BÍ ẨN LỊCH SỬ 12/a (Thác Bản Giốc)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Định Nguyên, thông tín viên RFA Một nén hương cho ngày 17/2/1979
Nguyễn Khanh, Nhà Trắng sẽ tiếp xúc người Việt ở Mỹ về nhân quyền VN-
Vấn đề chủ quyền Thác Bản Giốc lại được dư luận Việt Nam chú ý bàn tán hồi gần đây sau khi Chủ tịch Trương Tấn Sang đến thăm ngọn thác xinh đẹp ở biên giới Việt-Trung được cho là thác nước xuyên quốc gia lớn nhất Á châu. Báo chí Việt Nam hồi tuần qua cũng cho biết Hà Nội và Bắc Kinh đang thương thảo để đạt được Hiệp định về khai thác tiềm năng du lịch khu vực Thác Bản Giốc. Trong nhiều năm qua chính phủ ở Hà Nội cho rằng Việt Nam lẽ ra chỉ có chủ quyền đối với một phần ba Thác bản Giốc nhưng nhờ thương thuyết nên Trung Quốc nhượng bộ và giờ đây Việt Nam được phân nửa. Tuy nhiên, những người chỉ trích nói rằng Thác Bản Giốc trước đây được coi là thác riêng của Việt Nam. Mời quí thính giả theo dõi thêm chi tiết qua cuộc phỏng vấn nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh sau đây.
Duy Ái – VOA
VOA: Thưa ông, chắc ông cũng biết là trong chuyến viếng thăm Trung Quốc mới đây, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh có đề cập tới ý định thương thuyết với Trung quốc để ký kết hiệp định về khai thác tiềm năng du lịch Thác Bản Giốc. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hồi đầu tháng 12 vừa qua cũng đã đến thị sát Cao Bằng và đi thăm Thác Bản Giốc. Với tư cách là một người bỏ công nghiên cứu rất nhiều về vấn đề chủ quyền Thác Bản Giốc xin ông cho thính giả của VOA được biết sơ qua về tình hình hiện nay ở khu vực này?
Ông Mai Thái Lĩnh: Qua thông tin của báo chí trong nước, trong những năm gần đây và mãi cho tới ngày nay việc khai thác du lịch ở thác Bản Giốc có một sự mất cân bằng giữa hai bên. Phía Trung Quốc hàng năm họ thu hút được khoảng một triệu du khách. Về phía nước ta thì số du khách trung bình chỉ vào khoảng 30.000. Lý do chính là vì cơ sở hạ tầng ở đây còn rất yếu kém, từ đường giao thông cho tới khách sạn, nhà trọ, cũng như các dịch vụ phục vụ du lịch khác. Ngoài ra, còn có một lý khác nữa là giữa hai bên chưa có một hiệp định hợp tác khai thác du lịch.
Theo một trang blog trong nước (của nhà báo Trương Duy Nhất), có một Việt kiều Canada về nước, muốn đóng góp cho địa phương khoảng nửa triệu đô la để giúp cho tỉnh sửa sang lại cảnh quan du lịch; nhưng khi gặp chính quyền của tỉnh thì họ không chấp nhận. Bởi vì, theo lời một quan chức địa phương, việc chỉnh trang xây dựng khu vực này lệ thuộc vào nội dung của hiệp định khai thác. Cho nên mỗi lần bên mình định làm cái gì thì bên kia họ lại phá.
Tôi nghĩ rằng có lẽ vì lý do này nên trong chuyến đi thăm Trung Quốc lần này Ngoại trưởng Phạm Bình Minh có đưa cái vấn đề ký hiệp định khai thác chung vào chương trình nghị sự giữa hai bên. Còn theo thông tin của một số người đến thăm thác Bản Giốc, ở phía thượng lưu (phía trên thác) có một cái chợ trời biên giới. Người Việt mình qua lại được. Nhưng ở phía hạ lưu thì vì đường phân chia nằm giữa giòng sông nên nếu đi ra về phía thác chính thì bè của Việt Nam chỉ qua được tới giữa giòng thôi, chứ không thể qua phía bên kia được. Tình hình đại khái là như vậy.
VOA: Hồi đầu tháng này ông đã cho phổ biến bài nghiên cứu “Sự thật về Thác Bản Giốc”, trong đó ông khẳng định Việt Nam là chủ nhân thực sự của thác nước này. Xin ông vui lòng cho biết những luận điểm chính của ông về vấn đề này.
Ông Mai Thái Lĩnh: Bài viết của tôi vừa rồi có nhan đề là “Sự thật về Thác Bản Giốc”. Thật ra không phải tất cả đều là ý kiến của tôi, mà đây có thể nói là một công trình tập hợp tất cả những bằng chứng mà nhiều bài viết trước đây – nhiều người đã viết trong vòng khoảng chục năm nay, để chứng minh thác Bản Giốc hoàn toàn là của Việt Nam.
Trong đó đáng kể nhất là một nhà nghiên cứu ở Pháp, ông Trương Nhân Tuấn, một Việt kiều sinh sống ở Pháp. Ông đã sưu tập được rất nhiều tài liệu thành văn về quá trình ký kết và cắm mốc giữa hai bên — giữa Pháp và nhà Thanh, vào cuối thế kỷ thứ 19.
Còn ở trong nước, tôi xin lấy ví dụ như ông Hàn Vĩnh Diệp, một đảng viên Cộng Sản và là một cán bộ hưu trí. Ông này đã từng 7 lần đến thăm Bản Giốc, từ 1958 đến 2006, và có lần từng ở lại một ngày một đêm ở bờ bắc của sông Quây Sơn. Địa điểm này bây giờ, theo như tác giả viết, đã thuộc về lãnh thổ của Trung Quốc rồi.
Tất cả những luận điểm của các tác giả nói trên vẫn còn một số điểm chưa thật chính xác, vẫn còn những lỗ hổng, khiến cho toàn bộ chưa có tính chất thuyết phục. Khó khăn lớn nhất là thiếu những bản đồ chi tiết để giải thích rõ trước đây đường biên giới như thế nào và hiện nay đường biên giới thay đổi ra sao. Nhất là cột mốc số 53.
Vừa rồi, trong quá trình nghiên cứu, tôi tìm được một số bản đồ. Đặc biệt là qua mạng internet tôi tìm được hai tờ bản đồ, tỉ lệ 1/50,000. Một là bản đồ do Quân đội Hoa Kỳ in năm 65 và một là của Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1980. Hai bản đồ này về cơ bản thì địa hình rất giống nhau. Chỉ có khác là tờ bản đồ của Việt Nam thì Việt Nam đã Việt hóa và điều chỉnh một số điểm, nhất là địa danh. Quan trọng nhất là hai tờ bản đồ này có ghi rõ tọa độ địa lý và có những vòng cao độ, và trong đó đặc biệt là có ghi rõ các cột mốc nằm ở đâu. Cho nên tôi nghĩ rằng những người có trình độ về bản đồ học có thể căn cứ vào cái này để xác định tọa độ các cột mốc một cách hết sức chính xác.
Ngoài ra còn có một tờ bản đồ chi tiết về đường biên giới mới. Tờ bản đồ này sở dĩ có được là vào cuối tháng 10 năm 2011 có một đoàn nhà văn quân đội đã lên thăm đồn biên phòng Đàm Thủy ở gần thác Bản Giốc và chụp ảnh lại bản đồ chi tiết về đường biên giới này.
So sánh mấy tờ bản đồ với nhau thì chúng ta thấy rõ ràng là cột mốc 53 đã bị dời đi, đường biên giới bị sửa đổi, và do vậy nên ta mất đi một nửa thác chính của thác Bản Giốc. Cho nên có thể nói là với những tư liệu này chúng ta có thể chứng minh được thác Bản Giốc trước hoàn toàn là của Việt Nam.
Và tất cả những cái này rất ăn khớp với tất cả những tư liệu về địa lý trước đây của nước ta, cũng như ăn khớp với những điều mà trong bản Bị Vong Lục ngày 15 tháng 3 năm 1979 mà Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố trong cuốn sách “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc” do Nhà Xuất bản Sự Thật xuất bản vào năm 1979. Có thể nói là tất cả rất có hệ thống và rất chính xác và đã chứng minh rằng thác Bản Giốc là hoàn toàn thuộc về Việt Nam.

Duy Ái – VOA
Mai Thái Lĩnh Thác Bản Giốc của Việt Nam hay của Trung Quốc (Phần I)
Mai Thái Lĩnh Sự thật về Thác Bản Giốc(1&2)
Nghe : Thác Bản Giốc của Việt Nam hay của Trung Quốc (Phần I)MP3 Nghe: Thác Bản Giốc của Việt Nam hay của Trung Quốc (Phần II) MP3
VOA: Chắc ông cũng biết là ông Lê Công Phụng, người từng giữ chức Trưởng đoàn đám phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, cho biết: tại Thác Bản Giốc, Việt Nam chỉ có một phần ba thác, nhưng nhờ thương thuyết cho nên Trung Quốc nhượng bộ, thành ra Việt Nam được nửa thác. Xin ông cho biết ý kiến về tuyên bố của ông Phụng.
Ông Mai Thái Lĩnh: Theo ông Lê Công Phụng cũng như các quan chức ngoại giao khác, đã công bố qua báo chí Việt Nam, thì theo pháp lý và thông lệ quốc tế, Việt Nam chỉ có được một phần ba thác chính, nhưng qua đàm phán nên cuối cùng Việt Nam có được một nửa thác chính và một phần tư cồn Pò Thoong.
Nhưng nói theo thực tế và căn cứ vào những tài liệu mà mình nắm được thì đúng ra phải nói như thế này: “theo pháp lý và đúng theo lịch sử thì toàn bộ Thác Bản Giốc là của Việt Nam, nhưng vì Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm đoạt và trấn áp, cho nên cuối cùng thì việc thương thuyết của ta hoàn toàn thất bại, cho nên nước ta mất một nửa thác chính.”
Nhưng điều quan trọng nhất là ngoài chuyện mất đi nửa thác chính, chúng ta mất luôn dải đất chạy dài từ cồn Pò Thoong cho đến chân thác. Trước đây do không có dải đất này, phía Trung Quốc tuy có một đồn trên đỉnh núi, nhưng không bao giờ có thể đặt chân xuống vùng thung lũng sông Quây Sơn ở phía trên Thác Bản Giốc. Ngày nay họ có thể nhờ dải đất này để di chuyển từ hạ lưu thác đến tận thượng nguồn, đến tận cồn Pò Thoong. Cồn này rộng khoảng 2,6 hecta, và họ chiếm hết ba phần tư. Và nếu trong trường hợp chẳng may xảy ra chiến tranh, tôi nghĩ rằng họ có thể chuyển quân từ dưới lên rất dễ dàng; trong lúc trước đây trong thời Pháp thuộc họ không thể nào đặt chân xuống vùng đồng bằng.
Ngày nay những người biết sử dụng internet có thể dùng những chương trình để xem bản đồ vệ tinh, thì chúng ta có thể thấy họ tập trung xây dựng cơ ngơi, đường sá và có thể cả những công sự phòng thủ và những công trình quân sự rất lớn ở vùng phía dưới thác Bản Giốc.
Sau khi bài viết của tôi được công bố, trong số các ý kiến phản hồi, có một ý kiến rất đáng chú ý.
Trong bài viết, tôi nói Trung Quốc bây giờ làm ra vẻ nhân nhượng cho nên họ mới trả lại cho mình một phần tư cồn Pò Thoong và một phần thác chính để mình có được một nửa thác. Nhưng ý kiến này nói rằng ý kiến của tôi là không đúng. Ý kiến này cho rằng Trung Quốc sở dĩ trả lại một phần tư cồn Pò Thoong và một phần thác chính thì không phải là “cho không” mà họ đổi lại để lấy của Việt Nam một phần tư bãi Tục Lãm ở cửa sông Ka Long ở Móng Cái.
Đây là một ý kiến đáng chú ý và cần tiếp tục nghiên cứu. Nếu điều họ nói là đúng thì có thể nói trong vấn đề đàm phán xung quanh Thác Bản Giốc, phía Việt Nam ta hoàn toàn thất bại. Không đòi lại được gì hết.
VOA: Theo ông, phía Việt Nam, chính phủ nói riêng và người dân nói chung, nên làm gì trước tình hình hiện nay để khỏi bị thiệt thòi thêm nữa trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc?
Ông Mai Thái Lĩnh: Tình hình bây giờ…mặc dù các cấp lãnh đạo làm ra vẻ ta và Trung Quốc đang trong quá trình thân thiện, hay có nhiều lạc quan, nhưng theo tôi, tình hình hết sức nghiêm trọng. Bởi vì nếu nhìn một cách hệ thống thì chúng ta thấy kế hoạch xâm chiếm đất đai ở biên giới cũng như lãnh hải, hải đảo đều nằm trong một kế hoạch chung của phía Trung Quốc và được tiến hành qua nhiều thế hệ và được chuẩn bị rất chu đáo. Mà hiện nay trong vấn đề Biển Đông – vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, chúng ta thấy Trung Quốc để lộ ra một tham vọng quân sự rất lớn.
Theo tin mới nhất mà tôi đọc được, ngân sách quân sự của Trung Quốc trong năm 2011 là gần 120 tỷ đô la và đến năm 2015 sẽ tăng gấp đôi, gần 240 tỉ (con số chính xác là 238,2 tỉ đô la). Ngân sách này còn cao hơn tổng số chi phí quân sự của các cường quốc châu Á gộp lại. Cho nên với một chính sách như vậy, tôi nghĩ, nước ta đang ở trong một nguy cơ rất lớn trong vấn đề Biển Đông.
Trong khi đó thì về phía chính phủ, chúng tôi thấy chính sách không rõ ràng, và thay đổi từ cực đoan này sang cực đoan khác. Đã có thời kỳ Đảng Cộng Sản đã ghi vào Hiến pháp của Việt Nam: “Trung Quốc là kẻ thù chiến lược lâu dài”. Từ thập niên 90 tới nay lại đổi thành “16 chữ vàng” rồi “4 tốt”, vân vân … trong lúc tình hình thực tế thì không phải là như vậy.
Cho nên tôi có một số ý kiến như sau:
Đối với chính phủ:
– Muốn cho người dân tin tưởng thì chính phủ không thể tiếp tục nói dối dân mà phải thành thật, vì nói dối dân trước sau gì cũng bị người ta phát hiện ra, mà đã phát hiện ra thì dân sẽ không còn tin vào chính phủ nữa. Tốt nhất là phải thành thật thừa nhận những điều mình làm sai trước đây và xin lỗi người dân chứ không thể tiếp tục che đậy được.
– Nếu muốn được dân tin thì không thể tiếp tục đường lối ngoại giao hết sức phi lý, hết sức kỳ quặc. Mình nói 16 chữ vàng, 4 tốt, trong khi phía Trung Quốc không hề thay đổi chính sách của họ. Họ vẫn lộ rõ tham vọng rất lớn trong vấn đề Biển Đông.
– Tôi nghĩ chính phủ phải trả tự do vô điều kiện cho những người yêu nước, ví dụ như Điếu Cày hay bà Bùi Thị Minh Hằng. Vì những người này phản đối Trung Quốc vì lòng yêu nước, nên không có lý do gì nhà nước bắt giam họ mà lại bắt giam không đúng theo luật pháp. Không làm được điều này thì dân không tin.
– Một điều nữa là phải đánh giá đúng công lao của các triều đại trước trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Phải vinh danh những chiến sĩ của chế độ Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa.
– Và cuối cùng là phải thực thi các quyền tự do căn bản để người dân có thể tự do tìm hiểu, thảo luận, trao đổi về các vấn đề đối ngoại.
Còn về phía người dân, chúng tôi nghĩ rằng cần phải làm những công việc sau đây:
1) Thứ nhất là nên xem xét lại, khảo sát lại tất cả đường biên giới trên bộ trước đây đã mất gì so với đường biên giới cũ. Nhiều người nói việc này không quan trọng, không cần thiết vì là chuyện quá khứ. Nhưng tôi nghĩ vấn đề rất quan trọng bởi vì thật ra vấn đề biên giới trên bộ và vấn đề lãnh hải, hải đảo liên hệ gắn bó với nhau; mà mình không rút ra được bài học lịch sử, thì mình không bao giờ có được những bài học tốt cho tương lai. Một dân tộc không hiểu rõ lịch sử của mình, không đánh giá đúng thành công và thất bại của mình thì không bao giờ có thể tiến được trong tương lai. Như thực tế của nước Nhật là một ví dụ điển hình.
2) Cần phải đánh giá lại thành công và thất bại của đường lối, chính sách đối ngoại trước đây của nước ta, nhất là trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
3) Tôi nghĩ về phía trí thức và phía người dân, chúng ta cần phải phá bỏ độc quyền trong lĩnh vực đối ngoại. Nhất là phá bỏ độc quyền về thông tin. Tôi thấy có tình trạng hết sức vô lý. Thí dụ như trước đây, khi ký hiệp ước 1999, một hiệp ước quan trọng như vậy mà Quốc hội không biết gì hết – (có biết) cũng chỉ là biết sau khi sự việc đã rồi. Và thậm chí cho tới bây giờ Ải Nam Quan mất như thế nào, mất bao nhiêu đất, Thác Bản Giốc mất như thế nào, tôi nghĩ hầu hết các đại biểu quốc hội các khoá đều không biết gì hết. Về lâu dài, theo tôi nghĩ, phải đấu tranh để có một chế độ dân chủ, để người dân phải có được một cái quyền gì đó – nhất là trong lãnh vực đối ngoại. Ví dụ như cơ quan nào, chức vụ nào chịu trách nhiệm về đối ngoại phải thật sự là do dân bầu, chịu trách nhiệm trước dân. Như vậy người dân có quyền thay đổi cơ quan đó hay người giữ chức vụ đó thông qua bầu cử. Chứ nếu như hiện nay thì tình hình ở Việt Nam rất là bất hợp lý: một tổ chức không do dân bầu ra (như Bộ Chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam là không do dân bầu ra) nhưng lại nắm quyền toàn bộ. Cho nên người dân cũng không có quyền thay đổi Bộ Chính trị đó, không có quyền bãi miễn, không được quyền cách chức hay không có quyền thông qua phiếu bầu để thay đổi. Thế thì toàn bộ lãnh vực đối ngoại gần như độc quyền của một thiểu số trong đảng. Mà như vậy sẽ gây ra tình trạng giống như tình trạng chúng ta thấy trước đây, khi ký hiệp định năm 1999.
Đó là một số ý kiến bước đầu mà tôi đề ra và tôi nghĩ rằng nếu mình không làm được những điều này thì trong tương lai chắc chắn chủ quyền của chúng ta ở Biển Đông sẽ bị ảnh hưởng rất lớn.
VOA: Xin cám ơn ông Mai Thái Lĩnh đã dành thời giờ cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Ngày 8-3 năm 2014, trong một cuộc họp báo bên lề kỳ họp thứ hai của Quốc hội khoá XII nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,
Ngoại trưởng Vương Nghị tuyên bố: “Lập trường của Trung Quốc là
kiên định và rõ ràng trong vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, đó
là: không phải của Trung Quốc một tấc cũng không lấy; nếu là
của Trung Quốc, một tấc cũng quyết bảo vệ.”[1] Mới
nghe qua, chúng ta thấy lập trường này rất hợp tình, hợp lý. Thế nhưng,
có một câu hỏi được đặt ra: nếu Trung Quốc (tức là Trung Hoa cộng sản)
không lấy một tấc đất nào không phải của mình, cớ sao họ lại chiếm của
Việt Nam phần lớn cồn Pò Thoong và một nửa thác Bản Giốc?










Vấn đề đặt ra là: tại sao trong khi chưa ký kết “hiệp định hợp tác”, phía Trung Quốc vẫn có thể tiến hành khai thác du lịch một cách có hiệu quả không cần đến sự hỗ trợ của phía Việt Nam? Ngược lại, tại sao phải cần đến một “hiệp định hợp tác” thì Thác Bản Giốc của nước ta mới có thể “cất cánh”? Hơn thế nữa, tại sao Thác Bản Giốc lại trở thành Thác Đức Thiên, tại sao một thác nước trước đây được coi là của riêng Việt Nam nay lại trở thành “thác nước chung” của hai quốc gia? Trên báo chí hợp pháp (thường được gọi là báo chí “lề phải”), chưa thấy ai đặt ra những câu hỏi tương tự. Nhưng đó lại là những câu hỏi quan trọng cần được giải đáp nghiêm túc trước khi trả lời câu hỏi “ai mới thật sự là kẻ xâm hại nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ Việt Nam?”.
Điều gì làm cho Thác Bản Giốc trở thành đặc sắc so với tất cả các thác nước trên toàn cõi Việt Nam? Trong cuốn Thiên nhiên Việt Nam (ấn bản năm 1977), nhà địa lý học Lê Bá Thảo đã miêu tả Thác Bản Giốc như sau: “Sông Quây Sơn ở phía bắc Thượng Lang sau khi chảy qua một vùng đá vôi rộng lớn đến Bản Giốc thì đổ vào khu vực đá phiến tạo thành ba bậc thác nước chênh nhau đến 34 m. Vào mùa lũ (từ tháng 5 đến tháng 9), nước từ các hốc ngầm đá vôi ở thượng lưu tuôn đến đổ xuống các bậc tung bọt nước trắng xóa, làm đoạn thung lũng ở phía dưới thác mở ra rất rộng. Đứng trên bãi cát ven sườn thung lũng, người ta có cảm tưởng bị vây quanh bởi những bức tường nước đồ sộ nhưng chúng không hề gây cho chúng ta cảm giác sợ hãi. Trái lại, phong cảnh lại cực kỳ đẹp đẽ và bình dị” [2]. “Ba bậc thác nước chênh nhau đến 34 m” chính là vẻ đẹp cốt lõi của Thác Bản Giốc, làm cho nó khác hẳn tất cả các thác nước khác ở nước ta.
Kể từ khi sở hữu được bờ bắc của sông Quây Sơn, nhà cầm quyền Trung Quốc đã đưa Thác Bản Giốc vào danh sách các điểm du lịch với cái tên mới là Đức Thiên (德天 , Detian). Theo lộ trình thông thường, các du khách đi từ phía Trung Quốc sẽ được chở bằng xe ca đến một địa điểm ở phía đông-nam của thác. Sau đó du khách sẽ đi bộ một quãng đường và trên đường đi, họ có thể chụp được các tấm ảnh toàn cảnh đẹp như tranh vẽ – kể cả phần thác phụ nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Du khách cũng có thể dùng bè để đi đến chân thác.
Tóm lại, phía Trung Quốc có thể tự mình khai thác du lịch ở thắng cảnh này. Ngược lại, nếu muốn khai thác du lịch có hiệu quả, lôi kéo được khách quốc tế, phía Việt Nam buộc phải nhờ vả ông bạn “16 chữ vàng”, mà đã nhờ vả thì đương nhiên phải chấp nhận các điều kiện do phía bên kia đặt ra.
“Ông LCP: Về thác Bản Giốc, thì đây là điều rất phức tạp. Chúng tôi cũng rất lạ là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là của Trung Quốc. Còn đối với chúng ta, thác này đã đi vào sử sách, nhất là sách giáo khoa của học sinh, thành di tích, điểm du lịch được nhiều người ưa chuộng. Đây là điều mà chúng tôi rất khó hiểu, bởi lẽ trong công ước giữa nhà Thanh và Pháp, thác Bản Giốc chỉ thuộc về chúng ta có 1/3 thôi; và theo thực trạng cột mốc được cắm từ thời nhà Thanh, thì chúng ta cũng chỉ được 1/3 thác.
VASC Orient: Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh?
Ông LCP: Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo quy định quốc tế, khi phân giới cắm mốc thì thác được coi như một dòng sông, một dòng suối. Đã là sông suối thì đường biên giới đi qua luồng chính, tức là chỗ tàu thuyền đi lại được. Còn đối với sông suối nơi tàu thuyền không đi lại được, thì đường biên giới phải đi theo rãnh sâu nhất.
VASC Orient: Chẳng nhẽ tất cả các khách du lịch, trong đó có những người có trách nhiệm, đi thăm thác Bản Giốc mà không phát hiện ra cột mốc nằm đó hay sao?
Ông LCP: Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi chúng tôi khảo sát thì mới thấy cột mốc nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy trăm thước. Vì vậy nên cũng không mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản Giốc.
Trước tình hình như vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong đàm phán phải hợp lý, thỏa đáng phù hợp với mặt pháp lý. Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh - Pháp, căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả. Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn được. Lẽ ra theo thực tiễn thì chúng ta chỉ được 1/3. Nhưng sau đàm phán, chúng ta và bạn đã thỏa thuận thác Bản Giốc được chia đôi, mỗi bên được 50%. Hiện nay cả 2 bên đang tiến hành khai thác du lịch phía bên mình.
Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc” [4].
Tóm lại, theo ông Lê Công Phụng, do phát hiện một cột mốc “nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối” cách Thác Bản Giốc “khoảng mấy trăm thước”, cho nên đoàn đàm phán của Việt Nam mới phải tính toán lại chủ quyền đối với Thác Bản Giốc.
Theo giải thích chính thức đăng trên Tạp chí Cộng sản thì sau nhiều lần đàm phán gay go, hai bên đã đạt thỏa thuận: “Đường biên giới đi từ mốc 53 (cũ) lên cồn Pò Thoong rồi đến điểm giữa của mặt thác chính. Như vậy, toàn bộ thác phụ và 1/2 thác chính quy thuộc Việt Nam. Hai bên cũng thoả thuận sẽ bàn bạc việc hợp tác phát triển tiềm năng du lịch tại Thác Bản Giốc” [5].
Nhìn vào tấm bản đồ do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố (ảnh 8), chúng ta thấy đường biên giới được vạch từ cột mốc số 835 (là cột mốc mới thay cho cột mốc 53 trước đây) đi qua cồn Pò Thoong (trong ảnh ghi là cồn Pò Đon) đến điểm giữa của thác chính (thác ba tầng) và sau đó đường biên giới chạy theo trung tuyến của dòng sông Quây Sơn. Để giải quyết tranh chấp theo cách phân chia phức tạp đó, từ cột mốc 835 còn sinh ra thêm nhiều cột mốc phụ: cột mốc phụ 835/1 nằm sát bờ sông, cột mốc phụ 835/2 nằm trên cồn Pò Thoong và hai cột mốc phụ ở hạ lưu: 836 (1) nằm ở tả ngạn trên lãnh thổ Trung Quốc và 836 (2) nằm trên doi đất thuộc lãnh thổ Việt Nam (giữa thác chính và thác phụ).
Điều đó có nghĩa là: đáng lẽ “theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế” thì cồn Pò Thoong (rộng khoảng 2,6 hec-ta) hoàn toàn thuộc về Trung Quốc, nhưng do “ta đã đấu tranh quyết liệt và bạn đã nhân nhượng”, cho nên hai bên mới điều chỉnh đường biên giới để Việt Nam còn sở hữu được 1 phần 4 cồn. Nhưng điều kỳ lạ là trên cồn Pò Thong còn có “dấu tích Trạm thủy văn xây dựng vào những năm 1960”. Trạm thủy văn này do ai xây dựng; kẻ xây dựng đó là kẻ lấn chiếm hay là kẻ sở hữu cồn Pò Thong? Không thấy ai giải thích rõ điều này.
Nếu xét về tài liệu thì chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để chứng minh toàn bộ Thác Bản Giốc là của Việt Nam. Chỉ xin dẫn chứng một số tài liệu sau đây:
1) Trước hết là tài liệu của nhà địa lý học Lê Bá Thảo. Trong cuốn sách Thiên nhiên Việt Nam đã dẫn (ấn bản 1977), tại trang 78, có đăng tấm ảnh chụp cảnh Thác Bản Giốc nhưng chỉ chụp thác chính, tức thác ba tầng (xem ảnh 10).
2) Tác giả Trương Nhân Tuấn ở hải ngoại tìm được một cuốn sách xuất bản năm 1895 có tên là Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si (Ở Bắc Kỳ và trên vùng biên giới Quảng Tây) của Thiếu tá Famin - Phó Chủ nhiệm Ủy ban cắm mốc biên giới Trung-Việt năm 1894 [7]. Tại trang 12 và 13 có đoạn viết về Thác Bản Giốc:
“Trong phần phía Bắc (của khu quân sự thứ hai, Deuxième Territoire) [8], dòng sông xinh đẹp mang tên Qui-Thuận chảy ngang qua đó theo hướng Phủ Trùng Khánh. Đây là một phụ lưu trực tiếp của sông Tây Giang (Si-Kiang). Dòng sông này rộng 60 m, đi vào đất Bắc Kỳ bằng cửa Ai Lung và ra khỏi nơi đây (để vào đất Trung Hoa) tại một điểm gần đồn Trung Hoa có tên Nam-Ton, sau khi đã tưới một thung lũng rộng lớn cực kỳ phì nhiêu.
Hai ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt qua một ghềnh đá và làm thành một thác nước tuyệt đẹp cao 40 m. Cột nước khổng lồ rơi ầm ầm xuống một bồn nước thứ nhất, từ đó nó nảy lên thành những chùm tia nước sủi bọt trên những bậc thang đá vôi nhẵn bóng. Vào mùa mưa, thác nước này trưng ra một dáng vẻ tuyệt vời, tiếng động của thác nước có thể nghe được từ xa và dội vào những vách núi nghe như tiếng sấm, trong khi những đám mây hơi nước hình thành ở vùng lân cận và tan ra thành một đám mưa nhỏ thật sự”.
Một điều đáng chú ý khác trong đoạn văn này: tên sông được ghi là Qui-Thuan (Qui-Thuận). Trong bài viết “Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây”, dựa trên tài liệu của nhà Thanh, ông Trương Nhân Tuấn cho biết sông Long (tức Tả Giang) có một phụ lưu tên là sông Qui Thuận và ở sát biên giới Việt Nam có một châu tên là Châu Qui Thuận 歸順州 [9]. Điều này phù hợp với Đại Nam Nhất Thống Chí, vì sách này cho biết giáp với Phủ Trùng Khánh về phía bắc là “châu Qui Thuận thuộc phủ Trấn Yên nước Thanh” [10]. Chúng ta có thể phỏng đoán: tên của dòng sông bắt nguồn từ tên của địa phương (châu Qui Thuận) – nơi phát nguyên của sông. Trong các bản đồ cũ, tên phiên âm la-tinh của sông Quây Sơn là Kouei Chouan; nhưng trong các tài liệu của Trung Quốc ngày nay, tên của dòng sông Quây Sơn là Guichun, 歸春河, đọc theo âm Hán-Việt là "Qui Xuân hà".
3) Trong số các bưu ảnh do nhà nhiếp ảnh Pierre Dieulefils chụp, chúng ta tìm thấy tấm ảnh mang số 832. Tấm ảnh này được ghi chú như sau: “TONKIN - Région de Cao-Bang – Cascade de Ban-Giot – Passage du gué par une compaghie de tirailleurs tonkinois” (BẮC KỲ - Vùng Cao Bằng - Thác Bản Giốc – Một đại đội lính bản xứ Bắc Kỳ lội qua sông).
3) Trong bài viết “Tấc đất tấc vàng” được công bố vào năm 2005 [11], ông Hàn Vĩnh Diệp – một đảng viên ĐCS, cán bộ hưu trí, người đã từng nhiều năm công tác ở vùng Cao Bằng trước năm 1975, kể lại:
“Năm 1965 chúng tôi được tham gia đoàn khảo sát thực tế để biên soạn sách giáo khoa - Tập đọc cấp I của Khu giáo dục Khu tự trị Việt Bắc. Hai khu giáo dục ngoài nhiệm vụ biên soạn sách giáo khoa vở lòng - cấp I tiếng Thái, Mèo, Tày - Nùng; còn phải soạn cả sách giáo khoa Tập đọc tiếng Việt. Một trong những điểm khảo sát đợt ấy là Kênh Copáo và thác Bản Giốc thuộc huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng. Kênh Copáo lấy nguồn nước từ một đầm trũng bên kia biên giới Trung Quốc (huyện Tỉnh Tây, Quảng Tây) cho các cánh đồng phía Bắc huyện Trùng Khánh. (…) Đến thác Bản Giốc, chúng tôi sang cả bên bờ Bắc sông Quây Sơn, vào sâu hơn một cây số vẫn là làng bản dân ta”.
4) Trong bài báo đăng trên Vietnam Net đã được trích dẫn, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao – thành viên đoàn đàm phán, đã tiết lộ: trên cồn Pò Thoong vẫn còn “dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960”.
Như vậy, trạm thủy văn này rõ ràng là do phía Việt Nam xây dựng, bởi vì trước năm 1976, cồn Pò Thoong vẫn còn thuộc về lãnh thổ Việt Nam và “chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó”. Đây chính là một bằng chứng hùng hồn về chủ quyền của Việt Nam đối với cồn Pò Thoong.
Ngược lại, nếu khẳng định như ông Lê Công Phụng rằng cột mốc 53 đã tồn tại nơi đó (trước mặt cồn Pò Thoong) từ khi ký hiệp định Pháp-Thanh thì kẻ xâm chiếm cồn Pò Thoong, vi phạm hiệp định Pháp-Thanh chính là chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi cho xây dựng trạm thủy văn vào thập niên 1960. Khi công bố điều này, không lẽ ông Lê Công Phụng muốn chuẩn bị cho tình huống Đảng cộng sản Việt Nam sẽ công khai xin lỗi Đảng cộng sản Trung Quốc về việc xâm chiếm cồn Pò Thoong vào thập niên 1960?
Tóm lại, từ chỗ là một thác nước hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam, sau hiệp ước 1999 một phần thác chính lại trở thành sở hữu của Trung Quốc. Từ chỗ toàn bộ bờ phía bắc tính từ phía trên thác cho đến tận chân thác đều là của Việt Nam, ngày nay toàn bộ bờ bắc – tính từ cột mốc 835 mới cho đến hạ lưu, lại nằm trong lãnh thổ Trung Quốc. Sự thay đổi kỳ quặc này nhất định là có liên quan đến cái cột mốc số 53 gây bất ngờ nói trên.
Để hiểu rõ sự thật, chúng ta cần tìm hiểu cột mốc số 53, đúng hơn là vị trí của cột mốc 53. Phải chăng nó vẫn nằm ở vị trí đó từ khi có hiệp định Pháp-Thanh như các vị chức sắc Bộ Ngoại giao nước ta vẫn khăng khăng khẳng định? Hay nó là một thứ “cột mốc có chân” có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác theo thời gian?
Trong khi sưu tầm tài liệu về Thác Bản Giốc, tác giả Trương Nhân Tuấn đã tìm được một số chứng cứ quan trọng liên quan đến vị trí của cột mốc số 53 [13]:
- Cuốn “Nhật Ký của Trung Úy Détrie về đoạn biên giới từ Lũng-Ban đến Ðèo-Lương, nhân dịp đảm nhận việc cắm mốc (28-6-1894)”, trong đó có một đoạn xác định vị trí của các cột mốc, được trích dẫn như sau: “Après la porte de Dốc-Khánh la frontière est tracée à l’intérieur du massif rocheux, laissant au Tonkin de petit cirques peu importants débouchant dans Lung-Piac, près les deux cirques difficilement accessibles de Lung-Deng et Lung-Moi que traversent les chemins conduisant à Thin-Thang par Ai-Thin-Thap (56) et Lung-Moi (55) jusqu’à l’abornement, les habitants de Lung-Deng et Lung-Moi payaient l’impôt aux Chinois. La frontière regagne ensuite le pied des rochers en face du village de Ban-Mong (54) longe le pied de ces rochers et au pied du blockhaus chinois de Pia-Mu, suit la lisière d’un petit bois et coupe le chemin de Hang-Dong-Quan (53) pour atteindre la rivière qu’elle suivra jusqu’à Ly-Ban. Le chemin qui de la borne 53 conduit à Dốc-Khánh (57) à travers de très belles rizières devra être l’objet d’une surveillance constante. (…) A partir de la belle cascade de 50m qui se trouve un peu en aval de la borne 53, le sông Qui-Xuân coule resserré entre des mamelons élevés” (Đoạn văn này sẽ được dịch ở phần sau).
Câu hỏi đặt ra là: cột mốc 53 nằm ở thượng lưu hay hạ lưu của thác? Theo suy luận của ông Trương Nhân Tuấn thì “cột mốc chỉ có thể ở phía hạ lưu của thác Bản Giốc”. Thế nhưng điều này lại mâu thuẫn với ý kiến của trung úy Détrie vì ông này ghi nhận thác nước “nằm cách một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53” (qui se trouve un peu en aval de la borne 53), nghĩa là “cột mốc nằm nhích một chút về phía thượng lưu của thác nước”.
- Về bản đồ: có một tấm bản đồ tìm được trong một thư khố ở Pháp liên quan đến vùng này (xem ảnh 18). Theo ghi chú của tác giả, đây là bản đồ có tỷ lệ 1/50.000 do Nha địa dư Đông Dương (Service géographique de l’Indochine) thực hiện. Thật ra, nếu so sánh tấm bản đồ này với các bản đồ của miền Nam Việt Nam phát hành trước năm 1975, chúng ta có thể thấy rõ đây không phải là bản đồ tỷ lệ 1/50.000.
Để độc giả dễ phân biệt, tôi đã trích đoạn và phóng to một phần nhỏ của bản đồ và xoay bản đồ cho đúng hướng bắc-nam (ảnh 19). Chúng ta có thể nhận thấy: từ cột mốc 54 (B.54) phía tây-bắc đến cột mốc 53 (B.53, chữ viết tắt của borne 53) phía đông-nam, có một dải đất ven sông nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Điều này giải thích lý do tại sao trước đây người Việt có thể qua lại giữa hai bờ sông một cách dễ dàng. Ngoài ra, còn có một chi tiết khiến chúng ta có thể bác bỏ ý kiến của ông Lê Công Phụng cho rằng “cột mốc nằm trên một cồn giữa suối cách thác vài trăm mét”. Trên tấm bản đồ này, cột mốc 53 (B.53) hoàn toàn nằm trên bờ trái (tả ngạn của sông Quây Sơn), không liên quan gì đến một “cồn” nào đó trên sông Quây Sơn. Tấm bản đồ này cũng cho thấy có một đồn của Trung Quốc (Fort Chinois) nằm trên đỉnh núi.
Thật ra, có một tấm bản đồ có thể giúp chúng ta tìm hiểu đường đi của biên giới từ cột mốc 57 cho đến cột mốc 53. Đó là tờ bản đồ địa hình (topographic map) mang tên Trung Khanh Phu, sheet 6354-4 được tìm thấy ở Thư viện của Đại học Texas ở Austin (The University of Texas at Austin) [14]. Tờ bản đồ này (ảnh 20) có tỷ lệ 1/50000, do quân đội Hoa Kỳ in vào năm 1965, dựa vào thông tin thu thập được vào năm 1964.
Ngoài ra, còn có một tờ bản đồ mang tên Trùng Khánh, số hiệu 6354-IV do Cục bản đồ thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1980, rất giống với tờ bản đồ nói trên. Tờ bản đồ này nằm trong Bộ sưu tập Bản đồ Việt Nam (Vietnam Archive Map Collection) do Đại học Kỹ Thuật Texas (Texas Tech University) sưu tầm và công bố [15]. Tờ bản đồ này được “in lần thứ hai” (1980) dựa theo bản đồ 1/50.000 in năm 1976 đã được “chỉnh lý bổ sung thực địa vào năm 1979”. Chúng ta có thể phỏng đoán tờ bản đồ này được biên soạn dựa vào bản đồ Trung Khanh Phu, sheet 6354-4 của quân đội Hoa Kỳ, vì sau ngày 30-4-1975 quân đội miền Bắc đã tiếp quản toàn bộ kho bản đồ lưu trữ tại Nha Địa dư Quốc gia ở Đà Lạt.
Cần lưu ý là bản đồ này được in lần thứ nhất vào năm 1976 – cùng thời điểm với việc Trung Quốc tấn công cồn Pò Thoong, có lẽ vì thế trên bản đồ có ghi dòng chữ “quốc giới chưa xác định (vẽ sơ lược)”. Để độc giả dễ theo dõi, tôi trích bản đồ Trùng Khánh 6543-IV và phóng lớn thành hai tấm: từ mốc 58 đến mốc 54 (ảnh 21) và từ mốc 54 đến mốc 53 (ảnh 22).
Nhìn vào bản đồ, chúng ta thấy rõ con đường đi từ mốc 53 ở phía đông-nam đến mốc 57 ở phía tây-bắc “đi ngang qua những ruộng lúa xinh đẹp”. Con đường này chạy dưới chân các dãy núi đá, men theo các thung lũng, có ý nghĩa quan trọng về mặt quốc phòng; vì thế Détrie cho rằng “sắp đến cần phải canh phòng thường xuyên”. Chúng ta cũng có thể thấy rõ đường biên giới cắt ngang “con đường Hang-Dong-Quan” (le chemin de Hang-Dong-Quan) tại cột mốc số 53. Sau khi vượt qua biên giới ở mốc 53 gần Thác Bản Giốc, con đường Hang-Dong-Quan chạy men bờ sông (tả ngạn sông Quây Sơn), trên phần đất thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Vào thời kỳ đó (cuối thế kỷ 19) và có thể mãi cho đến năm 1979 (là lúc phát hành tờ bản đồ Trùng Khánh 6354-IV của QĐNDVN), con đường đó chỉ là đường đất hoặc đường mòn.
Như vậy, toàn bộ thác Bản Giốc đều thuộc về Việt Nam, toàn bộ dải đất chạy dài từ dưới chân thác lên đến cột mốc 53, dọc theo chân dãy núi đá cho đến tận cột mốc 54 cũng thuộc phía Việt Nam. Điều này giúp chúng ta lý giải được tại sao toán lính người Việt dưới quyền chỉ huy của một người Pháp lại có thể đi tuần tra từ bên kia sông và quay trở về bờ bên này trong mùa nước cạn. Rõ ràng toán lính này đã tuần tra trên con đường mòn ở phía tả ngạn mà Détrie đã nhắc đến, đi từ phía trên thác để xuống chân thác, lội sông trở về phía hữu ngạn của sông Quây Sơn (xem bưu ảnh số 832 của P. Dieulefils). Cũng nhờ đứng trên mảnh đất này, nhà nhiếp ảnh mới chụp được tấm ảnh về Thác Bản Giốc được đăng trong cuốn sách của nhà địa lý học Lê Bá Thảo (ấn bản năm 1977). Ngày nay, chúng ta không thể đứng trên lãnh thổ Việt Nam để chụp được một tấm ảnh tương tự, bởi vì dải đất này đã bị cắt cho phía Trung Quốc.
Đó là một đoạn được trích từ bản “bị vong lục” (hay còn gọi là giác thư, mémorandum) do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979. Điều chưa được làm rõ là Trung Quốc đã “sửa ký hiệu” như thế nào? Cho đến nay đã trải qua hơn 30 năm, tài liệu này vẫn còn nằm trong vòng bí mật.
Việc bản đồ Việt Nam tỷ lệ 1/100.000 bị Trung Quốc sửa chữa với ý đồ không tốt chính là lý do khiến cho phía Việt Nam lâu nay không dám công bố bản đồ của mình, hầu hết các bản đồ được công bố đều là bản đồ của Trung Quốc. Hơn thế nữa, vẫn còn một câu hỏi chưa được trả lời: phía Việt Nam đã biết được hành vi “sửa bản đồ” này vào thời điểm nào và tại sao mãi đến năm 1979 mới công bố?
Việc Trung Quốc chiếm cồn Pò Thoong 20 năm sau khi đã “sửa bản đồ” cho thấy kế hoạch xâm chiếm Thác Bản Giốc được chuẩn bị từ trước chứ không phải là hành động ngẫu nhiên.
Hơn thế nữa, về phía tây-bắc của Thác Bản Giốc, ở gần Bản Mom, cột mốc mới 831 cũng xâm phạm vào lãnh thổ Việt Nam một cách hết sức rõ ràng. Việc thay đổi cột mốc này giúp cho phía Trung Quốc chiếm gọn cao điểm 787 (Yao Tan Shan) trong khi đường biên giới cũ chia đôi ngọn núi này, mỗi bên một nửa.
Tóm lại, cột mốc 53 cũ không nằm đúng vị trí của nó, và việc dời cột mốc chỉ nhằm để hợp lý hóa cho việc chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc. Thế nhưng ông Lê Công Phụng lại hết sức nhiệt tình che đậy sự vi phạm trắng trợn này của “nước bạn” bằng cách khẳng định rằng “Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời nhà Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta”. Để củng cố cho lập luận của mình, ông ta còn biện bạch: “Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh - Pháp, căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả”. Không rõ “người dân địa phương” nào lại dám khẳng định cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi?
Cũng theo lời ông Lê Công Phụng: “Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn được”. Vì không có một nhân vật cấp cao nào trong Đảng đính chính lại lời phát biểu này, chúng ta có thể hiểu đây chính là quan điểm chung của các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam chứ không phải là ý kiến riêng của một cá nhân nào [20].
Như trên đã dẫn chứng, trong thực tế quân Trung Quốc đã chiếm đóng cồn Pò Thoong kể từ năm 1976. Vì vậy việc đàm phán suy cho cùng chỉ xoay quanh vấn đề: Trung Quốc tiếp tục chiếm đóng toàn bộ cồn Pò Thoong hay trả lại chút ít cho phía Việt Nam?
Tương tự như trường hợp ở Ải Nam Quan, nơi đây họ đã trả lại một phần: thay vì lấy tất cả cồn Pò Thoong, họ trả lại cho Việt Nam 1 phần 4; thay vì lấy “phần lớn” thác chính thì lấy một nửa thác chính. Các nhà lãnh đạo thuộc thế hệ Hồ Cẩm Đào – Ôn Gia Bảo xem ra có phần khôn ngoan hơn cha ông của họ: làm ra vẻ nhún nhường, nhân nhượng để có tiếng là “ôn hòa”, nhưng vẫn thực hiện được mục đích “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”.
Đường biên giới mới được hoạch định theo thế có lợi cho phía Trung Quốc đã được hiện đại hóa bằng một loạt các cột mốc dày đặc, được định vị bằng các kỹ thuật hiện đại. Điều này sẽ khiến cho các thế hệ người Việt Nam trong tương lai gặp khó khăn hơn rất nhiều trong việc đòi lại các phần đất đã bị chiếm đóng – nhất là khi “ván đã đóng thuyền” bởi hiệp ước 1999.
Cùng với Ải Nam Quan, trường hợp của Thác Bản Giốc cho thấy trong việc đàm phán về biên giới, phía Việt Nam đã nhượng bộ cho phía Trung Quốc đến mức cao nhất, phá bỏ hoàn toàn các nguyên tắc mà Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra trước đó trong bản bị vong lục năm 1979.
Bước 5: Thác Bản Giốc biến thành Thác Đức Thiên
Ngay sau khi ký hiệp định 1999, phía Trung Quốc đã bắt đầu chuẩn bị cho kế hoạch đưa Thác Bản Giốc vào khai thác du lịch chứ không chờ giải quyết trọn vẹn việc cắm mốc ở vùng này. Ngay từ năm 2003, họ đã bắt đầu xây dựng các cơ sở du lịch nghỉ dưỡng như khách sạn, nhà nghỉ, thuỷ đình, nhà nổi… bên bờ Bắc.
Mặt khác, để cắt đứt mối quan hệ xa xưa, xóa dấu vết của cuộc xâm chiếm bẩn thỉu, nhằm tô son trát phấn cho một lịch sử mới chỉ gồm toàn những yếu tố “hữu nghị, anh em”, họ đặt cho thác nước một cái tên mới: 德天 (Detian, Đức Thiên). Ngày nay, chỉ cần lên mạng Internet, dùng một công cụ tìm kiếm nào đó như Google hay Yahoo, chúng ta có thể thấy vô số bài viết của các du khách nước ngoài về “Detian Falls” hay “Detian Waterfall” (Thác Đức Thiên), được coi là thác nước biên giới lớn thứ tư trên thế giới sau các thác nước Iguazu (Argentina-Brazil), Victoria (Zambia-Zimbabwe) và Niagara (Hoa Kỳ-Canada), và là thác nước xuyên quốc gia lớn thứ nhất ở châu Á [23].
1) Trước hết, về căn cứ pháp lý để chứng minh chủ quyền của nước ta đối với Thác Bản Giốc, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có trong tay ít nhất là 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc; [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960; [3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980.
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: tại sao các nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng đã bỏ qua, không sử dụng những tài liệu này trong đàm phán?
2) Việc Trung Quốc chiếm cồn Pò Thoong và Thác Bản Giốc không phải là hành động ngẫu nhiên, cũng không phải là chủ trương của một cá nhân hay một phe phái nào trong Đảng cộng sản Trung Quốc. Kế hoạch này đã được chuẩn bị ngay từ những năm 1955-56, nghĩa là vào lúc quan hệ Việt-Trung được coi là “hữu hảo”, và được thực hiện từng bước qua từng giai đoạn như đã trình bày ở phần trên. Điều này cho thấy đây là chủ trương chung của Đảng cộng sản Trung Quốc qua nhiều thời kỳ, nhiều thế hệ lãnh đạo.
Nhưng Thác Bản Giốc không phải là trường hợp duy nhất. Căn cứ vào bản sơ đồ in ở trang 8 cuốn bị vong lục (giác thư) năm 1979, chúng ta được biết Thác Bản Giốc và Ải Nam Quan chỉ là 2 trong số 12 trường hợp lấn chiếm điển hình. Nếu tính tất cả các vi phạm lớn nhỏ, tính từ 1949 đến 1979 phía Trung Quốc (tức Trung Hoa cộng sản) đã lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến biên giới Việt-Trung [24]. Như vậy không thể nói là quan hệ Việt-Trung chỉ xấu đi trong giai đoạn 1979-1989. Ngay từ giữa thập niên 1950, nghĩa là giữa lúc tình cảm cộng sản Việt-Trung còn nồng thắm, đã bắt đầu hình thành những mầm mống xấu, những âm mưu đen tối. Tương tự như thế, trong vấn đề lãnh hải, ngay khi công bố “hải phận 12 hải lý” vào năm 1958, Đảng cộng sản Trung Quốc đã nuôi dưỡng những mưu đồ quỷ quyệt. Ngay tại điều 4 của Bản tuyên bố, họ đã ghi rõ “Tây Sa” (tức Hoàng Sa) và “Nam Sa” (tức Trường Sa) thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Đó chính là sự chuẩn bị cho việc hải quân Trung Quốc chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và chiếm đảo Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) thuộc quần đảo Trường Sa vào năm 1988.
Vấn đề đặt ra là: trước một chính sách xâm lược nhất quán như thế, tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn thừa nhận quan hệ “16 chữ vàng” (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) và tinh thần “4 tốt” (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt), coi đó như những nguyên tắc căn bản chi phối toàn bộ đường lối ngoại giao giữa hai quốc gia?
Có thể nói khi chấp nhận một chính sách đối ngoại như thế, Đảng cộng sản Việt Nam đã đặt quyền lợi của Đảng cao hơn quyền lợi của Tổ quốc, đã hy sinh quyền lợi của quốc gia – dân tộc để bảo vệ quyền lợi của chính mình. Thử hỏi: với tình hình thực tế đó, làm sao nhân dân có thể tiếp tục tin tưởng vào “sự lãnh đạo của Đảng” trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông – nơi mà hàng ngày hàng giờ các thế lực dân tộc chủ nghĩa của Trung Hoa cộng sản đang lăm le tiếp tục thực hiện kế hoạch xâm lược mà họ đã chuẩn bị công phu từ hơn nửa thế kỷ?
3) Quá trình xâm lấn đường biên giới Việt-Trung đã diễn ra từ rất lâu, nhưng mãi đến ngày 15.3.1979, nghĩa là gần một tháng sau khi Trung Quốc tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, người dân mới biết được phần nào sự thật thông qua bản “bị vong lục” do Bộ Ngoại giao công bố. Từ thời điểm đó cho đến nay, ngoài những chi tiết được công bố trong cuốn sách, nhân dân không được biết thêm điều gì khác. Không có công trình nghiên cứu mang tính độc lập nào để người dân có thể có thể so sánh, đối chiếu.
Thật ra, có một số công trình nghiên cứu có thể giúp người dân tìm hiểu vấn đề, nhưng những công trình này thường bị xếp vào ngăn kéo, không được công bố rộng rãi. Vào năm 1996, khi cộng tác với nhà xuất bản Thuận Hóa để tái bản cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời của học giả Đào Duy Anh, Viện Sử học đã viết trong Lời dẫn như sau: “Năm 1975 tác giả có bổ sung và sửa chữa bản in lần thứ nhất, với ý định tái bản ở miền Nam. Sau khi xem lại tác giả đã bỏ chương nói về biên giới Việt Nam qua các đời vì thấy tài liệu chưa được đầy đủ. (…) Trong lần tái bản này, chúng tôi đã thực hiện theo di cảo của tác giả lưu lại sau khi qua đời” (sđd, tr. 15). Việc lược bỏ chương về biên giới ấy là ý muốn thật của tác giả hay vì một áp lực nào khác? Đối chiếu với “sự quên lãng” được dành cho những trận chiến đẫm máu trong suốt thập niên 1980 như trận chiến tại dải đồi Núi Đất (Lão Sơn) ở Hà Giang năm 1984, cuộc xâm chiếm đảo Đá Gạc-Ma ở Trường Sa năm 1988, v.v. chúng ta có quyền hoài nghi tính chất tự nguyện của việc lược bỏ này.
Trong khi nhiều vị trí hiểm yếu ở vùng biên giới Việt-Trung đã trở thành “chợ trời biên giới” (ví dụ: cửa khẩu Tân Thanh), trong khi hai bên đang tích cực thúc đẩy sự ra đời của các “khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới” thì bản đồ chi tiết về vùng biên giới Việt-Trung vẫn còn là “bí mật quốc gia”, thông tin về vùng này vẫn là thông tin một chiều, mù mờ và không có giá trị khoa học. Người ta có cảm tưởng các cấp có thẩm quyền vẫn tìm cách che giấu, không muốn cho ngýời dân hiểu biết rõ ràng, cụ thể về tình hình đường biên giới mới. Việc vội vã nhổ bỏ các cột mốc cũ để đưa vào “viện bảo tàng” lại càng làm tăng thêm sự nghi ngờ đó.
Câu hỏi đặt ra là: trong tình trạng bưng bít, che giấu thông tin như thế, giới trí thức – nhất là các nhà khoa học nhân văn, phải làm gì để có thể bảo vệ Tổ quốc, giữ vững chủ quyền quốc gia? Trông chờ Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam thành tâm thiện ý “nhìn thẳng vào sự thật” để thực hiện một đường lối cởi mở hơn? Tha thiết “cầu xin” nhà cầm quyền gia ân ban phát một “không gian tự do có giới hạn” để trí thức có thể góp ý hay phản biện? Hay trí thức phải noi gương cụ Phan Châu Trinh và các sĩ phu của Phong trào Duy Tân hồi đầu thế kỷ trước bằng cách tự mình vạch đường đi, nghĩa là mạnh dạn đảm nhận vai trò tiên phong trong công cuộc nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí bằng cách phá vỡ ách nô lệ tinh thần đã bao trùm đời sống tinh thần của cả nước ta từ gần nửa thế kỷ nay?
Có một bài học mà chúng ta có thể rút ra từ lịch sử: tự do có được bằng sự gia ân chỉ có thể là một thứ tự do bị kiểm soát, chân lý có được bằng sự thỏa hiệp chỉ là chân lý nửa vời hay một nửa của sự thật. Mà trong lĩnh vực khoa học thì tự do bị khống chế hay một nửa – sự thật chỉ có thể đem lại một thứ khoa học giả hiệu, một thứ khoa học hào nhoáng nhưng phù phiếm với những huy chương và phẩm hàm tuy bề ngoài rất “hoành tráng” và hấp dẫn, nhưng không thể trường tồn qua thời gian và hoàn toàn vô nghĩa nếu xét trên bình diện lợi ích của toàn dân tộc. Bài học của học thuyết Lysenko (Lysenkoism) đã từng ngự trị trong ngành sinh học Liên Xô từ cuối thập niên 1920 cho đến tận năm 1964 trước khi bị vứt vào thùng rác của lịch sử, là một ví dụ cực kỳ sinh động của thứ khoa học thừa nhận sự lãnh đạo của một đảng chính trị trong một chế độ độc tài toàn trị.
Đà Lạt, mùa xuân năm Nhâm Thìn, 9-2-2012,
M.T.L.
http://trannhuong.com/news_detail/11528/B%C3%8AN-C%E1%BB%98T M%E1%BB%90C-BI%C3%8AN-GI%E1%BB%9AI-B%E1%BA%A2N-GI%E1%BB%90C
[20] Ông Lê Công Phụng sau khi hoàn thành sứ mạng “đàm phán” đã được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ một thời gian trước khi về hưu.
[21] Theo thống kê năm 2010, mặc dù tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Quảng Tây xếp thứ 18, nhưng nếu tính GDP trên đầu người, thì Quảng Tây đứng thứ 27 trong tổng số 31 thành phố, tỉnh và khu tự trị, chỉ đứng trên Tây Tạng, Cam Túc, Vân Nam và Quý Châu.
[22] Người Choang (壯, âm Hán-Việt đọc là Tráng) là dân tộc thiểu số đông nhất Trung Quốc với dân số 18 triệu. Người Choang có cùng nguồn gốc với người Tày và người Nùng ở Việt Nam, tập trung đông nhất ở tỉnh Quảng Tây. Tên gọi chính thức của tỉnh Quảng Tây là Khu tự trị dân tộc Choang (Guangxi Zhuang Autonomous Region).
[23] Trong các trang quảng cáo du lịch của Trung Quốc, chiều cao của thác nước được ghi là 60 m, thậm chí 70 m, trong khi những người Pháp đầu tiên viết về thác nước chỉ phỏng đoán đến mức 40-50 m, và các sách địa lý của nước ta xác định con số 34 m.
[24] Vấn đề biên giới...., sđd, tr.8.
[25] Bản đồ này là bản đồ được cung cấp bởi địa chỉ www.gis.chinhphu.vn
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
http://boxitvn.blogspot.com/2012/02/su-that-ve-thac-ban-gioc_11.html
Ông Trương Tấn Sang là nhân
vật cao cấp nhất của Nhà nước
Việt Nam thăm viếng địa danh nổi
tiếng này sau khi Việt Nam và
Trung Quốc hoàn tất quá trình
phân giới cắm mốc gây nhiều
tranh cãi vào cuối năm 2008.
Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin chiều 8/12 ông chủ tịch "đã đi thăm khu du lịch thác Bản Giốc và thăm Đồn Biên phòng Đàm Thủy ở huyện Trùng Khánh".
Ông Sang được dẫn lời nói "việc duy trì và phát huy Hiệp định Phân mốc biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã tăng cường sự hợp tác hữu nghị, ổn định an ninh biên giới".
Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định về Biên giới trên đất liền từ năm 1999, nhưng phải mất 10 năm quá trình phân giới cắm mốc mới được hoàn tất vì có nhiều "khu vực nhạy cảm'.
Thác Bản Giốc là một trong những khu vực nhạy cảm đó.
Chuyến thăm lần này của ông Trương Tấn Sang mang tính biểu tượng quan trọng, nhất là trong bối cảnh dư luận trong nước đang hết sức quan tâm tới các vấn đề liên quan tới chủ quyền lãnh thổ.
Thác Bản Giốc là một trong những thác đẹp nhất Việt Nam, được tạo thành từ một phần của sông Quây Sơn, chia làm hai phần, thác chính và thác phụ.
Theo thỏa thuận biên giới đất
liền giữa hai nước, thác phụ nằm
hoàn toàn trên lãnh thổ Việt Nam còn
thác chính được hai nước Việt Nam và
Trung Quốc cùng khai thác.
Việt Nam cũng nhận 1/4 cồn Pò Thoong diện tích chưa đầy 3 ha nằm giữa thác.
Thỏa thuận nói trên khi công bố đã bị một số người phản đối, cho rằng Việt Nam 'nhượng bộ Trung Quốc quá nhiều'.
Tranh chấp với Trung Quốc về thác Bản Giốc bắt đầu từ những năm 1974-1975 nhưng lên cao vào năm xảy ra cuộc chiến biên giới 1979.
Cơ sở để chia đôi phần thác chính là việc tính mốc bắt đầu từ cột mốc 53 cũ được dựng lên từ cuối thế kỷ 19 sau khi người Pháp và Nhà Thanh ký kết hiệp định phân chia biên giới.
Sự chia sẻ thác Bản Giốc được thống nhất như một phần của "gói thương lượng" gồm thác này và bãi Tục Lãm trên tinh thần mà chính phủ Việt Nam nói là "hiệp thương hữu nghị thẳng thắn".
1/4 bãi Tục Lãm ở cửa sông Bắc Luân nay thuộc về Trung Quốc.
Việt Nam và Trung Quốc đã thống nhất cùng khai thác du lịch thác Bản Giốc nhưng cho tới nay hai bên vẫn chưa ký được Hiệp định hợp tác khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác này.
Dù vậy, tin cho hay phía Trung Quốc đã xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng, khách sạn và đường xá bên phần đất của họ.
Báo chí Trung Quốc gọi thác này, tên tiếng Trung là Đức Thiên, là một trong những "cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời nhất đất nước Trung Hoa", nằm ở "thị trấn Thạc Long, huyện Đại Tân, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc".
Đầu năm nay báo Lao động của Việt Nam khi đăng lại tin của Trung Quốc ca ngợi thác Đức Thiên đã bị khiển trách vì không nói tới chủ quyền của Việt Nam đối với thác.
Lời Tòa soạn: Ngày 7/9/2013 Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được e-mail phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh, tác giả bài viết "Sự thật về thác Bản Giốc" được chúng tôi đề cập trong bài báo ““Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử” do phóng viên Hồng Thủy phỏng vấn Tiến sĩ Trần Công Trục và Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải ngày 3/9.
Nhận thấy vấn đề đang được dư luận đặc biệt quan tâm, theo dõi và đòi hỏi có những thông tin khách quan, rõ ràng, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã trao đổi với Tiến sĩ Trần Công Trục, ông Trục đồng ý trả lời các câu hỏi, chất vấn của ông Mai Thái Lĩnh xung quanh vấn đề thác Bản Giốc mà bài báo hôm 3/9 đã đề cập.
Nội dung email phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh về bài báo đã được ông Mai Thái Lĩnh công bố rộng rãi trước đó, do đó chúng tôi không nhắc lại, trong nội dung bài trả lời Tiến sĩ Trần Công Trục chỉ tập trung làm rõ các câu hỏi, chất vấn của ông Mai Thái Lĩnh xung quanh vấn đề thác Bản Giốc, và đây cũng là tâm điểm chú ý của dư luận. Tôn trọng nguyên tắc khách quan, thông tin đa chiều, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài trả lời ông Mai Thái Lĩnh của Tiến sĩ Trần Công Trục.
Qua Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, tôi nhận được e-mail phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh đưa ra 5 vấn đề chất vấn xung quanh bài trả lời phỏng vấn của tôi đối với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam hôm 3/9.
Trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, cùng nỗ lực thu hẹp khoảng cách sự khác biệt trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của công luận quốc tế trong vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên Biển Đông hiện nay, chúng tôi đã đưa ra những phân tích những NHẬN THỨC về quá trình đàm phán phân giới cắm mốc trên biên giới phía Bắc với mong muốn cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác từ những người trực tiếp tham gia công việc này đến dư luận.
Trong quá trình đó chúng tôi có sử dụng bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh để làm sáng tỏ vấn đề dư luận đang quan tâm, chúng tôi không nhằm vào mục đích công kích bất kỳ cá nhân nào, chỉ mong muốn tìm kiếm sự đồng thuận thông qua việc NHẬN THỨC đúng đắn những gì đã diễn ra ngày hôm qua để rút ra bài học cho ngày hôm nay và ngày mai trong công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền hợp pháp của dân tộc. Xin trao đổi cùng ông Mai Thái Lĩnh và dư luận quan tâm xung quanh 5 câu hỏi nhưng tập trung vào 3 vấn đề đã nêu ra trong phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh, như sau:
Thứ nhất, việc đưa vấn đề Sam Rainsy và nhóm chính trị đối lập Campuchia bám vào CHỦ TRƯƠNG “chủ quyền lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch sử” để lật lại quá trình đàm phán phân giới cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia đã diễn ra một cách công khai, minh bạch và đúng luật để “đòi” Việt Nam “trả” cho người Campuchia các bộ phận lãnh thổ của Việt Nam như đảo Thổ Chu, Phú Quốc, thậm chí là toàn bộ miền Nam vào bài trả lời phỏng vấn nhằm phân tích kỹ, phân biệt sự khác nhau giữa CHỦ TRƯƠNG giải quyết tranh chấp lãnh thổ trên cơ sở “chủ quyền lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch sử” (mà trong dư luận hiện nay còn nhiều người lầm tưởng rằng đó là chủ trương của chúng ta trong giải quyết tranh chấp Biển Đông) với CHỦ TRƯƠNG giải quyết tranh chấp lãnh thổ dựa trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế, trong đó có sử dụng các “chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý”.
Cá nhân tôi đã nhiều lần phân tích công khai về sự khác biệt đó bởi rất nhiều người trong thực tế còn mơ hồ giữa 2 CHỦ TRƯƠNG này, dẫn đến đánh đồng hoặc lẫn lộn dẫn tới những hậu quả nguy hiểm, đó chính là quan điểm chính thức của Trung Quốc ở Biển Đông hiện nay cũng như phe đối lập Campuchia ở biên giới Tây Nam mà thực tế không ai chấp nhận được.
Về việc này, nhiều học giả quốc tế đã có những bình luân, đánh giá rất khách quan; chẳng hạn, theo Giáo sư Mohan Malik, việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền bao trùm tới hơn 80% diện tích Biển Đông dựa vào yêu sách “yếu tố lịch sử” đang đi ngược lại với UNCLOS mà chính nước này đã phê chuẩn năm 1996. Hay nói cách khác, các tuyên bố ngang ngược từ quan chức trong chính quyền Bắc Kinh nhận các đảo, đá và các rạn san hô trên Biển Đông là “lãnh thổ từ thời xa xưa” của Trung Quốc; hay việc nước này in cả “đường lưỡi bò” phi pháp lên hộ chiếu và bản đồ mới đây đã trái với tinh thần của UNCLOS về việc bác bỏ các yêu sách “dựa trên lịch sử”.
Do đó, mặc dù Trung Quốc trắng trợn yêu sách hơn 80% Biển Đông là “vùng nước lịch sử” của họ, thì theo cách đó, Mexico cũng được độc quyền chiếm vịnh Mexico, hay Iran đòi Vịnh Ba Tư, và Ấn Độ lấn Ấn Độ Dương y như vậy. Tóm lại, theo giáo sư Mohan Malik, “vấn đề lịch sử” là rất phức tạp và không thể giải thích một cách dễ dãi. Ngay cả khi các yêu sách lịch sử có giá trị nào đó, thì Mông Cổ còn có thể yêu sách tất cả các khu vực tại châu Á, vì họ đã từng chinh phục các vùng đất của châu lục này.
Quan điểm nhất quán của Việt Nam trong đàm phán giải quyết tranh chấp lănh thổ dù là ở biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam hay trên Biển Đông đều chủ trương thông qua đàm phán hòa bình, theo nguyên tắc thỏa thuận, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Chúng ta không dựa vào quan điểm “chủ quyền lịch sử, danh nghĩa lịch sử hay bằng chứng lịch sử” chung chung để giải quyết tranh chấp như nhiều người còn đang nhầm lẫn. Chúng ta chỉ sử dụng các bằng chứng, chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý để đấu tranh bảo vệ chủ quyền.
Thông điệp, mục đích, nội dung xuyên suốt trong bài trả lời phỏng vấn Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam hôm 3/9 đều chỉ xoay quanh vấn đề này, cho nên các tư liệu nêu trong bài “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh được tôi đưa ra làm ví dụ để làm rõ sự khác biệt nói trên, chúng tôi không công kích cá nhân ai, chỉ phân tích, phản biện các quan điểm liên quan đến “lịch sử”, trong đó có quan điểm của ông Mai Thái Lĩnh. Chúng tôi muốn làm rõ những điều đó, giải đáp thắc mắc lâu nay trong dư luận do thiếu thông tin. Những nội dung cụ thể cũng như nguyên nhân của sự khác biệt trong NHẬN THỨC cùng 1 vấn đề, tôi sẽ lần lượt trả lời phía dưới.
Thứ 2, về các tư liệu lịch sử mà ông Mai Thái Lĩnh nêu ra trong phần đầu của bài “Sự thật về thác Bản Giốc”, ông Mai Thái Lĩnh cũng đã thừa nhận trong email phản hồi là nó không nằm trong phạm vi của Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 mà hai bên đã thỏa thuận dùng làm cơ sở để đàm phán, thường được gọi là “đường biên giới do lịch sử để lại”. Các tư liệu do ông Mai Thái Lĩnh trích dẫn chỉ có giá trị tham khảo.
Vấn đề gây tranh cãi nằm ở chỗ một số tài liệu chính thức của ta được phát hành trong giai đoạn những năm 1979 trở về sau, trong đó có cuốn tài liệu “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc” và 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc, [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960, [3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980” được ông Mai Thái Lĩnh sử dụng để bảo vệ luận điểm của mình xung quanh vấn đề thác Bản Giốc, tôi xin nói rõ như sau:
Về nguyên tắc chung tôi đã nói rõ trong bài phỏng vấn ngày 3/9 trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam cũng như nhiều lần đã phân tích, các tài liệu ông Lĩnh nêu ra trên đây mặc dù là tài liệu chính thức của các cơ quan nhà nước Việt Nam ban hành công khai và rộng rãi thời kỳ những năm 1979 nhưng không được xem là “căn cứ pháp lý” được thỏa thuận để làm cơ sở giải quyết tranh chấp biên giới phía Bắc, vì rõ ràng các tài liệu này không phải là bộ phận cấu thành của Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 mà 2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thoa thuận lấy làm căn cứ pháp lý để bai bên tiến hành hoạch định biên giới.
Những người làm công tác đàm phán chúng tôi đã nghiên cứu kỹ các tài liệu ông Mai Thái Lĩnh vừa nêu nên chúng tôi rất hiểu và chia sẻ những băn khoăn của dư luận cũng như của ông Mai Thái Lĩnh.
Giai đoạn cuối những năm 1970, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc hết sức căng thẳng và cuối cùng dẫn tới xung đột, vấn đề tranh chấp biên giới trong nhận thức đơn phương của mỗi bên lúc đó rất khác nhau, đây cũng chính là một trong những cái cớ Trung Quốc vin vào để tấn công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam…
Mọi người đều biết rằng, hệ thống tài liệu tuyên truyền chính thức của cả 2 phía Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn này, trong đó có những nội dung đề cập đến đường biên giới trên bộ giữa 2 nước đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi xu thế chính trị của cả xã hội thời kỳ đó. Hai nước giao tranh, việc phát hành tài liệu liên quan đến đường biên giới, chủ quyền trong các tài liệu tuyên truyền ít nhiều đã mất đi tính khách quan, lại được tuyên truyền thường xuyên và rộng rãi nên những thông tin trong đó ăn sâu vào tiềm thức người dân. Điển hình là việc ta luôn luôn nghĩ toàn bộ thác Bản Giốc là của Việt Nam trong khi người Trung Quốc họ nghĩ toàn bộ thác Bản Giốc mà họ gọi là thác Đức Thiên là của họ.
Đó là một thực tế lịch sử đã xảy ra. Có thể những tài liệu tuyên truyền như vậy là cần thiết, phù hợp trong thời điểm đó khi quan hệ hai bên căng thẳng, xung đột. Nhưng sau khi đã bình thường hóa quan hệ với chủ trương của 2 bên là “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” thì nó không còn phù hợp nữa.
Chúng ta “khép lại” nhưng quên mất việc giải thích, nói rõ cái đúng, cái sai cho dư luận người dân nắm rõ, trong khi cái đúng, cái sai ấy lại liên quan trực tiếp tới vấn đề tranh chấp biên giới lãnh thổ sau này, chính điều đó mới tạo ra những khác biệt về mặt nhận thức dẫn đến băn khoăn trong xã hội về vấn đề biên giới Việt Nam - Trung Quốc như ngày hôm nay, thác Bản Giốc là một điển hình.
Chúng tôi những người làm công tác đàm phán về biên giới lãnh thổ, trước khi đề xuất nội dung thỏa thuận nguyên tắc giải quyết biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc, đương nhiên đã nghiên cứu những tài liệu này, so sánh đối chiếu các nội dung liên quan đến đường biên giới trên bộ giữa Việt Nam - Trung Quốc được đề cập trong đó với Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và các bản đồ, văn kiện đi kèm 2 Công ước.
Ý kiến thống nhất từ trung ương đến địa phương đều cho rằng một số nội dung liên quan tới đường biên giới trên bộ của các tài liệu nêu trên đều không phù hợp, do đó không có căn cứ để đem ra tranh luận, đàm phán. Phía Trung Quốc cũng có những tài liệu tuyên truyền tương tự như vậy, thậm chí còn nhiều hơn ta, nhưng không thể đem những tài liệu này, dù là chính thống, đặt lên bàn đàm phán.
Chúng ta đã chấp nhận nguyên tắc dựa vào Công ước Pháp Thanh 1887, 1895 cùng những bản đồ, biên bản phân giới cắm do Công ước quy định để đàm phán thì phải tuân thủ. Và về quy trình đàm phán, chúng tôi đã có bài phân tích cụ thể trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, trong đó nói rõ đường biên giới chủ trương do nhóm chuyên gia thực hiện công phu và nghiêm túc đã phải được các tỉnh có đường biên giới đi qua xác nhận, các bộ ngành có liên quan xác nhận, trong đó có Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, được Quốc hội chấp thuận thông qua, chúng tôi mới đem đi đàm phán. Điều này có thể trả lời câu hỏi của ông Mai Thái Lĩnh rằng các nhà đàm phán có tham khảo các cơ quan liên quan và các tài liệu như ông nêu ra trong bài viết hay không.
Ở đây, tôi xin nói thêm rằng sự khác biệt trong nhận thức ngày hôm nay chính là hệ quả của công tác tuyên truyền ngày hôm qua, khi chúng ta chưa kịp thay đổi, thích ứng theo những diễn biến mới của thời cuộc. Tôi không phủ nhận những giá trị của các tài liệu chính thức của ta mà ông Mai Thái Lĩnh đề cập, nhưng nó chỉ có giá trị trong thời điểm đó và bối cảnh đó, những tài liệu như vậy không thể mang đi đàm phán. Tôi cũng không đổ lỗi cho ai, chỉ muốn nhấn mạnh rằng đó là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử có quá nhiều biến động và còn thiếu nhiều thông tin, nên ngày nay chúng ta cần bình tĩnh để nhìn nhận lại cho rõ cái đúng, cái sai.
Chúng ta muốn bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ thì phải hết sức cầu thị, cái gì đúng chúng ta kiên quyết bảo vệ, cái gì sai, chúng ta phải dũng cảm điều chỉnh. Có như vậy đàm phán mới có kết quả, nguyên tắc pháp lý mới được tôn trọng. Tôi tin rằng đại đa số người dân cũng như công luận quốc tế, khu vực và ngay cả đối tượng đàm phán của chúng ta cũng đều hoan nghênh thái độ cầu thị này.
Đối với phía Trung Quốc, những gì họ nêu ra là bất hợp lý, không thuyết phục khi đàm phán biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ, chúng tôi đều bác bỏ để tôn trọng và giữ thỏa thuận nguyên tắc chung. Ngày nay, chúng ta muốn bác bỏ đường lưỡi bò “lịch sử” của Trung Quốc ở Biển Đông thì chính chúng ta phải sòng phẳng với nhau về các bằng chứng lịch sử của chúng ta, trong đó nghiên cứu tìm tòi và đưa ra những bằng chứng lịch sử có giá trị và sức nặng pháp lý nhất để đấu tranh bảo vệ chủ quyền chứ không thể dựa vào “chủ trương lịch sử, quan điểm lịch sử hay bằng chứng lịch sử” chung chung như chính cách Trung Quốc đã và đang làm.
Nói rõ điểm này, tôi thiết nghĩ không cần phân tích sâu vào khái niệm “đường biên giới do lịch sử để lại” được đề cập trong các tài liệu mà ông Mai Thái Lĩnh trích dẫn, độc giả cũng có thể dễ dàng hiểu được tại sao.
Thứ 3, quan điểm ông Mai Thái Lĩnh cho rằng những người đàm phán chúng tôi đã “mắc mưu Trung Quốc” khi chấp nhận lấy Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và các bản đồ, văn kiện mô tả đường biên giới được quy định bởi 2 Công ước trên làm căn cứ đàm phán, vì trình độ kỹ thuật thời đó không thể mô tả, vẽ một cách chính xác đường biên giới, nhất là chưa có tọa độ địa lý chính xác, chúng tôi xin thưa lại như sau: Nếu cuối thế kỷ 19 Pháp với vai trò Nhà nước bảo hộ của Việt Nam về mặt đối ngoại cùng với nhà Thanh, Trung Quốc mà phân giới cắm mốc thành một đường biên giới rõ ràng, hoàn chỉnh và hiện đại như ngày nay thì làm gì còn tranh chấp. Lúc đó nếu có tranh chấp vì nguyên nhân nào đó thì chỉ cần sau khi thỏa thuận nguyên tắc chung xong, 2 bên lôi Công ước và bản đồ văn kiện đi kèm ra đối chiếu là xong, cần gì đàm phán.
Các bằng chứng lịch sử như bản đồ, thư tịch...chúng tôi đã tham khảo khi hoạch định đường biên giới chủ trương trước lúc mang đi đàm phán, và khi trao bản đồ đường biên giới chủ trương 2 bên đã trùng nhau 70%, 30% còn lại là các khu vực tranh chấp, lúc này mới là giai đoạn đưa các chứng cứ ra chứng minh. Khi chúng ta đưa ra các bản đồ, thư tịch và bằng chứng lịch sử khác không nằm trong phạm vi nguyên tắc chung quy định, thì Trung Quốc họ cũng làm tương tự, và tài liệu của họ còn nhiều hơn ta. Chưa bàn đến độ chính xác đến đâu, nhưng đàm phán như vậy sẽ rơi vào ngõ cụt, bế tắc vì đánh mất nguyên tắc chung khi ai cũng khăng khăng là “bằng chứng lịch sử” của mình đúng.
Dưới góc độ cá nhân là người trực tiếp tham gia quá trình đàm phán, hoạch định phân giới cắm mốc biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, vịnh Bắc Bộ, tôi phân tích cụ thể ví dụ về thác Bản Giốc vừa để cung cấp thêm thông tin cho dư luận đang quan tâm, thắc mắc, nhưng đồng thời còn muốn nói rõ câu chuyện đang diễn ra ngoài Biển Đông, để tránh lặp lại những nhận thức sai lệch không đáng có.
Những chất vấn của ông Mai Thái Lĩnh, đồng thời cũng là những thông tin tôi nghĩ nhiều người đang quan tâm tìm hiểu, tôi đã đề cập trong nội dung trả lời này. Nhưng câu chuyện về biên giới lãnh thổ luôn luôn không hề đơn giản, những ai quan tâm có thể đọc những bài trả lời phỏng vấn của tôi trên các phương tiện truyền thông để có thêm các thông tin một cách hệ thống, đầy đủ và có điều kiện để so sánh, đối chiếu, tìm ra cái đúng, cái sai.
Cuối cùng, cá nhân tôi mong muốn thông qua quá trình trao đổi, đối thoại để thu hẹp khoảng cách trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ sao cho có lợi nhất cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hợp pháp của quốc gia, dân tộc, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông ngày càng gia tăng và tiềm ẩn những nhân tố khó lường.
-
See more at:
https://www.danluan.org/tin-tuc/20130906/mai-thai-linh-su-that-ve-thac-ban-gioc-ai-la-nguoi-nhan-thuc-sai-lam#sthash.vKUe0AY2.dpuf
1) Bài phỏng vấn được mở đầu như sau: “Thời gian gần đây một số hãng truyền thông phương Tây và các trang mạng xã hội đăng tải bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh, trong đó có những nhận định và quy chụp hết sức chủ quan khi cho rằng Việt Nam đã bán đất cho Trung Quốc khiến dư luận có nhiều ý kiến khác nhau, trong đó nhiều người vẫn cảm thấy mơ hồ khi nhắc tới địa danh này.”
Ngay từ lời giới thiệu này, Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam đã tỏ ra không sòng phẳng và thể hiện sự “quy chụp”.
Trước hết, nói “thời gian gần đây” là không đúng sự thật. Bài viết của tôi hoàn thành xong đã gửi đăng trên một số trang mạng vào thượng tuần tháng 2 năm 2012 (trên trang Bauxite Vietnam là vào hai ngày 10 và 11-2-2012). Ngoài ra còn có nhiều trang mạng khác đã đăng lại, nhưng chậm nhất cũng chỉ trong tháng 3 năm 2012, như vậy là đã một năm rưỡi.
Khi rút ngắn thời gian một năm rưỡi bằng cụm từ “thời gian gần đây”, cả tòa soạn báo lẫn phóng viên Hồng Thủy đã cùng với ông Trần Công Trục tìm cách gán ghép bài viết của tôi với một sự kiện nóng hổi mới xảy ra gần đây. Đó là việc ông Sam Rainsy - lãnh đạo đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia, đang tố cáo phía Việt Nam lấy đất của Kampuchea. Đây là một dụng ý không tử tế nhằm đánh lạc hướng dư luận. Bởi vì bất cứ ai đọc kỹ các bài viết của tôi đều thấy rõ giữa quan niệm của tôi và quan niệm của ông Sam Rainsy, không có gì giống nhau. Điểm căn bản là ở chỗ: ông Sam Rainsy là một nhà chính trị, đứng đầu một đảng chính trị ở nước láng giềng, muốn lấy lòng cử tri nên kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi, còn tôi tuy luôn luôn bàn đến chính trị, nhưng lại không liên quan đến một đảng chính trị nào, vì thế không có động cơ phe phái. Hơn thế nữa, tôi cũng không liên quan gì đến cái mà ông Tiến sĩ Trần Công Trục gọi là “quan niệm về chủ quyền lịch sử”, nghĩa là “ngày xưa cha ông ta ở đâu thì đất đó là của Việt Nam”. Hãy đọc kỹ các bài viết của tôi về vấn đề biên giới Việt-Trung. Bất cứ bài nào cũng chỉ nhằm để bảo vệ “đường biên giới lịch sử” đã tồn tại từ khi có các công ước Pháp-Thanh vào cuối thế kỷ 19. Mà đường biên giới lịch sử này thì chính các tiền bối của ông Tiến sĩ Trần Công Trục trong Đảng cộng sản Việt Nam cũng như trong ngành ngoại giao cũng đã từng coi là căn cứ quan trọng nhất trong các cuộc đàm phán với phía Trung Quốc.
Tôi xin phép trích dẫn một đoạn văn trong cuốn “bị vong lục” (memorandum) do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979 để làm rõ vấn đề:
“Lập trường của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được nêu rõ trong Công hàm ngày 2 tháng 3 năm 1979 gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc: những người cầm quyền Trung Quốc đã gây chiến tranh xâm lược Việt Nam thì họ phải vĩnh viễn chấm dứt xâm lược; phải rút ngay, rút hết, rút không điều kiện quân đội của họ về phía bên kia đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã thoả thuận; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Ngày 6 tháng 3 năm 1979, phía Việt Nam đã tuyên bố:
“ Nếu Trung Quốc thật sự rút toàn bộ quân của họ khỏi lãnh thổ Việt Nam như họ đã tuyên bố, thì sau khi quân Trung Quốc rút hết về bên kia đường biên giới lịch sử đã được hai bên thoả thuận tôn trọng, phía Việt nam sẵn sàng đàm phán ngay với phía Trung Quốc ở cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao về việc khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước. Địa điểm và thời gian sẽ do hai bên thoả thuận”
Nếu những người cầm quyền Trung Quốc tiếp tục chính sách xâm lược chống Việt Nam thì quân và dân Việt Nam sẽ dùng quyền tự vệ thiêng liêng, kiên quyết chiến đấu chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam quyết tiếp tục làm hết sức mình gìn giữ tình hữu nghị truyền thống với nhân dân Trung Quốc. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiên quyết đòi nhà cầm quyền Trung Quốc:
[1] Vĩnh viễn chấm dứt xâm lược, phải rút ngay, rút không điều kiện quân đội của họ về nước; chấm dứt mọi hành động tội ác đối với nhân dân Việt nam; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; tôn trọng đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã thoả thuận; phải chấm dứt ngay việc dời cột mốc biên giới và những hành động khác nhằm thay đổi đường biên giới đó.
[2] Cùng phía Việt Nam sớm mở cuộc thương lượng nêu trong Công hàm ngày 15 tháng 3 năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhằm đem lại hoà bình và ổn định ở vùng biên giới giữa hai nước, khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước.”[3]
“Đường biên giới lịch sử” mà văn bản này nói đến chính là đường biên giới được hoạch định bởi các công ước Pháp-Thanh ký hồi cuối thế kỷ 19.
2) Ngay trong lời giới thiệu bài phỏng vấn cũng như trong câu hỏi của phóng viên, câu trả lời của ông Tiến sĩ Trần Công Trục, đều có những sự xuyên tạc đầy ác ý nhằm kích động người đọc nghĩ xấu về tôi. Xin dẫn chứng một số ví dụ sau:
- PV: Quay lại câu chuyện tài liệu “Sự thật thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh đưa ra các tài liệu lịch sử, chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng toàn bộ ngọn thác này thuộc chủ quyền của Việt Nam và quy kết các nhà đàm phán, lãnh đạo Việt Nam đã nhân nhượng vô nguyên tắc, bán đất cho TQ. (…)
- “Câu chuyện về Sam Rainsy và một số nhóm chính trị đối lập tại Campuchia viện dẫn những quan điểm sai trái về chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử để đưa ra những tuyên bố vô lý về vấn đề chủ quyền, gây rối loạn xã hội Campuchia, chia rẽ quan hệ Campuchia - Việt Nam. Điều này không khác gì hiện nay trong dư luận đang sử dụng yếu tố lịch sử để lật lại vấn đề đàm phán biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và tung tin các nhà đàm phán Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam bán đất cho Trung Quốc.” (Trích lời ông Trần Công Trục).
Đây là điều bịa đặt nhằm mục đích kích động dư luận. Trong toàn bộ bài viết của tôi, tuyệt nhiên không có chỗ nào nói “lãnh đạo Việt Nam bán đất cho Trung Quốc.” Chỉ có một đoạn như sau liên quan đến chữ “bán”: “Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc.” Nhưng câu này không phải là lời của tôi, mà chỉ là câu trích dẫn lời nói của ông Lê Công Phụng – nguyên Thứ trưởng Bộ ngoại giao.
3) Ông Trần Công Trục nói: “Công ước Pháp - Thanh 1887 và Công ước Pháp - Thanh bổ sung 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo được công ước trên xác nhận và quy định mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán các khu vực có tranh chấp về chủ quyền. Tất cả các tài liệu, chứng cứ lịch sử như bản đồ, thư tịch, sách giáo khoa, bưu ảnh, ghi chép cá nhân nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên đều không được chấp nhận, kể cả là ta hay TQ.”
Đúng là một số tài liệu tôi nêu ra chỉ là tài liệu dùng để tham khảo, không phải là căn cứ pháp lý. Nhưng nêu những tài liệu đó là điều cần thiết để chứng minh một sự thật: ít nhất là từ khi nhà Thanh và người Pháp ký các công ước về biên giới vào cuối thế kỷ 19 cho đến khi có hiệp định 1999, toàn bộ Thác Bản Giốc vẫn thuộc về nước ta.
Mặc dù ông Trục khoe rằng “đã đọc kỹ bài viết này của ông Mai Thái Lĩnh”, trong thực tế ông đã không đọc kỹ bài viết đó. Vì vậy ông đã không nhận ra “những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý”. Trong phần kết luận, tôi đã viết như sau:
“Trước hết, về căn cứ pháp lý để chứng minh chủ quyền của nước ta đối với Thác Bản Giốc, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có trong tay ít nhất là 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc, [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960, [3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980.”
Và tôi đã đặt câu hỏi: “… tại sao các nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng đã bỏ qua, không sử dụng những tài liệu này trong đàm phán?”
Nếu ông Trục không coi đây là những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý thì ông phải nói rõ lý do, chứ không nên lờ đi, vì các bằng chứng này có liên quan đến chính quyền mà ông Trục phục vụ, và cả Đảng cộng sản Việt Nam – mà ông Trục là một thành viên.
4) Ông Trần Công Trục luôn mồm rao giảng về sự khác nhau giữa một bên là “chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử, quan điểm lịch sử” và bên kia là “các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ theo luật pháp quốc tế”. Tự coi mình là người am hiểu và nắm vững vấn đề hơn người khác, ông luôn mồm chê bai người khác là “nhầm lẫn”, là “nhận thức hạn chế”, v.v... và v.v...
Vì vậy, tôi thấy cần nhấn mạnh đến “những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý” trích từ cuốn Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc xuất bản năm 1979, mục II ( Tình hình Trung quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay), nói về việc “nhà cầm quyền Trung Quốc đã lần lượt lấn chiếm hết khu vực này đến khu vực khác của Việt nam, từ khu vực nhỏ hẹp đến khu vực to lớn, từ khu vực quan trọng về quân sự đến khu vực quan trọng về kinh tế”:
[3] Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam.
Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn đất.
Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc. (tr. 11-12)
[7] Lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam để chuyển dịch đường biên giới.
Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong. (trang 14)
Đề nghị ông Tiến sĩ Trần Công Trục cho biết: những hồ sơ nêu trên có phải là “những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý” hay không?
Riêng tôi thì tin rằng khi viết những dòng chữ này trong bản “bị vong lục” năm 1979, Bộ Ngoại giao do cố Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch[4] lãnh đạo đã có sẵn những chứng cứ pháp lý cụ thể kèm theo. Nếu ông Trần Công Trục thật sự có “tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước” thì ông nên đề nghị ông đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh mở kho lưu trữ để công bố các hồ sơ nêu trên cho toàn dân biết. Trong các hồ sơ đó, dĩ nhiên có cả những bản đồ chi tiết về cột mốc 53, về cồn Pò Thoong, v.v… - nhất là chứng cứ về việc Trung Quốc đã sửa bản đồ tỷ lệ 1/100.000 như thế nào nhằm “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”.
Cũng cần nhấn mạnh đến ý kiến của ông Tiến sĩ Trần Công Trục cho rằng chỉ có “các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo” hai công ước Pháp-Thanh và được hai công ước ấy “xác nhận và quy định” mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán, còn tất cả các chứng cứ khác (kể cả bản đồ) “nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên” đều không được chấp nhận. Theo tôi, một khi đã chấp nhận điều kiện này, ông Trục và những người tham gia đàm phán về phía Việt Nam đã rơi vào bẫy của phía Trung Quốc.
Vì sao? Vào cuối thế kỷ 19, khi ký kết các công ước giữa Pháp và nhà Thanh, trình độ kỹ thuật chưa cho phép người ta vẽ bản đồ với độ chính xác cao, nhất là chưa có tọa độ địa lý. Vì vậy nếu chỉ dựa vào những bản vẽ ấy, không thể xác định được chính xác các cột mốc biên giới. Chính phía Trung Quốc cũng biết rõ như thế cho nên họ mới tìm cách “sửa bản đồ”, “dời cột mốc”, và sau khi đã ký được hiệp định 1999, hoàn thành việc cắm mốc, họ đã vội vàng dỡ bỏ mọi cột mốc lịch sử để “phi tang”, xóa dấu tích nhằm che giấu những việc làm ám muội của họ.
Vì thế, cần phải căn cứ vào các tài liệu – nhất là bản đồ của thời Pháp thuộc, để xác định đường biên giới Pháp-Thanh đã được thể hiện rõ ràng trên thực tế. Cho đến nay, các nhà ngoại giao tham gia đàm phán (kể cả ông Trần Công Trục) đều cố tình lờ đi hai tài liệu quan trọng: bản đồ gốc tỷ lệ 1/100.000 (tức là bản đồ do người Pháp in trước năm 1954) và bản đồ in lại đã bị Trung Quốc sửa chữa. Chính sự mờ ám đó khiến cho nhân dân hoài nghi vào “lòng yêu nước”, “tính trung thực” của những người tham gia đàm phán hiệp định biên giới Việt-Trung, chứ không phải là do những bài viết của tôi và các nhà nghiên cứu khác.
Điều mà các bài viết của tôi nhắm tới chính là “đường biên giới do lịch sử để lại” mà bản “bị vong lục” năm 1979 đã nhiều lần nhắc tới. Đường biên giới lịch sử ấy chính là đường biên giới do các công ước Pháp-Thanh quy định vào cuối thế kỷ 19. Đường biên giới lịch sử ấy có thật sự được tôn trọng hay không? Hiệp định biên giới trên bộ năm 1999 có bảo đảm được “đường biên giới lịch sử” ấy hay không? Đó mới thật sự là điều những người Việt Nam yêu nước băn khoăn, lo nghĩ.
Vì vậy, không thể đánh lận con đen, quy tôi vào quan niệm “chủ quyền lịch sử” theo kiểu của Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam và ông Tiến sĩ Trần Công Trục. Tôi đâu có đòi lại đất Quảng Tây hay Quảng Đông mà bảo tôi “nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử”?
Cuối cùng, tôi đọc được câu sau đây trên trang mạng Giáo dục Việt Nam – cơ quan ngôn luận của “Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng ngoài công lập”: “Mọi ý kiến nhận xét, phản biện về các nội dung trong bài viết trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam sẵn sàng đăng tải. Tiến sĩ Trần Công Trục sẵn sàng trao đổi để làm rõ những thắc mắc, nghi vấn xung quanh vấn đề này.”
Dựa trên tinh thần đó, tôi chính thức đề nghị báo điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải bài viết này cùng với toàn văn bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” bên cạnh bài trả lời phỏng vấn của ông Trần Công Trục để độc giả tiện so sánh, đánh giá, phản biện.
Đà Lạt ngày 5-9-2013
MAI THÁI LĨNH
[1] “Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, Thứ ba 3-9-2013:
http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Su-that-ve-Thac-Ban-Gioc-va-nhan-thuc-sai-lam-ve-chu-quyen-lich-su/315145.gd
[2] Mai Thái Lĩnh, Sự thật về Thác Bản Giốc, Bauxite Vietnam 10 và 11-2-2012:
http://boxitvn.blogspot.co.uk/2012/02/su-that-ve-thac-ban-gioc.html
http://boxitvn.blogspot.co.uk/2012/02/su-that-ve-thac-ban-gioc_11.html
[3] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1979, trang 34-36. Những đoạn gạch dưới là do tôi nhấn mạnh (MTL).
[4] Theo Wikipedia bản tiếng Việt, ông Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương) là thân sinh của ông Phạm Bình Minh – Bộ trưởng Ngoại giao hiện nay.
“Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử
Thứ ba 03/09/2013 07:46
(GDVN) - Những người vẫn còn đang theo đuổi “chủ quyền lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch sử” để chỉ trích Việt Nam bán đất cho TQ ở Thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan hay sông Bắc Luân, thử hỏi họ có thể chấp nhận được quan điểm vô lý của một số người Campuchia như Sam Rainsy khi đòi “chủ quyền” đối với đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu, thậm chí là cả Nam Bộ của Việt Nam hay không? Tôi tin là hoàn toàn không.
Thời gian gần đây một số hãng truyền thông phương Tây và các trang mạng xã hội đăng tải bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh, trong đó có những nhận định và quy chụp hết sức chủ quan khi cho rằng Việt Nam đã bán đất cho Trung Quốc (TQ) khiến dư luận có nhiều ý kiến khác nhau, trong đó nhiều người vẫn cảm thấy mơ hồ khi nhắc tới địa danh này.
Điều đó một lần nữa cho thấy những bất cập trong nhận thức của không ít người ngay từ các nhà nghiên cứu, trí thức, quản lý cho đến người dân về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, đặc biệt là sự nhầm lẫn, nhận thức sai lầm, mơ hồ về bằng chứng lịch sử, yếu tố lịch sử, tài liệu lịch sử trong văn chương, sách giáo khoa, bản đồ, bưu ảnh...với những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền.
Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới chính phủ, người trực tiếp tham gia đàm phán hoạch định biên giới Việt Nam - TQ nói chung, khu vực Thác Bản Giốc nói riêng đã chia sẻ với Báo Giáo dục Việt Nam những ý kiến của ông xung quanh vấn đề này.
- PV: Thưa Tiến sĩ Trần Công Trục, gần đây trên một số phương tiện truyền thông nước ngoài và mạng xã hội có đăng tải bài viết “Sự thật về thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh gây ra nhiều băn khoăn, hoài nghi trong dư luận. Ông Lĩnh đưa ra một số “bằng chứng lịch sử” như bản đồ, bưu thiếp, ghi chép cá nhân của một sĩ quan Pháp cho đến viện dẫn sách trắng Ngoại giao để tìm cách chứng minh rằng toàn bộ thác Bản Giốc là của Việt Nam và các nhà đàm phán Việt Nam đã nhân nhượng vô nguyên tắc, thậm chí quy chụp ta đã bán đất cho TQ. Xin Tiến sĩ vui lòng chia sẻ những nhận định của mình về vấn đề này?
- Ts Trần Công Trục: Tôi đã đọc kỹ bài viết này của ông Mai Thái Lĩnh. Đây là một trường hợp điển hình về việc nhầm lẫn giữa chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử, quan điểm lịch sử với các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ theo luật pháp quốc tế.
Gần đây những vấn đề về quan điểm về chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử đã trở thành vấn đề nếu như chúng ta không nhìn nhận một cách khách quan, thực tế, cầu thị, có căn cứ sẽ dẫn đến tình trạng hết sức phức tạp, không chỉ những vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên đất liền mà cả đối với các hải đảo và các vùng biển.
Để hiểu rõ câu chuyện ông Mai Thái Lĩnh đặt ra và giải tỏa những thắc mắc, băn khoăn trong dư luận, tôi xin nói qua về bối cảnh, xu hướng nhận thức sai lầm trong quan điểm xử lý tranh chấp lãnh thổ dựa trên quan điểm “chủ quyền lịch sử” đang tồn tại hiện nay.
Về mặt lịch sử, gần đây mọi người có lẽ cũng đọc những thông tin về các phe phái chính trị ở Campuchia sử dụng các vấn đề lãnh thổ mang tính lịch sử không những để kích động cử tri Campuchia gây bất ổn chính trị xã hội đất nước này sau bầu cử Quốc hội mà còn gây chia rẽ quan hệ Campuchia - Việt Nam trên khu vực biên giới Tây Nam, điển hình là những phát biểu sai trái của ông Sam Rainsy, đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia vừa qua.
Luận điệu sai trái bám vào lịch sử của Sam Rainsy không mới, trước đây những nhóm chính trị đối lập Campuchia đã từng đưa ra các nhận định, lập luận dựa vào lịch sử cho rằng xét về lịch sử các đảo Phú Quốc, Thổ Chu (thuộc chủ quyền Việt Nam) là của Campuchia. Thậm chí có những người theo đuổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi tại Campuchia tuyên truyền rằng cứ theo lịch sử của họ thì ở đâu có cây thốt nốt, ở đâu có người Khemer thì ở đó là đất của Campuchia.
Những luận điệu sai trái bám vào cái gọi là bằng chứng lịch sử, vùng đất lịch sử ấy đang được các thế lực chính trị lợi dụng tuyên truyền trong cộng đồng người dân Campuchia để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan gây ra những vấn đề phức tạp, mặc dù 2 bên đã có quá trình thống nhất cơ sở pháp lý, đàm phán và phân giới cắm mốc một cách rõ ràng, minh bạch, hết sức mang tính xây dựng, tuân thủ luật pháp quốc tế và chiếu cố đến lợi ích của nhau.
Đó là một ví dụ điển hình của quan điểm sai trái dựa vào chứng cứ lịch sử, quan điểm lịch sử, chủ quyền lịch sử hết sức mù mờ để giải quyết tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia. Điều này không những không có cách nào góp phần giải quyết tranh chấp lãnh thổ mà còn gây rối loạn xã hội, kích thích chủ nghĩa dân tộc cực đoan hẹp hòi và trở thành mảnh đất màu mỡ cho các thế lực chính trị lợi dụng tuyên truyền thu hút sự chú ý của dư luận nhằm thực hiện các ý đồ, mục tiêu của riêng họ.
Câu chuyện về Sam Rainsy và một số nhóm chính trị đối lập tại Campuchia viện dẫn những quan điểm sai trái về chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử để đưa ra những tuyên bố vô lý về vấn đề chủ quyền, gây rối loạn xã hội Campuchia, chia rẽ quan hệ Campuchia - Việt Nam. Điều này không khác gì hiện nay trong dư luận đang sử dụng yếu tố lịch sử để lật lại vấn đề đàm phán biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc (TQ) và tung tin các nhà đàm phán Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam bán đất cho TQ.
Quay trở lại vấn đề biên giới phía Bắc, lâu nay vẫn có không ít người nhầm lẫn giữa quan điểm chủ quyền lịch sử với các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong giải quyết tranh chấp chủ quyền.
Tôi xin nhắc lại thỏa thuận về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa Việt nam và TQ: “Vấn đề biên giới trên đất liền: Căn cứ vào nguyên tắc: “Hai bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Pháp và TQ ngày 26-6-1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới ngày 20-6-1895, cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận và quy định; đối chiếu xác nhận lại toàn bộ đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và TQ.”
Đó là nguyên tắc cơ bản nhất mà 2 bên Việt Nam và TQ đã thỏa thuận và dựa vào. Như vậy, ngoài nội dung của Công ước hoạch định này còn có các văn kiện và bản đồ phân giới cắm mốc kèm theo được “Công ước và Công ước bổ sung xác nhận và quy định”. Nguyên tắc này đã chỉ rất rõ các loại văn bản, tài liệu nào có thể được sử dụng làm cơ sở để 2 bên dựa vào đó đàm phán.
Xin nói thêm là nguyên tắc này sau khi hai bên thỏa thuận, thống nhất xong đều
phải đưa ra Quốc hội 2 nước họp và thông qua bằng Nghị quyết chứ không một cá
nhân nào có thể tùy tiện nêu ra. Hai bên chính thức ký kết thỏa thuận về những
nguyên tắc giải quyết tranh chấp biên giới trên đất liền giữa Việt Nam với TQ
ngày 9/10/1993.
Công ước Pháp - Thanh 1887 và Công ước Pháp - Thanh bổ sung 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo được công ước trên xác nhận và quy định mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán các khu vực có tranh chấp về chủ quyền. Tất cả các tài liệu, chứng cứ lịch sử như bản đồ, thư tịch, sách giáo khoa, bưu ảnh, ghi chép cá nhân nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên đều không được chấp nhận, kể cả là ta hay TQ.
Nếu cứ dựa vào lịch sử, sách giáo khoa, bản đồ để khẳng định chủ quyền đối với các khu vực tranh chấp thì không bao giờ, không ở đâu có thể giải quyết được vì không có một cơ sở nguyên tắc chung. Ta có tài liệu, có bản đồ, có sách giáo khoa, có bưu ảnh để nói chủ quyền một số khu vực nào đó là của ta thì phía TQ họ cũng có những tài liệu tương tự.
Vì vậy, chỉ có thể dựa trên nguyên tắc pháp lý, văn bản pháp lý có giá trị cao nhất ở đây là Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 mới có thể giải quyết được vấn đề, nếu không đồng báo chiến sĩ sẽ tiếp tục hi sinh, môi trường bất ổn định và không thể có hòa bình, chắc chắn ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
Chúng ta luôn sẵn sàng bảo vệ từng tấc đất của Tổ Quốc nhưng phải trên cơ sở pháp lý, trên cơ sở chúng ta phải xác nhận rõ ràng khu vực đó thuộc chủ quyền của Việt Nam được quốc tế thừa nhận, dù có phải đổ máu, hi sinh bao nhiêu chúng ta cũng phải bảo vệ.
Nhưng những khu vực tranh chấp trên tuyến biên giới trên bộ giữa Việt Nam và TQ thì cả 2 bên đều không đủ chứng cứ pháp lý chứng minh chủ quyền của mình và thuyết phục được đối phương. Vì thế mới cần đàm phán, giải quyết theo thỏa thuận trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế.
Chúng ta không thể ở khu vực biên giới phía Bắc thì cứ đòi dựa vào lịch sử, vào
sách giáo khoa, vào tiềm thức, tâm tư và tình cảm của mình để khẳng định một
vùng đất là của chúng ta nhưng ở khu vực khác như biên giới Tây Nam chúng ta
lại phủ nhận quan điểm lịch sử, bằng chứng lịch sử, chủ quyền lịch sử khi đối
phương đưa ra để đòi chủ quyền những vùng đất của chúng ta.
Khi chúng ta đọc được, nghe được các thông tin về các nhóm chính trị ở Campuchia tuyên truyền rằng Việt Nam bành trướng, cướp đất của Campuchia, chắc chắn chúng ta đều hết sức phẫn nộ và kịch liệt phản đối.
Chúng ta không xem nhẹ các yếu tố, sự kiện lịch sử, nhưng cần đánh giá một cách khách quan, yếu tố tư liệu lịch sử nào có giá trị pháp lý áp dụng giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc 2 bên thỏa thuận trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế.
Những người vẫn còn đang theo đuổi “chủ quyền lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch sử” để chỉ trích Việt Nam bán đất cho TQ ở thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan hay sông Bắc Luân, thử hỏi họ có thể chấp nhận được quan điểm vô lý của một số người Campuchia như Sam Rainsy khi đòi “chủ quyền” đối với đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu, thậm chí là cả Nam Bộ của Việt Nam hay không? Tôi tin là hoàn toàn không.
Ở ngoài Biển Đông, liệu những người này có thừa nhận quan điểm “chủ quyền lịch sử” của TQ đòi yêu sách đối với Biển Đông, Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam hay không? Đường lưỡi bò mà TQ đưa ra ở Biển Đông được họ chủ trương là “chủ quyền lịch sử”, “danh nghĩa lịch sử”, họ đưa ra những tài liệu lịch sử, chứng cứ lịch sử, đặt tên đảo, thậm chí nói là từ trước Công nguyên, liệu những người theo đuổi “chủ quyền lịch sử” có chấp nhận được quan điểm đó không?
Tôi không nói về vấn đề quan điểm chính trị, chỉ nói về nhận thức thì rất nhiều
người yêu nước, tâm huyết với công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia hiện
nay nhưng lại chỉ say sưa với “bằng chứng lịch sử”, “chủ quyền lịch sử” mà vô
tình không thấy rằng chính TQ và thế lực chính trị đối lập, cực đoan tại
Campuchia đang khai thác yếu tố “chủ quyền lịch sử”, “chứng cứ lịch sử” để đưa
ra yêu sách phi lý và phi pháp, chúng ta không thể cứ mãi tiếp tục mơ hồ, chạy
theo quan điểm sai trái này.
Chúng ta phải đặt mình vào vị trí của các nước có liên quan để có cái nhìn khách quan và đầy đủ đối với vấn đề tranh chấp lãnh thổ.
Tại sao chúng ta và cộng đồng quốc tế có thể chấp nhận những tư duy duy ý chí đó? Ví dụ như 2 gia đình tranh chấp một thửa đất, thì chỉ có thể dựa vào các tài liệu, chứng cứ pháp lý như sổ đỏ, hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, di chúc...để xem xét giải quyết, anh không thể vác gia phả sang hàng xóm bảo họ rằng, căn nhà này anh có sổ đỏ, nhưng nó thuộc gia đình tôi từ thời cụ tổ và giờ hàng xóm phải trả lại. Đó là những tư duy duy ý chí, hết sức sai lầm và chỉ đẩy vấn đề vào ngõ cụt.
Vì vậy chúng ta phải hiểu một cách hết sức rõ ràng, công khai và sòng phẳng về những điều này. Còn đương nhiên Công ước Pháp - Thanh, cơ sở pháp lý mà chúng ta đã ký kết, thỏa thuận với TQ ra đời cách thời điểm hai bên ngồi đàm phán với nhau cả trăm năm thì việc mô tả, thể hiện trên bản đồ do rào cản kỹ thuật cũng như điều kiện địa hình, địa mạo, một số khu vực có thể có sai khác mới dẫn đến tranh chấp và nhận thức khác nhau, điều này hết sức bình thường, hai bên mới phải ngồi vào bàn đàm phán.
Nếu đã có một đường biên giới hoàn chỉnh và rõ ràng thì cần gì đàm phán, và cũng chẳng có chuyện tranh chấp, giằng co nhau dẫn tới đổ máu.
Do đó chúng ta phải nghiên cứu cách tiếp cận vấn đề, tránh những hiểu lầm trong nội bộ chúng ta cũng như tránh những hệ lụy nguy hiểm chỉ vì thiếu thông tin hoặc nhận định sai lầm về “chủ quyền lịch sử”. Câu chuyện về thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan, sông Bắc Luân là câu chuyện của ngày hôm qua nhưng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hôm nay và ngày mai, khi trên Biển Đông thì TQ đòi yêu sách “chủ quyền lịch sử”, ở biên giới Tây Nam các thế lực chính trị cực đoan Campuchia dùng “chủ quyền lịch sử” âm mưu phá vỡ sự ổn định đường biên giới đã được chính thức đàm phán, ký kết và phân giới cắm mốc. Còn bám vào quan điểm “chủ quyền lịch sử” là vô tình trúng bẫy của TQ cũng như Sam Rainsy.
Chúng ta nghiên cứu lịch sử để hiểu công lao dựng nước, giữ nước của các thế hệ cha ông, nhưng về mặt tranh chấp lãnh thổ thì chúng ta phải hết sức lưu ý giá trị pháp lý của các chứng cứ lịch sử, tài liệu lịch sử ở mức độ nào chứ không phải tất cả các yếu tố lịch sử có thể đem ra khẳng định yêu sách chủ quyền, không ai chấp nhận điều đó trên bình diện luật pháp quốc tế.
- PV: Quay lại câu chuyện tài liệu “Sự thật thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh đưa ra các tài liệu lịch sử, chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng toàn bộ ngọn thác này thuộc chủ quyền của Việt Nam và quy kết các nhà đàm phán, lãnh đạo Việt Nam đã nhân nhượng vô nguyên tắc, bán đất cho TQ. Xin Tiến sĩ vui lòng phân tích cụ thể trường hợp điển hình này về những nhầm lẫn giữa “chủ quyền lịch sử”, “bằng chứng lịch sử” với các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong giải quyết tranh chấp biên giới lãnh thổ trên cơ sở luật pháp quốc tế?
- Ts Trần Công Trục: Trong tài liệu này, ông Mai Thái Lĩnh căn cứ vào sách giáo khoa, vào lịch sử, văn chương, bưu ảnh, bản đồ cho đến cả ghi chép cá nhân của một người trong đoàn đàm phán Pháp - Thanh. Tất cả các tài liệu này, như đã phân tích ở trên rõ ràng nó nằm ngoài phạm vi nguyên tắc pháp lý mà 2 bên Việt Nam và TQ có thể thống nhất và đã thống nhất với nhau là Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và các văn kiện bản đồ phân giới cắm mốc đi kèm, do đó những tài liệu ông Lĩnh đưa ra chỉ có tính chất tham khảo và không thể dùng làm chứng cứ để khẳng định chủ quyền của anh hay của tôi. Phía TQ cũng có các tài liệu tương tự như vậy, và ta không chấp nhận.
Để giải đáp những băn khoăn, thắc mắc trong dư luận về thác Bản Giốc, tranh chấp ở chỗ nào và tại sao có những tranh chấp đó, xin được nhắc lại như sau.
Thác Bản Giốc là 1 trong 4 khu vực C trọng điểm tồn lại trong quá trình Việt Nam và TQ đàm phán biên giới trên bộ. Căn cứ vào Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và các bản đồ, văn kiện kèm theo thì đường biên giới qua khu vực thác Bản Giốc được mô tả là đi giữa dòng sông Quây Sơn đến đỉnh thác chính và thác Bản Gốc là một bộ phận của sông Quây Sơn. Từ đỉnh dòng thác chính thác Bản Giốc đường biên giới kéo thẳng đến mốc 53 nằm bên sườn quả núi bên trái con đường đi. Các tài liệu pháp lý để lại đã mô tả như vậy.
Khi hai bên đã thỏa thuận xong được nguyên tắc chung đàm phán hoạch định biên giới trên đất liền, Việt Nam và TQ mỗi bên về thể hiện đường biên giới chủ trương của mình lên bản đồ địa hình chung do 2 bên thỏa thuận trước. Đường biên giới chủ trương do 2 bên tự xác định bởi các chuyên gia bản đồ, pháp lý, kỹ thuật của mỗi bên và được các địa phương nơi đường biên giới đi qua xác nhận.
Khi trao đổi bản đồ thể hiện đường biên giới chủ trương thì đoạn đường biên giới qua khu vực sông Quây Sơn và thác Bản Giốc gần như trùng nhau hoàn toàn, chỉ có duy nhất 1 điểm khác biệt là ở thượng nguồn thác Bản Giốc trong Công ước không mô tả khu vực sông Quây Sơn rẽ thành 2 nhánh ôm lấy một cồn gọi là cồn Pò Thoong.
Tranh chấp chính là cồn Pò Thoong với 2 luồng chảy đổ xuống thác Bản Giốc do tài liệu để lại không rõ ràng. Do đó thác Bản Giốc không có gì tranh chấp, chỉ còn lại cồn Pò Thoong 2 bên phải đàm phán giải quyết. Trong thực tế quản lý có rất nhiều quan điểm khác nhau, ta nói của ta, TQ nói của họ, vì có tranh chấp nên có những thời kỳ xuất hiện cả kiến trúc xây dựng trên cồn Pò Thoong để khẳng định chủ quyền, và điều này là hoàn toàn bình thường.
Khi cả ta và TQ không đủ chứng cứ, tài liệu pháp lý để bảo vệ yêu sách chủ quyền đối với cồn Pò Thoong, 2 bên phải dựa vào nguyên tắc chung thỏa thuận ban đầu, đối với đường biên giới di qua sông suối tàu thuyền không đi lại được thì đường biên giới đi qua trung tuyến dòng chảy chính. Khi phân giới cắm mốc, 2 bên đo đạc xác định dòng chảy chính nằm về phía Việt Nam, nếu căn cứ vào nguyên tắc pháp lý trên thì cả cồn Pò Thoong sẽ thuộc về Trung Quốc.
Khi giải quyết, vấn đề này động chạm đến tình cảm, tiềm thức của người dân Việt Nam nên 2 bên có sự trao đổi, chiếu cố lợi ích của nhau để giải quyết tranh chấp một cách thích hợp. Cuối cùng 2 bên thống nhất đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, hai phần ba thuộc về TQ và một phần ba thuộc về Việt Nam. Đó là giải pháp đã tính đến lợi ích của đôi bên, liên quan đến tình cảm và quá trình quản lý.
Tuy nhiên khu vực này là 1 cảnh quan có giá trị đối với cả 2 bên, không ai xây dựng cột mốc ở khu vực giữa dòng sông suối nên theo thông lệ quốc tế, chúng ta và TQ thỏa thuận hợp tác khai thác du lịch tại khu vực thác Bản Giốc vì lợi ích đôi bên, cụ thể 2 bên sẽ đàm phán và có phương án hợp lý. Tôi cho rằng kết quả đàm phán là hoàn toàn phù hợp luật pháp, thông lệ quốc tế.
Chính tôi đã từng lội sông, lội suối lên khu vực thượng nguồn sông Quây Sơn, thác Bản Giốc, tận tay sờ vào cột mốc 53 và rõ ràng cồn Pò Thoong không được mô tả trong tài liệu 2 bên dựa vào làm căn cứ. Không có chuyện mốc 53 cắm trên cồn Pò Thoong.
Sở dĩ có những hiểu lầm trong dư luận là toàn bộ thác Bản Giốc thuộc về Việt Nam là vì trong quá trình quản lý biên giới, theo quy định và cũng như thông lệ, không ai đem cột mốc cắm giữa dòng sông biên giới, những khu vực đường biên giới đi qua sông suối như khu vực thác Bản Giốc thì mốc được cắm so le.
Tuy nhiên quá trình quản lý biên giới, biến thiên lịch sử, do chiến tranh, hoặc do nguyên nhân nào đó khu vực thác Bản Giốc, cột mốc biên giới từ thời Pháp - Thanh xác lập bị mất cột mốc bên phía Việt Nam, chỉ còn cột mốc bên phía TQ nên người dân đến đây có cảm giác toàn bộ thác Bản Giốc thuộc về Việt Nam vì chỉ nhìn thấy cột mốc bên phía TQ.
Trong khi đó Công ước Pháp - Thanh mô tả đường biên giới qua thác Bản Giốc bằng tiếng Pháp và tiếng TQ thì không được dịch và phổ biến ra cộng đồng, nên sự nghi ngờ, mơ hồ của dư luận về khu vực này là có thể hiểu được.
Hiện nay rõ ràng nhiều người vẫn còn chưa hiểu rõ về vấn đề thác Bản Giốc và điều đáng nói là không chỉ người dân mà ngay cả những người làm công tác nghiên cứu và quản lý vẫn cảm thấy mơ hồ như tôi đã từng phân tích, họ thiếu thông tin, thiếu nghiên cứu pháp lý và thực địa.
Trong dân gian người ta đã đọc được nhiều tài liệu về thác Bản Giốc, trong đó có những tài liệu của chính chúng ta, kể cả tài liệu chính thức như sách giáo khoa và các tài liệu văn bản mang tính chất nhà nước trong suốt một thời kỳ đã từng khẳng định, nhấn mạnh thác Bản Giốc là của Việt Nam. Thực tế chúng ta cũng thấy rằng, thời kỳ trước đây chưa có đường biên giới rõ ràng và cộng đồng dân cư vùng biên giao lưu qua lại mật thiết với nhau, những điều này dẫn đến hình thành nhận thức, tình cảm, thậm chí là tiềm thức cho rằng toàn bộ thác Bản Giốc là của Việt Nam cũng là điều dễ hiểu.
Đã có lúc đồng bào, chiến sĩ ta phải đổ máu để bảo vệ. Đó là sản phẩm của một quá trình nhận thức duy ý chí cả của ta lẫn TQ nên đã dẫn tới những tranh chấp, xung đột. Và khi xét dưới lăng kính luật pháp quốc tế, cái gì chúng ta sai chúng ta phải điều chỉnh, cái gì chúng ta đúng, chúng ta kiên quyết bảo vệ. Chỉ có trên tinh thần cầu thị, tôn trọng luật pháp quốc tế và nguyên tắc chung 2 bên đã thỏa thuận, chúng ta mới có thể ngồi lại đàm phán với TQ để hoạch định phân giới cắm mốc, xây dựng tuyến biên giới hòa bình, ổn định và hữu nghị.
Một số người có thể cố tình, có thể vô ý do nhận thức hạn chế về vấn đề “chủ quyền lịch sử” vẫn đang tiếp tục khai thác những tài liệu này để quy chụp rằng Việt Nam bán đất cho TQ, gây hoài nghi, chia rẽ trong dư luận, làm giảm sức mạnh đoàn kết dân tộc, gây bất ổn xã hội nhằm thực hiện một ý đồ, mục tiêu chính trị nào đó. Chúng ta phải hiểu rất rõ vấn đề này, nếu không sẽ rơi vào trạng thái mơ hồ, hoang mang, lúng túng và bị động.
* Đề nghị không sao chép lại dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của báo GDVN. Trích dẫn, đăng tải lại toàn bộ hoặc một phần thông tin từ bài viết này phải chịu trách nhiệm và ghi rõ "theo báo Giáo Dục Việt Nam" hoặc "theo Giaoduc.net.vn".
Mọi ý kiến nhận xét, phản biện về các nội dung trong bài viết trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam sẵn sàng đăng tải. Tiến sĩ Trần Công Trục sẵn sàng trao đổi để làm rõ những thắc mắc, nghi vấn xung quanh vấn đề này. Những ý kiến, phản biện xin quý độc giả vui lòng gửi về địa chỉ doanphuc@giaoduc.net.vn, trân trọng cảm ơn!
Hồng Thủy
-
See more at:
https://www.danluan.org/tin-tuc/20130906/mai-thai-linh-su-that-ve-thac-ban-gioc-ai-la-nguoi-nhan-thuc-sai-lam#sthash.SomP6h9r.dpuf
Thác Bản Giốc của Việt Nam hay của Trung Quốc (Phần I)
Mai Thái Lĩnh trả lời phỏng vấn của Đài VOAĐịnh Nguyên, thông tín viên RFA Một nén hương cho ngày 17/2/1979
Nguyễn Khanh, Nhà Trắng sẽ tiếp xúc người Việt ở Mỹ về nhân quyền VN-
Vấn đề chủ quyền Thác Bản Giốc lại được dư luận Việt Nam chú ý bàn tán hồi gần đây sau khi Chủ tịch Trương Tấn Sang đến thăm ngọn thác xinh đẹp ở biên giới Việt-Trung được cho là thác nước xuyên quốc gia lớn nhất Á châu. Báo chí Việt Nam hồi tuần qua cũng cho biết Hà Nội và Bắc Kinh đang thương thảo để đạt được Hiệp định về khai thác tiềm năng du lịch khu vực Thác Bản Giốc. Trong nhiều năm qua chính phủ ở Hà Nội cho rằng Việt Nam lẽ ra chỉ có chủ quyền đối với một phần ba Thác bản Giốc nhưng nhờ thương thuyết nên Trung Quốc nhượng bộ và giờ đây Việt Nam được phân nửa. Tuy nhiên, những người chỉ trích nói rằng Thác Bản Giốc trước đây được coi là thác riêng của Việt Nam. Mời quí thính giả theo dõi thêm chi tiết qua cuộc phỏng vấn nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh sau đây.
Duy Ái – VOA
VOA: Thưa ông, chắc ông cũng biết là trong chuyến viếng thăm Trung Quốc mới đây, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh có đề cập tới ý định thương thuyết với Trung quốc để ký kết hiệp định về khai thác tiềm năng du lịch Thác Bản Giốc. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hồi đầu tháng 12 vừa qua cũng đã đến thị sát Cao Bằng và đi thăm Thác Bản Giốc. Với tư cách là một người bỏ công nghiên cứu rất nhiều về vấn đề chủ quyền Thác Bản Giốc xin ông cho thính giả của VOA được biết sơ qua về tình hình hiện nay ở khu vực này?
Ông Mai Thái Lĩnh: Qua thông tin của báo chí trong nước, trong những năm gần đây và mãi cho tới ngày nay việc khai thác du lịch ở thác Bản Giốc có một sự mất cân bằng giữa hai bên. Phía Trung Quốc hàng năm họ thu hút được khoảng một triệu du khách. Về phía nước ta thì số du khách trung bình chỉ vào khoảng 30.000. Lý do chính là vì cơ sở hạ tầng ở đây còn rất yếu kém, từ đường giao thông cho tới khách sạn, nhà trọ, cũng như các dịch vụ phục vụ du lịch khác. Ngoài ra, còn có một lý khác nữa là giữa hai bên chưa có một hiệp định hợp tác khai thác du lịch.
Theo một trang blog trong nước (của nhà báo Trương Duy Nhất), có một Việt kiều Canada về nước, muốn đóng góp cho địa phương khoảng nửa triệu đô la để giúp cho tỉnh sửa sang lại cảnh quan du lịch; nhưng khi gặp chính quyền của tỉnh thì họ không chấp nhận. Bởi vì, theo lời một quan chức địa phương, việc chỉnh trang xây dựng khu vực này lệ thuộc vào nội dung của hiệp định khai thác. Cho nên mỗi lần bên mình định làm cái gì thì bên kia họ lại phá.
Tôi nghĩ rằng có lẽ vì lý do này nên trong chuyến đi thăm Trung Quốc lần này Ngoại trưởng Phạm Bình Minh có đưa cái vấn đề ký hiệp định khai thác chung vào chương trình nghị sự giữa hai bên. Còn theo thông tin của một số người đến thăm thác Bản Giốc, ở phía thượng lưu (phía trên thác) có một cái chợ trời biên giới. Người Việt mình qua lại được. Nhưng ở phía hạ lưu thì vì đường phân chia nằm giữa giòng sông nên nếu đi ra về phía thác chính thì bè của Việt Nam chỉ qua được tới giữa giòng thôi, chứ không thể qua phía bên kia được. Tình hình đại khái là như vậy.
VOA: Hồi đầu tháng này ông đã cho phổ biến bài nghiên cứu “Sự thật về Thác Bản Giốc”, trong đó ông khẳng định Việt Nam là chủ nhân thực sự của thác nước này. Xin ông vui lòng cho biết những luận điểm chính của ông về vấn đề này.
Ông Mai Thái Lĩnh: Bài viết của tôi vừa rồi có nhan đề là “Sự thật về Thác Bản Giốc”. Thật ra không phải tất cả đều là ý kiến của tôi, mà đây có thể nói là một công trình tập hợp tất cả những bằng chứng mà nhiều bài viết trước đây – nhiều người đã viết trong vòng khoảng chục năm nay, để chứng minh thác Bản Giốc hoàn toàn là của Việt Nam.
Trong đó đáng kể nhất là một nhà nghiên cứu ở Pháp, ông Trương Nhân Tuấn, một Việt kiều sinh sống ở Pháp. Ông đã sưu tập được rất nhiều tài liệu thành văn về quá trình ký kết và cắm mốc giữa hai bên — giữa Pháp và nhà Thanh, vào cuối thế kỷ thứ 19.
Còn ở trong nước, tôi xin lấy ví dụ như ông Hàn Vĩnh Diệp, một đảng viên Cộng Sản và là một cán bộ hưu trí. Ông này đã từng 7 lần đến thăm Bản Giốc, từ 1958 đến 2006, và có lần từng ở lại một ngày một đêm ở bờ bắc của sông Quây Sơn. Địa điểm này bây giờ, theo như tác giả viết, đã thuộc về lãnh thổ của Trung Quốc rồi.
Tất cả những luận điểm của các tác giả nói trên vẫn còn một số điểm chưa thật chính xác, vẫn còn những lỗ hổng, khiến cho toàn bộ chưa có tính chất thuyết phục. Khó khăn lớn nhất là thiếu những bản đồ chi tiết để giải thích rõ trước đây đường biên giới như thế nào và hiện nay đường biên giới thay đổi ra sao. Nhất là cột mốc số 53.
Vừa rồi, trong quá trình nghiên cứu, tôi tìm được một số bản đồ. Đặc biệt là qua mạng internet tôi tìm được hai tờ bản đồ, tỉ lệ 1/50,000. Một là bản đồ do Quân đội Hoa Kỳ in năm 65 và một là của Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1980. Hai bản đồ này về cơ bản thì địa hình rất giống nhau. Chỉ có khác là tờ bản đồ của Việt Nam thì Việt Nam đã Việt hóa và điều chỉnh một số điểm, nhất là địa danh. Quan trọng nhất là hai tờ bản đồ này có ghi rõ tọa độ địa lý và có những vòng cao độ, và trong đó đặc biệt là có ghi rõ các cột mốc nằm ở đâu. Cho nên tôi nghĩ rằng những người có trình độ về bản đồ học có thể căn cứ vào cái này để xác định tọa độ các cột mốc một cách hết sức chính xác.
Ngoài ra còn có một tờ bản đồ chi tiết về đường biên giới mới. Tờ bản đồ này sở dĩ có được là vào cuối tháng 10 năm 2011 có một đoàn nhà văn quân đội đã lên thăm đồn biên phòng Đàm Thủy ở gần thác Bản Giốc và chụp ảnh lại bản đồ chi tiết về đường biên giới này.
So sánh mấy tờ bản đồ với nhau thì chúng ta thấy rõ ràng là cột mốc 53 đã bị dời đi, đường biên giới bị sửa đổi, và do vậy nên ta mất đi một nửa thác chính của thác Bản Giốc. Cho nên có thể nói là với những tư liệu này chúng ta có thể chứng minh được thác Bản Giốc trước hoàn toàn là của Việt Nam.
Và tất cả những cái này rất ăn khớp với tất cả những tư liệu về địa lý trước đây của nước ta, cũng như ăn khớp với những điều mà trong bản Bị Vong Lục ngày 15 tháng 3 năm 1979 mà Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố trong cuốn sách “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc” do Nhà Xuất bản Sự Thật xuất bản vào năm 1979. Có thể nói là tất cả rất có hệ thống và rất chính xác và đã chứng minh rằng thác Bản Giốc là hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
Thác Bản Giốc của Việt Nam hay của Trung Quốc (Phần II)

Nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh cho biết ông vừa viết một bài 'Sự thật về Thác Bản Giốc' Hình: Courtesy of MTL
Mai Thái Lĩnh Thác Bản Giốc của Việt Nam hay của Trung Quốc (Phần I)
Mai Thái Lĩnh Sự thật về Thác Bản Giốc(1&2)
Nghe : Thác Bản Giốc của Việt Nam hay của Trung Quốc (Phần I)MP3 Nghe: Thác Bản Giốc của Việt Nam hay của Trung Quốc (Phần II) MP3
VOA: Chắc ông cũng biết là ông Lê Công Phụng, người từng giữ chức Trưởng đoàn đám phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, cho biết: tại Thác Bản Giốc, Việt Nam chỉ có một phần ba thác, nhưng nhờ thương thuyết cho nên Trung Quốc nhượng bộ, thành ra Việt Nam được nửa thác. Xin ông cho biết ý kiến về tuyên bố của ông Phụng.
Ông Mai Thái Lĩnh: Theo ông Lê Công Phụng cũng như các quan chức ngoại giao khác, đã công bố qua báo chí Việt Nam, thì theo pháp lý và thông lệ quốc tế, Việt Nam chỉ có được một phần ba thác chính, nhưng qua đàm phán nên cuối cùng Việt Nam có được một nửa thác chính và một phần tư cồn Pò Thoong.
Nhưng nói theo thực tế và căn cứ vào những tài liệu mà mình nắm được thì đúng ra phải nói như thế này: “theo pháp lý và đúng theo lịch sử thì toàn bộ Thác Bản Giốc là của Việt Nam, nhưng vì Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm đoạt và trấn áp, cho nên cuối cùng thì việc thương thuyết của ta hoàn toàn thất bại, cho nên nước ta mất một nửa thác chính.”
Nhưng điều quan trọng nhất là ngoài chuyện mất đi nửa thác chính, chúng ta mất luôn dải đất chạy dài từ cồn Pò Thoong cho đến chân thác. Trước đây do không có dải đất này, phía Trung Quốc tuy có một đồn trên đỉnh núi, nhưng không bao giờ có thể đặt chân xuống vùng thung lũng sông Quây Sơn ở phía trên Thác Bản Giốc. Ngày nay họ có thể nhờ dải đất này để di chuyển từ hạ lưu thác đến tận thượng nguồn, đến tận cồn Pò Thoong. Cồn này rộng khoảng 2,6 hecta, và họ chiếm hết ba phần tư. Và nếu trong trường hợp chẳng may xảy ra chiến tranh, tôi nghĩ rằng họ có thể chuyển quân từ dưới lên rất dễ dàng; trong lúc trước đây trong thời Pháp thuộc họ không thể nào đặt chân xuống vùng đồng bằng.
Ngày nay những người biết sử dụng internet có thể dùng những chương trình để xem bản đồ vệ tinh, thì chúng ta có thể thấy họ tập trung xây dựng cơ ngơi, đường sá và có thể cả những công sự phòng thủ và những công trình quân sự rất lớn ở vùng phía dưới thác Bản Giốc.
Sau khi bài viết của tôi được công bố, trong số các ý kiến phản hồi, có một ý kiến rất đáng chú ý.
Trong bài viết, tôi nói Trung Quốc bây giờ làm ra vẻ nhân nhượng cho nên họ mới trả lại cho mình một phần tư cồn Pò Thoong và một phần thác chính để mình có được một nửa thác. Nhưng ý kiến này nói rằng ý kiến của tôi là không đúng. Ý kiến này cho rằng Trung Quốc sở dĩ trả lại một phần tư cồn Pò Thoong và một phần thác chính thì không phải là “cho không” mà họ đổi lại để lấy của Việt Nam một phần tư bãi Tục Lãm ở cửa sông Ka Long ở Móng Cái.
Đây là một ý kiến đáng chú ý và cần tiếp tục nghiên cứu. Nếu điều họ nói là đúng thì có thể nói trong vấn đề đàm phán xung quanh Thác Bản Giốc, phía Việt Nam ta hoàn toàn thất bại. Không đòi lại được gì hết.
VOA: Theo ông, phía Việt Nam, chính phủ nói riêng và người dân nói chung, nên làm gì trước tình hình hiện nay để khỏi bị thiệt thòi thêm nữa trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc?
Ông Mai Thái Lĩnh: Tình hình bây giờ…mặc dù các cấp lãnh đạo làm ra vẻ ta và Trung Quốc đang trong quá trình thân thiện, hay có nhiều lạc quan, nhưng theo tôi, tình hình hết sức nghiêm trọng. Bởi vì nếu nhìn một cách hệ thống thì chúng ta thấy kế hoạch xâm chiếm đất đai ở biên giới cũng như lãnh hải, hải đảo đều nằm trong một kế hoạch chung của phía Trung Quốc và được tiến hành qua nhiều thế hệ và được chuẩn bị rất chu đáo. Mà hiện nay trong vấn đề Biển Đông – vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, chúng ta thấy Trung Quốc để lộ ra một tham vọng quân sự rất lớn.
Theo tin mới nhất mà tôi đọc được, ngân sách quân sự của Trung Quốc trong năm 2011 là gần 120 tỷ đô la và đến năm 2015 sẽ tăng gấp đôi, gần 240 tỉ (con số chính xác là 238,2 tỉ đô la). Ngân sách này còn cao hơn tổng số chi phí quân sự của các cường quốc châu Á gộp lại. Cho nên với một chính sách như vậy, tôi nghĩ, nước ta đang ở trong một nguy cơ rất lớn trong vấn đề Biển Đông.
Trong khi đó thì về phía chính phủ, chúng tôi thấy chính sách không rõ ràng, và thay đổi từ cực đoan này sang cực đoan khác. Đã có thời kỳ Đảng Cộng Sản đã ghi vào Hiến pháp của Việt Nam: “Trung Quốc là kẻ thù chiến lược lâu dài”. Từ thập niên 90 tới nay lại đổi thành “16 chữ vàng” rồi “4 tốt”, vân vân … trong lúc tình hình thực tế thì không phải là như vậy.
Cho nên tôi có một số ý kiến như sau:
Đối với chính phủ:
– Muốn cho người dân tin tưởng thì chính phủ không thể tiếp tục nói dối dân mà phải thành thật, vì nói dối dân trước sau gì cũng bị người ta phát hiện ra, mà đã phát hiện ra thì dân sẽ không còn tin vào chính phủ nữa. Tốt nhất là phải thành thật thừa nhận những điều mình làm sai trước đây và xin lỗi người dân chứ không thể tiếp tục che đậy được.
– Nếu muốn được dân tin thì không thể tiếp tục đường lối ngoại giao hết sức phi lý, hết sức kỳ quặc. Mình nói 16 chữ vàng, 4 tốt, trong khi phía Trung Quốc không hề thay đổi chính sách của họ. Họ vẫn lộ rõ tham vọng rất lớn trong vấn đề Biển Đông.
– Tôi nghĩ chính phủ phải trả tự do vô điều kiện cho những người yêu nước, ví dụ như Điếu Cày hay bà Bùi Thị Minh Hằng. Vì những người này phản đối Trung Quốc vì lòng yêu nước, nên không có lý do gì nhà nước bắt giam họ mà lại bắt giam không đúng theo luật pháp. Không làm được điều này thì dân không tin.
– Một điều nữa là phải đánh giá đúng công lao của các triều đại trước trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Phải vinh danh những chiến sĩ của chế độ Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa.
– Và cuối cùng là phải thực thi các quyền tự do căn bản để người dân có thể tự do tìm hiểu, thảo luận, trao đổi về các vấn đề đối ngoại.
Còn về phía người dân, chúng tôi nghĩ rằng cần phải làm những công việc sau đây:
1) Thứ nhất là nên xem xét lại, khảo sát lại tất cả đường biên giới trên bộ trước đây đã mất gì so với đường biên giới cũ. Nhiều người nói việc này không quan trọng, không cần thiết vì là chuyện quá khứ. Nhưng tôi nghĩ vấn đề rất quan trọng bởi vì thật ra vấn đề biên giới trên bộ và vấn đề lãnh hải, hải đảo liên hệ gắn bó với nhau; mà mình không rút ra được bài học lịch sử, thì mình không bao giờ có được những bài học tốt cho tương lai. Một dân tộc không hiểu rõ lịch sử của mình, không đánh giá đúng thành công và thất bại của mình thì không bao giờ có thể tiến được trong tương lai. Như thực tế của nước Nhật là một ví dụ điển hình.
2) Cần phải đánh giá lại thành công và thất bại của đường lối, chính sách đối ngoại trước đây của nước ta, nhất là trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
3) Tôi nghĩ về phía trí thức và phía người dân, chúng ta cần phải phá bỏ độc quyền trong lĩnh vực đối ngoại. Nhất là phá bỏ độc quyền về thông tin. Tôi thấy có tình trạng hết sức vô lý. Thí dụ như trước đây, khi ký hiệp ước 1999, một hiệp ước quan trọng như vậy mà Quốc hội không biết gì hết – (có biết) cũng chỉ là biết sau khi sự việc đã rồi. Và thậm chí cho tới bây giờ Ải Nam Quan mất như thế nào, mất bao nhiêu đất, Thác Bản Giốc mất như thế nào, tôi nghĩ hầu hết các đại biểu quốc hội các khoá đều không biết gì hết. Về lâu dài, theo tôi nghĩ, phải đấu tranh để có một chế độ dân chủ, để người dân phải có được một cái quyền gì đó – nhất là trong lãnh vực đối ngoại. Ví dụ như cơ quan nào, chức vụ nào chịu trách nhiệm về đối ngoại phải thật sự là do dân bầu, chịu trách nhiệm trước dân. Như vậy người dân có quyền thay đổi cơ quan đó hay người giữ chức vụ đó thông qua bầu cử. Chứ nếu như hiện nay thì tình hình ở Việt Nam rất là bất hợp lý: một tổ chức không do dân bầu ra (như Bộ Chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam là không do dân bầu ra) nhưng lại nắm quyền toàn bộ. Cho nên người dân cũng không có quyền thay đổi Bộ Chính trị đó, không có quyền bãi miễn, không được quyền cách chức hay không có quyền thông qua phiếu bầu để thay đổi. Thế thì toàn bộ lãnh vực đối ngoại gần như độc quyền của một thiểu số trong đảng. Mà như vậy sẽ gây ra tình trạng giống như tình trạng chúng ta thấy trước đây, khi ký hiệp định năm 1999.
Đó là một số ý kiến bước đầu mà tôi đề ra và tôi nghĩ rằng nếu mình không làm được những điều này thì trong tương lai chắc chắn chủ quyền của chúng ta ở Biển Đông sẽ bị ảnh hưởng rất lớn.
VOA: Xin cám ơn ông Mai Thái Lĩnh đã dành thời giờ cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Thác Bản Giốc – Những bằng chứng lịch sử – Mai Thái Lĩnh
Ngày 8-3 năm 2014, trong một cuộc họp báo bên lề kỳ họp thứ hai của Quốc hội khoá XII nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,
Ngoại trưởng Vương Nghị tuyên bố: “Lập trường của Trung Quốc là
kiên định và rõ ràng trong vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, đó
là: không phải của Trung Quốc một tấc cũng không lấy; nếu là
của Trung Quốc, một tấc cũng quyết bảo vệ.”[1] Mới
nghe qua, chúng ta thấy lập trường này rất hợp tình, hợp lý. Thế nhưng,
có một câu hỏi được đặt ra: nếu Trung Quốc (tức là Trung Hoa cộng sản)
không lấy một tấc đất nào không phải của mình, cớ sao họ lại chiếm của
Việt Nam phần lớn cồn Pò Thoong và một nửa thác Bản Giốc?
Bài viết này giới thiệu
một số tài liệu của thời Pháp thuộc nhằm chứng minh thác Bản Giốc hoàn
toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam:
I. Những tài liệu sớm nhất (cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20):
Nguồn tài liệu này khá phong phú, nhưng lâu nay rất khó tiếp cận. Sau đây, chỉ xin giới thiệu một số tài liệu tiêu biểu:
1) Cuốn sách về biên giới Quảng Tây của thiếu tá P. Famin:
Tài liệu sớm nhất có đề cập đến thác Bản Giốc có lẽ là cuốn Ở Bắc Kỳ và trên vùng biên giới Quảng Tây (Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-Si) của thiếu tá P. Famin xuất bản tại Paris vào năm 1895.[2] Giá
trị lớn nhất của tài liệu này là ở chỗ nó được viết bởi một “người
trong cuộc”, bởi vì tác giả từng là Phó Chủ nhiệm Ủy ban cắm mốc biên
giới Việt-Trung năm 1894 (Vice-président de la commission d’abornement
des frontières sino-annamites en 1894).[3]
Trong cuốn sách này, tác
giả đã viết về dòng sông Qui Thuận (tức Quây Sơn) và thác Tu Tong (tức
thác Bản Giốc) như sau: “Dòng sông Qui-Thuan (Qui-Thuận) xinh xắn – phụ
lưu trực tiếp của sông Si-Kiang (Tây Giang) chảy ngang qua phần phía bắc
(của Khu quân sự thứ hai)[4].
Dòng sông này rộng 60 mét, đi vào đất Bắc Kỳ qua cửa Ai-Lung và rời
khỏi Bắc Kỳ ở gần đồn Nam-Ton của Trung Hoa, sau khi đã tưới một thung
lũng rộng lớn rất phì nhiêu. Hai ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, nó
vượt qua một bậc thềm đá và tạo thành một dòng thác tuyệt đẹp cao 40
mét. Cột nước khổng lồ rơi ầm ầm xuống bồn nước thứ nhất, từ nơi đó lại
nảy lên thành những chùm tia sủi bọt trên những bậc thang bằng đá vôi
nhẵn bóng. Vào mùa mưa, dòng thác đó bày ra một dáng vẻ tuyệt vời, tiếng
động của thác nước nghe vọng từ xa và dội lại trong vùng núi với một
tiếng sấm, trong khi những đám hơi nước hình thành ở vùng lân cận và
tan ra thành một cơn mưa nhỏ.” (sđd, tr. 12-13)
Trong cuốn sách này, Famin
cũng dành hẳn một chương (chương X: Une colonne dans la région de
Cao-Bang) để trình bày các cuộc hành quân trong năm 1892 nhằm bình định
vùng “Đệ nhị quân khu” – trong đó có hạt Cao Bằng (cercle de Cao-Bang),
chống lại một băng cướp vũ trang đông đến 400 tên từ Trung Hoa tràn
sang.
Tại trang 142-143, có một
đoạn đáng chú ý như sau: “Ngày 15, vừa mới bắt đầu sáng, nhóm thứ nhất
khởi hành và đến được dòng sông gần Ban-Juoc (Bản Giốc) – bằng cách đi
theo một con đường rất xấu; những trạm gác được thiết lập ngay lập tức
trên tất cả các đỉnh cao của bờ bên phải. Trạm gác tận cùng bên phải nằm
gần các thác nước Tu Tong (chutes de Tu-Tong) – ngay trên đường biên
giới, trạm gác bên trái thông thương về phía Dong-Mon với các trạm gác
của trung úy Bellion. Như vậy, toàn bộ bờ phải của sông Quei-Chum (Qui
Thuận, hay Quây Sơn) đã được chiếm đóng. “

Nhìn vào tấm bản đồ kèm
theo, chúng ta thấy “trạm gác tận cùng ở bên phải” là một điểm nằm cạnh
bờ sông, ở hạ lưu của thác Tu Tong – tức thác Bản Giốc (hình 1). Đây
chính là nơi mà dòng sông Quây-Sơn trở thành đường biên giới giữa hai
nước. Trạm Bản Giốc (Famin phiên âm là Ban Juoc, phát âm theo
tiếng Pháp rất giống với Bản Giốc trong tiếng Việt) về sau trở thành đồn
Bản Giốc như thường thấy trong các bản đồ sau này. Căn cứ vào hình vẽ
thác nước và cồn đất trên bản đồ, chúng ta thấy cồn Pò Thoong và toàn bộ
thác nước thuộc về phía nước ta. Để độc giả có thể so sánh, tôi phóng
to một phần của tấm bản đồ trong cuốn sách của Famin và đặt nó bên cạnh
tấm bản đồ mà theo lời Giáo sư Nguyễn Ngọc Giao, đã được tìm thấy tại Vụ
lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp.[5] Mặc
dù giữa hai tấm bản đồ có những nét tương tự, chúng ta có thể thấy tấm
bản đồ của Famin rõ ràng hơn, chứng minh đường biên giới không hề chia
thác nước ra làm hai phần (hình 2). Đó cũng chính là lý do khiến cho các
chính quyền ở Trung Hoa lục địa từ thời nhà Thanh cho đến thời Dân quốc
không hề có chút “thắc mắc” gì về chủ quyền của nước ta đối với thác
Bản Giốc cũng như cồn Pò Thoong.

2) Cuốn hồi ký của bà Isabelle Massieu (1901): Cuối thế kỷ 19, một phụ nữ người Pháp tên là Isabelle Massieu đã thực hiện một chuyến du lịch đến vùng Trung-Ấn (Indo-Chine).[6] Đến
Sài-gòn vào thượng tuần tháng 10 năm 1896, bà đã thực hiện một hành
trình kéo dài gần 8 tháng, đi qua một số địa điểm ở Cambodge
(Kampuchea), Thái Lan , Miến Điện, Lào và Việt Nam. Trong chặng cuối của
cuộc hành trình, bà đã thực hiện một chuyến du hành ở vùng thượng du
phía Bắc nước ta – giáp biên giới Trung Quốc.
Trong cuốn hồi ký xuất bản tại Pháp năm 1901 nhan đề Tôi đã đi khắp vùng Trung-Ấn như thế nào? (Comment j’ai parcouru l’Indo-Chine), bà
đã dành một chương (chương 3 của phần IV) để trình bày về các khu quân
sự (territoires militaires) ở phía bắc nước ta – bao gồm các tỉnh sát
biên giới Trung Hoa, nơi mà người Pháp vừa mới hoàn thành quá trình
“bình định” (pacification). Về thác Bản Giốc, bà viết:
“Chỉ riêng trong khu vực
Trùng Khánh Phủ, ba dòng sông lớn tạo thành những thung lũng rộng – có
người ở và được trồng trọt tốt, tô điểm thêm những thác nước tuyệt đẹp;
những thác này sẽ rất nổi tiếng nếu nằm trong vùng núi Alpes. Tôi còn
nhớ : vào ngày hôm sau khi tôi đến đó, trong một chuyến đi dạo khoảng 50
ki-lô-mét, ở rất gần Pak-Muong, tôi đã rất xúc động khi đứng trước dãy
thác của sông Quei-Cheum (sông Quây Sơn) – chắn ngang quang cảnh nơi
này. Ngoài ra, trên con đường đi Bancra, thác Bản Giốc với hình bán
nguyệt, nằm trong một thung lũng xanh tươi và những ngọn núi đẹp như
tranh vẽ, với những đám bọt trắng xóa xếp thành tầng trên một chiều cao
60 mét. Nó tạo thành năm hoặc sáu dòng thác riêng biệt xếp chồng lên
nhau nhiều lần và được trang trí bằng những dải thực vật nhiệt đới. Nếu
nằm ở nước Anh, những thác nước đó sẽ được ca ngợi trong những tạp chí
minh họa; còn ở Bắc Kỳ, thác Bản Giốc – một trong những thác nước đẹp
nhất và có khung cảnh đẹp nhất mà chúng ta có thể tìm thấy, chỉ được các
sĩ quan trong vùng biết đến.”[7]

Chương nói trên cũng đã được tách riêng để đăng trên Tạp chí Địa Lý (Revue de géographie) do
Ludovic Drapeyron sáng lập, tập XLVIII, tháng 1-tháng 6 năm 1901 dưới
nhan đề “Những khu quân sự tại Bắc Kỳ” (Les territoires militaires du
Tonkin). [8]
Có thể coi Isabelle Massieu
là một trong những “du khách” ngoại quốc sớm nhất đã đặt chân đến vùng
thung lũng sông Quây Sơn và để lại cho chúng ta một tài liệu mang tính
khách quan, chứng minh thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc về phía Việt Nam,
sau khi đường biên giới Việt-Trung đã được phân định rõ ràng.
3) Cuốn sách viết về người dân vùng núi Bắc Kỳ của đại tá Diguet (1908):
Từ tháng 9 năm 1907 đến tháng 1 năm 1908, tờ Revue coloniale (Tạp chí Thuộc địa) đăng
tải một loạt bài của đại tá Edouard Diguet viết về các sắc dân miền núi
ở phía Bắc nước ta. Năm sau (1908), loạt bài này được in thành một cuốn
sách nhan đề là Người miền núi ở Bắc Kỳ (Les montagnards du Tonkin).[9] Mục đích của cuốn sách là trình bày về các sắc dân thiểu số tại vùng Thượng du Bắc Kỳ. Tại trang 3, tác giả viết như sau:
“Đó là cao nguyên Ba Châu
(Quảng Uyên, Trùng Khánh Phủ và Hạ Lang) – nằm ở độ cao 400 hay 500 mét.
Đó là xứ sở của các hang động – nơi mà toàn bộ dân cư của các tổng trú
ngụ trong những thời kỳ rối ren, vùng đất của những dòng sông bị chìm
mất hút dưới những dãy núi đá để rồi lại hiện ra ở những nơi xa hơn, xứ
sở của những thác nước mà trong đó cần phải kể đến những thác nước tuyệt
vời ở Bản Giốc.” Trong số các ảnh chụp, có một tấm ảnh của thác Bản
Giốc (hình 4).


Ngoài ra còn có một số tấm
ảnh chụp các đồn canh của quân Pháp tại vùng biên giới tỉnh Cao-Bằng,
như tấm ảnh chụp một số sĩ quan Pháp đang điểm binh tại đồn Trà Lĩnh
(hình 5). Các binh sĩ người địa phương trong ảnh được gọi là partisans (thân binh). Điều
đó cho thấy vùng biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Hoa thời đó được canh
phòng rất cẩn mật, nhất là để đề phòng các toán cướp từ biên giới tràn
sang.
4) Luận án tiến sĩ của đại úy Paul Marabail:
Song song với tác phẩm của
đại tá Diguet là một luận văn tiến sĩ do Paul Marabail – một đại úy bộ
binh thuộc địa (capitaine d’infanterie coloniale) thực hiện. Luận án này
sau khi đệ trình lên Khoa trưởng Khoa Văn tại đại học Paris vào tháng 5
năm 1907 đã được phép in thành một cuốn sách dày hơn 500 trang vào năm
1908.[10]
Trong công trình nghiên cứu
này, tác giả mô tả về dòng sông Quei-Cheum (tức Quây Sơn, Qui Thuận)
như sau: “Sông Quei-Cheum bắt nguồn từ một địa điểm không xa
Kouei-Tchouen, tưới chợ Hang-Hoa và đi vào Bắc Kỳ phía trước lô-cốt
Pac-Muong. Đó là một dòng sông có dòng chảy mạnh và bị cắt ngang bởi
nhiều thác nước; nó nhận một phụ lưu từ phía bên phải – phụ lưu này sinh
ra ở phía nam Quei-Cheum và nhập vào dòng chính cách đường biên giới
của chúng ta vài ki-lô-mét về phía bắc. Vượt qua khỏi Pac-Muong, sông
Quei-Cheum tưới một phần của khu vực Trùng Khánh Phủ, trở lại đất Trung
Hoa để tưới vùng đất An-Binh và Tai-Ping Chau, rồi chảy theo hướng gần
như từ bắc xuống nam và nhập vào sông Tso-Kiang (Tả Giang) ở phía thượng
lưu của Tai-Ping-Chau (Thái Bình Châu).” (trang 195-196). Cần lưu ý: Tả
Giang là một nhánh của sông Tây Giang (Si-Kiang), Tây Giang lại là
nhánh lớn nhất của Châu Giang (tức sông Quảng Đông).

Ở một đoạn khác, ông viết:
“Đồn Trùng Khánh Phủ được nối liền với Tra-Linh (Trà Lĩnh), như chúng
tôi đã ghi nhận trong đoạn trước. Từ điểm này, nhiều con đường mòn dẫn
đến nhiều lô-cốt nằm rải rác dọc theo biên giới. Sau cùng, một con đường
khác đi về phía Đông dẫn đến Ban-Gioc (Bản Giốc); từ Po-Tau, nó đi theo
thung lũng Song-Quei-Cheum (sông Quây Sơn) cho đến tận Bản Giốc, băng
ngang qua một trong những phần đẹp nhất của hạt (Cao Bằng).[11] Từ
Bản Giốc đến Ban-Cra, trên một đoạn của dòng chảy, sông này tạo thành
một thác nước tuyệt đẹp cao hơn 35 mét. Ba ki-lô-mét sau đồn Ban-Cra,
con đường sử dụng một thứ đường hầm do thiên nhiên tạo ra, dài 250 mét,
rộng 20 mét và cao từ 3 đến 4 mét, trong đó người ta chỉ có thể đi qua
dưới ánh sáng lù mù của những ngọn đuốc mà các cư dân vùng lân cận mang
đến.” (trang 485-486)
Điều đáng lưu ý là tại
trang 167, có một tấm sơ đồ về rừng và núi đá có rừng (schéma des forêts
et rochers boisés) vẽ với tỷ lệ 1/861.111 (xem hình 6). Phóng to phần
có liên quan đến thác Bản Giốc, chúng ta có thể thấy rõ thác này nằm ở
thượng lưu của đoạn sông làm thành biên giới Việt-Trung và hoàn toàn nằm
trong lãnh thổ Việt Nam:

II – Những tài liệu về sau (1910-1950):
Kể từ thập niên 1910 cho
đến ngày người Pháp hoàn toàn rời bỏ Đông Dương, chúng ta có thể tìm
thấy rất nhiều tài liệu chứng minh thác Bản Giốc hoàn toàn là “tài sản
quốc gia” của Việt Nam chứ không phải là sở hữu chung của hai nước Việt
Nam và Trung Hoa. Trong bài này, chỉ xin nêu một số tài liệu để làm dẫn
chứng:
1) Niên giám tổng quát của Đông Dương thuộc Pháp (Annuaire général de l’Indo-Chine francaise):
Trong các cuốn Niên giám của Đông Dương trước năm 1907 (vd: từ 1901 đến 1906), Bản Giốc chỉ được ghi nhận như một đồn quân sự (poste militaire). Nhưng từ Niên giám 1907 trở
đi (vd: từ 1907 đến 1914), phần nói về sông ngòi tỉnh Cao Bằng đã ghi
chi tiết hơn về sông Quây Sơn và thác Bản Giốc. Lấy ví dụ:Niên giám 1911 ghi như sau:
“Hệ thống sông ngòi của vùng này thuộc về lưu vực Si-Kiang (Tây Giang) hay còn gọi là sông Quảng Đông (rivière de Canton).[12] Hướng
chung của các sông là Tây-Bắc – Đông-Nam, nghĩa là cùng hướng với các
sông khác ở Bắc Kỳ đổ nước vào vịnh Bắc Kỳ. Hai con sông chính tưới khu
quân sự này một cách không đều nhau: (1) Sông Bằng Giang đến từ Trung
Hoa và đi ngang qua Sóc-giang, Nước-hai (từ nơi này sông có thể lưu
thông được), Cao Bằng và Tà-lùng. Các phụ lưu chính bao gồm: ở hữu ngạn
có sông Tse-Rao (Giẻ Rào hoặc Dẻ Rào) chảy đến Nước-hai và Song-Hiem
(Sông Hiến) chảy đến Cao Bằng; ở tả ngạn có sông Trà Lĩnh và
Song-ba-Vong (Sông Bắc Vọng) đổ nước vào gần Ta-lung (Tà Lùng). (2)
Song-kuei-Chum (Sông Quây Sơn): đáng chú ý do có nhiều thác nước, mà một
trong số đó là thác Bản Giốc, đạt đến độ cao 30 m, và là một trong
những “kỳ quan” của vùng này; sông này làm thành biên giới với Trung Hoa
trên một đoạn 20 km của dòng chảy. Sau đó, sông đổ nước vào sông
Tai-Ninh ở Trung Hoa.” (Annuaire général de l’Indo-Chine francaise 1911, p. 294)
2) Các sách hướng dẫn du lịch Đông Dương:
Sách hướng dẫn du lịch Indochine du Nord của Madrolle, xuất bản năm 1932, phần lộ trình từ Cao Bằng đến Ban-Cra ghi :

“82 km, Bản Giốc, nằm cạnh
các thác nước Tu-tong (2km) mà mức chênh lệch là 34 mét. Các thác nước
hùng vĩ trong mùa mưa (từ tháng 6 đến tháng 9). Lòng sông tạo thành biên
giới giữa Bắc Kỳ và Trung Hoa cho đến tận đồn Li-ban. Nhà trọ
(bungalow) trong đồn gác cũ.”[13]
Nếu so sánh cuốn hướng dẫn
du lịch này của Madrolle với một cuốn được xuất bản trước đó (năm 1924),
chúng ta có thể thấy một số thay đổi: nếu vào năm 1924, Bản Giốc còn là
một đồn lính (poste militaire) thì đến năm 1932, đồn này đã bị hủy bỏ,
cơ sở cũ của đồn lính được sử dụng để làm nhà trọ (bungalow) cho du
khách. Một chi tiết khác cũng được điều chỉnh: mức chênh lệch
(dénivellement) về cao độ được ghi là 25m (1925) về sau được ghi là 34 m
(1932).
Cần chú ý chi tiết “lòng
sông nơi đây làm thành biên giới (le lit de la rivière constitue ici la
frontière…). Điều này có nghĩa là lòng sông từ phía hạ lưu của thác làm
thành đường biên giới, chứ không có hề có chuyện biên giới giữa hai nước
bắt đầu từ cồn Pò Thoong hay thác Bản Giốc. Việc chia cồn Pò Thoong ở
thượng lưu của thác để lấy đó làm căn cứ chia đôi thác Bản Giốc chỉ là
sản phẩm của các nhà ngoại giao thời cộng sản nhằm che giấu chuyện Trung
Hoa cộng sản xâm chiếm thắng cảnh thiên nhiên này.
Trong một cuốn sách hướng dẫn du lịch khác của Taupin (Guide touristique général de l’Indochine – Guide alphabétique Taupin, Édition G. Taupin & Cie, Hanoi 1937), chúng ta thấy thác Bản Giốc được giới thiệu như sau:

– Bản Giốc (Tỉnh Cao Bằng, Đệ nhị quân khu) – BẮC KỲ: 150 dân. Khoảng cách:
Bancra, 11km; Cao Bằng, 78 km; Trùng Khánh Phủ, 26 km. (Đường bộ ô-tô
có thể đi được). Dịch vụ ô-tô hàng ngày đi Cao- Bằng, Trùng Khánh Phủ –
qua ngả Quang-Yen (đúng ra là Quảng Uyên). Không có khách sạn nhưng đồn
cũ ở Bản Giốc có thể cung cấp một chỗ trọ tuyệt hảo. Xem: Bản-Giốc (hang động và thác nước), xưa kia là nơi trú ẩn của dân khi bị bọn cướp vây hãm. Du ngoạn:
Các hang động dài 4 km, dòng nước ngầm, nhũ đá (thạch nhũ,
stalactites), măng đá (stalagmites), cách 3 km, đường mòn dành cho lừa
ngựa. Thác “Song-Kouei-San” (sông Quây Sơn) rộng 65 m, cao 40 mét (cách
Bản Giốc 2km). [sđd, trang 18]
Ngoài ra còn có một số chi tiết về tỉnh Cao Bằng (thuộc Đệ nhị quân khu) có liên quan đến Bản Giốc:
“Săn bắn: Vùng này
có nhiều thú săn, ngoại trừ vùng phụ cận tiếp giáp (thị xã) Cao Bằng là
nơi mà thú rừng bị săn quá mức; nhưng địa hình hiểm trở thường khiến cho
việc săn bắn trở nên cực nhọc. Vùng thuận lợi nhất là Trùng Khánh Phủ –
Bản Giốc: có rất nhiều gà, chim trĩ, đa đa. Có những thú dữ như gấu –
khá nhiều trên khắp cả vùng này, beo và một ít cọp ở Pia-Ouac. Cá: Những
dòng sông có nhiều cá, ngoại trừ vùng mỏ là nơi mà các nhà máy rửa
quặng làm ô nhiễm dòng nước. Cá nói chung là tuyệt hảo. Phương pháp đánh
cá bằng chim cốc (pêche au cormoran) được thực hành trên sông Bằng
Giang. Sông Quây Sơn – ở vùng phụ cận của Bản Giốc, có một loài cá được
sưu tầm đặc biệt và được đánh giá rất cao vì thịt ngon và thơm – nhờ vào
một vài loại cỏ mà theo lời thổ dân, chỉ mọc ở nơi này.” (sđd, trang 49)
3) Tài liệu của Chính quyền Bảo hộ tại Bắc Kỳ (Protectorat du Tonkin):
Trong Báo cáo về tình hình hành chính, kinh tế và tài chính của Bắc Kỳ trong giai đoạn 1934-1936, có
một đoạn đề cập đến các biện pháp bảo vệ các di tích, thắng cảnh thiên
nhiên: cấm dán các bích chương hay các bảng quảng cáo, khai thác hầm mỏ
hay mỏ đá và nói chung là tạo ra một sự sửa đổi nào đó đối với tự nhiên
hay tình trạng của các địa điểm đã được xếp hạng – trong đó có các hồ Ba
Bể, vịnh Hạ Long, các hang động và thác ở Bản Giốc. Các biện pháp này
đã được thiết lập bởi sắc lệnh ký ngày 15-11-1930 của Toàn quyền Đông
Dương và được áp dụng vào lãnh thổ của Bắc Kỳ bởi một nghị định của
Thống sứ Bắc Kỳ (Résident Supérieur du Tonkin) ký ngày 30-5-1932. (Rapport sur la situation administrative, économique et financière du Tonkin durant la période 1935-1936, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoi, 1936, p. 25)
4) Tài liệu tiếng Việt:
Hội Giáo dục hỗ tương Bắc Kỳ (Société d’enseignement mutuel du Tonkin) là một hiệp hội được thành lập trong thập niên 1920. Hội này còn có tên tiếng Việt là Hội Trí tri, Chủ tịch là học giả Phạm Quỳnh. Hội có xuất bản một tập san có tên là Bulletin de la Société d’enseignement mutuel du Tonkin, phát hành 3 tháng một lần, trong đó đăng các bài viết bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Việt.
Bắt đầu từ số 3 tập IV
(tháng 7-tháng 9 năm 1923) cho đến số 4 tập V (tháng 10-tháng 12 năm
1924), tập san này đăng một loạt bài viết nhan đề “Địa dư các tỉnh Bắc
Kỳ” của ba tác giả Đỗ Đình Nghiêm , Ngô Vi Liễn và Phạm Văn Thư. Trong
phần nói về tỉnh Cao Bằng, có đề cập đến sông Quây Sơn và thác Bản Giốc.[14] Loạt
bài viết nói trên về sau được xuất bản thành một tập sách, được Hội
đồng duyệt sách duyệt y cho phép dùng trong các trường Pháp-Việt. Đoạn
trích sau đây dựa trên cuốn Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ của ba tác giả
nói trên, bản in lần thứ tư (nhà in Lê Văn Tân, Hà Nội 1930, 144
trang), với lời tựa của Phạm Quỳnh – chủ bút tạp chí Nam Phong:
“Sông ngòi: Trong
tỉnh có hai con sông là: (1) Sông Bằng Giang ở bên Tàu chảy sang qua Sốc
Giang, Nước-Hai và Tà-Lùng. Chi lưu sông ấy thì về tả ngạn có sông
Tse-Lao chảy về Nước-Hai, và sông Hiến chảy về Cao Bằng, về hữu ngạn thì
có sông Trà Lĩnh và sông Bắc Vong. (2) Sông Quây Sơn, có nhiều thác lắm
mà cái lạ nhất là thác Bản-Giốc, cao 30 thước tây. Con sông ấy phân địa
giới với nước Tàu trong một khoảng dài đến 20 km rồi chảy vào sông
Tai-Ninh bên Tầu.”[15] (sđd, trang 122)
Ngoài ra, sách còn liệt kê 8
thắng cảnh (7 hang động và một thác nước) của tỉnh Cao Bằng, trong đó
có hai thắng cảnh thuộc khu vực thác Bản Giốc: “(I) Hang Bản-Giốc: Ở
cách Trùng Khánh Phủ 23 km. Hang dài 4 thước tây, có nhũ đá đẹp lắm;
(II) Thác Sông Quây Sơn: Thác này bề ngang đo được 65 thước tây, cao 40
thước tây, cách đồn Bản-Giốc 2km.” (sđd, trang 125).
5) Báo chí: Thác Bản Giốc đã được đề cập nhiều trên báo chí. Chỉ xin nêu vài tài liệu tiêu biểu sưu tầm được:
5.1. Les Annales politiques et littéraires (Biên niên chính trị và văn học):
Từ số 2312 đến số 2315 (năm
1928) có đăng bài du ký nhiều kỳ “L’Indochine en zigzags” của nhà văn
Pierre Billotey. Trong phần cuối của bài viết đăng trên số 2315 (1er
Août 1928) có đoạn tả cảnh thác Bản Giốc (trang 118) và kèm theo là một
tấm ảnh chụp thác Bản Giốc (trang 119).
- Hình 10 : Tạp chí Les Annales politiques et littéraires số 2315 : trang bìa, đoạn văn tả thác Bản Giốc và tấm ảnh chụp thác Bản Giốc
5.2. Tạp chí của hãng hàng không Air France:
Chúng ta đều biết Air France là hãng hàng không lớn nhất của nước Pháp. Tạp chí Air-France Revue số
mùa xuân năm 1950 đã được dành để giới thiệu tài nguyên và thắng cảnh
của các nước nằm trong Lãnh thổ hải ngoại (Territoires d’Outre-Mer) của
Liên hiệp Pháp (Union française). Trong bài viết “L’économie
indochinoise” (Kinh tế Đông Dương) của André Surmer (trang 157-161), có
đăng tấm ảnh chụp thác Bản Giốc (xem hình 11).

Thay lời kết:
Tất cả những tài liệu vừa giới thiệu trên đây được tìm thấy trong Thư viện Quốc gia Pháp (Bibliothèque nationale de France, BNF) – thư viện lớn nhất của nước Pháp. Nhờ Thư viện số hóa Gallica[16],
ngày nay ở bất cứ nơi nào trên thế giới, chúng ta cũng có thể tiếp cận
được các tài liệu quý giá này. Những tài liệu này được xuất bản từ cuối
thế kỷ 19 (sau khi đã phân giới cắm mốc dựa theo các công ước
Pháp-Thanh) cho đến năm 1950, chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với
toàn bộ thác Bản Giốc. Chúng ta có thể tin rằng: các chính phủ Trung Hoa
suốt từ thời nhà Thanh cho đến thời Trung Hoa Dân quốc không hề có chút
yêu sách nào đối với thác Bản Giốc. Vì vậy, mâu thuẫn về chủ quyền đối
với thác Bản Giốc và cồn Pò Thoong thật sự chỉ xảy ra giữa hai đảng
cộng sản Trung Quốc và Việt Nam – khi hai đảng này nắm chính quyền ở lục
địa Trung Hoa và miền Bắc Việt Nam.
Từ đó nảy sinh một số câu
hỏi: (1) Tại sao từ chỗ “thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc về Việt Nam” lại
dẫn đến sự tranh chấp khiến cho ngày nay Việt Nam mất phần lớn cồn Pò
Thoong và một nửa thác Bản Giốc? (2) Tại sao phía Việt Nam “thừa bằng
chứng lịch sử” để chứng minh chủ quyền đối với thác Bản Giốc rốt cục lại
“thiếu bằng chứng pháp lý” trong cuộc đàm phán về biên giới trên bộ,
dẫn đến việc mất một nửa thác Bản Giốc về tay ngoại bang?
Trong phạm vi của bài viết
này, tôi không đi sâu phân tích hai vấn đề nêu trên, mà chỉ muốn chứng
minh một sự thật khách quan là: thác Bản Giốc hoàn toàn nằm trong lãnh thổ của nước Việt Nam, thuộc quyền sở hữu của nhân dân Việt Nam. Bất cứ ai làm
mất một phần thác Bản Giốc về tay ngoại bang đều phải chịu trách nhiệm
trước lịch sử, trước các thế hệ người Việt trong tương lai.
Mặt khác, những tài liệu đó
cho thấy lời nói của ông Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị là hoàn toàn
giả dối, không đáng tin cậy. Bởi lẽ nếu “Trung Quốc không giành một tấc
đất nào không thuộc chủ quyền của Trung Quốc” thì tại sao một nước lớn
như Trung Quốc lại thèm thuồng một cái thác nhỏ như thác Bản Giốc – thậm
chí một nửa thác cũng quyết giành lấy ? Hay chúng ta phải hiểu lời nói
của ông Vương Nghị theo cách khác: Trung Quốc không thèm giành một
tấc đất nào của nước khác nếu tấc đất ấy không có giá trị; nhưng đối với
những mảnh đất có ý nghĩa lịch sử, có giá trị về kinh tế hay quân sự
thì dù chỉ là một tấc, Trung Quốc cũng quyết tâm giành cho bằng được.
Áp dụng ý tưởng ấy vào
trường hợp của Biển Đông, chúng ta lại càng thấy rõ hơn: Trung Quốc (tức
Trung Hoa cộng sản) sẵn sàng làm mọi cách để giành được không phải chỉ
“một tấc lãnh hải hay hải đảo”, không phải chỉ “quần đảo Hoàng Sa” hay
“bãi đá ngầm Gạc Ma” mà còn đang âm mưu khống chế toàn bộ Biển Đông. Nếu
không giành được bằng mưu ma chước quỷ thì họ sẵn sàng dùng chính sách
pháo hạm (gunboat diplomacy) – cái chính sách mà suốt thế kỷ 20 họ đã
nhân danh “phong trào giải phóng dân tộc”, nhân danh “thế giới thứ ba”
lớn tiếng tố cáo từ “chủ nghĩa thực dân cũ” cho đến “chủ nghĩa thực dân
mới”.
Cho hay: lịch sử càng diễn
biến thì người ta càng nhìn rõ: đâu mới thật sự là “chủ nghĩa thực dân
giấu mặt”? Đâu mới thật sự là “sự thống trị của nước lớn đối với các
nước nhỏ”?
Đà Lạt ngày 19-3-2014
© Mai Thái Lĩnh
Ghi chú:
[1] Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị nói về vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, china.com 9-3-2014: http://vietnamese.china.com/news/china/808/20140309/46568.html
[2] Le commandant P. Famin, Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-Si, Ed. Augustin Challamel, Paris, 1895.
[3] Pierre
Paul Famin (1855-1922) được phong quân hàm thiếu tướng (général de
brigade) vào năm 1902 và trung tướng (général de division) vào năm 1905.
[4] Vào lúc này, Khu quân sự thứ hai bao gồm hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và một phần của tỉnh Thái Nguyên.
[5] Nguyễn Ngọc Giao, “Từ Nam Quan đến Bản Giốc”, Diễn Đàn số 129, tháng 5/2003.
[6] Từ
Indo-Chine theo nghĩa rộng có nghĩa là bán đảo Trung-Ấn, dùng để chỉ
toàn bộ vùng Đông Nam Á, nằm giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Theo nghĩa hẹp,
Indochine dùng để chỉ Đông Dương thuộc Pháp (Indochine française), bao
gồm ba nước Việt Nam, Lào và Kampuchea.
[7] Isabelle Massieu, Comment j’ai parcouru l’Indo-Chine, Librairie Plon, Paris 1901, pp. 338-339.
[8] Revue de géographie, tome XLVIII, Janvier-Juin 1901, pp. 283-299.
[9] Colonel E. Diguet, Les montagnards du Tonkin, Ed. Agustin Challamel, Paris 1908.
[10] Paul Marabail, Étude sur le cercle du Cao-Bang, Thèse de doctorat d’université présentée à la Faculté des Lettres de Paris, Ed. Émile Larose, Paris 1908.
[11] Vào thời đó, vùng thượng du Bắc Kỳ được chia thành các khu quân sự (territoire militaire), mỗi khu quân sự bao gồm một số hạt (cercle), mỗi hạt lại được chia thành các khu vực (secteur).
Cao Bằng là một hạt (cercle de Cao-Bang) nằm trong Khu quân sự thứ hai.
Trong tiếng Việt thời đó, khu quân sự thường được dịch là Đạo quan binh.
[12] Thật ra, Si-Kiang (Tây Giang) chỉ là một trong ba nhánh của sông Châu Giang (tức sông Quảng Đông) – mặc dù là nhánh lớn nhất.
[13] Indochine du Nord, Guides Madrolle, 3è édition, Société d’éditions géographiques, Paris 1932, p. 97.
[14] Bulletin de la Société d’enseignement mutuel du Tonkin, Tome V, No 4, Octobre-Décembre 1924, pp. 557-560.
[15] Trong
bản này, nhiều tên sông đã được hiệu đính – so với bản in trên tạp chí.
Riêng tên Tse-Lao, một số tài liệu khác ghi là Tse-Rao, người Việt gọi
là sông Giẻ Rào hay Dẻ Rào.
| |
| Vietsciences- Mai Thái Lĩnh 16/02/2012 |

Ảnh1: Bản đồ huyện Thượng Lang – Cao Bằng thời Pháp thuộc.
Hai chữ Ban Gioc trên bản đồ là “làng” Bản Giốc ở gần thác nước.
Kỳ 1 – AI LÀ CHỦ NHÂN THỰC SỰ CỦA THÁC BẢN GIỐC?
Vào những tháng cuối năm 2011, “Thác Bản Giốc” bỗng nhiên lại trở thành đề tài hàng đầu của báo chí trong nước. Điều khiến cho các nhà báo cảm thấy bức xúc là tình trạng mất cân đối giữa hai bên: trong khi ngành du lịch Trung Quốc thu hút được gần một triệu du khách hàng năm nhờ vào thắng cảnh này thì về phía Việt Nam, số lượng du khách đến thăm Thác Bản Giốc chỉ vào khoảng 30 ngàn. Nhiều lý do đã được nêu ra để lý giải: do cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, do “Hiệp định hợp tác khai thác tài nguyên du lịch thác Bản Giốc” chưa được ký kết, v.v. Thậm chí, trên báo Thanh Niên, các phóng viên còn biểu lộ lòng yêu nước bằng cách phê phán các báo phương Tây (như trang mạng News.com.au của Úc hay tạp chí Life của Mỹ) đã “xâm hại nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ Việt Nam” khi chú thích ảnh chụp Thác Bản Giốc là “Detian Falls, China” (Thác Đức Thiên, Trung Quốc) [1].Vấn đề đặt ra là: tại sao trong khi chưa ký kết “hiệp định hợp tác”, phía Trung Quốc vẫn có thể tiến hành khai thác du lịch một cách có hiệu quả không cần đến sự hỗ trợ của phía Việt Nam? Ngược lại, tại sao phải cần đến một “hiệp định hợp tác” thì Thác Bản Giốc của nước ta mới có thể “cất cánh”? Hơn thế nữa, tại sao Thác Bản Giốc lại trở thành Thác Đức Thiên, tại sao một thác nước trước đây được coi là của riêng Việt Nam nay lại trở thành “thác nước chung” của hai quốc gia? Trên báo chí hợp pháp (thường được gọi là báo chí “lề phải”), chưa thấy ai đặt ra những câu hỏi tương tự. Nhưng đó lại là những câu hỏi quan trọng cần được giải đáp nghiêm túc trước khi trả lời câu hỏi “ai mới thật sự là kẻ xâm hại nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ Việt Nam?”.
1. Thác Bản Giốc có gì lạ?
Thác Bản Giốc là một thắng cảnh nổi tiếng của nước ta ở vùng biên giới Việt – Trung. Vào thời nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc, thác này nằm trong địa phận của huyện Thượng Lang, ngày nay thuộc huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Trên các bản đồ của vùng này, vị trí của thác nước thường không được ghi rõ; hai chữ “Bản Giốc” được nhìn thấy trên bản đồ thật ra nhằm để chỉ một bản (làng) của người Tày ở gần thác nước chứ không nhằm chỉ vị trí của thác nước (Ảnh 1).Điều gì làm cho Thác Bản Giốc trở thành đặc sắc so với tất cả các thác nước trên toàn cõi Việt Nam? Trong cuốn Thiên nhiên Việt Nam (ấn bản năm 1977), nhà địa lý học Lê Bá Thảo đã miêu tả Thác Bản Giốc như sau: “Sông Quây Sơn ở phía bắc Thượng Lang sau khi chảy qua một vùng đá vôi rộng lớn đến Bản Giốc thì đổ vào khu vực đá phiến tạo thành ba bậc thác nước chênh nhau đến 34 m. Vào mùa lũ (từ tháng 5 đến tháng 9), nước từ các hốc ngầm đá vôi ở thượng lưu tuôn đến đổ xuống các bậc tung bọt nước trắng xóa, làm đoạn thung lũng ở phía dưới thác mở ra rất rộng. Đứng trên bãi cát ven sườn thung lũng, người ta có cảm tưởng bị vây quanh bởi những bức tường nước đồ sộ nhưng chúng không hề gây cho chúng ta cảm giác sợ hãi. Trái lại, phong cảnh lại cực kỳ đẹp đẽ và bình dị” [2]. “Ba bậc thác nước chênh nhau đến 34 m” chính là vẻ đẹp cốt lõi của Thác Bản Giốc, làm cho nó khác hẳn tất cả các thác nước khác ở nước ta.

Ảnh 2: Toàn cảnh Thác Bản Giốc vào mùa nước
cạn. Bờ nam (hữu ngạn) của sông Quây Sơn là lãnh thổ của Việt Nam. Bờ
bắc (tả ngạn) ngày nay thuộc lãnh thổ của Trung Quốc.
Nếu nhìn một cách toàn diện, Thác Bản Giốc bao
gồm hai phần. Phần thác chính ở phía bắc là “ba bậc thác nước chênh nhau
đến 34m” như trên vừa nói - tạm gọi là “thác ba tầng”; phần thác phụ ở
phía nam là “ba dòng thác” đổ từ trên cao xuống tương tự những thác
thường thấy trong khắp cả nước, không có gì đặc sắc. Vào mùa nước lớn,
khi nước chảy tràn trề, người ta có thể nhìn thấy rõ ba dòng thác làm
nên thác phụ; nhưng đến mùa khô, nơi đây chỉ còn các dòng nước teo tóp
đổ vào một vũng nước hẹp. Vì thế có thể nói phần thác chính mới là “linh
hồn” của Thác Bản Giốc. Những hình ảnh ngày xưa thường thấy trên các
sách ảnh hay lịch treo tường thường là ảnh của phần thác chính. Do đó
trước đây mỗi khi nghe nói đến Thác Bản Giốc, ít ai biết đến phần thác
phụ. Điều đáng nói hơn cả là: vẻ đẹp của Thác Bản Giốc – dù là thác
chính nói riêng hay toàn bộ hai phần của thác, chỉ thể hiện một cách
trọn vẹn khi được nhìn ngắm từ chính diện hay từ phía “bờ bên kia”, tức
là bờ phía bắc (tả ngạn sông Quây Sơn). Từ bờ Nam (hữu ngạn), chúng ta
không thể nhìn thấy toàn cảnh của hai phần thác. Nếu chịu khó đi ra tận
doi đất ven sông ở hạ lưu, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy “thác ba tầng”,
nhưng chỉ có thể nhìn nghiêng chứ không thể nhìn được chính diện (ảnh
3).

Ảnh 3: Dòng chính của Thác Bản Giốc nhìn từ doi đất ở hữu ngạn thuộc lãnh thổ Việt Nam
Như vậy, không cần phải là chuyên gia về du
lịch, chúng ta cũng có thể thấy ngay được sự thật: ai sở hữu được bờ bắc
(tả ngạn sông Quây Sơn) sẽ nắm được thế thượng phong trong khai thác du
lịch vì từ phía này, người ta có thể nhìn thấy toàn cảnh của thác (kể
cả hai phần chính và phụ), có thể đi ngược dòng sông bằng thuyền bè đến
tận chân thác, thậm chí có thể trèo lên tận đỉnh thác để ngắm cảnh, chụp
ảnh... Trong khi đó, người nắm giữ bờ phía nam không thể giúp du khách
nhìn ngắm tất cả các vẻ đẹp của thác – trừ khi phải nhờ cậy phía bên
kia.Kể từ khi sở hữu được bờ bắc của sông Quây Sơn, nhà cầm quyền Trung Quốc đã đưa Thác Bản Giốc vào danh sách các điểm du lịch với cái tên mới là Đức Thiên (德天 , Detian). Theo lộ trình thông thường, các du khách đi từ phía Trung Quốc sẽ được chở bằng xe ca đến một địa điểm ở phía đông-nam của thác. Sau đó du khách sẽ đi bộ một quãng đường và trên đường đi, họ có thể chụp được các tấm ảnh toàn cảnh đẹp như tranh vẽ – kể cả phần thác phụ nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Du khách cũng có thể dùng bè để đi đến chân thác.

Ảnh 4: Hình ảnh thơ mộng chụp từ phía Trung Quốc

Ảnh 5: Du khách dùng bè để đi đến chân thác
Một lợi thế khác của bờ bắc là du khách có thể
trèo lên thượng nguồn, mua sắm ở chợ trời biên giới để rồi sau đó trở
lại phía hạ lưu, không cần phải sang bờ phía nam.Tóm lại, phía Trung Quốc có thể tự mình khai thác du lịch ở thắng cảnh này. Ngược lại, nếu muốn khai thác du lịch có hiệu quả, lôi kéo được khách quốc tế, phía Việt Nam buộc phải nhờ vả ông bạn “16 chữ vàng”, mà đã nhờ vả thì đương nhiên phải chấp nhận các điều kiện do phía bên kia đặt ra.

Ảnh 6: Thác Bản Giốc: đường lên thượng nguồn từ bờ bắc.
Việc Trung Quốc nắm được ưu thế trong kinh
doanh du lịch ở khu vực Thác Bản Giốc không cần đến Việt Nam đã mặc
nhiên bác bỏ luận điệu của các nhà ngoại giao khi cho rằng “trong việc
phân chia, ta vẫn được phần nhiều hơn vì được toàn bộ phần thác phụ cộng
với một nửa phần thác chính”. Thật ra, cách lập luận này của ông Vũ
Dũng (Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) vào năm 2009 chỉ là một sản phẩm của
thuật ngụy biện nhằm lừa dối dư luận. Nếu xem xét Thác Bản Giốc như một
thắng cảnh đẹp, một tài nguyên thiên nhiên thì vấn đề chính không phải
là giữ được phần nhiều hơn (toàn bộ thác phụ cộng với một nửa của thác chính), bởi vì phần bị mất đi (nửa thác chính) tuy ít hơn, nhưng cộng với toàn bộ bờ bên trái sông Quây Sơn lại chính là phần đẹp nhất, phần quan trọng nhất
của thắng cảnh. Bài toán chủ quyền không chỉ đơn thuần là một bài toán
cộng trừ như ông Vũ Dũng (và những người lãnh đạo ở phía sau) đã “tính
toán”. Đó là chưa kể đến giá trị của bờ bắc (tả ngạn) sông Quây Sơn xét
về mặt quốc phòng, giá trị mà không có bài toán số học nào có thể lấp
liếm được, như chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần sau.
2. Tại sao phải chia một phần Thác Bản Giốc cho Trung Quốc?
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn dành cho Thu Uyên (phóng viên của trang mạng VASC Orient) [3] vào đầu năm 2002, ông Lê Công Phụng (lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) đã phát biểu như sau:“Ông LCP: Về thác Bản Giốc, thì đây là điều rất phức tạp. Chúng tôi cũng rất lạ là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là của Trung Quốc. Còn đối với chúng ta, thác này đã đi vào sử sách, nhất là sách giáo khoa của học sinh, thành di tích, điểm du lịch được nhiều người ưa chuộng. Đây là điều mà chúng tôi rất khó hiểu, bởi lẽ trong công ước giữa nhà Thanh và Pháp, thác Bản Giốc chỉ thuộc về chúng ta có 1/3 thôi; và theo thực trạng cột mốc được cắm từ thời nhà Thanh, thì chúng ta cũng chỉ được 1/3 thác.
VASC Orient: Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh?
Ông LCP: Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta. Theo quy định quốc tế, khi phân giới cắm mốc thì thác được coi như một dòng sông, một dòng suối. Đã là sông suối thì đường biên giới đi qua luồng chính, tức là chỗ tàu thuyền đi lại được. Còn đối với sông suối nơi tàu thuyền không đi lại được, thì đường biên giới phải đi theo rãnh sâu nhất.
VASC Orient: Chẳng nhẽ tất cả các khách du lịch, trong đó có những người có trách nhiệm, đi thăm thác Bản Giốc mà không phát hiện ra cột mốc nằm đó hay sao?
Ông LCP: Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi chúng tôi khảo sát thì mới thấy cột mốc nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối, cách đấy khoảng mấy trăm thước. Vì vậy nên cũng không mấy ai quan tâm đến cột mốc ở thác Bản Giốc.
Trước tình hình như vậy, chúng tôi nghĩ rằng trong đàm phán phải hợp lý, thỏa đáng phù hợp với mặt pháp lý. Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh - Pháp, căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả. Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn được. Lẽ ra theo thực tiễn thì chúng ta chỉ được 1/3. Nhưng sau đàm phán, chúng ta và bạn đã thỏa thuận thác Bản Giốc được chia đôi, mỗi bên được 50%. Hiện nay cả 2 bên đang tiến hành khai thác du lịch phía bên mình.
Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc” [4].
Tóm lại, theo ông Lê Công Phụng, do phát hiện một cột mốc “nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối” cách Thác Bản Giốc “khoảng mấy trăm thước”, cho nên đoàn đàm phán của Việt Nam mới phải tính toán lại chủ quyền đối với Thác Bản Giốc.

Ảnh 7: Bản đồ khu vực 186 C (vùng tranh chấp ở Cồn Pò Thoong)
Tấm bản đồ 186 C về khu vực tranh chấp cồn Pò Thoong được công bố trên báo Diễn đàn
của Việt kiều tại Pháp vào năm 2002 (xem ảnh 7). Được giới thiệu là
“tài liệu mật” rò rỉ từ Thường trực Bộ Chính trị ĐCSVN, tài liệu này
nhằm giải thích lý do tranh chấp giữa hai bên. Vì “phát hiện” ra cột mốc
53 cho nên dựa theo “luật pháp quốc tế”, đường biên giới phải chạy ở
phía nam cồn Pò Thoong dựa vào trung tuyến của dòng chảy chính và như
thế, toàn bộ cồn Pò Thoong phải thuộc về Trung Quốc; phía Việt Nam chỉ
được 1 phần 3 của thác chính.Theo giải thích chính thức đăng trên Tạp chí Cộng sản thì sau nhiều lần đàm phán gay go, hai bên đã đạt thỏa thuận: “Đường biên giới đi từ mốc 53 (cũ) lên cồn Pò Thoong rồi đến điểm giữa của mặt thác chính. Như vậy, toàn bộ thác phụ và 1/2 thác chính quy thuộc Việt Nam. Hai bên cũng thoả thuận sẽ bàn bạc việc hợp tác phát triển tiềm năng du lịch tại Thác Bản Giốc” [5].
Nhìn vào tấm bản đồ do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố (ảnh 8), chúng ta thấy đường biên giới được vạch từ cột mốc số 835 (là cột mốc mới thay cho cột mốc 53 trước đây) đi qua cồn Pò Thoong (trong ảnh ghi là cồn Pò Đon) đến điểm giữa của thác chính (thác ba tầng) và sau đó đường biên giới chạy theo trung tuyến của dòng sông Quây Sơn. Để giải quyết tranh chấp theo cách phân chia phức tạp đó, từ cột mốc 835 còn sinh ra thêm nhiều cột mốc phụ: cột mốc phụ 835/1 nằm sát bờ sông, cột mốc phụ 835/2 nằm trên cồn Pò Thoong và hai cột mốc phụ ở hạ lưu: 836 (1) nằm ở tả ngạn trên lãnh thổ Trung Quốc và 836 (2) nằm trên doi đất thuộc lãnh thổ Việt Nam (giữa thác chính và thác phụ).

Ảnh 8: Sơ đồ Thác Bản Giốc và đường biên giới mới
Nhưng tại sao cồn Pò Thoong lại bị chia cắt
theo công thức “1 phần 4 thuộc về Việt Nam, 3 phần 4 thuộc về Trung
Quốc”? Ông Nguyễn Hồng Thao, Phó giáo sư Tiến sĩ, thành viên đoàn đàm
phán, giải thích như sau: “Tại khu vực thác Bản Giốc, theo quy định của
Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế, đường biên giới đi theo
trung tuyến dòng chảy phía Nam cồn Pò Thoong, hai bên đã điều chỉnh
đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích trạm thủy văn xây
dựng những năm 1960, quy thuộc 1/4 cồn, 1/2 thác chính và toàn bộ thác
cao cho Việt Nam” [6]. Điều đó có nghĩa là: đáng lẽ “theo quy định của Hiệp ước 1999, luật pháp và thông lệ quốc tế” thì cồn Pò Thoong (rộng khoảng 2,6 hec-ta) hoàn toàn thuộc về Trung Quốc, nhưng do “ta đã đấu tranh quyết liệt và bạn đã nhân nhượng”, cho nên hai bên mới điều chỉnh đường biên giới để Việt Nam còn sở hữu được 1 phần 4 cồn. Nhưng điều kỳ lạ là trên cồn Pò Thong còn có “dấu tích Trạm thủy văn xây dựng vào những năm 1960”. Trạm thủy văn này do ai xây dựng; kẻ xây dựng đó là kẻ lấn chiếm hay là kẻ sở hữu cồn Pò Thong? Không thấy ai giải thích rõ điều này.

Ảnh 9: Cách phân chia lại Thác Bản Giốc
Có một chi tiết cho thấy cách tư duy và lập
luận rất kỳ lạ của các nhà ngoại giao Việt Nam: phần thác chính (ba
tầng) được gọi là “thác thấp”, phần thác phụ (ba dòng) lại được gọi là
“thác cao”. Độc giả có thể nhìn vào ảnh 9 để thấy giữa “thác cao” ở phía
trái và “thác thấp” ở phía bên phải, bên nào cao hơn bên nào?3. Ai là chủ nhân thật sự của Thác Bản Giốc?
Như trên đã dẫn, ngay cả ông Lê Công Phụng cũng cảm thấy khó hiểu: “Chúng tôi cũng rất lạ là trong sách sử của chúng ta và Trung Quốc từ năm 1960 đến nay, không ai nói thác Bản Giốc có phần là của Trung Quốc. Ngay Trung Quốc cũng không nói đấy là của Trung Quốc”. Điều làm chúng ta ngạc nhiên là nếu thật sự cảm thấy “khó hiểu”, tại sao các nhà ngoại giao lại không tham khảo ý kiến của giới trí thức?Nếu xét về tài liệu thì chúng ta hoàn toàn có đủ cơ sở để chứng minh toàn bộ Thác Bản Giốc là của Việt Nam. Chỉ xin dẫn chứng một số tài liệu sau đây:
1) Trước hết là tài liệu của nhà địa lý học Lê Bá Thảo. Trong cuốn sách Thiên nhiên Việt Nam đã dẫn (ấn bản 1977), tại trang 78, có đăng tấm ảnh chụp cảnh Thác Bản Giốc nhưng chỉ chụp thác chính, tức thác ba tầng (xem ảnh 10).

Ảnh 10: Ảnh Thác Bản Giốc in trong sách của ông Lê Bá Thảo
Điều đáng chú ý là dòng ghi chú bên dưới: “Trên
sông Quây Sơn ở ngay biên giới”. Nhìn vào tấm ảnh, chúng ta thấy ảnh
được chụp từ một doi đất nằm ở hạ lưu của thác chính phía bên bờ bắc (tả
ngạn sông Quây Sơn). Đây chính là bằng chứng cho thấy ở tả ngạn của
dòng sông phía dưới chân thác chính vẫn có một phần đất thuộc lãnh thổ
Việt Nam. Ngày nay phần đất này đã chính thức bị cắt cho phía Trung Quốc
cho nên người Việt không còn có thể đứng trên lãnh thổ của mình để chụp
những tấm ảnh tương tự.
Ảnh 11: Bản đồ Miền Đông Bắc (Lê Bá Thảo)
Cũng trong cuốn sách nói trên, có một bản đồ
“Miền Đông-Bắc” đăng ở trang 41 (ảnh 11). Nhìn vào tấm bản đồ này, chúng
ta thấy địa điểm Thác Bản Giốc nằm trong nội địa nước ta. Mặc dù đây
chỉ là một tấm bản đồ vẽ tay, nhưng một khi tác giả (vốn là một nhà địa
lý học nổi tiếng của miền Bắc) đã dám ghi vị trí của thác nước như thế,
chắc hẳn ông phải dựa vào tài liệu địa lý chính xác cùng với sự kiểm tra
thực địa. Vì vậy, có thể coi đây là một tài liệu đáng tin cậy.2) Tác giả Trương Nhân Tuấn ở hải ngoại tìm được một cuốn sách xuất bản năm 1895 có tên là Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si (Ở Bắc Kỳ và trên vùng biên giới Quảng Tây) của Thiếu tá Famin - Phó Chủ nhiệm Ủy ban cắm mốc biên giới Trung-Việt năm 1894 [7]. Tại trang 12 và 13 có đoạn viết về Thác Bản Giốc:
“Trong phần phía Bắc (của khu quân sự thứ hai, Deuxième Territoire) [8], dòng sông xinh đẹp mang tên Qui-Thuận chảy ngang qua đó theo hướng Phủ Trùng Khánh. Đây là một phụ lưu trực tiếp của sông Tây Giang (Si-Kiang). Dòng sông này rộng 60 m, đi vào đất Bắc Kỳ bằng cửa Ai Lung và ra khỏi nơi đây (để vào đất Trung Hoa) tại một điểm gần đồn Trung Hoa có tên Nam-Ton, sau khi đã tưới một thung lũng rộng lớn cực kỳ phì nhiêu.
Hai ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt qua một ghềnh đá và làm thành một thác nước tuyệt đẹp cao 40 m. Cột nước khổng lồ rơi ầm ầm xuống một bồn nước thứ nhất, từ đó nó nảy lên thành những chùm tia nước sủi bọt trên những bậc thang đá vôi nhẵn bóng. Vào mùa mưa, thác nước này trưng ra một dáng vẻ tuyệt vời, tiếng động của thác nước có thể nghe được từ xa và dội vào những vách núi nghe như tiếng sấm, trong khi những đám mây hơi nước hình thành ở vùng lân cận và tan ra thành một đám mưa nhỏ thật sự”.

Ảnh 12: Trích đoạn trang 12 – sách của Famin: sông Quây Sơn đợc ghi là Qui-Thuan
Trong đoạn văn này, cần chú ý đến câu: “Hai
ki-lô-mét trước khi rời đất Bắc Kỳ, dòng sông vượt qua một ghềnh đá và
làm thành một thác nước tuyệt đẹp cao 40 m”. Câu này cho thấy “thác nước
tuyệt đẹp” (tức Thác Bản Giốc) cách điểm dòng sông Qui Thuận (tức sông
Quây Sơn) rời lãnh thổ Việt Nam khoảng 2 km. Nói cách khác, ở bờ trái
(tả ngạn) của sông, có một dải đất dài khoảng 2 km thuộc lãnh thổ Việt
Nam. Như thế trong khoảng 2 km tính từ Thác Bản Giốc, đường biên giới
không thể là trung tuyến của dòng sông như “cách thức phân giới” mà các
nhà ngoại giao của hai nước đã “sáng tạo” ra dựa theo Hiệp ước 1999.Một điều đáng chú ý khác trong đoạn văn này: tên sông được ghi là Qui-Thuan (Qui-Thuận). Trong bài viết “Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây”, dựa trên tài liệu của nhà Thanh, ông Trương Nhân Tuấn cho biết sông Long (tức Tả Giang) có một phụ lưu tên là sông Qui Thuận và ở sát biên giới Việt Nam có một châu tên là Châu Qui Thuận 歸順州 [9]. Điều này phù hợp với Đại Nam Nhất Thống Chí, vì sách này cho biết giáp với Phủ Trùng Khánh về phía bắc là “châu Qui Thuận thuộc phủ Trấn Yên nước Thanh” [10]. Chúng ta có thể phỏng đoán: tên của dòng sông bắt nguồn từ tên của địa phương (châu Qui Thuận) – nơi phát nguyên của sông. Trong các bản đồ cũ, tên phiên âm la-tinh của sông Quây Sơn là Kouei Chouan; nhưng trong các tài liệu của Trung Quốc ngày nay, tên của dòng sông Quây Sơn là Guichun, 歸春河, đọc theo âm Hán-Việt là "Qui Xuân hà".
3) Trong số các bưu ảnh do nhà nhiếp ảnh Pierre Dieulefils chụp, chúng ta tìm thấy tấm ảnh mang số 832. Tấm ảnh này được ghi chú như sau: “TONKIN - Région de Cao-Bang – Cascade de Ban-Giot – Passage du gué par une compaghie de tirailleurs tonkinois” (BẮC KỲ - Vùng Cao Bằng - Thác Bản Giốc – Một đại đội lính bản xứ Bắc Kỳ lội qua sông).

Ảnh 13: Bưu ảnh 832 của Pierre Dieulefils:
Thác Bản Giốc - Một đại đội lính bản xứ Bắc Kỳ lội qua sông.
Nhìn vào tấm bưu ảnh (ảnh 13), chúng ta thấy
những người lính Việt dưới sự chỉ huy của một người Pháp đang lội qua
sông từ phía bên kia (tả ngạn) vào mùa nước cạn. Thác trong ảnh là thác
chính ba tầng chứ không phải thác phụ ba dòng. Điều này chứng minh bờ
phía bắc (tả ngạn sông Quây Sơn) ngay dưới chân thác là đất của Bắc Kỳ
(Việt Nam) chứ không phải đất của Trung Quốc, vì thế chỉ huy người Pháp
và binh lính người bản xứ mới có thể đi tuần tra bên kia bờ sông và từ
bên đó trở về.3) Trong bài viết “Tấc đất tấc vàng” được công bố vào năm 2005 [11], ông Hàn Vĩnh Diệp – một đảng viên ĐCS, cán bộ hưu trí, người đã từng nhiều năm công tác ở vùng Cao Bằng trước năm 1975, kể lại:
“Năm 1965 chúng tôi được tham gia đoàn khảo sát thực tế để biên soạn sách giáo khoa - Tập đọc cấp I của Khu giáo dục Khu tự trị Việt Bắc. Hai khu giáo dục ngoài nhiệm vụ biên soạn sách giáo khoa vở lòng - cấp I tiếng Thái, Mèo, Tày - Nùng; còn phải soạn cả sách giáo khoa Tập đọc tiếng Việt. Một trong những điểm khảo sát đợt ấy là Kênh Copáo và thác Bản Giốc thuộc huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng. Kênh Copáo lấy nguồn nước từ một đầm trũng bên kia biên giới Trung Quốc (huyện Tỉnh Tây, Quảng Tây) cho các cánh đồng phía Bắc huyện Trùng Khánh. (…) Đến thác Bản Giốc, chúng tôi sang cả bên bờ Bắc sông Quây Sơn, vào sâu hơn một cây số vẫn là làng bản dân ta”.
4) Trong bài báo đăng trên Vietnam Net đã được trích dẫn, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao – thành viên đoàn đàm phán, đã tiết lộ: trên cồn Pò Thoong vẫn còn “dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960”.

Ảnh 14: Cột mốc 53 cũ (bên trái) nằm cạnh cột mốc 835 mới (bên phải)
Nếu xem lại “bị vong lục” (hay còn gọi là giác thư, memorandum)
năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, chúng ta thấy có đoạn: “Tại khu
vực mốc 53 (xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy
Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh
cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976, phía Trung Quốc
đã huy động trên 2.000 người, kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng
rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh
thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng
bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm
phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và ngang nhiên nhận
cồn này là của Trung Quốc” [12].Như vậy, trạm thủy văn này rõ ràng là do phía Việt Nam xây dựng, bởi vì trước năm 1976, cồn Pò Thoong vẫn còn thuộc về lãnh thổ Việt Nam và “chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó”. Đây chính là một bằng chứng hùng hồn về chủ quyền của Việt Nam đối với cồn Pò Thoong.

Ảnh 15: Cột mốc phụ 835-1 nằm đối diện với cồn Pò Thoong
Việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm cồn Pò
Thoong vào năm 1976 và phá hủy trạm thủy văn ở nơi đó không thể che lấp
được sự thật: trước đó Việt Nam là chủ sở hữu của cồn này, và đương
nhiên là chủ sở hữu của toàn bộ Thác Bản Giốc. Toàn bộ hồ sơ về việc
thành lập và quá trình hoạt động của trạm thủy văn chính là một bằng
chứng về chủ quyền của Việt Nam. Điều này chứng tỏ cột mốc 53 nằm sai vị
trí, và việc nó bị dời đến địa điểm hiện nay là do phía Trung Quốc thực
hiện sau khi đã chiếm cồn Pò Thoong. Ngược lại, nếu khẳng định như ông Lê Công Phụng rằng cột mốc 53 đã tồn tại nơi đó (trước mặt cồn Pò Thoong) từ khi ký hiệp định Pháp-Thanh thì kẻ xâm chiếm cồn Pò Thoong, vi phạm hiệp định Pháp-Thanh chính là chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi cho xây dựng trạm thủy văn vào thập niên 1960. Khi công bố điều này, không lẽ ông Lê Công Phụng muốn chuẩn bị cho tình huống Đảng cộng sản Việt Nam sẽ công khai xin lỗi Đảng cộng sản Trung Quốc về việc xâm chiếm cồn Pò Thoong vào thập niên 1960?
Tóm lại, từ chỗ là một thác nước hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam, sau hiệp ước 1999 một phần thác chính lại trở thành sở hữu của Trung Quốc. Từ chỗ toàn bộ bờ phía bắc tính từ phía trên thác cho đến tận chân thác đều là của Việt Nam, ngày nay toàn bộ bờ bắc – tính từ cột mốc 835 mới cho đến hạ lưu, lại nằm trong lãnh thổ Trung Quốc. Sự thay đổi kỳ quặc này nhất định là có liên quan đến cái cột mốc số 53 gây bất ngờ nói trên.
Để hiểu rõ sự thật, chúng ta cần tìm hiểu cột mốc số 53, đúng hơn là vị trí của cột mốc 53. Phải chăng nó vẫn nằm ở vị trí đó từ khi có hiệp định Pháp-Thanh như các vị chức sắc Bộ Ngoại giao nước ta vẫn khăng khăng khẳng định? Hay nó là một thứ “cột mốc có chân” có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác theo thời gian?
4. Đâu là vị trí thật sự của cột mốc số 53?

Ảnh 16: Bản đồ Sông Quây Sơn
Nhìn vào tấm bản đồ trích từ Bản đồ giao thông năm 2004
(ảnh 16), chúng ta thấy dòng chính của sông Quây Sơn chảy vào lãnh thổ
Việt Nam tại một điểm gần cửa khẩu Pò Peo và rời lãnh thổ nước ta tại
một điểm gần cửa khẩu Lý Vạn. Điều đáng chú ý là tại một điểm ở gần Thác Bản Giốc, dòng sông lại trở thành đường biên giới (có nghĩa là trung tuyến của dòng sông chính là đường biên giới). Điểm đó
có liên quan đến cột mốc số 53, vì thế cột mốc này là căn cứ chủ yếu để
xác định chủ quyền đối với Thác Bản Giốc. Nói cách khác, nếu cột mốc
này bị dời đến một vị trí khác thì chủ quyền của Việt Nam đối với Thác
Bản Giốc sẽ bị ảnh hưởng.Trong khi sưu tầm tài liệu về Thác Bản Giốc, tác giả Trương Nhân Tuấn đã tìm được một số chứng cứ quan trọng liên quan đến vị trí của cột mốc số 53 [13]:

Ảnh 17: Trích biên bản Pháp–Thanh 19-6-1894
- Trước hết là biên bản Pháp-Thanh ký ngày
19-6-1894 trong đó xác định: cột mốc số 53 có tên là Pan-Ngô (Bách-Nga
Khẩu百峨口 ), được cắm “ bên lề một con đường, ở phía Tây-Nam và trên phần
nối dài của một khu rừng nhỏ” (Au bord du chemin et au SO et sur le
prolongement d’un petit bois). Cột mốc số 54 có tên là Lung Trang (Lũng
Tằng Sơn 隴曾山) được đặt tại vị trí “giữa chân của các núi đá và ranh giới
của các ruộng lúa phía trước mặt Ban Mong” (Entre le pied des rochers
et la limite des cultures en face Ban-Mong).- Cuốn “Nhật Ký của Trung Úy Détrie về đoạn biên giới từ Lũng-Ban đến Ðèo-Lương, nhân dịp đảm nhận việc cắm mốc (28-6-1894)”, trong đó có một đoạn xác định vị trí của các cột mốc, được trích dẫn như sau: “Après la porte de Dốc-Khánh la frontière est tracée à l’intérieur du massif rocheux, laissant au Tonkin de petit cirques peu importants débouchant dans Lung-Piac, près les deux cirques difficilement accessibles de Lung-Deng et Lung-Moi que traversent les chemins conduisant à Thin-Thang par Ai-Thin-Thap (56) et Lung-Moi (55) jusqu’à l’abornement, les habitants de Lung-Deng et Lung-Moi payaient l’impôt aux Chinois. La frontière regagne ensuite le pied des rochers en face du village de Ban-Mong (54) longe le pied de ces rochers et au pied du blockhaus chinois de Pia-Mu, suit la lisière d’un petit bois et coupe le chemin de Hang-Dong-Quan (53) pour atteindre la rivière qu’elle suivra jusqu’à Ly-Ban. Le chemin qui de la borne 53 conduit à Dốc-Khánh (57) à travers de très belles rizières devra être l’objet d’une surveillance constante. (…) A partir de la belle cascade de 50m qui se trouve un peu en aval de la borne 53, le sông Qui-Xuân coule resserré entre des mamelons élevés” (Đoạn văn này sẽ được dịch ở phần sau).
Câu hỏi đặt ra là: cột mốc 53 nằm ở thượng lưu hay hạ lưu của thác? Theo suy luận của ông Trương Nhân Tuấn thì “cột mốc chỉ có thể ở phía hạ lưu của thác Bản Giốc”. Thế nhưng điều này lại mâu thuẫn với ý kiến của trung úy Détrie vì ông này ghi nhận thác nước “nằm cách một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53” (qui se trouve un peu en aval de la borne 53), nghĩa là “cột mốc nằm nhích một chút về phía thượng lưu của thác nước”.
- Về bản đồ: có một tấm bản đồ tìm được trong một thư khố ở Pháp liên quan đến vùng này (xem ảnh 18). Theo ghi chú của tác giả, đây là bản đồ có tỷ lệ 1/50.000 do Nha địa dư Đông Dương (Service géographique de l’Indochine) thực hiện. Thật ra, nếu so sánh tấm bản đồ này với các bản đồ của miền Nam Việt Nam phát hành trước năm 1975, chúng ta có thể thấy rõ đây không phải là bản đồ tỷ lệ 1/50.000.
Để độc giả dễ phân biệt, tôi đã trích đoạn và phóng to một phần nhỏ của bản đồ và xoay bản đồ cho đúng hướng bắc-nam (ảnh 19). Chúng ta có thể nhận thấy: từ cột mốc 54 (B.54) phía tây-bắc đến cột mốc 53 (B.53, chữ viết tắt của borne 53) phía đông-nam, có một dải đất ven sông nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Điều này giải thích lý do tại sao trước đây người Việt có thể qua lại giữa hai bờ sông một cách dễ dàng. Ngoài ra, còn có một chi tiết khiến chúng ta có thể bác bỏ ý kiến của ông Lê Công Phụng cho rằng “cột mốc nằm trên một cồn giữa suối cách thác vài trăm mét”. Trên tấm bản đồ này, cột mốc 53 (B.53) hoàn toàn nằm trên bờ trái (tả ngạn của sông Quây Sơn), không liên quan gì đến một “cồn” nào đó trên sông Quây Sơn. Tấm bản đồ này cũng cho thấy có một đồn của Trung Quốc (Fort Chinois) nằm trên đỉnh núi.

Ảnh 18: Bản đồ SGI do tác giả Trương Nhân Tuấn công bố

Ảnh 19: Trích đoạn bản đồ SGI - khu vực Thác Bản Giốc
Nhược điểm của tấm bản đồ này là thiếu các vòng
cao độ (contour lines, courbes de niveau) cũng như các tọa độ địa lý
cần thiết để xác định một cách chính xác vị trí của cột mốc. Mặt khác,
nó cũng không ghi rõ vị trí của Thác Bản Giốc, cho nên rất khó xác định
vị trí của cột mốc số 53.Thật ra, có một tấm bản đồ có thể giúp chúng ta tìm hiểu đường đi của biên giới từ cột mốc 57 cho đến cột mốc 53. Đó là tờ bản đồ địa hình (topographic map) mang tên Trung Khanh Phu, sheet 6354-4 được tìm thấy ở Thư viện của Đại học Texas ở Austin (The University of Texas at Austin) [14]. Tờ bản đồ này (ảnh 20) có tỷ lệ 1/50000, do quân đội Hoa Kỳ in vào năm 1965, dựa vào thông tin thu thập được vào năm 1964.

Ảnh 20: Trích bản đồ Trùng Khánh Phủ - sheet 6354-4 (U.S. Army Map Service)
Làm thế nào mà quân đội Hoa Kỳ có được tờ bản
đồ này? Căn cứ vào ghi chú trên tờ bản đồ, chúng ta có thế ước đoán bản
đồ này được biên soạn dựa trên dữ liệu của Nha Địa dư Đông dương
(Service géographique de l’Indochine) trước kia và cả trên những thông
tin do chính quân đội Hoa Kỳ thu thập được. Ngoài ra, còn có một tờ bản đồ mang tên Trùng Khánh, số hiệu 6354-IV do Cục bản đồ thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam in năm 1980, rất giống với tờ bản đồ nói trên. Tờ bản đồ này nằm trong Bộ sưu tập Bản đồ Việt Nam (Vietnam Archive Map Collection) do Đại học Kỹ Thuật Texas (Texas Tech University) sưu tầm và công bố [15]. Tờ bản đồ này được “in lần thứ hai” (1980) dựa theo bản đồ 1/50.000 in năm 1976 đã được “chỉnh lý bổ sung thực địa vào năm 1979”. Chúng ta có thể phỏng đoán tờ bản đồ này được biên soạn dựa vào bản đồ Trung Khanh Phu, sheet 6354-4 của quân đội Hoa Kỳ, vì sau ngày 30-4-1975 quân đội miền Bắc đã tiếp quản toàn bộ kho bản đồ lưu trữ tại Nha Địa dư Quốc gia ở Đà Lạt.
Cần lưu ý là bản đồ này được in lần thứ nhất vào năm 1976 – cùng thời điểm với việc Trung Quốc tấn công cồn Pò Thoong, có lẽ vì thế trên bản đồ có ghi dòng chữ “quốc giới chưa xác định (vẽ sơ lược)”. Để độc giả dễ theo dõi, tôi trích bản đồ Trùng Khánh 6543-IV và phóng lớn thành hai tấm: từ mốc 58 đến mốc 54 (ảnh 21) và từ mốc 54 đến mốc 53 (ảnh 22).

Ảnh 21: Trích bản đồ Trùng Khánh 6354-IV (QĐNDVN) - từ mốc 58 đến mốc 54
Dựa vào bản đồ, chúng ta có thể thấy rõ đường
biên giới từ cột mốc 57 (M. 57) đến cột mốc 55 (M.55) đúng như Détrie mô
tả: “Sau cửa Dốc-Khánh, đường biên giới được vạch trong lòng dãy núi
đá, để lại cho Bắc Kỳ các thung lũng hẹp ít quan trọng mở ra phía
Lung-Piac (Lũng Phiắc). (Đường biên giới) chạy gần hai thung lũng rất khó thâm nhập là Lung-Deng (Lung Den) và Lung-Moi (Lung Noi); băng ngang qua các thung lũng này là những con đường dẫn đến Thin-Thang (T’ien-teng) qua ngõ Ai-Thin-Thap (mốc 56) và Lung-Moi (Lung Noi, mốc 55) đến tận vùng cắm mốc. Người dân của Lung-Deng (Lung Den) và Lung-Moi (Lung Noi) đóng thuế cho người Trung Hoa” [16].
Ảnh 22: Trích bản đồ Trùng Khánh 6354-IV (QĐNDVN) - từ mốc 54 đến mốc 53
Détrie viết tiếp: “Tiếp đó, đường biên giới trở lại chân các núi đá trước mặt làng Ban-Mong (Bản Mom,
mốc 54), chạy dọc theo chân của các núi đá ấy và dưới chân của đồn
Pia-Mu của Trung Hoa, chạy dọc theo bìa của một khu rừng nhỏ và cắt con
đường Hang-Dong-Quan (mốc 53) để đi đến dòng sông – dòng sông mà đường
biên giới chạy xuôi theo cho đến tận Ly-Ban (Lý Vạn). Con đường
đi từ mốc 53 dẫn đến Dốc-Khánh (mốc 57) đi ngang qua những ruộng lúa
xinh đẹp sắp đến phải được giám sát thường xuyên. (…) Từ thác nước đẹp
cao 50 m - nằm nhích một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53, sông
Qui-Xuân [17] chảy thu hẹp lại giữa những ngọn đồi cao”.Nhìn vào bản đồ, chúng ta thấy rõ con đường đi từ mốc 53 ở phía đông-nam đến mốc 57 ở phía tây-bắc “đi ngang qua những ruộng lúa xinh đẹp”. Con đường này chạy dưới chân các dãy núi đá, men theo các thung lũng, có ý nghĩa quan trọng về mặt quốc phòng; vì thế Détrie cho rằng “sắp đến cần phải canh phòng thường xuyên”. Chúng ta cũng có thể thấy rõ đường biên giới cắt ngang “con đường Hang-Dong-Quan” (le chemin de Hang-Dong-Quan) tại cột mốc số 53. Sau khi vượt qua biên giới ở mốc 53 gần Thác Bản Giốc, con đường Hang-Dong-Quan chạy men bờ sông (tả ngạn sông Quây Sơn), trên phần đất thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Vào thời kỳ đó (cuối thế kỷ 19) và có thể mãi cho đến năm 1979 (là lúc phát hành tờ bản đồ Trùng Khánh 6354-IV của QĐNDVN), con đường đó chỉ là đường đất hoặc đường mòn.

Ảnh 23: Dải đất dưới chân thác ở tả ngạn thuộc lãnh thổ VN
Có thể nói hai tờ bản đồ 6354-4 mang tên Trùng
Khánh Phủ và Trùng Khánh hoàn toàn ăn khớp với những gì trung úy Détrie
đã mô tả trong nhật ký. Cả hai tờ bản đồ này cũng cho thấy thác nước
“nằm nhích một chút về phía hạ lưu của cột mốc 53”. Điều đó có nghĩa là
cột mốc “nằm nhích một chút về phía thượng lưu của thác”, nhưng không
nằm sát bờ sông. Từ cột mốc 53, đường biên giới chạy theo hướng tây
bắc-đông nam dựa theo đường rãnh giữa thác nước và ngọn đồi tiếp giáp, cắt một diện tích đất ở phía dưới chân thác cho phía Việt Nam trước khi nhập vào đường trung tuyến của dòng sông (xem ảnh 23).Như vậy, toàn bộ thác Bản Giốc đều thuộc về Việt Nam, toàn bộ dải đất chạy dài từ dưới chân thác lên đến cột mốc 53, dọc theo chân dãy núi đá cho đến tận cột mốc 54 cũng thuộc phía Việt Nam. Điều này giúp chúng ta lý giải được tại sao toán lính người Việt dưới quyền chỉ huy của một người Pháp lại có thể đi tuần tra từ bên kia sông và quay trở về bờ bên này trong mùa nước cạn. Rõ ràng toán lính này đã tuần tra trên con đường mòn ở phía tả ngạn mà Détrie đã nhắc đến, đi từ phía trên thác để xuống chân thác, lội sông trở về phía hữu ngạn của sông Quây Sơn (xem bưu ảnh số 832 của P. Dieulefils). Cũng nhờ đứng trên mảnh đất này, nhà nhiếp ảnh mới chụp được tấm ảnh về Thác Bản Giốc được đăng trong cuốn sách của nhà địa lý học Lê Bá Thảo (ấn bản năm 1977). Ngày nay, chúng ta không thể đứng trên lãnh thổ Việt Nam để chụp được một tấm ảnh tương tự, bởi vì dải đất này đã bị cắt cho phía Trung Quốc.

Ảnh 24: Thác Bản Giốc nhìn từ phía Việt Nam. Bờ bắc (tả ngạn) là những núi cao chót vót.
Mặt khác, đường biên giới từ mốc 54 đến mốc 53
chạy dọc theo chân của dãy núi đá vôi. Với địa thế hiểm trở như ở vùng
này (xem ảnh 24), cho dù phía Trung Quốc có thể đóng đồn ở trên núi cao
(trong bản đồ của Hoa Kỳ ghi chữ fort, trong bản đồ của Việt Nam in chữ đồn),
quân đội của họ cũng không thể xâm nhập vào các thung lũng bên dưới.
Thế nhưng, tình hình hoàn toàn sẽ đổi khác nếu phía Trung Quốc đặt được
một đầu cầu xuống vùng thung lũng bên dưới. Đầu cầu đó giúp họ có thể
tấn công bất cứ điểm nào ở những thung lũng dọc sông Quây Sơn, với sự
yểm trợ của pháo binh đặt trên những điểm cao. Điều đó giải thích được
nguyên do tại sao phía Trung Quốc từ lâu đã có âm mưu chiếm cồn Pò
Thoong, một cồn có diện tích khoảng 2,6 hec-ta nằm ngay phía trên thác.
Kỳ 2 – TRUNG QUỐC XÂM CHIẾM THÁC BẢN GIỐC NHƯ THẾ NÀO?
Dựa theo những tin tức do Đảng cộng sản Việt Nam công bố qua nhiều thời kỳ, chúng ta có thể tóm tắt quá trình xâm chiếm Thác Bản Giốc của phía Trung Quốc như sau:Bước 1: Sửa bản đồ
“Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ: họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong” [18].Đó là một đoạn được trích từ bản “bị vong lục” (hay còn gọi là giác thư, mémorandum) do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979. Điều chưa được làm rõ là Trung Quốc đã “sửa ký hiệu” như thế nào? Cho đến nay đã trải qua hơn 30 năm, tài liệu này vẫn còn nằm trong vòng bí mật.
Việc bản đồ Việt Nam tỷ lệ 1/100.000 bị Trung Quốc sửa chữa với ý đồ không tốt chính là lý do khiến cho phía Việt Nam lâu nay không dám công bố bản đồ của mình, hầu hết các bản đồ được công bố đều là bản đồ của Trung Quốc. Hơn thế nữa, vẫn còn một câu hỏi chưa được trả lời: phía Việt Nam đã biết được hành vi “sửa bản đồ” này vào thời điểm nào và tại sao mãi đến năm 1979 mới công bố?
Bước 2: Thực hành việc lấn chiếm
Năm 1976, Trung Quốc bắt đầu tiến hành kế hoạch lấn chiếm mà họ đã chuẩn bị từ giữa thập niên 1950. Theo lời tố cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam, “phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người, kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc”.Việc Trung Quốc chiếm cồn Pò Thoong 20 năm sau khi đã “sửa bản đồ” cho thấy kế hoạch xâm chiếm Thác Bản Giốc được chuẩn bị từ trước chứ không phải là hành động ngẫu nhiên.
Bước 3: Dời cột mốc 53

Ảnh
25: Đường biên giới mới với
các cột mốc mới
Để tăng
cường thêm bằng chứng cho
“hồ sơ pháp lý” nhằm hợp
pháp hóa việc lấn chiếm, nhà
cầm quyền Trung Quốc đã dời
cột mốc số 53 từ vị trí như
ta đã thấy trên bản đồ đến
một vị trí khác xa hơn về
phía thượng lưu nhằm “chiếm
một phần thác Bản Giốc của
Việt Nam và cồn Pò Thoong”,
đúng như kế hoạch đã hoạch
định từ giữa thập niên 1950.
“Cột mốc biết đi” này chính
là căn cứ để “hai bên đàm
phán” xác định cột mốc mới
835 như chúng ta đã thấy ở
phần trên, bởi vì hai cột
mốc 53 cũ và 835 mới nằm sát
cạnh nhau.

Ảnh
26: So sánh hai đường biên
giới mới và cũ
Thử so
sánh bản đồ về đường biên
giới mới và các cột mốc mới
tại vùng này (ảnh 25) với
bản đồ “ Trùng Khánh
6354-IV” năm 1979 do Quân
đội Nhân dân Việt Nam in năm
1980
[19]. Mặc dù
địa hình của cồn Pò Thoong
và khu vực lân cận cũng như
vùng đất phía tả ngạn ở hạ
lưu của Thác Bản Giốc đã bị
phía Trung Quốc làm biến đổi
khá nhiều nhằm che giấu việc
chiếm đất, chúng ta vẫn có
thể dễ dàng nhận ra sự khác
biệt giữa hai đường biên
giới mới và cũ. Cột mốc
số 53 đã bị dời về phía
tây-nam để tạo ra cột mốc
mới 835 đối diện với cồn
Pò Thoong. Vì thế, đường
biên giới đáng lẽ chỉ trùng
với trung tuyến của dòng
sông ở hạ lưu thác lại đi
ngang cồn Pò Thoong ở phía
thượng lưu và sau đó chia
cắt một nửa phần thác chính
cho phía Trung Quốc. Hơn thế nữa, về phía tây-bắc của Thác Bản Giốc, ở gần Bản Mom, cột mốc mới 831 cũng xâm phạm vào lãnh thổ Việt Nam một cách hết sức rõ ràng. Việc thay đổi cột mốc này giúp cho phía Trung Quốc chiếm gọn cao điểm 787 (Yao Tan Shan) trong khi đường biên giới cũ chia đôi ngọn núi này, mỗi bên một nửa.
Tóm lại, cột mốc 53 cũ không nằm đúng vị trí của nó, và việc dời cột mốc chỉ nhằm để hợp lý hóa cho việc chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc. Thế nhưng ông Lê Công Phụng lại hết sức nhiệt tình che đậy sự vi phạm trắng trợn này của “nước bạn” bằng cách khẳng định rằng “Cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời nhà Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên phía ta”. Để củng cố cho lập luận của mình, ông ta còn biện bạch: “Chúng ta phải căn cứ vào những thỏa thuận pháp lý Thanh - Pháp, căn cứ vào biểu đồ, căn cứ vào cột mốc hiện có mà dân địa phương nói là cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi cả”. Không rõ “người dân địa phương” nào lại dám khẳng định cột mốc đó từ xưa đến nay chưa ai thay đổi?
Cũng theo lời ông Lê Công Phụng: “Cuối cùng, lãnh đạo chúng ta cũng nhất trí trong tất cả các điều kiện ấy, không thể đòi hỏi thác Bản Giốc phải là của chúng ta hoàn toàn được”. Vì không có một nhân vật cấp cao nào trong Đảng đính chính lại lời phát biểu này, chúng ta có thể hiểu đây chính là quan điểm chung của các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam chứ không phải là ý kiến riêng của một cá nhân nào [20].

Ảnh
27: Khu vực Thác Bản Giốc
(ảnh chụp từ vệ tinh).
Vùng
được đánh dấu là phần thác
chính.
Có một
điều mà các nhà lãnh đạo
Việt Nam cố tình tránh né:
đó là ý nghĩa của cồn Pò
Thoong và bờ bắc của sông
Quây Sơn xét về mặt quốc
phòng. Không cần phải là
chuyên gia về quân sự, chúng
ta có thể thấy rõ: với việc
lấn chiếm 3 phần 4 cồn Pò
Thoong và toàn bộ phần đất ở
tả ngạn - từ thượng lưu cho
đến hạ lưu Thác Bản Giốc,
phía Trung Quốc chẳng những
có được lợi thế từ trên cao
mà còn có được một đầu cầu
ngay phía trên thác (cồn Pò
Thoong) để khi cần, có thể
làm bàn đạp đưa quân từ phía
hạ lưu nhằm tấn công vào bất
cứ điểm nào trong vùng thung
lũng dọc sông Quây Sơn (xem
ảnh 28). Đó là chưa kể đến
việc lấn chiếm cao điểm Yao
Tan Shan (cao độ 787 m) giúp
cho phía Trung Quốc có được
một vị trí để có thể dùng
pháo binh khống chế vùng
thung lũng này từ phía
tây-bắc.
Ảnh
28: Toàn cảnh Thác Bản Giốc
chụp từ phía Trung Quốc
Bước
4: Hợp pháp hóa hành vi lấn
chiếm Như trên đã dẫn chứng, trong thực tế quân Trung Quốc đã chiếm đóng cồn Pò Thoong kể từ năm 1976. Vì vậy việc đàm phán suy cho cùng chỉ xoay quanh vấn đề: Trung Quốc tiếp tục chiếm đóng toàn bộ cồn Pò Thoong hay trả lại chút ít cho phía Việt Nam?
Tương tự như trường hợp ở Ải Nam Quan, nơi đây họ đã trả lại một phần: thay vì lấy tất cả cồn Pò Thoong, họ trả lại cho Việt Nam 1 phần 4; thay vì lấy “phần lớn” thác chính thì lấy một nửa thác chính. Các nhà lãnh đạo thuộc thế hệ Hồ Cẩm Đào – Ôn Gia Bảo xem ra có phần khôn ngoan hơn cha ông của họ: làm ra vẻ nhún nhường, nhân nhượng để có tiếng là “ôn hòa”, nhưng vẫn thực hiện được mục đích “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”.
Đường biên giới mới được hoạch định theo thế có lợi cho phía Trung Quốc đã được hiện đại hóa bằng một loạt các cột mốc dày đặc, được định vị bằng các kỹ thuật hiện đại. Điều này sẽ khiến cho các thế hệ người Việt Nam trong tương lai gặp khó khăn hơn rất nhiều trong việc đòi lại các phần đất đã bị chiếm đóng – nhất là khi “ván đã đóng thuyền” bởi hiệp ước 1999.
Cùng với Ải Nam Quan, trường hợp của Thác Bản Giốc cho thấy trong việc đàm phán về biên giới, phía Việt Nam đã nhượng bộ cho phía Trung Quốc đến mức cao nhất, phá bỏ hoàn toàn các nguyên tắc mà Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra trước đó trong bản bị vong lục năm 1979.
Bước 5: Thác Bản Giốc biến thành Thác Đức Thiên

Ảnh
29: Thác nước Bản Giốc riêng
của Việt Nam nay đã trở
thành “Thác lớn xuyên - quốc
gia Đức Thiên” (Đức Thiên
khóa quốc đại bộc bố). Sự
mất mát này là do ai?
Không rõ
khi vạch kế hoạch chiếm một
phần Thác Bản Giốc, các nhà
lãnh đạo thuộc thế hệ Mao
Trạch Đông – Chu Ân Lai có
nhắm đến mục tiêu kinh tế -
du lịch hay không? Nhưng vào
đầu thế kỷ 21, vài thập niên
sau khi tiến hành đường lối
cải cách do Đặng Tiểu Bình
vạch ra, các nhà lãnh đạo
Trung Quốc đương nhiên phải
nghĩ ngay đến việc kinh
doanh du lịch để góp phần
phát triển kinh tế cho Tỉnh
Quảng Tây, một vùng đất kinh
tế còn kém phát triển
[21] nhưng
lại là địa bàn chủ yếu của
dân tộc Choang – dân tộc
thiểu số đông nhất ở Trung
Quốc hiện nay
[22].Ngay sau khi ký hiệp định 1999, phía Trung Quốc đã bắt đầu chuẩn bị cho kế hoạch đưa Thác Bản Giốc vào khai thác du lịch chứ không chờ giải quyết trọn vẹn việc cắm mốc ở vùng này. Ngay từ năm 2003, họ đã bắt đầu xây dựng các cơ sở du lịch nghỉ dưỡng như khách sạn, nhà nghỉ, thuỷ đình, nhà nổi… bên bờ Bắc.
Mặt khác, để cắt đứt mối quan hệ xa xưa, xóa dấu vết của cuộc xâm chiếm bẩn thỉu, nhằm tô son trát phấn cho một lịch sử mới chỉ gồm toàn những yếu tố “hữu nghị, anh em”, họ đặt cho thác nước một cái tên mới: 德天 (Detian, Đức Thiên). Ngày nay, chỉ cần lên mạng Internet, dùng một công cụ tìm kiếm nào đó như Google hay Yahoo, chúng ta có thể thấy vô số bài viết của các du khách nước ngoài về “Detian Falls” hay “Detian Waterfall” (Thác Đức Thiên), được coi là thác nước biên giới lớn thứ tư trên thế giới sau các thác nước Iguazu (Argentina-Brazil), Victoria (Zambia-Zimbabwe) và Niagara (Hoa Kỳ-Canada), và là thác nước xuyên quốc gia lớn thứ nhất ở châu Á [23].

Ảnh
30: Blogger Điếu Cày tại
Thác Bản Giốc
Khi đặt
tên mới cho Thác Bản Giốc,
vẽ lại đường biên giới mới
tại vùng này, các nhà lãnh
đạo của Trung Hoa cộng sản
hy vọng sẽ xóa sạch các vết
tích đường biên giới cũ, để
vài mươi năm nữa, các thế hệ
trẻ người Việt cũng như
người Hoa không còn nhớ gì
đến quá trình xâm lược của
một cường quốc chuyên thi
hành chính sách đạo tặc đối
với các quốc gia lân bang –
nhất là các quốc gia nhỏ bé
mà ngày xưa các hoàng đế
Trung Hoa vẫn thường coi là
“phiên thuộc”.Thay lời kết:
Mặc dù sự thật đã dần dần được bộc lộ theo thời gian, nhưng câu chuyện về Thác Bản Giốc chưa hẳn đã đến hồi kết thúc. Vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ, nhiều câu hỏi cần được giải đáp:1) Trước hết, về căn cứ pháp lý để chứng minh chủ quyền của nước ta đối với Thác Bản Giốc, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có trong tay ít nhất là 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc; [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960; [3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980.
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: tại sao các nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng đã bỏ qua, không sử dụng những tài liệu này trong đàm phán?
2) Việc Trung Quốc chiếm cồn Pò Thoong và Thác Bản Giốc không phải là hành động ngẫu nhiên, cũng không phải là chủ trương của một cá nhân hay một phe phái nào trong Đảng cộng sản Trung Quốc. Kế hoạch này đã được chuẩn bị ngay từ những năm 1955-56, nghĩa là vào lúc quan hệ Việt-Trung được coi là “hữu hảo”, và được thực hiện từng bước qua từng giai đoạn như đã trình bày ở phần trên. Điều này cho thấy đây là chủ trương chung của Đảng cộng sản Trung Quốc qua nhiều thời kỳ, nhiều thế hệ lãnh đạo.
Nhưng Thác Bản Giốc không phải là trường hợp duy nhất. Căn cứ vào bản sơ đồ in ở trang 8 cuốn bị vong lục (giác thư) năm 1979, chúng ta được biết Thác Bản Giốc và Ải Nam Quan chỉ là 2 trong số 12 trường hợp lấn chiếm điển hình. Nếu tính tất cả các vi phạm lớn nhỏ, tính từ 1949 đến 1979 phía Trung Quốc (tức Trung Hoa cộng sản) đã lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến biên giới Việt-Trung [24]. Như vậy không thể nói là quan hệ Việt-Trung chỉ xấu đi trong giai đoạn 1979-1989. Ngay từ giữa thập niên 1950, nghĩa là giữa lúc tình cảm cộng sản Việt-Trung còn nồng thắm, đã bắt đầu hình thành những mầm mống xấu, những âm mưu đen tối. Tương tự như thế, trong vấn đề lãnh hải, ngay khi công bố “hải phận 12 hải lý” vào năm 1958, Đảng cộng sản Trung Quốc đã nuôi dưỡng những mưu đồ quỷ quyệt. Ngay tại điều 4 của Bản tuyên bố, họ đã ghi rõ “Tây Sa” (tức Hoàng Sa) và “Nam Sa” (tức Trường Sa) thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Đó chính là sự chuẩn bị cho việc hải quân Trung Quốc chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và chiếm đảo Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) thuộc quần đảo Trường Sa vào năm 1988.
Vấn đề đặt ra là: trước một chính sách xâm lược nhất quán như thế, tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn thừa nhận quan hệ “16 chữ vàng” (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) và tinh thần “4 tốt” (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt), coi đó như những nguyên tắc căn bản chi phối toàn bộ đường lối ngoại giao giữa hai quốc gia?
Có thể nói khi chấp nhận một chính sách đối ngoại như thế, Đảng cộng sản Việt Nam đã đặt quyền lợi của Đảng cao hơn quyền lợi của Tổ quốc, đã hy sinh quyền lợi của quốc gia – dân tộc để bảo vệ quyền lợi của chính mình. Thử hỏi: với tình hình thực tế đó, làm sao nhân dân có thể tiếp tục tin tưởng vào “sự lãnh đạo của Đảng” trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông – nơi mà hàng ngày hàng giờ các thế lực dân tộc chủ nghĩa của Trung Hoa cộng sản đang lăm le tiếp tục thực hiện kế hoạch xâm lược mà họ đã chuẩn bị công phu từ hơn nửa thế kỷ?
3) Quá trình xâm lấn đường biên giới Việt-Trung đã diễn ra từ rất lâu, nhưng mãi đến ngày 15.3.1979, nghĩa là gần một tháng sau khi Trung Quốc tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc, người dân mới biết được phần nào sự thật thông qua bản “bị vong lục” do Bộ Ngoại giao công bố. Từ thời điểm đó cho đến nay, ngoài những chi tiết được công bố trong cuốn sách, nhân dân không được biết thêm điều gì khác. Không có công trình nghiên cứu mang tính độc lập nào để người dân có thể có thể so sánh, đối chiếu.
Thật ra, có một số công trình nghiên cứu có thể giúp người dân tìm hiểu vấn đề, nhưng những công trình này thường bị xếp vào ngăn kéo, không được công bố rộng rãi. Vào năm 1996, khi cộng tác với nhà xuất bản Thuận Hóa để tái bản cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời của học giả Đào Duy Anh, Viện Sử học đã viết trong Lời dẫn như sau: “Năm 1975 tác giả có bổ sung và sửa chữa bản in lần thứ nhất, với ý định tái bản ở miền Nam. Sau khi xem lại tác giả đã bỏ chương nói về biên giới Việt Nam qua các đời vì thấy tài liệu chưa được đầy đủ. (…) Trong lần tái bản này, chúng tôi đã thực hiện theo di cảo của tác giả lưu lại sau khi qua đời” (sđd, tr. 15). Việc lược bỏ chương về biên giới ấy là ý muốn thật của tác giả hay vì một áp lực nào khác? Đối chiếu với “sự quên lãng” được dành cho những trận chiến đẫm máu trong suốt thập niên 1980 như trận chiến tại dải đồi Núi Đất (Lão Sơn) ở Hà Giang năm 1984, cuộc xâm chiếm đảo Đá Gạc-Ma ở Trường Sa năm 1988, v.v. chúng ta có quyền hoài nghi tính chất tự nguyện của việc lược bỏ này.

Ảnh
31: Bản đồ xã Đàm Thủy do Ủy
ban Biên giới Quốc gia công
bố
Mãi cho
đến ngày nay, hơn một thập
niên sau ngày “Hiệp ước biên
giới trên đất liền giữa
CHXHCN Việt Nam và CHND
Trung Hoa” được ký kết
(30-12-1999), thông tin về
đường biên giới Việt-Trung
vẫn là cái gì rất mờ mịt.
Mặc dù người dân có thể truy
cập vào Internet để xem hình
ảnh vệ tinh của khu vực giáp
giới giữa hai quốc gia,
nhưng vẫn không thể nào xác
định được đường biên giới
mới một cách chính xác. Ngay
cả khi truy cập vào Cổng
Thông tin điện tử của Chính
phủ hay trang mạng của Ủy
ban Biên giới Quốc gia,
người ta cũng chỉ có thể tìm
ra một thứ “bản đồ” mù mờ và
kém chính xác như tấm “sơ
đồ” xã Đàm Thủy đăng kèm
theo đây (ảnh 31)
[25].Trong khi nhiều vị trí hiểm yếu ở vùng biên giới Việt-Trung đã trở thành “chợ trời biên giới” (ví dụ: cửa khẩu Tân Thanh), trong khi hai bên đang tích cực thúc đẩy sự ra đời của các “khu hợp tác kinh tế xuyên biên giới” thì bản đồ chi tiết về vùng biên giới Việt-Trung vẫn còn là “bí mật quốc gia”, thông tin về vùng này vẫn là thông tin một chiều, mù mờ và không có giá trị khoa học. Người ta có cảm tưởng các cấp có thẩm quyền vẫn tìm cách che giấu, không muốn cho ngýời dân hiểu biết rõ ràng, cụ thể về tình hình đường biên giới mới. Việc vội vã nhổ bỏ các cột mốc cũ để đưa vào “viện bảo tàng” lại càng làm tăng thêm sự nghi ngờ đó.
Câu hỏi đặt ra là: trong tình trạng bưng bít, che giấu thông tin như thế, giới trí thức – nhất là các nhà khoa học nhân văn, phải làm gì để có thể bảo vệ Tổ quốc, giữ vững chủ quyền quốc gia? Trông chờ Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam thành tâm thiện ý “nhìn thẳng vào sự thật” để thực hiện một đường lối cởi mở hơn? Tha thiết “cầu xin” nhà cầm quyền gia ân ban phát một “không gian tự do có giới hạn” để trí thức có thể góp ý hay phản biện? Hay trí thức phải noi gương cụ Phan Châu Trinh và các sĩ phu của Phong trào Duy Tân hồi đầu thế kỷ trước bằng cách tự mình vạch đường đi, nghĩa là mạnh dạn đảm nhận vai trò tiên phong trong công cuộc nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí bằng cách phá vỡ ách nô lệ tinh thần đã bao trùm đời sống tinh thần của cả nước ta từ gần nửa thế kỷ nay?
Có một bài học mà chúng ta có thể rút ra từ lịch sử: tự do có được bằng sự gia ân chỉ có thể là một thứ tự do bị kiểm soát, chân lý có được bằng sự thỏa hiệp chỉ là chân lý nửa vời hay một nửa của sự thật. Mà trong lĩnh vực khoa học thì tự do bị khống chế hay một nửa – sự thật chỉ có thể đem lại một thứ khoa học giả hiệu, một thứ khoa học hào nhoáng nhưng phù phiếm với những huy chương và phẩm hàm tuy bề ngoài rất “hoành tráng” và hấp dẫn, nhưng không thể trường tồn qua thời gian và hoàn toàn vô nghĩa nếu xét trên bình diện lợi ích của toàn dân tộc. Bài học của học thuyết Lysenko (Lysenkoism) đã từng ngự trị trong ngành sinh học Liên Xô từ cuối thập niên 1920 cho đến tận năm 1964 trước khi bị vứt vào thùng rác của lịch sử, là một ví dụ cực kỳ sinh động của thứ khoa học thừa nhận sự lãnh đạo của một đảng chính trị trong một chế độ độc tài toàn trị.
Đà Lạt, mùa xuân năm Nhâm Thìn, 9-2-2012,
M.T.L.
Tài liệu tham khảo:
[1] Bản Giốc chờ ngày cất cánh, Thanh Niên 23/10/2011:
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20111023/ban-gioc-cho-ngay-cat-canh.aspx
[2] Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội 1977, tr. 43-44.
[3] VASC Orient chính là tiền thân của trang mạng VietNamNet hiện nay
[4] “Thứ trưởng Ngoại giao Lê Công Phụng trả lời phỏng vấn của VASC Orient chiều 28/1/2002”. Mặc dù đã bị bóc gỡ, bài phỏng vấn này vẫn được lưu truyền trên mạng Internet trong suốt một thập niên qua.
[5] Nguyễn Trường Giang, “Hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam và Trung Quốc”, Tạp chí cộng sản, 27/2/2009:
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=9072&print=true
[6] Nguyễn Hồng Thao, “Việt-Trung và đường biên giới pháp lý, công bằng, hữu nghị”, Vietnam Net 02/01/2009: http://vnn.vietnamnet.vn/chinhtri/2009/01/821775/
Ông Phó giáo sư Tiến sĩ này về sau thăng chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao và gần đây, được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Malaysia.
[7] Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si, par le Commandant Famin, Vice-Président de la Commission d’Abornement des Frontières Sino-Annamites en 1894, Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie Coloniale, 1895. Ảnh chụp lại hai trang 12 và 13 đã được công bố trong “Thư ngỏ của nhà khoa học Thái Văn Cầu gửi PGS TS Nguyễn Hồng Thao, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam”: Bauxite Vietnam, 07/01/2011: http://www.boxitvn.net/bai/15750
[8] Người Pháp thành lập ở vùng thượng du Bắc Việt 4 khu quân sự (territoires militaires): (1) Móng Cái, (2) Cao Bằng, (3) Hà Giang và (4) Lai Châu. Về sau, còn thành lập thêm khu thứ 5 ở Phong Saly (Lào). Đào Duy Anh gọi là đạo quân sự thứ hai (Xem Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Viện Sử học VN - NXB Thuận Hóa, 1996, tr. 219).
[9] Trương Nhân Tuấn, “Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây”, phần I, 29-08-2009: http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=95&fid=-1
[10] Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 4, NXB Thuận Hóa 1997, tr. 403.
[11] Hàn Vĩnh Diệp, “Tấc đất tấc vàng”. Bài này được đăng trên Mạng Ý kiến (ykien.net) vào năm 2005, nhưng đến nay trang mạng này không còn tồn tại vì bị tin tặc đánh phá. Có thể tham khảo bản đăng lại tại địa chỉ: http://www.freewebs.com/tinvn/TacDatTacVang.htm
[12] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, NXB Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 11-12. Cuốn sách này chính là toàn văn của bản «bị vong lục» (giác thư, memorandum) của Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố ngày 15-3-1979.
[13] Trương Nhân Tuấn, “Tìm hiểu chủ quyền thác Bản Giốc”, 01-11-2011:
http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=815
[14] Trung Khanh Phu (topographic) Sheet 6354-4, 1:50,000 U.S. Army Map Service 1964 (10.1MB) [GeoPDF]:
http://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/trung_khanh_phu-6354-4.pdf
[15] AMS 1:50000 Maps in Vietnam Archive Map Collection:
http://www.vietnam.ttu.edu/resources/maps/maps1-50000.pdf
[16] Những địa danh in nghiêng là địa danh ghi trên bản đồ.
[17] Do không có trong tay bản sao nhật ký của Détrie cho nên đoạn văn này hoàn toàn dựa vào nguyên văn do ông Trương Nhân Tuấn công bố. Trong bản văn này, dòng sông Quây Sơn được ghi là Qui-Xuan chứ không phải là Qui-Thuan như trong cuốn sách của Thiếu tá Famin. Nếu quả thật Détrie ghi là Qui-Xuan thì tên sông này đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 chứ không phải chỉ mới xuất hiện gần đây.
[18] Vấn đề biên
giới..., sđd, tr. 14.
[19] Tấm bản đồ về đường
biên giới mới đã được công
bố trong bài viết của nhà
văn Trần Nhương nhan đề “Bên
cột mốc biên giới Bản Giốc”,
Blog Trần Nhương
1-11-2011:http://www.thanhnien.com.vn/pages/20111023/ban-gioc-cho-ngay-cat-canh.aspx
[2] Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội 1977, tr. 43-44.
[3] VASC Orient chính là tiền thân của trang mạng VietNamNet hiện nay
[4] “Thứ trưởng Ngoại giao Lê Công Phụng trả lời phỏng vấn của VASC Orient chiều 28/1/2002”. Mặc dù đã bị bóc gỡ, bài phỏng vấn này vẫn được lưu truyền trên mạng Internet trong suốt một thập niên qua.
[5] Nguyễn Trường Giang, “Hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam và Trung Quốc”, Tạp chí cộng sản, 27/2/2009:
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=9072&print=true
[6] Nguyễn Hồng Thao, “Việt-Trung và đường biên giới pháp lý, công bằng, hữu nghị”, Vietnam Net 02/01/2009: http://vnn.vietnamnet.vn/chinhtri/2009/01/821775/
Ông Phó giáo sư Tiến sĩ này về sau thăng chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia thuộc Bộ Ngoại giao và gần đây, được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Malaysia.
[7] Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si, par le Commandant Famin, Vice-Président de la Commission d’Abornement des Frontières Sino-Annamites en 1894, Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie Coloniale, 1895. Ảnh chụp lại hai trang 12 và 13 đã được công bố trong “Thư ngỏ của nhà khoa học Thái Văn Cầu gửi PGS TS Nguyễn Hồng Thao, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam”: Bauxite Vietnam, 07/01/2011: http://www.boxitvn.net/bai/15750
[8] Người Pháp thành lập ở vùng thượng du Bắc Việt 4 khu quân sự (territoires militaires): (1) Móng Cái, (2) Cao Bằng, (3) Hà Giang và (4) Lai Châu. Về sau, còn thành lập thêm khu thứ 5 ở Phong Saly (Lào). Đào Duy Anh gọi là đạo quân sự thứ hai (Xem Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Viện Sử học VN - NXB Thuận Hóa, 1996, tr. 219).
[9] Trương Nhân Tuấn, “Biên Giới Việt Nam: vùng tiếp giáp tỉnh Quảng Tây”, phần I, 29-08-2009: http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=95&fid=-1
[10] Quốc sử quán Triều Nguyễn, Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 4, NXB Thuận Hóa 1997, tr. 403.
[11] Hàn Vĩnh Diệp, “Tấc đất tấc vàng”. Bài này được đăng trên Mạng Ý kiến (ykien.net) vào năm 2005, nhưng đến nay trang mạng này không còn tồn tại vì bị tin tặc đánh phá. Có thể tham khảo bản đăng lại tại địa chỉ: http://www.freewebs.com/tinvn/TacDatTacVang.htm
[12] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, NXB Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 11-12. Cuốn sách này chính là toàn văn của bản «bị vong lục» (giác thư, memorandum) của Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố ngày 15-3-1979.
[13] Trương Nhân Tuấn, “Tìm hiểu chủ quyền thác Bản Giốc”, 01-11-2011:
http://vn.360plus.yahoo.com/truongnhantuan/article?mid=815
[14] Trung Khanh Phu (topographic) Sheet 6354-4, 1:50,000 U.S. Army Map Service 1964 (10.1MB) [GeoPDF]:
http://www.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/trung_khanh_phu-6354-4.pdf
[15] AMS 1:50000 Maps in Vietnam Archive Map Collection:
http://www.vietnam.ttu.edu/resources/maps/maps1-50000.pdf
[16] Những địa danh in nghiêng là địa danh ghi trên bản đồ.
[17] Do không có trong tay bản sao nhật ký của Détrie cho nên đoạn văn này hoàn toàn dựa vào nguyên văn do ông Trương Nhân Tuấn công bố. Trong bản văn này, dòng sông Quây Sơn được ghi là Qui-Xuan chứ không phải là Qui-Thuan như trong cuốn sách của Thiếu tá Famin. Nếu quả thật Détrie ghi là Qui-Xuan thì tên sông này đã xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 chứ không phải chỉ mới xuất hiện gần đây.
http://trannhuong.com/news_detail/11528/B%C3%8AN-C%E1%BB%98T M%E1%BB%90C-BI%C3%8AN-GI%E1%BB%9AI-B%E1%BA%A2N-GI%E1%BB%90C
[20] Ông Lê Công Phụng sau khi hoàn thành sứ mạng “đàm phán” đã được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ một thời gian trước khi về hưu.
[21] Theo thống kê năm 2010, mặc dù tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Quảng Tây xếp thứ 18, nhưng nếu tính GDP trên đầu người, thì Quảng Tây đứng thứ 27 trong tổng số 31 thành phố, tỉnh và khu tự trị, chỉ đứng trên Tây Tạng, Cam Túc, Vân Nam và Quý Châu.
[22] Người Choang (壯, âm Hán-Việt đọc là Tráng) là dân tộc thiểu số đông nhất Trung Quốc với dân số 18 triệu. Người Choang có cùng nguồn gốc với người Tày và người Nùng ở Việt Nam, tập trung đông nhất ở tỉnh Quảng Tây. Tên gọi chính thức của tỉnh Quảng Tây là Khu tự trị dân tộc Choang (Guangxi Zhuang Autonomous Region).
[23] Trong các trang quảng cáo du lịch của Trung Quốc, chiều cao của thác nước được ghi là 60 m, thậm chí 70 m, trong khi những người Pháp đầu tiên viết về thác nước chỉ phỏng đoán đến mức 40-50 m, và các sách địa lý của nước ta xác định con số 34 m.
[24] Vấn đề biên giới...., sđd, tr.8.
[25] Bản đồ này là bản đồ được cung cấp bởi địa chỉ www.gis.chinhphu.vn
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Chủ tịch VN thăm thác Bản Giốc
Ông Sang
là quan chức cao cấp
nhất từng thăm thác Bản
Giốc sau khi quá trình
cắm mốc biên giới hoàn
tất
Truyền thông
trong nước cho hay Chủ tịch Việt
Nam Trương Tấn Sang vừa có
chuyến thăm tỉnh Cao Bằng giáp
ranh với Trung Quốc.
Hôm thứ Năm 8/12 ông Sang đã
tới thăm thác Bản Giốc ở huyện
Trùng Khánh.Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin chiều 8/12 ông chủ tịch "đã đi thăm khu du lịch thác Bản Giốc và thăm Đồn Biên phòng Đàm Thủy ở huyện Trùng Khánh".
Ông Sang được dẫn lời nói "việc duy trì và phát huy Hiệp định Phân mốc biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã tăng cường sự hợp tác hữu nghị, ổn định an ninh biên giới".
Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định về Biên giới trên đất liền từ năm 1999, nhưng phải mất 10 năm quá trình phân giới cắm mốc mới được hoàn tất vì có nhiều "khu vực nhạy cảm'.
Thác Bản Giốc là một trong những khu vực nhạy cảm đó.
Chuyến thăm lần này của ông Trương Tấn Sang mang tính biểu tượng quan trọng, nhất là trong bối cảnh dư luận trong nước đang hết sức quan tâm tới các vấn đề liên quan tới chủ quyền lãnh thổ.
'Nhượng bộ Trung Quốc'
Đài Tiếng nói Việt Nam dẫn lời ông chủ tịch dặn dò các chiến sỹ biên phòng Đàm Thủy, đơn vị chịu trách nhiệm canh giữ khu vực thác Bản Giốc, phải "giữ vững an ninh biên giới".Thác Bản Giốc là một trong những thác đẹp nhất Việt Nam, được tạo thành từ một phần của sông Quây Sơn, chia làm hai phần, thác chính và thác phụ.
Thác
Bản Giốc nằm giữa Việt
Nam và Trung Quốc
Việt Nam cũng nhận 1/4 cồn Pò Thoong diện tích chưa đầy 3 ha nằm giữa thác.
Thỏa thuận nói trên khi công bố đã bị một số người phản đối, cho rằng Việt Nam 'nhượng bộ Trung Quốc quá nhiều'.
Tranh chấp với Trung Quốc về thác Bản Giốc bắt đầu từ những năm 1974-1975 nhưng lên cao vào năm xảy ra cuộc chiến biên giới 1979.
Cơ sở để chia đôi phần thác chính là việc tính mốc bắt đầu từ cột mốc 53 cũ được dựng lên từ cuối thế kỷ 19 sau khi người Pháp và Nhà Thanh ký kết hiệp định phân chia biên giới.
Sự chia sẻ thác Bản Giốc được thống nhất như một phần của "gói thương lượng" gồm thác này và bãi Tục Lãm trên tinh thần mà chính phủ Việt Nam nói là "hiệp thương hữu nghị thẳng thắn".
1/4 bãi Tục Lãm ở cửa sông Bắc Luân nay thuộc về Trung Quốc.
Việt Nam và Trung Quốc đã thống nhất cùng khai thác du lịch thác Bản Giốc nhưng cho tới nay hai bên vẫn chưa ký được Hiệp định hợp tác khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch khu vực thác này.
Dù vậy, tin cho hay phía Trung Quốc đã xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng, khách sạn và đường xá bên phần đất của họ.
Báo chí Trung Quốc gọi thác này, tên tiếng Trung là Đức Thiên, là một trong những "cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời nhất đất nước Trung Hoa", nằm ở "thị trấn Thạc Long, huyện Đại Tân, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc".
Đầu năm nay báo Lao động của Việt Nam khi đăng lại tin của Trung Quốc ca ngợi thác Đức Thiên đã bị khiển trách vì không nói tới chủ quyền của Việt Nam đối với thác.
Ts Trần Công Trục trả lời ông Mai Thái Lĩnh về thác Bản Giốc
(GDVN) - Cá nhân tôi mong muốn thông qua quá trình trao đổi, đối thoại
để thu hẹp khoảng cách trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh
thổ sao cho có lợi nhất cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hợp pháp
của quốc gia, dân tộc, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên Biển
Đông ngày càng gia tăng và tiềm ẩn những nhân tố khó lường.
Lời Tòa soạn: Ngày 7/9/2013 Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được e-mail phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh, tác giả bài viết "Sự thật về thác Bản Giốc" được chúng tôi đề cập trong bài báo ““Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử” do phóng viên Hồng Thủy phỏng vấn Tiến sĩ Trần Công Trục và Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải ngày 3/9.
Nhận thấy vấn đề đang được dư luận đặc biệt quan tâm, theo dõi và đòi hỏi có những thông tin khách quan, rõ ràng, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã trao đổi với Tiến sĩ Trần Công Trục, ông Trục đồng ý trả lời các câu hỏi, chất vấn của ông Mai Thái Lĩnh xung quanh vấn đề thác Bản Giốc mà bài báo hôm 3/9 đã đề cập.
Nội dung email phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh về bài báo đã được ông Mai Thái Lĩnh công bố rộng rãi trước đó, do đó chúng tôi không nhắc lại, trong nội dung bài trả lời Tiến sĩ Trần Công Trục chỉ tập trung làm rõ các câu hỏi, chất vấn của ông Mai Thái Lĩnh xung quanh vấn đề thác Bản Giốc, và đây cũng là tâm điểm chú ý của dư luận. Tôn trọng nguyên tắc khách quan, thông tin đa chiều, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài trả lời ông Mai Thái Lĩnh của Tiến sĩ Trần Công Trục.
![]() |
| Tiến sĩ Trần Công Trục |
Qua Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, tôi nhận được e-mail phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh đưa ra 5 vấn đề chất vấn xung quanh bài trả lời phỏng vấn của tôi đối với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam hôm 3/9.
Trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, cùng nỗ lực thu hẹp khoảng cách sự khác biệt trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của công luận quốc tế trong vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên Biển Đông hiện nay, chúng tôi đã đưa ra những phân tích những NHẬN THỨC về quá trình đàm phán phân giới cắm mốc trên biên giới phía Bắc với mong muốn cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác từ những người trực tiếp tham gia công việc này đến dư luận.
Trong quá trình đó chúng tôi có sử dụng bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh để làm sáng tỏ vấn đề dư luận đang quan tâm, chúng tôi không nhằm vào mục đích công kích bất kỳ cá nhân nào, chỉ mong muốn tìm kiếm sự đồng thuận thông qua việc NHẬN THỨC đúng đắn những gì đã diễn ra ngày hôm qua để rút ra bài học cho ngày hôm nay và ngày mai trong công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền hợp pháp của dân tộc. Xin trao đổi cùng ông Mai Thái Lĩnh và dư luận quan tâm xung quanh 5 câu hỏi nhưng tập trung vào 3 vấn đề đã nêu ra trong phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh, như sau:
Thứ nhất, việc đưa vấn đề Sam Rainsy và nhóm chính trị đối lập Campuchia bám vào CHỦ TRƯƠNG “chủ quyền lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch sử” để lật lại quá trình đàm phán phân giới cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia đã diễn ra một cách công khai, minh bạch và đúng luật để “đòi” Việt Nam “trả” cho người Campuchia các bộ phận lãnh thổ của Việt Nam như đảo Thổ Chu, Phú Quốc, thậm chí là toàn bộ miền Nam vào bài trả lời phỏng vấn nhằm phân tích kỹ, phân biệt sự khác nhau giữa CHỦ TRƯƠNG giải quyết tranh chấp lãnh thổ trên cơ sở “chủ quyền lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch sử” (mà trong dư luận hiện nay còn nhiều người lầm tưởng rằng đó là chủ trương của chúng ta trong giải quyết tranh chấp Biển Đông) với CHỦ TRƯƠNG giải quyết tranh chấp lãnh thổ dựa trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế, trong đó có sử dụng các “chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý”.
Cá nhân tôi đã nhiều lần phân tích công khai về sự khác biệt đó bởi rất nhiều người trong thực tế còn mơ hồ giữa 2 CHỦ TRƯƠNG này, dẫn đến đánh đồng hoặc lẫn lộn dẫn tới những hậu quả nguy hiểm, đó chính là quan điểm chính thức của Trung Quốc ở Biển Đông hiện nay cũng như phe đối lập Campuchia ở biên giới Tây Nam mà thực tế không ai chấp nhận được.
Về việc này, nhiều học giả quốc tế đã có những bình luân, đánh giá rất khách quan; chẳng hạn, theo Giáo sư Mohan Malik, việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền bao trùm tới hơn 80% diện tích Biển Đông dựa vào yêu sách “yếu tố lịch sử” đang đi ngược lại với UNCLOS mà chính nước này đã phê chuẩn năm 1996. Hay nói cách khác, các tuyên bố ngang ngược từ quan chức trong chính quyền Bắc Kinh nhận các đảo, đá và các rạn san hô trên Biển Đông là “lãnh thổ từ thời xa xưa” của Trung Quốc; hay việc nước này in cả “đường lưỡi bò” phi pháp lên hộ chiếu và bản đồ mới đây đã trái với tinh thần của UNCLOS về việc bác bỏ các yêu sách “dựa trên lịch sử”.
Do đó, mặc dù Trung Quốc trắng trợn yêu sách hơn 80% Biển Đông là “vùng nước lịch sử” của họ, thì theo cách đó, Mexico cũng được độc quyền chiếm vịnh Mexico, hay Iran đòi Vịnh Ba Tư, và Ấn Độ lấn Ấn Độ Dương y như vậy. Tóm lại, theo giáo sư Mohan Malik, “vấn đề lịch sử” là rất phức tạp và không thể giải thích một cách dễ dãi. Ngay cả khi các yêu sách lịch sử có giá trị nào đó, thì Mông Cổ còn có thể yêu sách tất cả các khu vực tại châu Á, vì họ đã từng chinh phục các vùng đất của châu lục này.
Quan điểm nhất quán của Việt Nam trong đàm phán giải quyết tranh chấp lănh thổ dù là ở biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam hay trên Biển Đông đều chủ trương thông qua đàm phán hòa bình, theo nguyên tắc thỏa thuận, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Chúng ta không dựa vào quan điểm “chủ quyền lịch sử, danh nghĩa lịch sử hay bằng chứng lịch sử” chung chung để giải quyết tranh chấp như nhiều người còn đang nhầm lẫn. Chúng ta chỉ sử dụng các bằng chứng, chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý để đấu tranh bảo vệ chủ quyền.
Thông điệp, mục đích, nội dung xuyên suốt trong bài trả lời phỏng vấn Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam hôm 3/9 đều chỉ xoay quanh vấn đề này, cho nên các tư liệu nêu trong bài “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh được tôi đưa ra làm ví dụ để làm rõ sự khác biệt nói trên, chúng tôi không công kích cá nhân ai, chỉ phân tích, phản biện các quan điểm liên quan đến “lịch sử”, trong đó có quan điểm của ông Mai Thái Lĩnh. Chúng tôi muốn làm rõ những điều đó, giải đáp thắc mắc lâu nay trong dư luận do thiếu thông tin. Những nội dung cụ thể cũng như nguyên nhân của sự khác biệt trong NHẬN THỨC cùng 1 vấn đề, tôi sẽ lần lượt trả lời phía dưới.
Thứ 2, về các tư liệu lịch sử mà ông Mai Thái Lĩnh nêu ra trong phần đầu của bài “Sự thật về thác Bản Giốc”, ông Mai Thái Lĩnh cũng đã thừa nhận trong email phản hồi là nó không nằm trong phạm vi của Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 mà hai bên đã thỏa thuận dùng làm cơ sở để đàm phán, thường được gọi là “đường biên giới do lịch sử để lại”. Các tư liệu do ông Mai Thái Lĩnh trích dẫn chỉ có giá trị tham khảo.
Vấn đề gây tranh cãi nằm ở chỗ một số tài liệu chính thức của ta được phát hành trong giai đoạn những năm 1979 trở về sau, trong đó có cuốn tài liệu “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc” và 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc, [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960, [3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980” được ông Mai Thái Lĩnh sử dụng để bảo vệ luận điểm của mình xung quanh vấn đề thác Bản Giốc, tôi xin nói rõ như sau:
Về nguyên tắc chung tôi đã nói rõ trong bài phỏng vấn ngày 3/9 trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam cũng như nhiều lần đã phân tích, các tài liệu ông Lĩnh nêu ra trên đây mặc dù là tài liệu chính thức của các cơ quan nhà nước Việt Nam ban hành công khai và rộng rãi thời kỳ những năm 1979 nhưng không được xem là “căn cứ pháp lý” được thỏa thuận để làm cơ sở giải quyết tranh chấp biên giới phía Bắc, vì rõ ràng các tài liệu này không phải là bộ phận cấu thành của Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 mà 2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thoa thuận lấy làm căn cứ pháp lý để bai bên tiến hành hoạch định biên giới.
Những người làm công tác đàm phán chúng tôi đã nghiên cứu kỹ các tài liệu ông Mai Thái Lĩnh vừa nêu nên chúng tôi rất hiểu và chia sẻ những băn khoăn của dư luận cũng như của ông Mai Thái Lĩnh.
Giai đoạn cuối những năm 1970, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc hết sức căng thẳng và cuối cùng dẫn tới xung đột, vấn đề tranh chấp biên giới trong nhận thức đơn phương của mỗi bên lúc đó rất khác nhau, đây cũng chính là một trong những cái cớ Trung Quốc vin vào để tấn công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam…
Mọi người đều biết rằng, hệ thống tài liệu tuyên truyền chính thức của cả 2 phía Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn này, trong đó có những nội dung đề cập đến đường biên giới trên bộ giữa 2 nước đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi xu thế chính trị của cả xã hội thời kỳ đó. Hai nước giao tranh, việc phát hành tài liệu liên quan đến đường biên giới, chủ quyền trong các tài liệu tuyên truyền ít nhiều đã mất đi tính khách quan, lại được tuyên truyền thường xuyên và rộng rãi nên những thông tin trong đó ăn sâu vào tiềm thức người dân. Điển hình là việc ta luôn luôn nghĩ toàn bộ thác Bản Giốc là của Việt Nam trong khi người Trung Quốc họ nghĩ toàn bộ thác Bản Giốc mà họ gọi là thác Đức Thiên là của họ.
Đó là một thực tế lịch sử đã xảy ra. Có thể những tài liệu tuyên truyền như vậy là cần thiết, phù hợp trong thời điểm đó khi quan hệ hai bên căng thẳng, xung đột. Nhưng sau khi đã bình thường hóa quan hệ với chủ trương của 2 bên là “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” thì nó không còn phù hợp nữa.
Chúng ta “khép lại” nhưng quên mất việc giải thích, nói rõ cái đúng, cái sai cho dư luận người dân nắm rõ, trong khi cái đúng, cái sai ấy lại liên quan trực tiếp tới vấn đề tranh chấp biên giới lãnh thổ sau này, chính điều đó mới tạo ra những khác biệt về mặt nhận thức dẫn đến băn khoăn trong xã hội về vấn đề biên giới Việt Nam - Trung Quốc như ngày hôm nay, thác Bản Giốc là một điển hình.
Chúng tôi những người làm công tác đàm phán về biên giới lãnh thổ, trước khi đề xuất nội dung thỏa thuận nguyên tắc giải quyết biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc, đương nhiên đã nghiên cứu những tài liệu này, so sánh đối chiếu các nội dung liên quan đến đường biên giới trên bộ giữa Việt Nam - Trung Quốc được đề cập trong đó với Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và các bản đồ, văn kiện đi kèm 2 Công ước.
Ý kiến thống nhất từ trung ương đến địa phương đều cho rằng một số nội dung liên quan tới đường biên giới trên bộ của các tài liệu nêu trên đều không phù hợp, do đó không có căn cứ để đem ra tranh luận, đàm phán. Phía Trung Quốc cũng có những tài liệu tuyên truyền tương tự như vậy, thậm chí còn nhiều hơn ta, nhưng không thể đem những tài liệu này, dù là chính thống, đặt lên bàn đàm phán.
Chúng ta đã chấp nhận nguyên tắc dựa vào Công ước Pháp Thanh 1887, 1895 cùng những bản đồ, biên bản phân giới cắm do Công ước quy định để đàm phán thì phải tuân thủ. Và về quy trình đàm phán, chúng tôi đã có bài phân tích cụ thể trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, trong đó nói rõ đường biên giới chủ trương do nhóm chuyên gia thực hiện công phu và nghiêm túc đã phải được các tỉnh có đường biên giới đi qua xác nhận, các bộ ngành có liên quan xác nhận, trong đó có Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, được Quốc hội chấp thuận thông qua, chúng tôi mới đem đi đàm phán. Điều này có thể trả lời câu hỏi của ông Mai Thái Lĩnh rằng các nhà đàm phán có tham khảo các cơ quan liên quan và các tài liệu như ông nêu ra trong bài viết hay không.
Ở đây, tôi xin nói thêm rằng sự khác biệt trong nhận thức ngày hôm nay chính là hệ quả của công tác tuyên truyền ngày hôm qua, khi chúng ta chưa kịp thay đổi, thích ứng theo những diễn biến mới của thời cuộc. Tôi không phủ nhận những giá trị của các tài liệu chính thức của ta mà ông Mai Thái Lĩnh đề cập, nhưng nó chỉ có giá trị trong thời điểm đó và bối cảnh đó, những tài liệu như vậy không thể mang đi đàm phán. Tôi cũng không đổ lỗi cho ai, chỉ muốn nhấn mạnh rằng đó là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử có quá nhiều biến động và còn thiếu nhiều thông tin, nên ngày nay chúng ta cần bình tĩnh để nhìn nhận lại cho rõ cái đúng, cái sai.
Chúng ta muốn bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ thì phải hết sức cầu thị, cái gì đúng chúng ta kiên quyết bảo vệ, cái gì sai, chúng ta phải dũng cảm điều chỉnh. Có như vậy đàm phán mới có kết quả, nguyên tắc pháp lý mới được tôn trọng. Tôi tin rằng đại đa số người dân cũng như công luận quốc tế, khu vực và ngay cả đối tượng đàm phán của chúng ta cũng đều hoan nghênh thái độ cầu thị này.
Đối với phía Trung Quốc, những gì họ nêu ra là bất hợp lý, không thuyết phục khi đàm phán biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ, chúng tôi đều bác bỏ để tôn trọng và giữ thỏa thuận nguyên tắc chung. Ngày nay, chúng ta muốn bác bỏ đường lưỡi bò “lịch sử” của Trung Quốc ở Biển Đông thì chính chúng ta phải sòng phẳng với nhau về các bằng chứng lịch sử của chúng ta, trong đó nghiên cứu tìm tòi và đưa ra những bằng chứng lịch sử có giá trị và sức nặng pháp lý nhất để đấu tranh bảo vệ chủ quyền chứ không thể dựa vào “chủ trương lịch sử, quan điểm lịch sử hay bằng chứng lịch sử” chung chung như chính cách Trung Quốc đã và đang làm.
Nói rõ điểm này, tôi thiết nghĩ không cần phân tích sâu vào khái niệm “đường biên giới do lịch sử để lại” được đề cập trong các tài liệu mà ông Mai Thái Lĩnh trích dẫn, độc giả cũng có thể dễ dàng hiểu được tại sao.
Thứ 3, quan điểm ông Mai Thái Lĩnh cho rằng những người đàm phán chúng tôi đã “mắc mưu Trung Quốc” khi chấp nhận lấy Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và các bản đồ, văn kiện mô tả đường biên giới được quy định bởi 2 Công ước trên làm căn cứ đàm phán, vì trình độ kỹ thuật thời đó không thể mô tả, vẽ một cách chính xác đường biên giới, nhất là chưa có tọa độ địa lý chính xác, chúng tôi xin thưa lại như sau: Nếu cuối thế kỷ 19 Pháp với vai trò Nhà nước bảo hộ của Việt Nam về mặt đối ngoại cùng với nhà Thanh, Trung Quốc mà phân giới cắm mốc thành một đường biên giới rõ ràng, hoàn chỉnh và hiện đại như ngày nay thì làm gì còn tranh chấp. Lúc đó nếu có tranh chấp vì nguyên nhân nào đó thì chỉ cần sau khi thỏa thuận nguyên tắc chung xong, 2 bên lôi Công ước và bản đồ văn kiện đi kèm ra đối chiếu là xong, cần gì đàm phán.
Các bằng chứng lịch sử như bản đồ, thư tịch...chúng tôi đã tham khảo khi hoạch định đường biên giới chủ trương trước lúc mang đi đàm phán, và khi trao bản đồ đường biên giới chủ trương 2 bên đã trùng nhau 70%, 30% còn lại là các khu vực tranh chấp, lúc này mới là giai đoạn đưa các chứng cứ ra chứng minh. Khi chúng ta đưa ra các bản đồ, thư tịch và bằng chứng lịch sử khác không nằm trong phạm vi nguyên tắc chung quy định, thì Trung Quốc họ cũng làm tương tự, và tài liệu của họ còn nhiều hơn ta. Chưa bàn đến độ chính xác đến đâu, nhưng đàm phán như vậy sẽ rơi vào ngõ cụt, bế tắc vì đánh mất nguyên tắc chung khi ai cũng khăng khăng là “bằng chứng lịch sử” của mình đúng.
Dưới góc độ cá nhân là người trực tiếp tham gia quá trình đàm phán, hoạch định phân giới cắm mốc biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, vịnh Bắc Bộ, tôi phân tích cụ thể ví dụ về thác Bản Giốc vừa để cung cấp thêm thông tin cho dư luận đang quan tâm, thắc mắc, nhưng đồng thời còn muốn nói rõ câu chuyện đang diễn ra ngoài Biển Đông, để tránh lặp lại những nhận thức sai lệch không đáng có.
Những chất vấn của ông Mai Thái Lĩnh, đồng thời cũng là những thông tin tôi nghĩ nhiều người đang quan tâm tìm hiểu, tôi đã đề cập trong nội dung trả lời này. Nhưng câu chuyện về biên giới lãnh thổ luôn luôn không hề đơn giản, những ai quan tâm có thể đọc những bài trả lời phỏng vấn của tôi trên các phương tiện truyền thông để có thêm các thông tin một cách hệ thống, đầy đủ và có điều kiện để so sánh, đối chiếu, tìm ra cái đúng, cái sai.
Cuối cùng, cá nhân tôi mong muốn thông qua quá trình trao đổi, đối thoại để thu hẹp khoảng cách trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ sao cho có lợi nhất cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hợp pháp của quốc gia, dân tộc, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông ngày càng gia tăng và tiềm ẩn những nhân tố khó lường.
Tiến sĩ Trần Công Trục
Bởi Mắt Bão
06/09/2013
2 phản hồi
Tác giả gửi đến Dân Luận
Ngày 3-9-2013 vừa qua, báo điện tử Giáo dục Việt Nam đã đăng bài “Sự thật về Thác Bản Giốc và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử”[1],
thực ra là một bài phỏng vấn ông Tiến sĩ Trần Công Trục (nguyên Trưởng
ban Biên giới chính phủ, người trực tiếp tham gia đàm phán hoạch định
biên giới Việt Nam – Trung Quốc nói chung, khu vực Thác Bản Giốc nói
riêng) do phóng viên Hồng Thủy thực hiện. Vì bài phỏng vấn nhằm vào cá
nhân tôi và bài viết của tôi nhan đề “Sự thật về Thác Bản Giốc”[2], tôi thấy cần phải làm rõ một số điểm được nêu trong bài phỏng vấn, nhằm tránh sự hiểu lầm cho người đọc.
1) Bài phỏng vấn được mở đầu như sau: “Thời gian gần đây một số hãng truyền thông phương Tây và các trang mạng xã hội đăng tải bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh, trong đó có những nhận định và quy chụp hết sức chủ quan khi cho rằng Việt Nam đã bán đất cho Trung Quốc khiến dư luận có nhiều ý kiến khác nhau, trong đó nhiều người vẫn cảm thấy mơ hồ khi nhắc tới địa danh này”.
Ngay từ lời giới thiệu này, Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam đã tỏ ra không sòng phẳng và thể hiện sự “quy chụp”.
Trước hết, nói “thời gian gần đây” là không đúng sự thật. Bài viết của tôi hoàn thành xong đã gửi đăng trên một số trang mạng vào thượng tuần tháng 2 năm 2012 (trên trang Bauxite Vietnam là vào hai ngày 10 và 11-2-2012). Ngoài ra còn có nhiều trang mạng khác đã đăng lại, nhưng chậm nhất cũng chỉ trong tháng 3 năm 2012, như vậy là đã một năm rưỡi.
Khi rút ngắn thời gian một năm rưỡi bằng cụm từ “thời gian gần đây”, cả tòa soạn báo lẫn phóng viên Hồng Thủy đã cùng với ông Trần Công Trục tìm cách gán ghép bài viết của tôi với một sự kiện nóng hổi mới xảy ra gần đây. Đó là việc ông Sam Rainsy – lãnh đạo đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia, đang tố cáo phía Việt Nam lấy đất của Kampuchea. Đây là một dụng ý không tử tế nhằm đánh lạc hướng dư luận. Bởi vì bất cứ ai đọc kỹ các bài viết của tôi đều thấy rõ giữa quan niệm của tôi và quan niệm của ông Sam Rainsy, không có gì giống nhau. Điểm căn bản là ở chỗ: ông Sam Rainsy là một nhà chính trị, đứng đầu một đảng chính trị ở nước láng giềng, muốn lấy lòng cử tri nên kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi, còn tôi tuy luôn luôn bàn đến chính trị, nhưng lại không liên quan đến một đảng chính trị nào, vì thế không có động cơ phe phái. Hơn thế nữa, tôi cũng không liên quan gì đến cái mà ông Tiến sĩ Trần Công Trục gọi là “quan niệm về chủ quyền lịch sử”, nghĩa là “ngày xưa cha ông ta ở đâu thì đất đó là của Việt Nam”. Hãy đọc kỹ các bài viết của tôi về vấn đề biên giới Việt-Trung. Bất cứ bài nào cũng chỉ nhằm để bảo vệ “đường biên giới lịch sử” đã tồn tại từ khi có các công ước Pháp-Thanh vào cuối thế kỷ 19. Mà đường biên giới lịch sử này thì chính các tiền bối của ông Tiến sĩ Trần Công Trục trong Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như trong ngành ngoại giao cũng đã từng coi là căn cứ quan trọng nhất trong các cuộc đàm phán với phía Trung Quốc.
Tôi xin phép trích dẫn một đoạn văn trong cuốn “bị vong lục” (memorandum) do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979 để làm rõ vấn đề:
2) Ngay trong lời giới thiệu bài phỏng vấn cũng như trong câu hỏi của phóng viên, câu trả lời của ông Tiến sĩ Trần Công Trục, đều có những sự xuyên tạc đầy ác ý nhằm kích động người đọc nghĩ xấu về tôi. Xin dẫn chứng một số ví dụ sau:
“- PV: Quay lại câu chuyện tài liệu “Sự thật thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh đưa ra các tài liệu lịch sử, chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng toàn bộ ngọn thác này thuộc chủ quyền của Việt Nam và quy kết các nhà đàm phán, lãnh đạo Việt Nam đã nhân nhượng vô nguyên tắc, bán đất cho TQ. […]”
- “Câu chuyện về Sam Rainsy và một số nhóm chính trị đối lập tại Campuchia viện dẫn những quan điểm sai trái về chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử để đưa ra những tuyên bố vô lý về vấn đề chủ quyền, gây rối loạn xã hội Campuchia, chia rẽ quan hệ Campuchia – Việt Nam. Điều này không khác gì hiện nay trong dư luận đang sử dụng yếu tố lịch sử để lật lại vấn đề đàm phán biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và tung tin các nhà đàm phán Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam bán đất cho Trung Quốc.” (Trích lời ông Trần Công Trục).
Đây là điều bịa đặt nhằm mục đích kích động dư luận. Trong toàn bộ bài viết của tôi, tuyệt nhiên không có chỗ nào nói “lãnh đạo Việt Nam bán đất cho Trung Quốc.” Chỉ có một đoạn như sau liên quan đến chữ “bán”: “Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc.” Nhưng câu này không phải là lời của tôi, mà chỉ là câu trích dẫn lời nói của ông Lê Công Phụng – nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.
3) Ông Trần Công Trục nói: “Công ước Pháp – Thanh 1887 và Công ước Pháp – Thanh bổ sung 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo được công ước trên xác nhận và quy định mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán các khu vực có tranh chấp về chủ quyền. Tất cả các tài liệu, chứng cứ lịch sử như bản đồ, thư tịch, sách giáo khoa, bưu ảnh, ghi chép cá nhân nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên đều không được chấp nhận, kể cả là ta hay TQ.”
Đúng là một số tài liệu tôi nêu ra chỉ là tài liệu dùng để tham khảo, không phải là căn cứ pháp lý. Nhưng nêu những tài liệu đó là điều cần thiết để chứng minh một sự thật: ít nhất là từ khi nhà Thanh và người Pháp ký các công ước về biên giới vào cuối thế kỷ 19 cho đến khi có hiệp định 1999, toàn bộ Thác Bản Giốc vẫn thuộc về nước ta.
Mặc dù ông Trục khoe rằng “đã đọc kỹ bài viết này của ông Mai Thái Lĩnh”, trong thực tế ông đã không đọc kỹ bài viết đó. Vì vậy ông đã không nhận ra “những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý”. Trong phần kết luận, tôi đã viết như sau:
Nếu ông Trục không coi đây là những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý thì ông phải nói rõ lý do, chứ không nên lờ đi, vì các bằng chứng này có liên quan đến chính quyền mà ông Trục phục vụ, và cả Đảng Cộng sản Việt Nam – mà ông Trục là một thành viên.
4) Ông Trần Công Trục luôn mồm rao giảng về sự khác nhau giữa một bên là “chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử, quan điểm lịch sử” và bên kia là “các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ theo luật pháp quốc tế”. Tự coi mình là người am hiểu và nắm vững vấn đề hơn người khác, ông luôn mồm chê bai người khác là “nhầm lẫn”, là “nhận thức hạn chế”, v.v. và v.v.
Vì vậy, tôi thấy cần nhấn mạnh đến “những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý” trích từ cuốn Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc xuất bản năm 1979, mục II (Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay), nói về việc “nhà cầm quyền Trung Quốc đã lần lượt lấn chiếm hết khu vực này đến khu vực khác của Việt Nam, từ khu vực nhỏ hẹp đến khu vực to lớn, từ khu vực quan trọng về quân sự đến khu vực quan trọng về kinh tế”:
Riêng tôi thì tin rằng khi viết những dòng chữ này trong bản “bị vong lục” năm 1979, Bộ Ngoại giao do cố Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch[4] lãnh đạo đã có sẵn những chứng cứ pháp lý cụ thể kèm theo. Nếu ông Trần Công Trục thật sự có “tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước” thì ông nên đề nghị ông đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh mở kho lưu trữ để công bố các hồ sơ nêu trên cho toàn dân biết. Trong các hồ sơ đó, dĩ nhiên có cả những bản đồ chi tiết về cột mốc 53, về cồn Pò Thoong, v.v… – nhất là chứng cứ về việc Trung Quốc đã sửa bản đồ tỷ lệ 1/100.000 như thế nào nhằm “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”.
Cũng cần nhấn mạnh đến ý kiến của ông Tiến sĩ Trần Công Trục cho rằng chỉ có “các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo” hai công ước Pháp-Thanh và được hai công ước ấy “xác nhận và quy định” mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán, còn tất cả các chứng cứ khác (kể cả bản đồ) “nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên” đều không được chấp nhận. Theo tôi, một khi đã chấp nhận điều kiện này, ông Trục và những người tham gia đàm phán về phía Việt Nam đã rơi vào bẫy của phía Trung Quốc.
Vì sao? Vào cuối thế kỷ 19, khi ký kết các công ước giữa Pháp và nhà Thanh, trình độ kỹ thuật chưa cho phép người ta vẽ bản đồ với độ chính xác cao, nhất là chưa có tọa độ địa lý. Vì vậy nếu chỉ dựa vào những bản vẽ ấy, không thể xác định được chính xác các cột mốc biên giới. Chính phía Trung Quốc cũng biết rõ như thế cho nên họ mới tìm cách “sửa bản đồ”, “dời cột mốc”, và sau khi đã ký được hiệp định 1999, hoàn thành việc cắm mốc, họ đã vội vàng dỡ bỏ mọi cột mốc lịch sử để “phi tang”, xóa dấu tích nhằm che giấu những việc làm ám muội của họ.
Vì thế, cần phải căn cứ vào các tài liệu – nhất là bản đồ của thời Pháp thuộc, để xác định đường biên giới Pháp-Thanh đã được thể hiện rõ ràng trên thực tế. Cho đến nay, các nhà ngoại giao tham gia đàm phán (kể cả ông Trần Công Trục) đều cố tình lờ đi hai tài liệu quan trọng: bản đồ gốc tỷ lệ 1/100.000 (tức là bản đồ do người Pháp in trước năm 1954) và bản đồ in lại đã bị Trung Quốc sửa chữa. Chính sự mờ ám đó khiến cho nhân dân hoài nghi vào “lòng yêu nước”, “tính trung thực” của những người tham gia đàm phán hiệp định biên giới Việt-Trung, chứ không phải là do những bài viết của tôi và các nhà nghiên cứu khác.
Điều mà các bài viết của tôi nhắm tới chính là “đường biên giới do lịch sử để lại” mà bản “bị vong lục” năm 1979 đã nhiều lần nhắc tới. Đường biên giới lịch sử ấy chính là đường biên giới do các công ước Pháp-Thanh quy định vào cuối thế kỷ 19. Đường biên giới lịch sử ấy có thật sự được tôn trọng hay không? Hiệp định biên giới trên bộ năm 1999 có bảo đảm được “đường biên giới lịch sử” ấy hay không? Đó mới thật sự là điều những người Việt Nam yêu nước băn khoăn, lo nghĩ.
Vì vậy, không thể đánh lận con đen, quy tôi vào quan niệm “chủ quyền lịch sử” theo kiểu của Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam và ông Tiến sĩ Trần Công Trục. Tôi đâu có đòi lại đất Quảng Tây hay Quảng Đông mà bảo tôi “nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử”?
Cuối cùng, tôi đọc được câu sau đây trên trang mạng Giáo dục Việt Nam – cơ quan ngôn luận của “Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng ngoài công lập”: “Mọi ý kiến nhận xét, phản biện về các nội dung trong bài viết trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam sẵn sàng đăng tải. Tiến sĩ Trần Công Trục sẵn sàng trao đổi để làm rõ những thắc mắc, nghi vấn xung quanh vấn đề này.”
Dựa trên tinh thần đó, tôi chính thức đề nghị báo điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải bài viết này cùng với toàn văn bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” bên cạnh bài trả lời phỏng vấn của ông Trần Công Trục để độc giả tiện so sánh, đánh giá, phản biện.
Đà Lạt ngày 5-9-2013
Mai Thái Lĩnh
___________________________________
[1] “Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, Thứ ba 3-9-2013:
http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Su-that-ve-Thac-Ban-Gioc-va-nhan-thuc-sai-lam-ve-chu-quyen-lich-su/315145.gd
[2] Mai Thái Lĩnh, Sự thật về Thác Bản Giốc,
https://danluan.org/tin-tuc/20120211/mai-thai-linh-su-that-ve-thac-ban-gioc-phan-i
https://danluan.org/tin-tuc/20120211/mai-thai-linh-su-that-ve-thac-ban-gioc-phan-ii
[3] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1979, trang 34-36. Những đoạn gạch dưới là do tôi nhấn mạnh (MTL).
[4] Theo Wikipedia bản tiếng Việt, ông Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương) là thân sinh của ông Phạm Bình Minh – Bộ trưởng Ngoại giao hiện nay.
1) Bài phỏng vấn được mở đầu như sau: “Thời gian gần đây một số hãng truyền thông phương Tây và các trang mạng xã hội đăng tải bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh, trong đó có những nhận định và quy chụp hết sức chủ quan khi cho rằng Việt Nam đã bán đất cho Trung Quốc khiến dư luận có nhiều ý kiến khác nhau, trong đó nhiều người vẫn cảm thấy mơ hồ khi nhắc tới địa danh này”.
Ngay từ lời giới thiệu này, Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam đã tỏ ra không sòng phẳng và thể hiện sự “quy chụp”.
Trước hết, nói “thời gian gần đây” là không đúng sự thật. Bài viết của tôi hoàn thành xong đã gửi đăng trên một số trang mạng vào thượng tuần tháng 2 năm 2012 (trên trang Bauxite Vietnam là vào hai ngày 10 và 11-2-2012). Ngoài ra còn có nhiều trang mạng khác đã đăng lại, nhưng chậm nhất cũng chỉ trong tháng 3 năm 2012, như vậy là đã một năm rưỡi.
Khi rút ngắn thời gian một năm rưỡi bằng cụm từ “thời gian gần đây”, cả tòa soạn báo lẫn phóng viên Hồng Thủy đã cùng với ông Trần Công Trục tìm cách gán ghép bài viết của tôi với một sự kiện nóng hổi mới xảy ra gần đây. Đó là việc ông Sam Rainsy – lãnh đạo đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia, đang tố cáo phía Việt Nam lấy đất của Kampuchea. Đây là một dụng ý không tử tế nhằm đánh lạc hướng dư luận. Bởi vì bất cứ ai đọc kỹ các bài viết của tôi đều thấy rõ giữa quan niệm của tôi và quan niệm của ông Sam Rainsy, không có gì giống nhau. Điểm căn bản là ở chỗ: ông Sam Rainsy là một nhà chính trị, đứng đầu một đảng chính trị ở nước láng giềng, muốn lấy lòng cử tri nên kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi, còn tôi tuy luôn luôn bàn đến chính trị, nhưng lại không liên quan đến một đảng chính trị nào, vì thế không có động cơ phe phái. Hơn thế nữa, tôi cũng không liên quan gì đến cái mà ông Tiến sĩ Trần Công Trục gọi là “quan niệm về chủ quyền lịch sử”, nghĩa là “ngày xưa cha ông ta ở đâu thì đất đó là của Việt Nam”. Hãy đọc kỹ các bài viết của tôi về vấn đề biên giới Việt-Trung. Bất cứ bài nào cũng chỉ nhằm để bảo vệ “đường biên giới lịch sử” đã tồn tại từ khi có các công ước Pháp-Thanh vào cuối thế kỷ 19. Mà đường biên giới lịch sử này thì chính các tiền bối của ông Tiến sĩ Trần Công Trục trong Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như trong ngành ngoại giao cũng đã từng coi là căn cứ quan trọng nhất trong các cuộc đàm phán với phía Trung Quốc.
Tôi xin phép trích dẫn một đoạn văn trong cuốn “bị vong lục” (memorandum) do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979 để làm rõ vấn đề:
“Lập trường của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được nêu rõ trong Công hàm ngày 2 tháng 3 năm 1979 gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc: những người cầm quyền Trung Quốc đã gây chiến tranh xâm lược Việt Nam thì họ phải vĩnh viễn chấm dứt xâm lược; phải rút ngay, rút hết, rút không điều kiện quân đội của họ về phía bên kia đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã thoả thuận; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.“Đường biên giới lịch sử” mà văn bản này nói đến chính là đường biên giới được hoạch định bởi các công ước Pháp-Thanh ký hồi cuối thế kỷ 19.
Ngày 6 tháng 3 năm 1979, phía Việt Nam đã tuyên bố:
“Nếu Trung Quốc thật sự rút toàn bộ quân của họ khỏi lãnh thổ Việt Nam như họ đã tuyên bố, thì sau khi quân Trung Quốc rút hết về bên kia đường biên giới lịch sử đã được hai bên thoả thuận tôn trọng, phía Việt Nam sẵn sàng đàm phán ngay với phía Trung Quốc ở cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao về việc khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước. Địa điểm và thời gian sẽ do hai bên thoả thuận.”
Nếu những người cầm quyền Trung Quốc tiếp tục chính sách xâm lược chống Việt Nam thì quân và dân Việt Nam sẽ dùng quyền tự vệ thiêng liêng, kiên quyết chiến đấu chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam quyết tiếp tục làm hết sức mình gìn giữ tình hữu nghị truyền thống với nhân dân Trung Quốc. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiên quyết đòi nhà cầm quyền Trung Quốc:
[1] Vĩnh viễn chấm dứt xâm lược, phải rút ngay, rút không điều kiện quân đội của họ về nước; chấm dứt mọi hành động tội ác đối với nhân dân Việt Nam; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; tôn trọng đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã thoả thuận; phải chấm dứt ngay việc dời cột mốc biên giới và những hành động khác nhằm thay đổi đường biên giới đó.
[2] Cùng phía Việt Nam sớm mở cuộc thương lượng nêu trong Công hàm ngày 15 tháng 3 năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhằm đem lại hoà bình và ổn định ở vùng biên giới giữa hai nước, khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước.”[3]
2) Ngay trong lời giới thiệu bài phỏng vấn cũng như trong câu hỏi của phóng viên, câu trả lời của ông Tiến sĩ Trần Công Trục, đều có những sự xuyên tạc đầy ác ý nhằm kích động người đọc nghĩ xấu về tôi. Xin dẫn chứng một số ví dụ sau:
“- PV: Quay lại câu chuyện tài liệu “Sự thật thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh đưa ra các tài liệu lịch sử, chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng toàn bộ ngọn thác này thuộc chủ quyền của Việt Nam và quy kết các nhà đàm phán, lãnh đạo Việt Nam đã nhân nhượng vô nguyên tắc, bán đất cho TQ. […]”
- “Câu chuyện về Sam Rainsy và một số nhóm chính trị đối lập tại Campuchia viện dẫn những quan điểm sai trái về chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử để đưa ra những tuyên bố vô lý về vấn đề chủ quyền, gây rối loạn xã hội Campuchia, chia rẽ quan hệ Campuchia – Việt Nam. Điều này không khác gì hiện nay trong dư luận đang sử dụng yếu tố lịch sử để lật lại vấn đề đàm phán biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và tung tin các nhà đàm phán Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam bán đất cho Trung Quốc.” (Trích lời ông Trần Công Trục).
Đây là điều bịa đặt nhằm mục đích kích động dư luận. Trong toàn bộ bài viết của tôi, tuyệt nhiên không có chỗ nào nói “lãnh đạo Việt Nam bán đất cho Trung Quốc.” Chỉ có một đoạn như sau liên quan đến chữ “bán”: “Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc.” Nhưng câu này không phải là lời của tôi, mà chỉ là câu trích dẫn lời nói của ông Lê Công Phụng – nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.
3) Ông Trần Công Trục nói: “Công ước Pháp – Thanh 1887 và Công ước Pháp – Thanh bổ sung 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo được công ước trên xác nhận và quy định mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán các khu vực có tranh chấp về chủ quyền. Tất cả các tài liệu, chứng cứ lịch sử như bản đồ, thư tịch, sách giáo khoa, bưu ảnh, ghi chép cá nhân nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên đều không được chấp nhận, kể cả là ta hay TQ.”
Đúng là một số tài liệu tôi nêu ra chỉ là tài liệu dùng để tham khảo, không phải là căn cứ pháp lý. Nhưng nêu những tài liệu đó là điều cần thiết để chứng minh một sự thật: ít nhất là từ khi nhà Thanh và người Pháp ký các công ước về biên giới vào cuối thế kỷ 19 cho đến khi có hiệp định 1999, toàn bộ Thác Bản Giốc vẫn thuộc về nước ta.
Mặc dù ông Trục khoe rằng “đã đọc kỹ bài viết này của ông Mai Thái Lĩnh”, trong thực tế ông đã không đọc kỹ bài viết đó. Vì vậy ông đã không nhận ra “những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý”. Trong phần kết luận, tôi đã viết như sau:
“Trước hết, về căn cứ pháp lý để chứng minh chủ quyền của nước ta đối với Thác Bản Giốc, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có trong tay ít nhất là 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc, [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960, [3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980.”Và tôi đã đặt câu hỏi: “… tại sao các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng đã bỏ qua, không sử dụng những tài liệu này trong đàm phán?”.
Nếu ông Trục không coi đây là những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý thì ông phải nói rõ lý do, chứ không nên lờ đi, vì các bằng chứng này có liên quan đến chính quyền mà ông Trục phục vụ, và cả Đảng Cộng sản Việt Nam – mà ông Trục là một thành viên.
4) Ông Trần Công Trục luôn mồm rao giảng về sự khác nhau giữa một bên là “chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử, quan điểm lịch sử” và bên kia là “các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ theo luật pháp quốc tế”. Tự coi mình là người am hiểu và nắm vững vấn đề hơn người khác, ông luôn mồm chê bai người khác là “nhầm lẫn”, là “nhận thức hạn chế”, v.v. và v.v.
Vì vậy, tôi thấy cần nhấn mạnh đến “những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý” trích từ cuốn Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc xuất bản năm 1979, mục II (Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay), nói về việc “nhà cầm quyền Trung Quốc đã lần lượt lấn chiếm hết khu vực này đến khu vực khác của Việt Nam, từ khu vực nhỏ hẹp đến khu vực to lớn, từ khu vực quan trọng về quân sự đến khu vực quan trọng về kinh tế”:
“[3] Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam.Đề nghị ông Tiến sĩ Trần Công Trục cho biết: những hồ sơ nêu trên có phải là “những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý” hay không?
Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn đất.
Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc.” (tr. 11-12)
“[7] Lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam để chuyển dịch đường biên giới.
Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong.” (trang 14)
Riêng tôi thì tin rằng khi viết những dòng chữ này trong bản “bị vong lục” năm 1979, Bộ Ngoại giao do cố Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch[4] lãnh đạo đã có sẵn những chứng cứ pháp lý cụ thể kèm theo. Nếu ông Trần Công Trục thật sự có “tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước” thì ông nên đề nghị ông đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh mở kho lưu trữ để công bố các hồ sơ nêu trên cho toàn dân biết. Trong các hồ sơ đó, dĩ nhiên có cả những bản đồ chi tiết về cột mốc 53, về cồn Pò Thoong, v.v… – nhất là chứng cứ về việc Trung Quốc đã sửa bản đồ tỷ lệ 1/100.000 như thế nào nhằm “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”.
Cũng cần nhấn mạnh đến ý kiến của ông Tiến sĩ Trần Công Trục cho rằng chỉ có “các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo” hai công ước Pháp-Thanh và được hai công ước ấy “xác nhận và quy định” mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán, còn tất cả các chứng cứ khác (kể cả bản đồ) “nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên” đều không được chấp nhận. Theo tôi, một khi đã chấp nhận điều kiện này, ông Trục và những người tham gia đàm phán về phía Việt Nam đã rơi vào bẫy của phía Trung Quốc.
Vì sao? Vào cuối thế kỷ 19, khi ký kết các công ước giữa Pháp và nhà Thanh, trình độ kỹ thuật chưa cho phép người ta vẽ bản đồ với độ chính xác cao, nhất là chưa có tọa độ địa lý. Vì vậy nếu chỉ dựa vào những bản vẽ ấy, không thể xác định được chính xác các cột mốc biên giới. Chính phía Trung Quốc cũng biết rõ như thế cho nên họ mới tìm cách “sửa bản đồ”, “dời cột mốc”, và sau khi đã ký được hiệp định 1999, hoàn thành việc cắm mốc, họ đã vội vàng dỡ bỏ mọi cột mốc lịch sử để “phi tang”, xóa dấu tích nhằm che giấu những việc làm ám muội của họ.
Vì thế, cần phải căn cứ vào các tài liệu – nhất là bản đồ của thời Pháp thuộc, để xác định đường biên giới Pháp-Thanh đã được thể hiện rõ ràng trên thực tế. Cho đến nay, các nhà ngoại giao tham gia đàm phán (kể cả ông Trần Công Trục) đều cố tình lờ đi hai tài liệu quan trọng: bản đồ gốc tỷ lệ 1/100.000 (tức là bản đồ do người Pháp in trước năm 1954) và bản đồ in lại đã bị Trung Quốc sửa chữa. Chính sự mờ ám đó khiến cho nhân dân hoài nghi vào “lòng yêu nước”, “tính trung thực” của những người tham gia đàm phán hiệp định biên giới Việt-Trung, chứ không phải là do những bài viết của tôi và các nhà nghiên cứu khác.
Điều mà các bài viết của tôi nhắm tới chính là “đường biên giới do lịch sử để lại” mà bản “bị vong lục” năm 1979 đã nhiều lần nhắc tới. Đường biên giới lịch sử ấy chính là đường biên giới do các công ước Pháp-Thanh quy định vào cuối thế kỷ 19. Đường biên giới lịch sử ấy có thật sự được tôn trọng hay không? Hiệp định biên giới trên bộ năm 1999 có bảo đảm được “đường biên giới lịch sử” ấy hay không? Đó mới thật sự là điều những người Việt Nam yêu nước băn khoăn, lo nghĩ.
Vì vậy, không thể đánh lận con đen, quy tôi vào quan niệm “chủ quyền lịch sử” theo kiểu của Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam và ông Tiến sĩ Trần Công Trục. Tôi đâu có đòi lại đất Quảng Tây hay Quảng Đông mà bảo tôi “nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử”?
Cuối cùng, tôi đọc được câu sau đây trên trang mạng Giáo dục Việt Nam – cơ quan ngôn luận của “Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng ngoài công lập”: “Mọi ý kiến nhận xét, phản biện về các nội dung trong bài viết trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam sẵn sàng đăng tải. Tiến sĩ Trần Công Trục sẵn sàng trao đổi để làm rõ những thắc mắc, nghi vấn xung quanh vấn đề này.”
Dựa trên tinh thần đó, tôi chính thức đề nghị báo điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải bài viết này cùng với toàn văn bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” bên cạnh bài trả lời phỏng vấn của ông Trần Công Trục để độc giả tiện so sánh, đánh giá, phản biện.
Đà Lạt ngày 5-9-2013
Mai Thái Lĩnh
___________________________________
[1] “Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, Thứ ba 3-9-2013:
http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Su-that-ve-Thac-Ban-Gioc-va-nhan-thuc-sai-lam-ve-chu-quyen-lich-su/315145.gd
[2] Mai Thái Lĩnh, Sự thật về Thác Bản Giốc,
https://danluan.org/tin-tuc/20120211/mai-thai-linh-su-that-ve-thac-ban-gioc-phan-i
https://danluan.org/tin-tuc/20120211/mai-thai-linh-su-that-ve-thac-ban-gioc-phan-ii
[3] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1979, trang 34-36. Những đoạn gạch dưới là do tôi nhấn mạnh (MTL).
[4] Theo Wikipedia bản tiếng Việt, ông Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương) là thân sinh của ông Phạm Bình Minh – Bộ trưởng Ngoại giao hiện nay.
SỰ THẬT VỀ THÁC BẢN GIỐC : AI LÀ NGƯỜI NHẬN THỨC SAI LẦM?
Ngày 3-9-2013 vừa qua, báo điện tử
Giáo dục Việt Nam đã đăng bài “Sự thật
về Thác Bản Giốc và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử”[1],
thực ra là một bài phỏng vấn ông Tiến sĩ Trần Công Trục (nguyên Trưởng ban Biên giới chính
phủ, người trực tiếp tham gia đàm phán hoạch định biên giới Việt Nam – Trung Quốc
nói chung, khu vực Thác Bản Giốc nói riêng) do phóng viên Hồng Thủy thực hiện. Vì bài phỏng
vấn nhằm vào cá nhân tôi và bài viết của tôi nhan đề “Sự thật về Thác Bản Giốc”[2],
tôi thấy cần phải làm rõ một số điểm được nêu trong bài phỏng vấn, nhằm tránh sự
hiểu lầm cho người đọc.1) Bài phỏng vấn được mở đầu như sau: “Thời gian gần đây một số hãng truyền thông phương Tây và các trang mạng xã hội đăng tải bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh, trong đó có những nhận định và quy chụp hết sức chủ quan khi cho rằng Việt Nam đã bán đất cho Trung Quốc khiến dư luận có nhiều ý kiến khác nhau, trong đó nhiều người vẫn cảm thấy mơ hồ khi nhắc tới địa danh này.”
Ngay từ lời giới thiệu này, Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam đã tỏ ra không sòng phẳng và thể hiện sự “quy chụp”.
Trước hết, nói “thời gian gần đây” là không đúng sự thật. Bài viết của tôi hoàn thành xong đã gửi đăng trên một số trang mạng vào thượng tuần tháng 2 năm 2012 (trên trang Bauxite Vietnam là vào hai ngày 10 và 11-2-2012). Ngoài ra còn có nhiều trang mạng khác đã đăng lại, nhưng chậm nhất cũng chỉ trong tháng 3 năm 2012, như vậy là đã một năm rưỡi.
Khi rút ngắn thời gian một năm rưỡi bằng cụm từ “thời gian gần đây”, cả tòa soạn báo lẫn phóng viên Hồng Thủy đã cùng với ông Trần Công Trục tìm cách gán ghép bài viết của tôi với một sự kiện nóng hổi mới xảy ra gần đây. Đó là việc ông Sam Rainsy - lãnh đạo đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia, đang tố cáo phía Việt Nam lấy đất của Kampuchea. Đây là một dụng ý không tử tế nhằm đánh lạc hướng dư luận. Bởi vì bất cứ ai đọc kỹ các bài viết của tôi đều thấy rõ giữa quan niệm của tôi và quan niệm của ông Sam Rainsy, không có gì giống nhau. Điểm căn bản là ở chỗ: ông Sam Rainsy là một nhà chính trị, đứng đầu một đảng chính trị ở nước láng giềng, muốn lấy lòng cử tri nên kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi, còn tôi tuy luôn luôn bàn đến chính trị, nhưng lại không liên quan đến một đảng chính trị nào, vì thế không có động cơ phe phái. Hơn thế nữa, tôi cũng không liên quan gì đến cái mà ông Tiến sĩ Trần Công Trục gọi là “quan niệm về chủ quyền lịch sử”, nghĩa là “ngày xưa cha ông ta ở đâu thì đất đó là của Việt Nam”. Hãy đọc kỹ các bài viết của tôi về vấn đề biên giới Việt-Trung. Bất cứ bài nào cũng chỉ nhằm để bảo vệ “đường biên giới lịch sử” đã tồn tại từ khi có các công ước Pháp-Thanh vào cuối thế kỷ 19. Mà đường biên giới lịch sử này thì chính các tiền bối của ông Tiến sĩ Trần Công Trục trong Đảng cộng sản Việt Nam cũng như trong ngành ngoại giao cũng đã từng coi là căn cứ quan trọng nhất trong các cuộc đàm phán với phía Trung Quốc.
Tôi xin phép trích dẫn một đoạn văn trong cuốn “bị vong lục” (memorandum) do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979 để làm rõ vấn đề:
“Lập trường của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được nêu rõ trong Công hàm ngày 2 tháng 3 năm 1979 gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc: những người cầm quyền Trung Quốc đã gây chiến tranh xâm lược Việt Nam thì họ phải vĩnh viễn chấm dứt xâm lược; phải rút ngay, rút hết, rút không điều kiện quân đội của họ về phía bên kia đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã thoả thuận; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Ngày 6 tháng 3 năm 1979, phía Việt Nam đã tuyên bố:
“ Nếu Trung Quốc thật sự rút toàn bộ quân của họ khỏi lãnh thổ Việt Nam như họ đã tuyên bố, thì sau khi quân Trung Quốc rút hết về bên kia đường biên giới lịch sử đã được hai bên thoả thuận tôn trọng, phía Việt nam sẵn sàng đàm phán ngay với phía Trung Quốc ở cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao về việc khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước. Địa điểm và thời gian sẽ do hai bên thoả thuận”
Nếu những người cầm quyền Trung Quốc tiếp tục chính sách xâm lược chống Việt Nam thì quân và dân Việt Nam sẽ dùng quyền tự vệ thiêng liêng, kiên quyết chiến đấu chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam quyết tiếp tục làm hết sức mình gìn giữ tình hữu nghị truyền thống với nhân dân Trung Quốc. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiên quyết đòi nhà cầm quyền Trung Quốc:
[1] Vĩnh viễn chấm dứt xâm lược, phải rút ngay, rút không điều kiện quân đội của họ về nước; chấm dứt mọi hành động tội ác đối với nhân dân Việt nam; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; tôn trọng đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã thoả thuận; phải chấm dứt ngay việc dời cột mốc biên giới và những hành động khác nhằm thay đổi đường biên giới đó.
[2] Cùng phía Việt Nam sớm mở cuộc thương lượng nêu trong Công hàm ngày 15 tháng 3 năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhằm đem lại hoà bình và ổn định ở vùng biên giới giữa hai nước, khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước.”[3]
“Đường biên giới lịch sử” mà văn bản này nói đến chính là đường biên giới được hoạch định bởi các công ước Pháp-Thanh ký hồi cuối thế kỷ 19.
2) Ngay trong lời giới thiệu bài phỏng vấn cũng như trong câu hỏi của phóng viên, câu trả lời của ông Tiến sĩ Trần Công Trục, đều có những sự xuyên tạc đầy ác ý nhằm kích động người đọc nghĩ xấu về tôi. Xin dẫn chứng một số ví dụ sau:
- PV: Quay lại câu chuyện tài liệu “Sự thật thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh đưa ra các tài liệu lịch sử, chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng toàn bộ ngọn thác này thuộc chủ quyền của Việt Nam và quy kết các nhà đàm phán, lãnh đạo Việt Nam đã nhân nhượng vô nguyên tắc, bán đất cho TQ. (…)
- “Câu chuyện về Sam Rainsy và một số nhóm chính trị đối lập tại Campuchia viện dẫn những quan điểm sai trái về chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử để đưa ra những tuyên bố vô lý về vấn đề chủ quyền, gây rối loạn xã hội Campuchia, chia rẽ quan hệ Campuchia - Việt Nam. Điều này không khác gì hiện nay trong dư luận đang sử dụng yếu tố lịch sử để lật lại vấn đề đàm phán biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và tung tin các nhà đàm phán Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam bán đất cho Trung Quốc.” (Trích lời ông Trần Công Trục).
Đây là điều bịa đặt nhằm mục đích kích động dư luận. Trong toàn bộ bài viết của tôi, tuyệt nhiên không có chỗ nào nói “lãnh đạo Việt Nam bán đất cho Trung Quốc.” Chỉ có một đoạn như sau liên quan đến chữ “bán”: “Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc.” Nhưng câu này không phải là lời của tôi, mà chỉ là câu trích dẫn lời nói của ông Lê Công Phụng – nguyên Thứ trưởng Bộ ngoại giao.
3) Ông Trần Công Trục nói: “Công ước Pháp - Thanh 1887 và Công ước Pháp - Thanh bổ sung 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo được công ước trên xác nhận và quy định mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán các khu vực có tranh chấp về chủ quyền. Tất cả các tài liệu, chứng cứ lịch sử như bản đồ, thư tịch, sách giáo khoa, bưu ảnh, ghi chép cá nhân nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên đều không được chấp nhận, kể cả là ta hay TQ.”
Đúng là một số tài liệu tôi nêu ra chỉ là tài liệu dùng để tham khảo, không phải là căn cứ pháp lý. Nhưng nêu những tài liệu đó là điều cần thiết để chứng minh một sự thật: ít nhất là từ khi nhà Thanh và người Pháp ký các công ước về biên giới vào cuối thế kỷ 19 cho đến khi có hiệp định 1999, toàn bộ Thác Bản Giốc vẫn thuộc về nước ta.
Mặc dù ông Trục khoe rằng “đã đọc kỹ bài viết này của ông Mai Thái Lĩnh”, trong thực tế ông đã không đọc kỹ bài viết đó. Vì vậy ông đã không nhận ra “những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý”. Trong phần kết luận, tôi đã viết như sau:
“Trước hết, về căn cứ pháp lý để chứng minh chủ quyền của nước ta đối với Thác Bản Giốc, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có trong tay ít nhất là 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc, [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960, [3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980.”
Và tôi đã đặt câu hỏi: “… tại sao các nhà lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng đã bỏ qua, không sử dụng những tài liệu này trong đàm phán?”
Nếu ông Trục không coi đây là những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý thì ông phải nói rõ lý do, chứ không nên lờ đi, vì các bằng chứng này có liên quan đến chính quyền mà ông Trục phục vụ, và cả Đảng cộng sản Việt Nam – mà ông Trục là một thành viên.
4) Ông Trần Công Trục luôn mồm rao giảng về sự khác nhau giữa một bên là “chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử, quan điểm lịch sử” và bên kia là “các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ theo luật pháp quốc tế”. Tự coi mình là người am hiểu và nắm vững vấn đề hơn người khác, ông luôn mồm chê bai người khác là “nhầm lẫn”, là “nhận thức hạn chế”, v.v... và v.v...
Vì vậy, tôi thấy cần nhấn mạnh đến “những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý” trích từ cuốn Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc xuất bản năm 1979, mục II ( Tình hình Trung quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay), nói về việc “nhà cầm quyền Trung Quốc đã lần lượt lấn chiếm hết khu vực này đến khu vực khác của Việt nam, từ khu vực nhỏ hẹp đến khu vực to lớn, từ khu vực quan trọng về quân sự đến khu vực quan trọng về kinh tế”:
[3] Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam.
Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn đất.
Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc. (tr. 11-12)
[7] Lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam để chuyển dịch đường biên giới.
Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong. (trang 14)
Đề nghị ông Tiến sĩ Trần Công Trục cho biết: những hồ sơ nêu trên có phải là “những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý” hay không?
Riêng tôi thì tin rằng khi viết những dòng chữ này trong bản “bị vong lục” năm 1979, Bộ Ngoại giao do cố Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch[4] lãnh đạo đã có sẵn những chứng cứ pháp lý cụ thể kèm theo. Nếu ông Trần Công Trục thật sự có “tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước” thì ông nên đề nghị ông đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh mở kho lưu trữ để công bố các hồ sơ nêu trên cho toàn dân biết. Trong các hồ sơ đó, dĩ nhiên có cả những bản đồ chi tiết về cột mốc 53, về cồn Pò Thoong, v.v… - nhất là chứng cứ về việc Trung Quốc đã sửa bản đồ tỷ lệ 1/100.000 như thế nào nhằm “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”.
Cũng cần nhấn mạnh đến ý kiến của ông Tiến sĩ Trần Công Trục cho rằng chỉ có “các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo” hai công ước Pháp-Thanh và được hai công ước ấy “xác nhận và quy định” mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán, còn tất cả các chứng cứ khác (kể cả bản đồ) “nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên” đều không được chấp nhận. Theo tôi, một khi đã chấp nhận điều kiện này, ông Trục và những người tham gia đàm phán về phía Việt Nam đã rơi vào bẫy của phía Trung Quốc.
Vì sao? Vào cuối thế kỷ 19, khi ký kết các công ước giữa Pháp và nhà Thanh, trình độ kỹ thuật chưa cho phép người ta vẽ bản đồ với độ chính xác cao, nhất là chưa có tọa độ địa lý. Vì vậy nếu chỉ dựa vào những bản vẽ ấy, không thể xác định được chính xác các cột mốc biên giới. Chính phía Trung Quốc cũng biết rõ như thế cho nên họ mới tìm cách “sửa bản đồ”, “dời cột mốc”, và sau khi đã ký được hiệp định 1999, hoàn thành việc cắm mốc, họ đã vội vàng dỡ bỏ mọi cột mốc lịch sử để “phi tang”, xóa dấu tích nhằm che giấu những việc làm ám muội của họ.
Vì thế, cần phải căn cứ vào các tài liệu – nhất là bản đồ của thời Pháp thuộc, để xác định đường biên giới Pháp-Thanh đã được thể hiện rõ ràng trên thực tế. Cho đến nay, các nhà ngoại giao tham gia đàm phán (kể cả ông Trần Công Trục) đều cố tình lờ đi hai tài liệu quan trọng: bản đồ gốc tỷ lệ 1/100.000 (tức là bản đồ do người Pháp in trước năm 1954) và bản đồ in lại đã bị Trung Quốc sửa chữa. Chính sự mờ ám đó khiến cho nhân dân hoài nghi vào “lòng yêu nước”, “tính trung thực” của những người tham gia đàm phán hiệp định biên giới Việt-Trung, chứ không phải là do những bài viết của tôi và các nhà nghiên cứu khác.
Điều mà các bài viết của tôi nhắm tới chính là “đường biên giới do lịch sử để lại” mà bản “bị vong lục” năm 1979 đã nhiều lần nhắc tới. Đường biên giới lịch sử ấy chính là đường biên giới do các công ước Pháp-Thanh quy định vào cuối thế kỷ 19. Đường biên giới lịch sử ấy có thật sự được tôn trọng hay không? Hiệp định biên giới trên bộ năm 1999 có bảo đảm được “đường biên giới lịch sử” ấy hay không? Đó mới thật sự là điều những người Việt Nam yêu nước băn khoăn, lo nghĩ.
Vì vậy, không thể đánh lận con đen, quy tôi vào quan niệm “chủ quyền lịch sử” theo kiểu của Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam và ông Tiến sĩ Trần Công Trục. Tôi đâu có đòi lại đất Quảng Tây hay Quảng Đông mà bảo tôi “nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử”?
Cuối cùng, tôi đọc được câu sau đây trên trang mạng Giáo dục Việt Nam – cơ quan ngôn luận của “Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng ngoài công lập”: “Mọi ý kiến nhận xét, phản biện về các nội dung trong bài viết trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam sẵn sàng đăng tải. Tiến sĩ Trần Công Trục sẵn sàng trao đổi để làm rõ những thắc mắc, nghi vấn xung quanh vấn đề này.”
Dựa trên tinh thần đó, tôi chính thức đề nghị báo điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải bài viết này cùng với toàn văn bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” bên cạnh bài trả lời phỏng vấn của ông Trần Công Trục để độc giả tiện so sánh, đánh giá, phản biện.
Đà Lạt ngày 5-9-2013
MAI THÁI LĨNH
[1] “Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, Thứ ba 3-9-2013:
http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Su-that-ve-Thac-Ban-Gioc-va-nhan-thuc-sai-lam-ve-chu-quyen-lich-su/315145.gd
[2] Mai Thái Lĩnh, Sự thật về Thác Bản Giốc, Bauxite Vietnam 10 và 11-2-2012:
http://boxitvn.blogspot.co.uk/2012/02/su-that-ve-thac-ban-gioc.html
http://boxitvn.blogspot.co.uk/2012/02/su-that-ve-thac-ban-gioc_11.html
[3] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1979, trang 34-36. Những đoạn gạch dưới là do tôi nhấn mạnh (MTL).
[4] Theo Wikipedia bản tiếng Việt, ông Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương) là thân sinh của ông Phạm Bình Minh – Bộ trưởng Ngoại giao hiện nay.
“Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử
Thứ ba 03/09/2013 07:46
(GDVN) - Những người vẫn còn đang theo đuổi “chủ quyền lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch sử” để chỉ trích Việt Nam bán đất cho TQ ở Thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan hay sông Bắc Luân, thử hỏi họ có thể chấp nhận được quan điểm vô lý của một số người Campuchia như Sam Rainsy khi đòi “chủ quyền” đối với đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu, thậm chí là cả Nam Bộ của Việt Nam hay không? Tôi tin là hoàn toàn không.
Thời gian gần đây một số hãng truyền thông phương Tây và các trang mạng xã hội đăng tải bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh, trong đó có những nhận định và quy chụp hết sức chủ quan khi cho rằng Việt Nam đã bán đất cho Trung Quốc (TQ) khiến dư luận có nhiều ý kiến khác nhau, trong đó nhiều người vẫn cảm thấy mơ hồ khi nhắc tới địa danh này.
Điều đó một lần nữa cho thấy những bất cập trong nhận thức của không ít người ngay từ các nhà nghiên cứu, trí thức, quản lý cho đến người dân về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, đặc biệt là sự nhầm lẫn, nhận thức sai lầm, mơ hồ về bằng chứng lịch sử, yếu tố lịch sử, tài liệu lịch sử trong văn chương, sách giáo khoa, bản đồ, bưu ảnh...với những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền.
Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới chính phủ, người trực tiếp tham gia đàm phán hoạch định biên giới Việt Nam - TQ nói chung, khu vực Thác Bản Giốc nói riêng đã chia sẻ với Báo Giáo dục Việt Nam những ý kiến của ông xung quanh vấn đề này.
| Tiến sĩ Trần Công Trục. |
- PV: Thưa Tiến sĩ Trần Công Trục, gần đây trên một số phương tiện truyền thông nước ngoài và mạng xã hội có đăng tải bài viết “Sự thật về thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh gây ra nhiều băn khoăn, hoài nghi trong dư luận. Ông Lĩnh đưa ra một số “bằng chứng lịch sử” như bản đồ, bưu thiếp, ghi chép cá nhân của một sĩ quan Pháp cho đến viện dẫn sách trắng Ngoại giao để tìm cách chứng minh rằng toàn bộ thác Bản Giốc là của Việt Nam và các nhà đàm phán Việt Nam đã nhân nhượng vô nguyên tắc, thậm chí quy chụp ta đã bán đất cho TQ. Xin Tiến sĩ vui lòng chia sẻ những nhận định của mình về vấn đề này?
- Ts Trần Công Trục: Tôi đã đọc kỹ bài viết này của ông Mai Thái Lĩnh. Đây là một trường hợp điển hình về việc nhầm lẫn giữa chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử, quan điểm lịch sử với các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ theo luật pháp quốc tế.
Gần đây những vấn đề về quan điểm về chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử đã trở thành vấn đề nếu như chúng ta không nhìn nhận một cách khách quan, thực tế, cầu thị, có căn cứ sẽ dẫn đến tình trạng hết sức phức tạp, không chỉ những vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên đất liền mà cả đối với các hải đảo và các vùng biển.
Để hiểu rõ câu chuyện ông Mai Thái Lĩnh đặt ra và giải tỏa những thắc mắc, băn khoăn trong dư luận, tôi xin nói qua về bối cảnh, xu hướng nhận thức sai lầm trong quan điểm xử lý tranh chấp lãnh thổ dựa trên quan điểm “chủ quyền lịch sử” đang tồn tại hiện nay.
Về mặt lịch sử, gần đây mọi người có lẽ cũng đọc những thông tin về các phe phái chính trị ở Campuchia sử dụng các vấn đề lãnh thổ mang tính lịch sử không những để kích động cử tri Campuchia gây bất ổn chính trị xã hội đất nước này sau bầu cử Quốc hội mà còn gây chia rẽ quan hệ Campuchia - Việt Nam trên khu vực biên giới Tây Nam, điển hình là những phát biểu sai trái của ông Sam Rainsy, đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia vừa qua.
Luận điệu sai trái bám vào lịch sử của Sam Rainsy không mới, trước đây những nhóm chính trị đối lập Campuchia đã từng đưa ra các nhận định, lập luận dựa vào lịch sử cho rằng xét về lịch sử các đảo Phú Quốc, Thổ Chu (thuộc chủ quyền Việt Nam) là của Campuchia. Thậm chí có những người theo đuổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi tại Campuchia tuyên truyền rằng cứ theo lịch sử của họ thì ở đâu có cây thốt nốt, ở đâu có người Khemer thì ở đó là đất của Campuchia.
Những luận điệu sai trái bám vào cái gọi là bằng chứng lịch sử, vùng đất lịch sử ấy đang được các thế lực chính trị lợi dụng tuyên truyền trong cộng đồng người dân Campuchia để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan gây ra những vấn đề phức tạp, mặc dù 2 bên đã có quá trình thống nhất cơ sở pháp lý, đàm phán và phân giới cắm mốc một cách rõ ràng, minh bạch, hết sức mang tính xây dựng, tuân thủ luật pháp quốc tế và chiếu cố đến lợi ích của nhau.
| Ông Sam Rainsy, lãnh đạo đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia là người đưa ra những quan điểm hết sức sai lệch về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, kích thích chủ nghĩa dân tộc cực đoan và gây tổn hại đến quan hệ Campuchia - Việt Nam. |
Đó là một ví dụ điển hình của quan điểm sai trái dựa vào chứng cứ lịch sử, quan điểm lịch sử, chủ quyền lịch sử hết sức mù mờ để giải quyết tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia. Điều này không những không có cách nào góp phần giải quyết tranh chấp lãnh thổ mà còn gây rối loạn xã hội, kích thích chủ nghĩa dân tộc cực đoan hẹp hòi và trở thành mảnh đất màu mỡ cho các thế lực chính trị lợi dụng tuyên truyền thu hút sự chú ý của dư luận nhằm thực hiện các ý đồ, mục tiêu của riêng họ.
Câu chuyện về Sam Rainsy và một số nhóm chính trị đối lập tại Campuchia viện dẫn những quan điểm sai trái về chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử để đưa ra những tuyên bố vô lý về vấn đề chủ quyền, gây rối loạn xã hội Campuchia, chia rẽ quan hệ Campuchia - Việt Nam. Điều này không khác gì hiện nay trong dư luận đang sử dụng yếu tố lịch sử để lật lại vấn đề đàm phán biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc (TQ) và tung tin các nhà đàm phán Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam bán đất cho TQ.
Quay trở lại vấn đề biên giới phía Bắc, lâu nay vẫn có không ít người nhầm lẫn giữa quan điểm chủ quyền lịch sử với các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong giải quyết tranh chấp chủ quyền.
Tôi xin nhắc lại thỏa thuận về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa Việt nam và TQ: “Vấn đề biên giới trên đất liền: Căn cứ vào nguyên tắc: “Hai bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Pháp và TQ ngày 26-6-1887 và Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới ngày 20-6-1895, cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo đã được Công ước và Công ước bổ sung nói trên xác nhận và quy định; đối chiếu xác nhận lại toàn bộ đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và TQ.”
Đó là nguyên tắc cơ bản nhất mà 2 bên Việt Nam và TQ đã thỏa thuận và dựa vào. Như vậy, ngoài nội dung của Công ước hoạch định này còn có các văn kiện và bản đồ phân giới cắm mốc kèm theo được “Công ước và Công ước bổ sung xác nhận và quy định”. Nguyên tắc này đã chỉ rất rõ các loại văn bản, tài liệu nào có thể được sử dụng làm cơ sở để 2 bên dựa vào đó đàm phán.
| Tiến sĩ Trần Công Trục trong một lần đi thực địa xác định, tìm hiểu đường biên giới phía Bắc. |
Công ước Pháp - Thanh 1887 và Công ước Pháp - Thanh bổ sung 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo được công ước trên xác nhận và quy định mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán các khu vực có tranh chấp về chủ quyền. Tất cả các tài liệu, chứng cứ lịch sử như bản đồ, thư tịch, sách giáo khoa, bưu ảnh, ghi chép cá nhân nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên đều không được chấp nhận, kể cả là ta hay TQ.
Nếu cứ dựa vào lịch sử, sách giáo khoa, bản đồ để khẳng định chủ quyền đối với các khu vực tranh chấp thì không bao giờ, không ở đâu có thể giải quyết được vì không có một cơ sở nguyên tắc chung. Ta có tài liệu, có bản đồ, có sách giáo khoa, có bưu ảnh để nói chủ quyền một số khu vực nào đó là của ta thì phía TQ họ cũng có những tài liệu tương tự.
Vì vậy, chỉ có thể dựa trên nguyên tắc pháp lý, văn bản pháp lý có giá trị cao nhất ở đây là Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 mới có thể giải quyết được vấn đề, nếu không đồng báo chiến sĩ sẽ tiếp tục hi sinh, môi trường bất ổn định và không thể có hòa bình, chắc chắn ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
Chúng ta luôn sẵn sàng bảo vệ từng tấc đất của Tổ Quốc nhưng phải trên cơ sở pháp lý, trên cơ sở chúng ta phải xác nhận rõ ràng khu vực đó thuộc chủ quyền của Việt Nam được quốc tế thừa nhận, dù có phải đổ máu, hi sinh bao nhiêu chúng ta cũng phải bảo vệ.
Nhưng những khu vực tranh chấp trên tuyến biên giới trên bộ giữa Việt Nam và TQ thì cả 2 bên đều không đủ chứng cứ pháp lý chứng minh chủ quyền của mình và thuyết phục được đối phương. Vì thế mới cần đàm phán, giải quyết theo thỏa thuận trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế.
| Tiến sĩ Trần Công Trục và một người dân địa phương bên cột mốc biên giới Việt Nam - Trung Quốc từ thời Pháp - Thanh để lại. |
Khi chúng ta đọc được, nghe được các thông tin về các nhóm chính trị ở Campuchia tuyên truyền rằng Việt Nam bành trướng, cướp đất của Campuchia, chắc chắn chúng ta đều hết sức phẫn nộ và kịch liệt phản đối.
Chúng ta không xem nhẹ các yếu tố, sự kiện lịch sử, nhưng cần đánh giá một cách khách quan, yếu tố tư liệu lịch sử nào có giá trị pháp lý áp dụng giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc 2 bên thỏa thuận trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế.
Những người vẫn còn đang theo đuổi “chủ quyền lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch sử” để chỉ trích Việt Nam bán đất cho TQ ở thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan hay sông Bắc Luân, thử hỏi họ có thể chấp nhận được quan điểm vô lý của một số người Campuchia như Sam Rainsy khi đòi “chủ quyền” đối với đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu, thậm chí là cả Nam Bộ của Việt Nam hay không? Tôi tin là hoàn toàn không.
Ở ngoài Biển Đông, liệu những người này có thừa nhận quan điểm “chủ quyền lịch sử” của TQ đòi yêu sách đối với Biển Đông, Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam hay không? Đường lưỡi bò mà TQ đưa ra ở Biển Đông được họ chủ trương là “chủ quyền lịch sử”, “danh nghĩa lịch sử”, họ đưa ra những tài liệu lịch sử, chứng cứ lịch sử, đặt tên đảo, thậm chí nói là từ trước Công nguyên, liệu những người theo đuổi “chủ quyền lịch sử” có chấp nhận được quan điểm đó không?
| Đường lưỡi bò phi pháp Trung Quốc đưa ra trên Biển Đông dựa vào cái gọi là "chủ quyền lịch sử", "quan điểm lịch sử", "bằng chứng lịch sử" hoàn toàn không có giá trị pháp lý. |
Chúng ta phải đặt mình vào vị trí của các nước có liên quan để có cái nhìn khách quan và đầy đủ đối với vấn đề tranh chấp lãnh thổ.
Tại sao chúng ta và cộng đồng quốc tế có thể chấp nhận những tư duy duy ý chí đó? Ví dụ như 2 gia đình tranh chấp một thửa đất, thì chỉ có thể dựa vào các tài liệu, chứng cứ pháp lý như sổ đỏ, hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, di chúc...để xem xét giải quyết, anh không thể vác gia phả sang hàng xóm bảo họ rằng, căn nhà này anh có sổ đỏ, nhưng nó thuộc gia đình tôi từ thời cụ tổ và giờ hàng xóm phải trả lại. Đó là những tư duy duy ý chí, hết sức sai lầm và chỉ đẩy vấn đề vào ngõ cụt.
Vì vậy chúng ta phải hiểu một cách hết sức rõ ràng, công khai và sòng phẳng về những điều này. Còn đương nhiên Công ước Pháp - Thanh, cơ sở pháp lý mà chúng ta đã ký kết, thỏa thuận với TQ ra đời cách thời điểm hai bên ngồi đàm phán với nhau cả trăm năm thì việc mô tả, thể hiện trên bản đồ do rào cản kỹ thuật cũng như điều kiện địa hình, địa mạo, một số khu vực có thể có sai khác mới dẫn đến tranh chấp và nhận thức khác nhau, điều này hết sức bình thường, hai bên mới phải ngồi vào bàn đàm phán.
Nếu đã có một đường biên giới hoàn chỉnh và rõ ràng thì cần gì đàm phán, và cũng chẳng có chuyện tranh chấp, giằng co nhau dẫn tới đổ máu.
Do đó chúng ta phải nghiên cứu cách tiếp cận vấn đề, tránh những hiểu lầm trong nội bộ chúng ta cũng như tránh những hệ lụy nguy hiểm chỉ vì thiếu thông tin hoặc nhận định sai lầm về “chủ quyền lịch sử”. Câu chuyện về thác Bản Giốc, Hữu Nghị Quan, sông Bắc Luân là câu chuyện của ngày hôm qua nhưng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hôm nay và ngày mai, khi trên Biển Đông thì TQ đòi yêu sách “chủ quyền lịch sử”, ở biên giới Tây Nam các thế lực chính trị cực đoan Campuchia dùng “chủ quyền lịch sử” âm mưu phá vỡ sự ổn định đường biên giới đã được chính thức đàm phán, ký kết và phân giới cắm mốc. Còn bám vào quan điểm “chủ quyền lịch sử” là vô tình trúng bẫy của TQ cũng như Sam Rainsy.
| Bức ảnh chụp lại buổi trao bản đồ đường biên giới chủ trương giữa 2 đoàn Việt Nam - Trung Quốc, Tiến sĩ Trần Công Trục (bên phải) đại diện đoàn Việt Nam. Sự kiện diễn ra lúc 11 giờ 30 phút ngày 27/6/1994 tại phòng họp lớn tầng 4 khách sạn Hoa Phượng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ở Bắc Kinh do ông Nguyễn Hiền Nhân chụp lại. |
Chúng ta nghiên cứu lịch sử để hiểu công lao dựng nước, giữ nước của các thế hệ cha ông, nhưng về mặt tranh chấp lãnh thổ thì chúng ta phải hết sức lưu ý giá trị pháp lý của các chứng cứ lịch sử, tài liệu lịch sử ở mức độ nào chứ không phải tất cả các yếu tố lịch sử có thể đem ra khẳng định yêu sách chủ quyền, không ai chấp nhận điều đó trên bình diện luật pháp quốc tế.
- PV: Quay lại câu chuyện tài liệu “Sự thật thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh đưa ra các tài liệu lịch sử, chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng toàn bộ ngọn thác này thuộc chủ quyền của Việt Nam và quy kết các nhà đàm phán, lãnh đạo Việt Nam đã nhân nhượng vô nguyên tắc, bán đất cho TQ. Xin Tiến sĩ vui lòng phân tích cụ thể trường hợp điển hình này về những nhầm lẫn giữa “chủ quyền lịch sử”, “bằng chứng lịch sử” với các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong giải quyết tranh chấp biên giới lãnh thổ trên cơ sở luật pháp quốc tế?
- Ts Trần Công Trục: Trong tài liệu này, ông Mai Thái Lĩnh căn cứ vào sách giáo khoa, vào lịch sử, văn chương, bưu ảnh, bản đồ cho đến cả ghi chép cá nhân của một người trong đoàn đàm phán Pháp - Thanh. Tất cả các tài liệu này, như đã phân tích ở trên rõ ràng nó nằm ngoài phạm vi nguyên tắc pháp lý mà 2 bên Việt Nam và TQ có thể thống nhất và đã thống nhất với nhau là Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và các văn kiện bản đồ phân giới cắm mốc đi kèm, do đó những tài liệu ông Lĩnh đưa ra chỉ có tính chất tham khảo và không thể dùng làm chứng cứ để khẳng định chủ quyền của anh hay của tôi. Phía TQ cũng có các tài liệu tương tự như vậy, và ta không chấp nhận.
Để giải đáp những băn khoăn, thắc mắc trong dư luận về thác Bản Giốc, tranh chấp ở chỗ nào và tại sao có những tranh chấp đó, xin được nhắc lại như sau.
Thác Bản Giốc là 1 trong 4 khu vực C trọng điểm tồn lại trong quá trình Việt Nam và TQ đàm phán biên giới trên bộ. Căn cứ vào Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 và các bản đồ, văn kiện kèm theo thì đường biên giới qua khu vực thác Bản Giốc được mô tả là đi giữa dòng sông Quây Sơn đến đỉnh thác chính và thác Bản Gốc là một bộ phận của sông Quây Sơn. Từ đỉnh dòng thác chính thác Bản Giốc đường biên giới kéo thẳng đến mốc 53 nằm bên sườn quả núi bên trái con đường đi. Các tài liệu pháp lý để lại đã mô tả như vậy.
Khi hai bên đã thỏa thuận xong được nguyên tắc chung đàm phán hoạch định biên giới trên đất liền, Việt Nam và TQ mỗi bên về thể hiện đường biên giới chủ trương của mình lên bản đồ địa hình chung do 2 bên thỏa thuận trước. Đường biên giới chủ trương do 2 bên tự xác định bởi các chuyên gia bản đồ, pháp lý, kỹ thuật của mỗi bên và được các địa phương nơi đường biên giới đi qua xác nhận.
Khi trao đổi bản đồ thể hiện đường biên giới chủ trương thì đoạn đường biên giới qua khu vực sông Quây Sơn và thác Bản Giốc gần như trùng nhau hoàn toàn, chỉ có duy nhất 1 điểm khác biệt là ở thượng nguồn thác Bản Giốc trong Công ước không mô tả khu vực sông Quây Sơn rẽ thành 2 nhánh ôm lấy một cồn gọi là cồn Pò Thoong.
| Thác Bản Giốc không có tranh chấp, chỉ có cồn Pò Thoong (cồn Pò Đon) do tài liệu pháp lý để lại không rõ nên mới tạo ra tranh chấp. Mốc 53 theo Công ước Pháp - Thanh là mốc 835/1 hiện nay. Các mốc giới khu vực sông suối đều được cắm so le trên đất liền, không cắm giữa sông suối. (Ảnh do nhân vật cung cấp) |
Tranh chấp chính là cồn Pò Thoong với 2 luồng chảy đổ xuống thác Bản Giốc do tài liệu để lại không rõ ràng. Do đó thác Bản Giốc không có gì tranh chấp, chỉ còn lại cồn Pò Thoong 2 bên phải đàm phán giải quyết. Trong thực tế quản lý có rất nhiều quan điểm khác nhau, ta nói của ta, TQ nói của họ, vì có tranh chấp nên có những thời kỳ xuất hiện cả kiến trúc xây dựng trên cồn Pò Thoong để khẳng định chủ quyền, và điều này là hoàn toàn bình thường.
Khi cả ta và TQ không đủ chứng cứ, tài liệu pháp lý để bảo vệ yêu sách chủ quyền đối với cồn Pò Thoong, 2 bên phải dựa vào nguyên tắc chung thỏa thuận ban đầu, đối với đường biên giới di qua sông suối tàu thuyền không đi lại được thì đường biên giới đi qua trung tuyến dòng chảy chính. Khi phân giới cắm mốc, 2 bên đo đạc xác định dòng chảy chính nằm về phía Việt Nam, nếu căn cứ vào nguyên tắc pháp lý trên thì cả cồn Pò Thoong sẽ thuộc về Trung Quốc.
Khi giải quyết, vấn đề này động chạm đến tình cảm, tiềm thức của người dân Việt Nam nên 2 bên có sự trao đổi, chiếu cố lợi ích của nhau để giải quyết tranh chấp một cách thích hợp. Cuối cùng 2 bên thống nhất đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, hai phần ba thuộc về TQ và một phần ba thuộc về Việt Nam. Đó là giải pháp đã tính đến lợi ích của đôi bên, liên quan đến tình cảm và quá trình quản lý.
Tuy nhiên khu vực này là 1 cảnh quan có giá trị đối với cả 2 bên, không ai xây dựng cột mốc ở khu vực giữa dòng sông suối nên theo thông lệ quốc tế, chúng ta và TQ thỏa thuận hợp tác khai thác du lịch tại khu vực thác Bản Giốc vì lợi ích đôi bên, cụ thể 2 bên sẽ đàm phán và có phương án hợp lý. Tôi cho rằng kết quả đàm phán là hoàn toàn phù hợp luật pháp, thông lệ quốc tế.
Chính tôi đã từng lội sông, lội suối lên khu vực thượng nguồn sông Quây Sơn, thác Bản Giốc, tận tay sờ vào cột mốc 53 và rõ ràng cồn Pò Thoong không được mô tả trong tài liệu 2 bên dựa vào làm căn cứ. Không có chuyện mốc 53 cắm trên cồn Pò Thoong.
Sở dĩ có những hiểu lầm trong dư luận là toàn bộ thác Bản Giốc thuộc về Việt Nam là vì trong quá trình quản lý biên giới, theo quy định và cũng như thông lệ, không ai đem cột mốc cắm giữa dòng sông biên giới, những khu vực đường biên giới đi qua sông suối như khu vực thác Bản Giốc thì mốc được cắm so le.
Tuy nhiên quá trình quản lý biên giới, biến thiên lịch sử, do chiến tranh, hoặc do nguyên nhân nào đó khu vực thác Bản Giốc, cột mốc biên giới từ thời Pháp - Thanh xác lập bị mất cột mốc bên phía Việt Nam, chỉ còn cột mốc bên phía TQ nên người dân đến đây có cảm giác toàn bộ thác Bản Giốc thuộc về Việt Nam vì chỉ nhìn thấy cột mốc bên phía TQ.
Trong khi đó Công ước Pháp - Thanh mô tả đường biên giới qua thác Bản Giốc bằng tiếng Pháp và tiếng TQ thì không được dịch và phổ biến ra cộng đồng, nên sự nghi ngờ, mơ hồ của dư luận về khu vực này là có thể hiểu được.
Hiện nay rõ ràng nhiều người vẫn còn chưa hiểu rõ về vấn đề thác Bản Giốc và điều đáng nói là không chỉ người dân mà ngay cả những người làm công tác nghiên cứu và quản lý vẫn cảm thấy mơ hồ như tôi đã từng phân tích, họ thiếu thông tin, thiếu nghiên cứu pháp lý và thực địa.
Trong dân gian người ta đã đọc được nhiều tài liệu về thác Bản Giốc, trong đó có những tài liệu của chính chúng ta, kể cả tài liệu chính thức như sách giáo khoa và các tài liệu văn bản mang tính chất nhà nước trong suốt một thời kỳ đã từng khẳng định, nhấn mạnh thác Bản Giốc là của Việt Nam. Thực tế chúng ta cũng thấy rằng, thời kỳ trước đây chưa có đường biên giới rõ ràng và cộng đồng dân cư vùng biên giao lưu qua lại mật thiết với nhau, những điều này dẫn đến hình thành nhận thức, tình cảm, thậm chí là tiềm thức cho rằng toàn bộ thác Bản Giốc là của Việt Nam cũng là điều dễ hiểu.
Đã có lúc đồng bào, chiến sĩ ta phải đổ máu để bảo vệ. Đó là sản phẩm của một quá trình nhận thức duy ý chí cả của ta lẫn TQ nên đã dẫn tới những tranh chấp, xung đột. Và khi xét dưới lăng kính luật pháp quốc tế, cái gì chúng ta sai chúng ta phải điều chỉnh, cái gì chúng ta đúng, chúng ta kiên quyết bảo vệ. Chỉ có trên tinh thần cầu thị, tôn trọng luật pháp quốc tế và nguyên tắc chung 2 bên đã thỏa thuận, chúng ta mới có thể ngồi lại đàm phán với TQ để hoạch định phân giới cắm mốc, xây dựng tuyến biên giới hòa bình, ổn định và hữu nghị.
Một số người có thể cố tình, có thể vô ý do nhận thức hạn chế về vấn đề “chủ quyền lịch sử” vẫn đang tiếp tục khai thác những tài liệu này để quy chụp rằng Việt Nam bán đất cho TQ, gây hoài nghi, chia rẽ trong dư luận, làm giảm sức mạnh đoàn kết dân tộc, gây bất ổn xã hội nhằm thực hiện một ý đồ, mục tiêu chính trị nào đó. Chúng ta phải hiểu rất rõ vấn đề này, nếu không sẽ rơi vào trạng thái mơ hồ, hoang mang, lúng túng và bị động.
* Đề nghị không sao chép lại dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của báo GDVN. Trích dẫn, đăng tải lại toàn bộ hoặc một phần thông tin từ bài viết này phải chịu trách nhiệm và ghi rõ "theo báo Giáo Dục Việt Nam" hoặc "theo Giaoduc.net.vn".
Mọi ý kiến nhận xét, phản biện về các nội dung trong bài viết trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam sẵn sàng đăng tải. Tiến sĩ Trần Công Trục sẵn sàng trao đổi để làm rõ những thắc mắc, nghi vấn xung quanh vấn đề này. Những ý kiến, phản biện xin quý độc giả vui lòng gửi về địa chỉ doanphuc@giaoduc.net.vn, trân trọng cảm ơn!
Hồng Thủy
Bởi Mắt Bão
06/09/2013
2 phản hồi
Tác giả gửi đến Dân Luận
Ngày 3-9-2013 vừa qua, báo điện tử Giáo dục Việt Nam đã đăng bài “Sự thật về Thác Bản Giốc và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử”[1],
thực ra là một bài phỏng vấn ông Tiến sĩ Trần Công Trục (nguyên Trưởng
ban Biên giới chính phủ, người trực tiếp tham gia đàm phán hoạch định
biên giới Việt Nam – Trung Quốc nói chung, khu vực Thác Bản Giốc nói
riêng) do phóng viên Hồng Thủy thực hiện. Vì bài phỏng vấn nhằm vào cá
nhân tôi và bài viết của tôi nhan đề “Sự thật về Thác Bản Giốc”[2], tôi thấy cần phải làm rõ một số điểm được nêu trong bài phỏng vấn, nhằm tránh sự hiểu lầm cho người đọc.
1) Bài phỏng vấn được mở đầu như sau: “Thời gian gần đây một số hãng truyền thông phương Tây và các trang mạng xã hội đăng tải bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh, trong đó có những nhận định và quy chụp hết sức chủ quan khi cho rằng Việt Nam đã bán đất cho Trung Quốc khiến dư luận có nhiều ý kiến khác nhau, trong đó nhiều người vẫn cảm thấy mơ hồ khi nhắc tới địa danh này”.
Ngay từ lời giới thiệu này, Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam đã tỏ ra không sòng phẳng và thể hiện sự “quy chụp”.
Trước hết, nói “thời gian gần đây” là không đúng sự thật. Bài viết của tôi hoàn thành xong đã gửi đăng trên một số trang mạng vào thượng tuần tháng 2 năm 2012 (trên trang Bauxite Vietnam là vào hai ngày 10 và 11-2-2012). Ngoài ra còn có nhiều trang mạng khác đã đăng lại, nhưng chậm nhất cũng chỉ trong tháng 3 năm 2012, như vậy là đã một năm rưỡi.
Khi rút ngắn thời gian một năm rưỡi bằng cụm từ “thời gian gần đây”, cả tòa soạn báo lẫn phóng viên Hồng Thủy đã cùng với ông Trần Công Trục tìm cách gán ghép bài viết của tôi với một sự kiện nóng hổi mới xảy ra gần đây. Đó là việc ông Sam Rainsy – lãnh đạo đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia, đang tố cáo phía Việt Nam lấy đất của Kampuchea. Đây là một dụng ý không tử tế nhằm đánh lạc hướng dư luận. Bởi vì bất cứ ai đọc kỹ các bài viết của tôi đều thấy rõ giữa quan niệm của tôi và quan niệm của ông Sam Rainsy, không có gì giống nhau. Điểm căn bản là ở chỗ: ông Sam Rainsy là một nhà chính trị, đứng đầu một đảng chính trị ở nước láng giềng, muốn lấy lòng cử tri nên kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi, còn tôi tuy luôn luôn bàn đến chính trị, nhưng lại không liên quan đến một đảng chính trị nào, vì thế không có động cơ phe phái. Hơn thế nữa, tôi cũng không liên quan gì đến cái mà ông Tiến sĩ Trần Công Trục gọi là “quan niệm về chủ quyền lịch sử”, nghĩa là “ngày xưa cha ông ta ở đâu thì đất đó là của Việt Nam”. Hãy đọc kỹ các bài viết của tôi về vấn đề biên giới Việt-Trung. Bất cứ bài nào cũng chỉ nhằm để bảo vệ “đường biên giới lịch sử” đã tồn tại từ khi có các công ước Pháp-Thanh vào cuối thế kỷ 19. Mà đường biên giới lịch sử này thì chính các tiền bối của ông Tiến sĩ Trần Công Trục trong Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như trong ngành ngoại giao cũng đã từng coi là căn cứ quan trọng nhất trong các cuộc đàm phán với phía Trung Quốc.
Tôi xin phép trích dẫn một đoạn văn trong cuốn “bị vong lục” (memorandum) do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979 để làm rõ vấn đề:
2) Ngay trong lời giới thiệu bài phỏng vấn cũng như trong câu hỏi của phóng viên, câu trả lời của ông Tiến sĩ Trần Công Trục, đều có những sự xuyên tạc đầy ác ý nhằm kích động người đọc nghĩ xấu về tôi. Xin dẫn chứng một số ví dụ sau:
“- PV: Quay lại câu chuyện tài liệu “Sự thật thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh đưa ra các tài liệu lịch sử, chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng toàn bộ ngọn thác này thuộc chủ quyền của Việt Nam và quy kết các nhà đàm phán, lãnh đạo Việt Nam đã nhân nhượng vô nguyên tắc, bán đất cho TQ. […]”
- “Câu chuyện về Sam Rainsy và một số nhóm chính trị đối lập tại Campuchia viện dẫn những quan điểm sai trái về chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử để đưa ra những tuyên bố vô lý về vấn đề chủ quyền, gây rối loạn xã hội Campuchia, chia rẽ quan hệ Campuchia – Việt Nam. Điều này không khác gì hiện nay trong dư luận đang sử dụng yếu tố lịch sử để lật lại vấn đề đàm phán biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và tung tin các nhà đàm phán Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam bán đất cho Trung Quốc.” (Trích lời ông Trần Công Trục).
Đây là điều bịa đặt nhằm mục đích kích động dư luận. Trong toàn bộ bài viết của tôi, tuyệt nhiên không có chỗ nào nói “lãnh đạo Việt Nam bán đất cho Trung Quốc.” Chỉ có một đoạn như sau liên quan đến chữ “bán”: “Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc.” Nhưng câu này không phải là lời của tôi, mà chỉ là câu trích dẫn lời nói của ông Lê Công Phụng – nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.
3) Ông Trần Công Trục nói: “Công ước Pháp – Thanh 1887 và Công ước Pháp – Thanh bổ sung 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo được công ước trên xác nhận và quy định mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán các khu vực có tranh chấp về chủ quyền. Tất cả các tài liệu, chứng cứ lịch sử như bản đồ, thư tịch, sách giáo khoa, bưu ảnh, ghi chép cá nhân nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên đều không được chấp nhận, kể cả là ta hay TQ.”
Đúng là một số tài liệu tôi nêu ra chỉ là tài liệu dùng để tham khảo, không phải là căn cứ pháp lý. Nhưng nêu những tài liệu đó là điều cần thiết để chứng minh một sự thật: ít nhất là từ khi nhà Thanh và người Pháp ký các công ước về biên giới vào cuối thế kỷ 19 cho đến khi có hiệp định 1999, toàn bộ Thác Bản Giốc vẫn thuộc về nước ta.
Mặc dù ông Trục khoe rằng “đã đọc kỹ bài viết này của ông Mai Thái Lĩnh”, trong thực tế ông đã không đọc kỹ bài viết đó. Vì vậy ông đã không nhận ra “những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý”. Trong phần kết luận, tôi đã viết như sau:
Nếu ông Trục không coi đây là những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý thì ông phải nói rõ lý do, chứ không nên lờ đi, vì các bằng chứng này có liên quan đến chính quyền mà ông Trục phục vụ, và cả Đảng Cộng sản Việt Nam – mà ông Trục là một thành viên.
4) Ông Trần Công Trục luôn mồm rao giảng về sự khác nhau giữa một bên là “chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử, quan điểm lịch sử” và bên kia là “các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ theo luật pháp quốc tế”. Tự coi mình là người am hiểu và nắm vững vấn đề hơn người khác, ông luôn mồm chê bai người khác là “nhầm lẫn”, là “nhận thức hạn chế”, v.v. và v.v.
Vì vậy, tôi thấy cần nhấn mạnh đến “những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý” trích từ cuốn Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc xuất bản năm 1979, mục II (Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay), nói về việc “nhà cầm quyền Trung Quốc đã lần lượt lấn chiếm hết khu vực này đến khu vực khác của Việt Nam, từ khu vực nhỏ hẹp đến khu vực to lớn, từ khu vực quan trọng về quân sự đến khu vực quan trọng về kinh tế”:
Riêng tôi thì tin rằng khi viết những dòng chữ này trong bản “bị vong lục” năm 1979, Bộ Ngoại giao do cố Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch[4] lãnh đạo đã có sẵn những chứng cứ pháp lý cụ thể kèm theo. Nếu ông Trần Công Trục thật sự có “tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước” thì ông nên đề nghị ông đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh mở kho lưu trữ để công bố các hồ sơ nêu trên cho toàn dân biết. Trong các hồ sơ đó, dĩ nhiên có cả những bản đồ chi tiết về cột mốc 53, về cồn Pò Thoong, v.v… – nhất là chứng cứ về việc Trung Quốc đã sửa bản đồ tỷ lệ 1/100.000 như thế nào nhằm “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”.
Cũng cần nhấn mạnh đến ý kiến của ông Tiến sĩ Trần Công Trục cho rằng chỉ có “các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo” hai công ước Pháp-Thanh và được hai công ước ấy “xác nhận và quy định” mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán, còn tất cả các chứng cứ khác (kể cả bản đồ) “nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên” đều không được chấp nhận. Theo tôi, một khi đã chấp nhận điều kiện này, ông Trục và những người tham gia đàm phán về phía Việt Nam đã rơi vào bẫy của phía Trung Quốc.
Vì sao? Vào cuối thế kỷ 19, khi ký kết các công ước giữa Pháp và nhà Thanh, trình độ kỹ thuật chưa cho phép người ta vẽ bản đồ với độ chính xác cao, nhất là chưa có tọa độ địa lý. Vì vậy nếu chỉ dựa vào những bản vẽ ấy, không thể xác định được chính xác các cột mốc biên giới. Chính phía Trung Quốc cũng biết rõ như thế cho nên họ mới tìm cách “sửa bản đồ”, “dời cột mốc”, và sau khi đã ký được hiệp định 1999, hoàn thành việc cắm mốc, họ đã vội vàng dỡ bỏ mọi cột mốc lịch sử để “phi tang”, xóa dấu tích nhằm che giấu những việc làm ám muội của họ.
Vì thế, cần phải căn cứ vào các tài liệu – nhất là bản đồ của thời Pháp thuộc, để xác định đường biên giới Pháp-Thanh đã được thể hiện rõ ràng trên thực tế. Cho đến nay, các nhà ngoại giao tham gia đàm phán (kể cả ông Trần Công Trục) đều cố tình lờ đi hai tài liệu quan trọng: bản đồ gốc tỷ lệ 1/100.000 (tức là bản đồ do người Pháp in trước năm 1954) và bản đồ in lại đã bị Trung Quốc sửa chữa. Chính sự mờ ám đó khiến cho nhân dân hoài nghi vào “lòng yêu nước”, “tính trung thực” của những người tham gia đàm phán hiệp định biên giới Việt-Trung, chứ không phải là do những bài viết của tôi và các nhà nghiên cứu khác.
Điều mà các bài viết của tôi nhắm tới chính là “đường biên giới do lịch sử để lại” mà bản “bị vong lục” năm 1979 đã nhiều lần nhắc tới. Đường biên giới lịch sử ấy chính là đường biên giới do các công ước Pháp-Thanh quy định vào cuối thế kỷ 19. Đường biên giới lịch sử ấy có thật sự được tôn trọng hay không? Hiệp định biên giới trên bộ năm 1999 có bảo đảm được “đường biên giới lịch sử” ấy hay không? Đó mới thật sự là điều những người Việt Nam yêu nước băn khoăn, lo nghĩ.
Vì vậy, không thể đánh lận con đen, quy tôi vào quan niệm “chủ quyền lịch sử” theo kiểu của Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam và ông Tiến sĩ Trần Công Trục. Tôi đâu có đòi lại đất Quảng Tây hay Quảng Đông mà bảo tôi “nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử”?
Cuối cùng, tôi đọc được câu sau đây trên trang mạng Giáo dục Việt Nam – cơ quan ngôn luận của “Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng ngoài công lập”: “Mọi ý kiến nhận xét, phản biện về các nội dung trong bài viết trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam sẵn sàng đăng tải. Tiến sĩ Trần Công Trục sẵn sàng trao đổi để làm rõ những thắc mắc, nghi vấn xung quanh vấn đề này.”
Dựa trên tinh thần đó, tôi chính thức đề nghị báo điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải bài viết này cùng với toàn văn bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” bên cạnh bài trả lời phỏng vấn của ông Trần Công Trục để độc giả tiện so sánh, đánh giá, phản biện.
Đà Lạt ngày 5-9-2013
Mai Thái Lĩnh
___________________________________
[1] “Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, Thứ ba 3-9-2013:
http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Su-that-ve-Thac-Ban-Gioc-va-nhan-thuc-sai-lam-ve-chu-quyen-lich-su/315145.gd
[2] Mai Thái Lĩnh, Sự thật về Thác Bản Giốc,
https://danluan.org/tin-tuc/20120211/mai-thai-linh-su-that-ve-thac-ban-gioc-phan-i
https://danluan.org/tin-tuc/20120211/mai-thai-linh-su-that-ve-thac-ban-gioc-phan-ii
[3] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1979, trang 34-36. Những đoạn gạch dưới là do tôi nhấn mạnh (MTL).
[4] Theo Wikipedia bản tiếng Việt, ông Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương) là thân sinh của ông Phạm Bình Minh – Bộ trưởng Ngoại giao hiện nay
1) Bài phỏng vấn được mở đầu như sau: “Thời gian gần đây một số hãng truyền thông phương Tây và các trang mạng xã hội đăng tải bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh, trong đó có những nhận định và quy chụp hết sức chủ quan khi cho rằng Việt Nam đã bán đất cho Trung Quốc khiến dư luận có nhiều ý kiến khác nhau, trong đó nhiều người vẫn cảm thấy mơ hồ khi nhắc tới địa danh này”.
Ngay từ lời giới thiệu này, Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam đã tỏ ra không sòng phẳng và thể hiện sự “quy chụp”.
Trước hết, nói “thời gian gần đây” là không đúng sự thật. Bài viết của tôi hoàn thành xong đã gửi đăng trên một số trang mạng vào thượng tuần tháng 2 năm 2012 (trên trang Bauxite Vietnam là vào hai ngày 10 và 11-2-2012). Ngoài ra còn có nhiều trang mạng khác đã đăng lại, nhưng chậm nhất cũng chỉ trong tháng 3 năm 2012, như vậy là đã một năm rưỡi.
Khi rút ngắn thời gian một năm rưỡi bằng cụm từ “thời gian gần đây”, cả tòa soạn báo lẫn phóng viên Hồng Thủy đã cùng với ông Trần Công Trục tìm cách gán ghép bài viết của tôi với một sự kiện nóng hổi mới xảy ra gần đây. Đó là việc ông Sam Rainsy – lãnh đạo đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia, đang tố cáo phía Việt Nam lấy đất của Kampuchea. Đây là một dụng ý không tử tế nhằm đánh lạc hướng dư luận. Bởi vì bất cứ ai đọc kỹ các bài viết của tôi đều thấy rõ giữa quan niệm của tôi và quan niệm của ông Sam Rainsy, không có gì giống nhau. Điểm căn bản là ở chỗ: ông Sam Rainsy là một nhà chính trị, đứng đầu một đảng chính trị ở nước láng giềng, muốn lấy lòng cử tri nên kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi, còn tôi tuy luôn luôn bàn đến chính trị, nhưng lại không liên quan đến một đảng chính trị nào, vì thế không có động cơ phe phái. Hơn thế nữa, tôi cũng không liên quan gì đến cái mà ông Tiến sĩ Trần Công Trục gọi là “quan niệm về chủ quyền lịch sử”, nghĩa là “ngày xưa cha ông ta ở đâu thì đất đó là của Việt Nam”. Hãy đọc kỹ các bài viết của tôi về vấn đề biên giới Việt-Trung. Bất cứ bài nào cũng chỉ nhằm để bảo vệ “đường biên giới lịch sử” đã tồn tại từ khi có các công ước Pháp-Thanh vào cuối thế kỷ 19. Mà đường biên giới lịch sử này thì chính các tiền bối của ông Tiến sĩ Trần Công Trục trong Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như trong ngành ngoại giao cũng đã từng coi là căn cứ quan trọng nhất trong các cuộc đàm phán với phía Trung Quốc.
Tôi xin phép trích dẫn một đoạn văn trong cuốn “bị vong lục” (memorandum) do Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố vào năm 1979 để làm rõ vấn đề:
“Lập trường của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được nêu rõ trong Công hàm ngày 2 tháng 3 năm 1979 gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc: những người cầm quyền Trung Quốc đã gây chiến tranh xâm lược Việt Nam thì họ phải vĩnh viễn chấm dứt xâm lược; phải rút ngay, rút hết, rút không điều kiện quân đội của họ về phía bên kia đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã thoả thuận; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.“Đường biên giới lịch sử” mà văn bản này nói đến chính là đường biên giới được hoạch định bởi các công ước Pháp-Thanh ký hồi cuối thế kỷ 19.
Ngày 6 tháng 3 năm 1979, phía Việt Nam đã tuyên bố:
“Nếu Trung Quốc thật sự rút toàn bộ quân của họ khỏi lãnh thổ Việt Nam như họ đã tuyên bố, thì sau khi quân Trung Quốc rút hết về bên kia đường biên giới lịch sử đã được hai bên thoả thuận tôn trọng, phía Việt Nam sẵn sàng đàm phán ngay với phía Trung Quốc ở cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao về việc khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước. Địa điểm và thời gian sẽ do hai bên thoả thuận.”
Nếu những người cầm quyền Trung Quốc tiếp tục chính sách xâm lược chống Việt Nam thì quân và dân Việt Nam sẽ dùng quyền tự vệ thiêng liêng, kiên quyết chiến đấu chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam quyết tiếp tục làm hết sức mình gìn giữ tình hữu nghị truyền thống với nhân dân Trung Quốc. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiên quyết đòi nhà cầm quyền Trung Quốc:
[1] Vĩnh viễn chấm dứt xâm lược, phải rút ngay, rút không điều kiện quân đội của họ về nước; chấm dứt mọi hành động tội ác đối với nhân dân Việt Nam; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; tôn trọng đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã thoả thuận; phải chấm dứt ngay việc dời cột mốc biên giới và những hành động khác nhằm thay đổi đường biên giới đó.
[2] Cùng phía Việt Nam sớm mở cuộc thương lượng nêu trong Công hàm ngày 15 tháng 3 năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhằm đem lại hoà bình và ổn định ở vùng biên giới giữa hai nước, khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước.”[3]
2) Ngay trong lời giới thiệu bài phỏng vấn cũng như trong câu hỏi của phóng viên, câu trả lời của ông Tiến sĩ Trần Công Trục, đều có những sự xuyên tạc đầy ác ý nhằm kích động người đọc nghĩ xấu về tôi. Xin dẫn chứng một số ví dụ sau:
“- PV: Quay lại câu chuyện tài liệu “Sự thật thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh đưa ra các tài liệu lịch sử, chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng toàn bộ ngọn thác này thuộc chủ quyền của Việt Nam và quy kết các nhà đàm phán, lãnh đạo Việt Nam đã nhân nhượng vô nguyên tắc, bán đất cho TQ. […]”
- “Câu chuyện về Sam Rainsy và một số nhóm chính trị đối lập tại Campuchia viện dẫn những quan điểm sai trái về chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử để đưa ra những tuyên bố vô lý về vấn đề chủ quyền, gây rối loạn xã hội Campuchia, chia rẽ quan hệ Campuchia – Việt Nam. Điều này không khác gì hiện nay trong dư luận đang sử dụng yếu tố lịch sử để lật lại vấn đề đàm phán biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và tung tin các nhà đàm phán Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam bán đất cho Trung Quốc.” (Trích lời ông Trần Công Trục).
Đây là điều bịa đặt nhằm mục đích kích động dư luận. Trong toàn bộ bài viết của tôi, tuyệt nhiên không có chỗ nào nói “lãnh đạo Việt Nam bán đất cho Trung Quốc.” Chỉ có một đoạn như sau liên quan đến chữ “bán”: “Ở chỗ này, nếu nói chúng ta bán đất thì hoàn toàn vô lý. Pháp lý lẫn thực tiễn đều không cho phép chúng ta giữ chủ quyền trên toàn bộ thác Bản Giốc.” Nhưng câu này không phải là lời của tôi, mà chỉ là câu trích dẫn lời nói của ông Lê Công Phụng – nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.
3) Ông Trần Công Trục nói: “Công ước Pháp – Thanh 1887 và Công ước Pháp – Thanh bổ sung 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo được công ước trên xác nhận và quy định mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán các khu vực có tranh chấp về chủ quyền. Tất cả các tài liệu, chứng cứ lịch sử như bản đồ, thư tịch, sách giáo khoa, bưu ảnh, ghi chép cá nhân nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên đều không được chấp nhận, kể cả là ta hay TQ.”
Đúng là một số tài liệu tôi nêu ra chỉ là tài liệu dùng để tham khảo, không phải là căn cứ pháp lý. Nhưng nêu những tài liệu đó là điều cần thiết để chứng minh một sự thật: ít nhất là từ khi nhà Thanh và người Pháp ký các công ước về biên giới vào cuối thế kỷ 19 cho đến khi có hiệp định 1999, toàn bộ Thác Bản Giốc vẫn thuộc về nước ta.
Mặc dù ông Trục khoe rằng “đã đọc kỹ bài viết này của ông Mai Thái Lĩnh”, trong thực tế ông đã không đọc kỹ bài viết đó. Vì vậy ông đã không nhận ra “những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý”. Trong phần kết luận, tôi đã viết như sau:
“Trước hết, về căn cứ pháp lý để chứng minh chủ quyền của nước ta đối với Thác Bản Giốc, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có trong tay ít nhất là 4 hồ sơ: [1] Tài liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc, [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960, [3] Tài liệu về việc Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980.”Và tôi đã đặt câu hỏi: “… tại sao các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng đã bỏ qua, không sử dụng những tài liệu này trong đàm phán?”.
Nếu ông Trục không coi đây là những bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý thì ông phải nói rõ lý do, chứ không nên lờ đi, vì các bằng chứng này có liên quan đến chính quyền mà ông Trục phục vụ, và cả Đảng Cộng sản Việt Nam – mà ông Trục là một thành viên.
4) Ông Trần Công Trục luôn mồm rao giảng về sự khác nhau giữa một bên là “chủ quyền lịch sử, bằng chứng lịch sử, quan điểm lịch sử” và bên kia là “các chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ theo luật pháp quốc tế”. Tự coi mình là người am hiểu và nắm vững vấn đề hơn người khác, ông luôn mồm chê bai người khác là “nhầm lẫn”, là “nhận thức hạn chế”, v.v. và v.v.
Vì vậy, tôi thấy cần nhấn mạnh đến “những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý” trích từ cuốn Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc xuất bản năm 1979, mục II (Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay), nói về việc “nhà cầm quyền Trung Quốc đã lần lượt lấn chiếm hết khu vực này đến khu vực khác của Việt Nam, từ khu vực nhỏ hẹp đến khu vực to lớn, từ khu vực quan trọng về quân sự đến khu vực quan trọng về kinh tế”:
“[3] Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam.Đề nghị ông Tiến sĩ Trần Công Trục cho biết: những hồ sơ nêu trên có phải là “những chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý” hay không?
Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn đất.
Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc.” (tr. 11-12)
“[7] Lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam để chuyển dịch đường biên giới.
Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong.” (trang 14)
Riêng tôi thì tin rằng khi viết những dòng chữ này trong bản “bị vong lục” năm 1979, Bộ Ngoại giao do cố Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch[4] lãnh đạo đã có sẵn những chứng cứ pháp lý cụ thể kèm theo. Nếu ông Trần Công Trục thật sự có “tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước” thì ông nên đề nghị ông đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh mở kho lưu trữ để công bố các hồ sơ nêu trên cho toàn dân biết. Trong các hồ sơ đó, dĩ nhiên có cả những bản đồ chi tiết về cột mốc 53, về cồn Pò Thoong, v.v… – nhất là chứng cứ về việc Trung Quốc đã sửa bản đồ tỷ lệ 1/100.000 như thế nào nhằm “chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong”.
Cũng cần nhấn mạnh đến ý kiến của ông Tiến sĩ Trần Công Trục cho rằng chỉ có “các văn kiện, bản đồ hoạch định cắm mốc kèm theo” hai công ước Pháp-Thanh và được hai công ước ấy “xác nhận và quy định” mới được xem xét là có giá trị khi đưa ra đàm phán, còn tất cả các chứng cứ khác (kể cả bản đồ) “nằm ngoài phạm vi của 2 bản Công ước trên” đều không được chấp nhận. Theo tôi, một khi đã chấp nhận điều kiện này, ông Trục và những người tham gia đàm phán về phía Việt Nam đã rơi vào bẫy của phía Trung Quốc.
Vì sao? Vào cuối thế kỷ 19, khi ký kết các công ước giữa Pháp và nhà Thanh, trình độ kỹ thuật chưa cho phép người ta vẽ bản đồ với độ chính xác cao, nhất là chưa có tọa độ địa lý. Vì vậy nếu chỉ dựa vào những bản vẽ ấy, không thể xác định được chính xác các cột mốc biên giới. Chính phía Trung Quốc cũng biết rõ như thế cho nên họ mới tìm cách “sửa bản đồ”, “dời cột mốc”, và sau khi đã ký được hiệp định 1999, hoàn thành việc cắm mốc, họ đã vội vàng dỡ bỏ mọi cột mốc lịch sử để “phi tang”, xóa dấu tích nhằm che giấu những việc làm ám muội của họ.
Vì thế, cần phải căn cứ vào các tài liệu – nhất là bản đồ của thời Pháp thuộc, để xác định đường biên giới Pháp-Thanh đã được thể hiện rõ ràng trên thực tế. Cho đến nay, các nhà ngoại giao tham gia đàm phán (kể cả ông Trần Công Trục) đều cố tình lờ đi hai tài liệu quan trọng: bản đồ gốc tỷ lệ 1/100.000 (tức là bản đồ do người Pháp in trước năm 1954) và bản đồ in lại đã bị Trung Quốc sửa chữa. Chính sự mờ ám đó khiến cho nhân dân hoài nghi vào “lòng yêu nước”, “tính trung thực” của những người tham gia đàm phán hiệp định biên giới Việt-Trung, chứ không phải là do những bài viết của tôi và các nhà nghiên cứu khác.
Điều mà các bài viết của tôi nhắm tới chính là “đường biên giới do lịch sử để lại” mà bản “bị vong lục” năm 1979 đã nhiều lần nhắc tới. Đường biên giới lịch sử ấy chính là đường biên giới do các công ước Pháp-Thanh quy định vào cuối thế kỷ 19. Đường biên giới lịch sử ấy có thật sự được tôn trọng hay không? Hiệp định biên giới trên bộ năm 1999 có bảo đảm được “đường biên giới lịch sử” ấy hay không? Đó mới thật sự là điều những người Việt Nam yêu nước băn khoăn, lo nghĩ.
Vì vậy, không thể đánh lận con đen, quy tôi vào quan niệm “chủ quyền lịch sử” theo kiểu của Tòa soạn báo Giáo dục Việt Nam và ông Tiến sĩ Trần Công Trục. Tôi đâu có đòi lại đất Quảng Tây hay Quảng Đông mà bảo tôi “nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử”?
Cuối cùng, tôi đọc được câu sau đây trên trang mạng Giáo dục Việt Nam – cơ quan ngôn luận của “Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng ngoài công lập”: “Mọi ý kiến nhận xét, phản biện về các nội dung trong bài viết trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia, dân tộc và có lợi cho việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển đất nước, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam sẵn sàng đăng tải. Tiến sĩ Trần Công Trục sẵn sàng trao đổi để làm rõ những thắc mắc, nghi vấn xung quanh vấn đề này.”
Dựa trên tinh thần đó, tôi chính thức đề nghị báo điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải bài viết này cùng với toàn văn bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc” bên cạnh bài trả lời phỏng vấn của ông Trần Công Trục để độc giả tiện so sánh, đánh giá, phản biện.
Đà Lạt ngày 5-9-2013
Mai Thái Lĩnh
___________________________________
[1] “Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, Thứ ba 3-9-2013:
http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Su-that-ve-Thac-Ban-Gioc-va-nhan-thuc-sai-lam-ve-chu-quyen-lich-su/315145.gd
[2] Mai Thái Lĩnh, Sự thật về Thác Bản Giốc,
https://danluan.org/tin-tuc/20120211/mai-thai-linh-su-that-ve-thac-ban-gioc-phan-i
https://danluan.org/tin-tuc/20120211/mai-thai-linh-su-that-ve-thac-ban-gioc-phan-ii
[3] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1979, trang 34-36. Những đoạn gạch dưới là do tôi nhấn mạnh (MTL).
[4] Theo Wikipedia bản tiếng Việt, ông Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương) là thân sinh của ông Phạm Bình Minh – Bộ trưởng Ngoại giao hiện nay




Nhận xét
Đăng nhận xét