng cha theo Lý Nam Đế khởi nghĩa từ ngày đầu (541), có công lao đánh
đuổi quân Lương về nước, được trao chức tả tướng quân nước Vạn Xuân.
Năm 546, sau khi Lý Nam Đế thua trận phải lui về động Khuất Lạo, Triệu
Quang Phục được ủy thác việc nước, điều quân đi đánh Trần Bá Tiên của
nhà Lương.
Tháng 1/547, ông lui về giữ đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, huyện Khoái Châu,
tỉnh Hưng Yên). Đầm này rộng, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có
nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có
thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể
vào được. Nếu không quen biết đường đi thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi
xuống nước liền bị rắn độc cắn chết.
Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền
đất trong đầm, và dùng chiến thuật du kích, ban ngày tuyệt không để
khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh
doanh trại của quân Bá Tiên cướp lương thực vũ khí làm kế cầm cự lâu
dài.
Năm 550, nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, gọi Trần Bá Tiên về. Triệu Quang
phục tận dụng thời cơ tung quân ra đánh. Quân Lương tan vỡ chạy về nước.
Triệu Quang Phục vào thành Long Biên và xưng làm Triệu Việt Vương.
Đến năm 571, một người cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đã cướp ngôi
Triệu Việt Vương, tiếp tục giữ được sự độc lập cho người Việt thêm 30
năm đến khi nhà Tùy sang đánh năm 602.
Ngô Quyền
Ngô Quyền (898 - 944) sinh ra trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở
châu Đường Lâm. Ông lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường đang suy
yếu và tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng người Việt ở
địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành
Đại La vào năm 905 và họ Dương vào năm 931.
Sau khi trở thành con rể cho Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền được tin cậy
giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất
Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ để chiếm quyền,
nhưng lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc nên đã cầu cứu nhà Nam
Hán để bảo vệ quyền lực của mình.
Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều
Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo
chỉ huy.
Lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, ông sai đóng
cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi
cọc bị che lấp.
Mô hình trận Bạch Đằng. |
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng vương, kết thúc hơn 1.000 năm Bắc
thuộc, mở ra thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ cho Việt Nam. Ông không
có miếu hiệu và thụy hiệu, sử sách xưa nay chỉ gọi ông là Tiền Ngô
Vương. Kinh đô của triều đại mới không nằm ở Đại La mà chuyển sang Cổ
Loa, kinh đô của nước Âu Lạc từ thời An Dương Vương một nghìn năm trước.
(Còn nữa…)
Những vua chúa đánh trận siêu đẳng trong sử Việt (2)
(Kiến Thức) - Nhiều vị vua Việt Nam đã chứng minh mình
không chỉ là một nhà cai trị anh minh mà còn là một nhà quân sự tài
năng.
Đinh Tiên Hoàng
Sau các biến động chính trị dồn dập, tình hình đất nước trở nên
rối loạn và từ năm 966 hình thành 12 sứ quân cát cứ nhiều vùng, sử gọi
là loạn 12 sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh đã tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư,
cùng con trai là Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần
Minh Công tức Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình).
Lê Đại Hành
Trần Nhân Tông
Trong cả 2 lần kháng chiến vào các năm 1285 và 1288, vua Trần
Nhân Tông đã đóng vai trò của một ngọn cờ đoàn kết dân tộc, lãnh đạo
quân dân Đại Việt vượt nhiều thời khắc khó khăn, đưa cuộc chiến đấu tới
thắng lợi cuối cùng. Trong các cuộc chiến này, nhà vua đã nhiều lần trực
tiếp cầm quân đánh trận như một vị tướng dũng cảm, vừa đưa ra được
những quyết sách đúng đắn trong vai trò của một nhà chiến lược tài giỏi.
(Còn nữa…)
Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924 ở thôn Kim
Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn,
Ninh Bình) vào thời kỳ đất nước bị nhà Ngô đô hộ. Ông là con của Đinh
Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ. Từ bé ông đã mê đánh trận giả
và tỏ ra là người có khả năng chỉ huy.
Ảnh minh họa. |
Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ
Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô
và các sứ quân khác. Chỉ trong vài năm, ông lần lượt đánh thắng 11 sứ
quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng Vương.
Sau khi xóa bỏ tình trạng cát cứ, năm
968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế,
niên hiệu Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa
Lư. Ông là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, vì thế mà ông còn được gọi là người
mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.
Đinh Tiên Hoàng ở ngôi đến năm 979 thì
mất. Theo chính sử, một viên quan là Đỗ Thích mơ thấy sao rơi vào
miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên
Hoàng và Thái tử Đinh Liễn.
Lê Đại Hành
Lê Hoàn sinh năm 941, quê quán chưa
được xác định rõ ràng. Mồ côi từ nhỏ, ông được một vị quan là Lê Đột
nhận về nuôi, lớn lên đi theo đội quân của Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn,
lập được nhiều chiến công.
