Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 94

(ĐC sưu tầm trên NET)

Bảo ấn của vua chúa xưa được chế tác thế nào?

 

(Kiến Thức) - Bảo ấn biểu trưng cho đế quyền của thiên tử. Để tạo nên tín vật thiêng liêng này, người xưa đã phải kỳ công ra sao, chưa hẳn ai cũng biết.

    Chuyên gia nghiên cứu Guo Fuxiang thuộc Viện bảo tàng Cố Cung nhận định, bảo ấn là biểu tượng cho quyền lực tối thượng của hoàng đế. Mất ngự ấn không khác gì hoàng đế mất đi quyền thống trị giang sơn của mình. Nói cách khác, tín vật thiêng liêng này được xem là trọng khí của một vương triều, dùng để xác nhận ý chí và mệnh lệnh của hoàng đế.

    Theo trang Sohu, đa phần ấn của hoàng gia đều được lưu giữ tại các bảo tàng lớn như Cố Cung (Bắc Kinh), chỉ số ít lưu lạc trong dân gian. Trước triều Thanh, bảo ấn không có số lượng cố định, tới thời Càn Long, nhà vua đã hết sức đề cao tầm quan trọng của ấn ngọc.


    Tại Viện bảo tàng Cố Cung và Bảo tàng sơn trang nghỉ mát Thừa Đức, Trung Quốc hiện vẫn còn lưu giữ vô vàn những bảo ấn của hoàng đế, vương hậu nhà Thanh. Những ấn tỷ này hoặc được làm bằng vàng, hoặc bằng ngọc với những hình dáng, màu sắc phong phú đa dạng. Đây đều là những cổ vật quý giá, những tinh hoa nghệ thuật của quốc gia này. Các hiện vật là minh chứng cho một thời hoàng kim của vương triều nhà Thanh, Trung Quốc. Trải bao năm tháng, chúng vẫn hiện hữu với thực tại, như một nhân chứng vô giá của lịch sử. Vậy, những ấn tỷ này được chạm khắc, chế tác thế nào?


    Theo những ghi chép trong “Khâm định Đại Thanh hội điển sự liệt”: “Vào năm đầu thời vua Thuận Trị, việc đúc bảo ấn do bộ Lễ phụ trách, bên trái của ấn là Thanh văn, bên phải là Hán văn. Nét chữ do Nội viện ban hành. Vàng bạc phèn the do bộ Hộ lo liệu, những vật phẩm tế lễ thuộc trách nhiệm của chùa Quang Lộc”. Các tình tiết cụ thể hơn, hậu thế không được tỏ tường, nhưng những mẫu ấn còn được bảo tồn tới ngày nay và một số tư liệu, ghi chép rải rác cũng giúp chúng ta phần nào hình dung được quá trình chế tác bảo ấn dành cho các đế hậu diễn ra theo trình tự như sau:


    Trước hết, Bộ Lễ sẽ căn cứ theo tiền lệ đã định sẵn, tấu báo lên vua những bảo ấn cần chế tác và đợi chỉ thị của đấng thiên tử. Sau đó, bộ phận chế tạo sẽ dùng giấy, gỗ, lụa hoặc sáp nến làm thành mẫu ấn, viết chữ lên rồi dâng hoàng thượng ngự lãm. Được sự đồng ý, ưng thuận của đấng quân vương, người chịu trách nhiệm bên bộ Lễ sẽ phát mẫu ấn tới bộ phận chế tác để đúc hoặc khắc sản phẩm theo đúng nguyên mẫu được duyệt.


    Đầu tiên, bộ phận chế tác sẽ lĩnh về những nguyên vật liệu để đúc ấn, sau khi phía Khâm thiên giám chọn ra ngày lành tháng tốt, họ mới tiến hành đúc, khắc ấn theo như nguyên mẫu. Những công đoạn chế tác sẽ bao gồm: làm núm ấn, chỉnh hình, đánh bóng…sau đó đưa vào ngân khố đợi khắc chữ. Khi khắc, Khâm thiên giám sẽ chọn ra giờ tốt, riêng bộ Lễ có nhiệm vụ tấu báo lên trên để được phê chuẩn. Lúc này, bảo ấn sẽ được đem tới Nội các, sau thủ tục hành lễ tại đại đường Nội các, người chịu trách nhiệm khắc ấn sẽ tiến hành công việc theo đúng mẫu chữ do Viện hàn lâm Nội các đưa ra. Hoàn thành xong, ấn sẽ được lưu trữ trong kho của Nội các. Khi đấng quân vương chính thức cử hành hôn lễ với hoàng hậu, Thị nghênh chánh phó sứ sẽ trực tiếp lấy ấn “Hoàng hậu chi bảo” từ trong kho ra. Nếu là những bảo ấn khác, có thể trực tiếp sử dụng sau công đoạn khắc chữ….

    (*) Bài viết tham khảo các nguồn Sohu.com, Wikipedia.org, Ourjg.com, Jinshizhuanke.com.

    10 trận thủy chiến kinh điển trong sử Việt (2)

    (Kiến Thức) - Một số trận thủy chiến quy mô không lớn nhưng mang tầm vóc trọng đại; đơn cử như chiến thắng của người Việt trước pháo hạm phương Tây hùng mạnh.

      Trận Bạch Đằng năm 1288 – sự hồi sinh của lịch sử

      Vào năm 1287, nhà Nguyên mở đầu cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ ba nhưng chỉ chiếm được kinh thành Thăng Long không một bóng người, lại bị mất đoàn thuyền chở lương trong trận Vân Đồn. Trước tình thế bất lợi, quân Nguyên tổ chức rút về nước theo nhiều hướng khác nhau.

      Vào tháng 3/1288, đạo quân thủy của kẻ xâm lược do Ô Mã Nhi thống lĩnh rút qua ngả sông Bạch Đằng, nơi đã diễn ra chiến thắng lịch sử bằng trận địa cọc gỗ của Ngô Quyền trước quân Nam Hán năm 938. Lần này, danh tướng Trần Hưng Đạo quyết định áp dụng kế sách của tiền nhân để tiêu diệt quân xâm lược.

      Trần Hưng Đạo nghiên cứu kỹ lưỡng quy luật thủy triều của sông Bạch Đằng để vạch ra thế trận cọc và bố trí mai phục quân Nguyên. Trận đánh mở đầu bằng những đòn nhử của thủy quân Đại Việt. Quân Nguyên tiến hành truy kích và rơi vào bãi cọc lúc nào không hay. Khi nước triều rút, thảm họa đã ập xuống đầu quân xâm lược.

      Những con thuyền lớn của phương Bắc bị dồn ứ, tan vỡ khi va vào những chiếc cọc nhọn hoắt, trong khi quân mai phục của Đại Việt tràn ra từ hai bên bờ với khí thế ngút trời. Kết cục tất yếu đã xảy ra: quân Nguyên thảm bại, mất 4 vạn quân, 400 chiến thuyền và nhiều tướng lĩnh chủ chốt bị bắt sống.

      Trận thắng trên sông Bạch Đằng của quân và dân nhà Trần dẫn đến thắng lợi hoàn toàn của Đại Việt trong cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông lần 3. Kể từ đó về sau, nhà Nguyên không bao giờ còn dám nghĩ đến chuyện xâm chiếm Đại Việt nữa.

      Đại thắng trên sông Bạch Đằng được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử Việt Nam và là một trong những trận đánh nổi bật nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt.

      Trận Cảng Eo: Người Việt đánh bại hạm đội châu Âu

      Từ đầu thế kỷ 17, Công ty Đông Ấn Hà Lan nổi lên như một thế lực hùng mạnh trong công cuộc khai thác thuộc địa châu Á của thực dân phương Tây và trở thành nỗi sợ hãi của nhiều triều đại phong kiến trong khu vực.

      Tại Việt Nam thời kỳ này, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài đã có sự liên kết với lực lượng Đông Ấn Hà Lan để chống lại chúa Nguyễn. Từ năm 1641, giữa quân của chúa Nguyễn và người Hà Lan đã có nhiều cuộc đụng độ nhưng chưa có trận chiến quyết định nào để thay đổi cục diện giằng co.

       Chiến hạm Hà Lan từng làm mưa làm gió trên các đại dương.

      Mùa hè năm 1643, theo yêu cầu của chúa Trịnh, Công ty Đông Ấn Hà Lan phái ba pháo hạm lớn đến hội quân với họ Trịnh tại sông Gianh (Quảng Bình). Trong hải trình của mình, hạm đội này bị gió thổi giạt vào gần cảng Eo của Đàng Trong (Thuận An, Phú Vang, Thừa Thiên - Huế ngày nay).

      Biết tin, vào ngày 7/7/1643, đích thân chúa Nguyễn Phúc Lan và Thế tử Nguyễn Phúc Tần dẫn 50 thuyền tiến thẳng ra cảng Eo. Khi nhìn thấy đối phương, thủy binh Nguyễn lao thẳng vào tấn công. Với số lượng vượt trội, đội thuyền chúa Nguyễn nhanh chóng bao vây ba chiến hạm Hà Lan và đánh phá quyết liệt. 

      Quân Nguyễn đã tràn lên boong chiến hạm lớn nhất của Hà Lan mang tên De Wijdeness do thuyền trưởng Pieter Baek chỉ huy, bẻ bánh lái, chặt gẫy cột buồm khiến chiến hạm này bị tê liệt hoàn toàn. Bị dồn vào bước đường cùng, thuyền trưởng Hà Lan cho châm lửa đốt kho thuốc súng, khiến tàu nổ tung. Hầu như toàn bộ những người có mặt trên tàu, gồm quân chúa Nguyễn và 200 binh sĩ Hà Lan, kể cả Baek thiệt mạng.

      Hai chiến hạm còn lại cố thoát vòng vây và tăng hết tốc lực để bỏ chạy. Một chiếc trong số đó đâm vào đá ngầm và chìm xuống biển khi bị truy đuổi.

      Thủy quân của chúa Nguyễn đã giành chiến thắng, dù hỏa lực mạnh của người Hà Lan đã khiến họ chìm 7 thuyền và mất 700-800 binh sĩ. Trận đánh này là lần đầu tiên trong lịch sử thuỷ quân của người Việt chiến thắng trước một hạm đội châu Âu.

      Sau trận đánh, do e ngại thủy binh chúa Nguyễn mà Công ty Đông Ấn Hà Lan không còn dám đưa tàu thuyền vào Đàng Trong nữa.

      Tử địa của người Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút

      Tháng 7/1784, mượn cớ giúp Nguyễn Ánh chống Tây Sơn, khoảng 50.000 quân Xiêm với hơn 300 chiến thuyền cùng khoảng 4.000 quân Nguyễn Ánh theo 2 đường thuỷ bộ tiến vào vùng đất Kiên Giang của Việt Nam.

      Đến cuối năm 1784, liên quân Xiêm - Nguyễn đã chiếm được một số vùng đất phía Tây Gia Định, đóng quân ở căn cứ Trà Tân (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) để chuẩn bị đánh thành Mỹ Tho và Gia Định.

      Trước tình hình này, tháng 1/1785, lãnh tụ của nghĩa quân Tây Sơn là Nguyễn Huệ đã đưa 20.000 quân thuỷ bộ từ Quy Nhơn vào Gia Định. Không chủ trương phòng thủ Gia Định đang bị uy hiếp, ông đã đưa quân lên Mỹ Tho quyết chiến với quân Xiêm.

      Trong những ngày đầu, Nguyễn Huệ dùng lực lượng nhỏ thăm dò, nghi binh, cử người mang của cải cầu hoà với tướng giặc nhằm tạo sự chủ quan, gây chia rẽ nội bộ và dụ quân Xiêm - Nguyễn sớm tiến đánh Mỹ Tho. Đoạn sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút (khoảng 6-7 km) được chọn làm nơi quyết chiến.

      Rạng sáng ngày 19/1/1785, toàn bộ lực lượng Xiêm – Nguyễn theo đường thuỷ tiến đánh thành Mỹ Tho. Khi kẻ thù lọt vào trận địa phục kích tại Rạch Gầm - Xoài Mút, quân Tây Sơn dùng pháo đặt trên thuyền, trên bờ và cù lao Thới Sơn bắn áp đảo, đồng thời thuỷ binh từ các nhánh sông tiến ra và từ Mỹ Tho kéo lên chặn đầu, khoá đuôi, đánh tạt sườn, bộ binh đón lõng diệt tàn quân chốn chạy trên bờ.

      Kết quả là toàn bộ chiến thuyền và phần lớn quân Xiêm - Nguyễn bị tiêu diệt. Quân Xiêm chỉ sống sót khoảng vài ngàn, phải mở đường máu chạy về nước. Nguyễn Ánh cũng vội vã tìm đường chạy sang Xiêm.

      Với chiến thắng có ý nghĩa chiến lược này, Nguyễn Huệ đã đập tan ý đồ “cõng rắn cắn gà nhà” của Nguyễn Ánh và âm mưu xâm lược của quân Xiêm.

      Đại thủy chiến Thị Nại – trận Xích Bích của người Việt

      Năm 1800, thế trận giữa nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn rơi vào thế giằng co. Vào thời điểm này, thành Quy Nhơn - một địa điểm tối quan trọng về chiến của chúa Nguyễn đang bị quân Tây Sơn uy hiếp mạnh mẽ. Quân tiếp viện cho thành không thể đến bằng đường thủy do phía Tây Sơn bố trí một đội thủy quân cực mạnh để bảo vệ cửa biển Thị Nại.

      Quyết cứu thành Quy Nhơn, chúa Nguyễn Ánh đưa hạm đội hùng hậu chưa từng có tiến ra phá vòng vây của Tây Sơn ở đầm Thị Nại, với trên dưới 1.000 chiến hạm, trong số đó có 5 chiếc mang được 46 khẩu đại bác.

      Quân Tây Sơn không thua kém khi cho án ngữ ở cửa biển Thị Nại 3 chiến hạm khổng lồ Định Quốc - trang bị hơn 60 đại bác. Phía sau là gần 2.000 chiến thuyền lớn nhỏ. Lực lượng Tây Sơn còn được hỗ trợ bởi nhiều đại pháo đặt trên cửa ngõ vào Thị Nại.

       Trận Thị Nại có nhiều điểm tương đồng với trận Xích Bích của Trung Quốc cổ đại.

      Sau nhiều lần bị đập tan ngay tại cửa đầm bởi hỏa lực phòng thủ của đối phương, chúa Nguyễn quyết định thu quân về để họp bàn các tướng bàn kế tiêu diệt hạm đội Tây Sơn. Nhận định mùa gió đang thuận lợi, họ thống nhất sẽ dùng hỏa công.

      Đêm rằm tháng Giêng năm Tân Dậu (1801), 1.200 quân Nguyễn bí mật đổ bộ lên bờ, đánh úp các pháo đài của Tây Sơn nhằm hóa giải các cỗ đại pháo. Quân tiên phong của chúa Nguyễn cũng cải trang thành thuyền Tây Sơn vượt qua cửa phòng thủ tiến sâu vào bên trong bắn phá.

      Trước sự bối rối của đối phương, toàn bộ hạm đội của nhà Nguyễn tổng tấn công bằng hỏa lực mạnh. 3 chiến hạm Định Quốc của Tây Sơn bị trên 60 chiếc thuyền tiên phong của quân Nguyễn bao vây và đánh chìm. Thủy quân Nguyễn đánh thọc sâu, và thuận hướng gió nên sức mạnh tấn công phát huy tối đa, khiến hạm đội Tây Sơn cháy phần phật trong một biển lửa.

      Trận Thị Nại đã kết thúc với chiến thắng toàn diện của chúa Nguyễn. Sau trận đánh này, Nguyễn Ánh liên tiếp giành chiến thắng và nắm quyền kiểm soát toàn bộ đất nước.

      Trận thủy chiến Thị Nại có rất nhiều điểm tương đồng với một trận thủy chiến nổi tiếng khác diễn ra trước đó 16 thế kỷ, đó là trận Xích Bích ở cuối thời Đông Hán bên Trung Quốc.

      Cả hai trận đánh đều diễn ra trong các cuộc nội chiến giành quyền làm chủ đất nước, đều diễn ra trên mặt nước với quy mô rất lớn, quy tụ hầu như toàn bộ lực lượng của thủy quân của các bên tham chiến, và đặc biệt là lực lượng chiến thắng đã dùng lối đánh hỏa công dựa vào hướng gió thuận lợi.

      Trận Nhật Tảo – trận đánh nhỏ mang tầm vóc lịch sử vĩ đại

      Năm 1861 là thời điểm thực dân Pháp đang mở rộng cuộc xâm chiến Nam Kỳ. Ngày 23/6 năm đó, quân Pháp đánh chiếm Gò Công (Tiền Giang), rồi cho tiểu hạm Espérance (tiếng Pháp nghĩa là Hy Vọng), đến đồn trú ở sông Nhật Tảo.

      Espérance là một tàu bọc đồng chạy bằng hơi nước, có thể ra vào những luồng lạch cạn, được trang bị một đại bác cùng nhiều vũ khí đa năng. Đây là một trong những tàu chiến mạnh nhất trên sông nước của quân Pháp lúc bấy giờ.

      Quyền quản cơ Nguyễn Trung Trực của nhà Nguyễn cùng các đồng sự đã chuẩn bị kế hoạch tấn công chiếc tiểu hạm này trong một thời gian dài.

       Nguyễn Trung Trực, người anh hùng của Trận Nhật Tảo.

      Trưa ngày 10/12, ông chỉ huy đội cảm tử quân gồm 59 người (có thông tin cho là 150 người), phân tán trên nhiều thuyền nhỏ, giả làm thuyền đám cưới, áp sát pháo hạm Espérance, lúc này đang tuần tra trên sông.

      Bằng vũ khí thô sơ, nghĩa quân bất thần nhảy lên boong tàu, diệt 37 tên địch (có 17 người Pháp). Sau khi lấy búa phá tàu không được, nghĩa quân bèn nổi lửa đốt cháy con tàu – được coi là biểu tượng cho sự xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam.

      Chiến thắng này đã làm nức lòng nhân dân Việt Nam thời điểm đó. Khi tin ra đến Huế, vua Tự Đức liền cho ban lệnh trọng thưởng cho tất cả những người tham gia trận đánh.

      Viên thanh tra bản xứ tại Nam Kỳ tên Paulin Vial gọi đây là “một sự kiện đau đớn làm người An Nam phấn chấn và gây xúc động, đau lòng sâu sắc trong lòng người Pháp”.

      Những vua chúa đánh trận siêu đẳng trong sử Việt (1)

       

      (Kiến Thức) - Nhiều vị vua chúa đã được lịch sử Việt Nam ghi danh vì những chiến công quân sự xuất sắc, trước hoặc sau khi lên nắm quyền.

        An Dương Vương

        An Dương Vương, tên thật là Thục Phán, là vị vua đầu tiên và duy nhất của nhà nước Âu Lạc - nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam sau nhà nước Văn Lang của các vua Hùng. Theo sử cũ, ông làm vua trong khoảng thời gian từ 257 TCN đến 208 TCN.

        Vào thời kỳ đó, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất Trung Hoa và tiếp tục tham vọng xâm chiếm vùng đất phía Nam của các bộ tộc người Việt. Quân Tần do Đồ Thư chỉ huy đã đánh chiếm nhiều vùng đất của Bách Việt, nhập vào lãnh thổ Trung Hoa.

        Trước tình hình này An Dương Vương đã chỉ huy cuộc kháng chiến chống Tần của quân dân Âu Lạc. Khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Lạc Việt, Thục Phán lãnh đạo nhân dân chống giặc. Quân Tần đi đến đâu, Nhân dân Việt làm vườn không nhà trống đến đó. Quân Tần dần lâm vào tình trạng suy yếu do thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân Tần đã kiệt sức thì quân Âu Lạc xuất trận. Đồ Thư mất mạng, quân Tần thua to, phải bỏ chạy về phương Bắc.

         Sơ đồ thành Cổ Loa.

        Sau chiến thắng, An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa nhằm củng cố thêm khả năng phòng thủ quân sự. Tòa thành này có cấu trúc độc đáo, theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, được củng cố bởi mạng lưới hào nước liên kết với nhau chạy dưới chân thành. An Dương Vương cũng phát triển thuỷ binh và cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế quân sự vững chắc cho Cổ Loa.

        Ít lâu sau, Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc. Nhờ sự chuẩn bị quân sự tốt và ưu thế của thành Cổ Loa, An Dương Vương đã chống cự hiệu quả cuộc xâm lược này.

        Triệu Đà buộc phải dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình, Trọng Thủy, và con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau khi nắm được bí mật quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, Triệu Đà đã thành công trong việc chinh phục Âu Lạc, buộc An Dương Vương bỏ chạy và tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương Vương.

        Lý Nam Đế

        Lý Nam Đế (503–548) tên thật là Lý Bí, còn gọi là Lý Bôn, sinh ra trong hoàn cảnh nước Việt bị nhà Lương đô hộ. Có tư chất thông minh, thể chất mạnh khỏe từ nhỏ, khi lớn lên Lý Bí trở thành một người văn võ song toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương.

        Ông được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân ở Đức châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay), nhưng do bất bình với các quan lại đô hộ tàn ác nên bỏ quan, về quê, chiêu binh mãi mã chống lại chính quyền đô hộ.

        Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh và thu phục được nhiều nhân vật xuất chúng như tù trưởng Triệu Túc cùng con là Triệu Quang Phục, Tinh Thiều, lão tướng Phạm Tu…

        Lý Bí đã liên kết với các châu lân cận và cuối năm 541 chính thức khởi binh chống nhà Lương, khí thế rất mạnh. Tiêu Tư liệu không chống nổi quân Lý Bí, phải sai người mang của cải đến đút lót cho Lý Bí để được tha chạy thoát về Quảng Châu để quân của Lý Bí chiếm thành Long Biên.

        Tháng 4/542, vua Lương Vũ Đế sai quân từ phường Bắc kết hợp với quân của các châu còn kiểm soát ở phía Nam tạo thành gọng kìm đánh Lý Bí. Lý Bí đã chủ động ra quân đánh trước, phá tan lực lượng quân Lương ở phía Nam đánh lui cuộc phản công của nhà Lương, làm chủ toàn bộ Giao Châu.

        Cuối năm 542, quân Lương lại tiến sang, Lý Bí chủ động mang quân ra bán đảo Hợp Phố đón đánh khiến quân xâm lược thảm bại, 10 phần chết đến 6-7 phần. Sau chiến thắng này, Lý Bí kiểm soát thêm quận Hợp Phố (thuộc Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay).

        Trong khi Lý Bí bận đối phó với nhà Lương ở phía Bắc thì tại phía Nam, vua nước Lâm Ấp “đục nước béo cò”, đem quân đánh Giao Châu vào tháng 5/543. Lý Bí sai Phạm Tu cầm quân đánh Lâm Ấp và thắng lớn.

        Đầu năm 544, Lý Bí lên ngôi, tự xưng là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội).

        Đến năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Phiêu sang đánh nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục.

        Triệu Việt Vương

        Triệu Quang Phục (?-571) là con Triệu Túc, tù trưởng huyện Chu Diên. Ông cùng cha theo Lý Nam Đế khởi nghĩa từ ngày đầu (541), có công lao đánh đuổi quân Lương về nước, được trao chức tả tướng quân nước Vạn Xuân.

        Năm 546, sau khi Lý Nam Đế thua trận phải lui về động Khuất Lạo, Triệu Quang Phục được ủy thác việc nước, điều quân đi đánh Trần Bá Tiên của nhà Lương.

        Tháng 1/547, ông lui về giữ đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Đầm này rộng, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể vào được. Nếu không quen biết đường đi thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết.

        Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn 2 vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm, và dùng chiến thuật du kích, ban ngày tuyệt không để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên cướp lương thực vũ khí làm kế cầm cự lâu dài.

        Năm 550, nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, gọi Trần Bá Tiên về. Triệu Quang phục tận dụng thời cơ tung quân ra đánh. Quân Lương tan vỡ chạy về nước. Triệu Quang Phục vào thành Long Biên và xưng làm Triệu Việt Vương.

        Đến năm 571, một người cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đã cướp ngôi Triệu Việt Vương, tiếp tục giữ được sự độc lập cho người Việt thêm 30 năm đến khi nhà Tùy sang đánh năm 602.

        Ngô Quyền

        Ngô Quyền (898 - 944) sinh ra trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm. Ông lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường đang suy yếu và tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành Đại La vào năm 905 và họ Dương vào năm 931.

        Sau khi trở thành con rể cho Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền được tin cậy giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là Kiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ để chiếm quyền, nhưng lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc nên đã cầu cứu nhà Nam Hán để bảo vệ quyền lực của mình.

        Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo chỉ huy.

        Lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, ông sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp.

         Mô hình trận Bạch Đằng.

        Khi cuộc chiến diễn ra, Ngô Quyền đã nhử quân Nam Hán vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền quân Nam Hán mắc cạn mới giao chiến. Kết quả, quân Nam Hán thua chạy, Lưu Hoằng Tháo bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ, nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc mộng xâm lược.

        Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng vương, kết thúc hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ cho Việt Nam. Ông không có miếu hiệu và thụy hiệu, sử sách xưa nay chỉ gọi ông là Tiền Ngô Vương. Kinh đô của triều đại mới không nằm ở Đại La mà chuyển sang Cổ Loa, kinh đô của nước Âu Lạc từ thời An Dương Vương một nghìn năm trước.

        (Còn nữa…)

        Những vua chúa đánh trận siêu đẳng trong sử Việt (2)

         

        (Kiến Thức) - Nhiều vị vua Việt Nam đã chứng minh mình không chỉ là một nhà cai trị anh minh mà còn là một nhà quân sự tài năng.

          Đinh Tiên Hoàng

          Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924 ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình) vào thời kỳ đất nước bị nhà Ngô đô hộ. Ông là con của Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ. Từ bé ông đã mê đánh trận giả và tỏ ra là người có khả năng chỉ huy.

           Ảnh minh họa. 

          Sau các biến động chính trị dồn dập, tình hình đất nước trở nên rối loạn và từ năm 966 hình thành 12 sứ quân cát cứ nhiều vùng, sử gọi là loạn 12 sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh đã tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư, cùng con trai là Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công tức Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình).

          Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác. Chỉ trong vài năm, ông lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng Vương.

          Sau khi xóa bỏ tình trạng cát cứ, năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, niên hiệu Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Ông là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.

          Đinh Tiên Hoàng ở ngôi đến năm 979 thì mất. Theo chính sử, một viên quan là Đỗ Thích mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Thái tử Đinh Liễn.

          Lê Đại Hành

          Lê Hoàn sinh năm 941, quê quán chưa được xác định rõ ràng. Mồ côi từ nhỏ, ông được một vị quan là Lê Đột nhận về nuôi, lớn lên đi theo đội quân của Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn, lập được nhiều chiến công.

          Sau khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi năm 968, Lê Hoàn được giao chức vụ tổng chỉ huy quân đội cả nước Đại Cồ Việt, trực tiếp chỉ huy đội quân cấm vệ của triều đình Hoa Lư. Lúc đó ông mới 27 tuổi.

          Năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại, Lê Hoàn trở thành Nhiếp chính cho Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Tranh chấp quyền lực đã xảy ra giữa phe của Lê Hoàn và một số đại thần thân cận của Đinh Tiên Hoàng. Lê Hoàn đã giết chết các đối thủ và củng cố sự kiểm soát triều đình.

          Thấy triều đình Hoa Lư rối ren, nhà Tống ý định cho quân tiến vào đánh chiếm Đại Cồ Việt, nhiều lần viết thư sang dụ và đe dọa triều Đinh bắt phải quy phụ đầu hàng.

          Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga cùng các tướng lĩnh và triều thần đã tôn Lê Hoàn lên làm vua. Lê Hoàn lên ngôi (sử thường gọi là Lê Đại Hành), lấy niên hiệu là Thiên Phúc.

          Đầu năm 981, vua nhà Tống phát quân sang đánh Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành đã lãnh đạo quân dân đánh bại quân Tống ở các trận Bạch Đằng, Tây Kết, giết và bắt sống nhiều tướng giặc chủ chốt, khiến quân Tống phải tháo chạy về nước.

          Trong vòng 26 năm trị vì, Lê Đại Hành là người đặc biệt quan tâm đến vùng đất phía Nam. Ông đã tiến hành nhiều hoạt động quân sự lớn, đích thân cầm quân đánh dẹp sự nổi dậy của các thế lực cát cứ và xâm lấn, không chỉ bảo vệ vững chắc biên giới, mà còn trực tiếp chuẩn bị cho quá trình Nam tiến của người Việt. Lê Đại Hành mất năm 1005, thọ 65 tuổi.  
          Lý Thánh Tông

          Lý Thánh Tông (1023 – 1072) là vị vua thứ ba của nhà Lý. Ông tên thật là Lý Nhật Tôn, là con trưởng của Lý Thái Tông, mẹ là Kim Thiên thái hậu Mai Thị. Không chỉ nổi tiếng là một minh quân có nhiều đức độ trong lịch sử Việt Nam, ông còn là một nhà quân sự lỗi lạc.

          Trong thời kỳ trị vì của vua cha Lý Thái Tông, Lý Nhật Tôn đã nhiều lần cầm quân đi dẹp loạn, bảo vệ biên cương và lập nhiều chiến công, được sử sách ghi nhận như dẹp bạo loạn ở Lâm Tây năm 1037, khi mới 15 tuổi, đánh châu Văn năm 1042, châu Ái năm 1043.

          Sau khi Lý Thái Tông băng hà năm 1054, Lý Thánh Tông lên ngôi, tiếp tục ổn định tình hình trong nước và chú trọng mở rộng cương thổ. Quân đội dưới thời gian ông trị vì được tổ chức rất chặt chẽ và quy củ, có tiếng thiện chiến, nhiều lần đánh đuổi quân Tống ở biên cương phía Bắc vào các năm 1059-1060, khiến nhà Tống phải nể sợ.

          Do nước Chiêm Thành phía Nam hay sang quấy nhiễu, năm 1069 vua Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh. Đánh lần đầu không thành công, ông đem quân trở về. Đi nửa đường vua nghe thấy nhân dân khen bà Nguyên phi Ỷ Lan (vợ thứ của vua) ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị, liền nghĩ bụng: "Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm sao?". Vua lại đem quân trở lại đánh và bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ.

          Chế Củ đã phải dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (ngày nay thuộc các huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị) cho Đại Việt để chuộc tội.

          Trần Nhân Tông

          Vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308), tên thật Trần Khâm, là vị vua thứ ba của nhà Trần. Ông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị Thiều, được vua cha nhường ngôi vào năm 1278.

          Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam, là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và có vai trò lãnh đạo quan trọng trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 2 và 3.

           Hình minh họa.

          Trong cả 2 lần kháng chiến vào các năm 1285 và 1288, vua Trần Nhân Tông đã đóng vai trò của một  ngọn cờ đoàn kết dân tộc, lãnh đạo quân dân Đại Việt vượt nhiều thời khắc khó khăn, đưa cuộc chiến đấu tới thắng lợi cuối cùng. Trong các cuộc chiến này, nhà vua đã nhiều lần trực tiếp cầm quân đánh trận như một vị tướng dũng cảm, vừa đưa ra được những quyết sách đúng đắn trong vai trò của một nhà chiến lược tài giỏi.

          Ngoài cuộc đối đầu với người Mông Cổ, vào năm 1290, nhà vua cũng thân chinh đi đánh dẹp quân Ai Lao, những kẻ thường hay quấy nhiễu biên giới, bảo vệ vững chắc bờ cõi phía Tây.

          Vua Trần Nhân Tông qua đời năm 1308 tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử, Đông Triều, Quảng Ninh.

          (Còn nữa…)

          Hoàng Phương

          Không có nhận xét nào:

          Đăng nhận xét