Sau khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi năm
968, Lê Hoàn được giao chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ
Việt, trực tiếp chỉ huy đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư. Lúc đó
ông mới 27 tuổi.
Năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và
Đinh Liễn bị sát hại, Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính cho Vệ vương Đinh
Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Tranh chấp quyền lực đã xảy ra giữa phe
của Lê Hoàn và một số đại thần thân cận của Đinh Tiên Hoàng. Lê Hoàn đã
giết chết các đối thủ và củng cố sự kiểm soát triều đình.
Thấy triều đình Hoa Lư rối ren, nhà
Tống ý định cho quân tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt, nhiều lần viết thư
sang dụ và đe dọa triều Đinh bắt phải quy phụ đầu hàng.
Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân
Nga cùng các tướng lĩnh và triều thần đã tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê
Hoàn lên ngôi (sử thường gọi là Lê Đại Hành), lấy niên hiệu là Thiên
Phúc.
Đầu năm 981, vua nhà Tống phát quân
sang đánh Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành đã lãnh đạo quân dân đánh bại quân
Tống ở các trận Bạch Đằng, Tây Kết, giết và bắt sống nhiều tướng giặc
chủ chốt, khiến quân Tống phải tháo chạy về nước.
Trong vòng 26 năm trị vì, Lê Đại Hành
là người đặc biệt quan tâm đến vùng đất phía Nam. Ông đã tiến hành nhiều
hoạt động quân sự lớn, đích thân cầm quân đánh dẹp sự nổi dậy của các
thế lực cát cứ và xâm lấn, không chỉ bảo vệ vững chắc biên giới, mà còn
trực tiếp chuẩn bị cho quá trình Nam tiến của người Việt. Lê Đại Hành mất năm 1005, thọ 65 tuổi.
Lý Thánh Tông
Lý Thánh Tông (1023 – 1072) là vị vua
thứ ba của nhà Lý. Ông tên thật là Lý Nhật Tôn, là con trưởng của Lý
Thái Tông, mẹ là Kim Thiên thái hậu Mai Thị. Không chỉ nổi tiếng là một
minh quân có nhiều đức độ trong lịch sử Việt Nam, ông còn là một nhà
quân sự lỗi lạc.
Trong thời kỳ trị vì của vua cha Lý
Thái Tông, Lý Nhật Tôn đã nhiều lần cầm quân đi dẹp loạn, bảo vệ biên
cương và lập nhiều chiến công, được sử sách ghi nhận như dẹp bạo loạn ở
Lâm Tây năm 1037, khi mới 15 tuổi, đánh châu Văn năm 1042, châu Ái năm
1043.
Sau khi Lý Thái Tông băng hà năm 1054,
Lý Thánh Tông lên ngôi, tiếp tục ổn định tình hình trong nước và chú
trọng mở rộng cương thổ. Quân đội dưới thời gian ông trị vì được tổ chức
rất chặt chẽ và quy củ, có tiếng thiện chiến, nhiều lần đánh đuổi quân
Tống ở biên cương phía Bắc vào các năm 1059-1060, khiến nhà Tống phải nể
sợ.
Do nước Chiêm Thành phía Nam hay sang
quấy nhiễu, năm 1069 vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh. Đánh lần đầu
không thành công, ông đem quân trở về. Đi nửa đường vua nghe thấy nhân
dân khen bà Nguyên phi Ỷ Lan (vợ thứ của vua) ở nhà giám quốc, trong
nước được yên trị, liền nghĩ bụng: "Người đàn bà trị nước còn được như
thế, mà mình đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn
lắm sao?". Vua lại đem quân trở lại đánh và bắt được vua Chiêm Thành là
Chế Củ.
Chế Củ đã phải dâng đất ba châu là Địa
Lý, Ma Linh và Bố Chính (ngày nay thuộc các huyện Quảng Ninh, Quảng
Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải
tỉnh Quảng Trị) cho Đại Việt để chuộc tội.
Trần Nhân Tông
Vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308), tên
thật Trần Khâm, là vị vua thứ ba của nhà Trần. Ông là con trai trưởng
của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần
Thị Thiều, được vua cha nhường ngôi vào năm 1278.
Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là
một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam, là người
đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và có vai trò lãnh đạo quan
trọng trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 2 và
3.
Hình minh họa. |
Ngoài cuộc đối đầu với người Mông Cổ,
vào năm 1290, nhà vua cũng thân chinh đi đánh dẹp quân Ai Lao, những kẻ
thường hay quấy nhiễu biên giới, bảo vệ vững chắc bờ cõi phía Tây.
Vua Trần Nhân Tông qua đời năm 1308 tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử, Đông Triều, Quảng Ninh.
(Còn nữa…)
Hoàng Phương
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét