Thứ Năm, 19 tháng 11, 2015

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI (Napoleon) 11

-Mọi người đều mù quáng đi trên con đường đời của mình! Vì đố ai thấy chính xác con đường ấy!
-Đường đời riêng đã không thấy thì làm sao thấy được đường đời chung, tức định mệnh của nhân loại?
-Chỉ toàn suy đoán và tưởng tượng thôi! Vì vậy, hãy thận trọng trước những " tiên tri" về xã hội!
-Và đời ta, ta không thể đánh giá đúng được mà phải để đời sau đánh giá!

-----------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)

Napoléon Bonaparte

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Napoléon I
Napoleon in His Study.jpg
Hoàng đế của người Pháp
Trị vì 20 tháng 3 năm 1804 – 11 tháng 4 năm 1814
(9 năm, 328 ngày)
1 tháng 3 năm 1815 – 22 tháng 6 năm 1815 (94 ngày)
Đăng quang 2 tháng 12 năm 1804
Tiền nhiệm Không (bản thân trên cương vị Đệ nhất tổng tài của Đệ nhất Cộng hòa Pháp)
Kế nhiệm Louis XVIII (de jure năm 1814)
Vua Ý
Trị vì 17 tháng 3 năm 1805 – 11 tháng 4 năm 1814
Đăng quang 26 tháng 5 năm 1805
Tiền nhiệm Không (bản thân trên cương vị Tổng thống của Cộng hòa Ý)
Kế nhiệm Không (vương quốc tan rã, vua kế tiếp của Ý là Vittorio Emanuele II)
Thông tin chung
Phối ngẫu Joséphine de Beauharnais
Marie Louise của Austria
Hậu duệ Napoléon II
Tên đầy đủ Napoléon Bonaparte
Hoàng tộc Bonaparte
Thân phụ Carlo Bonaparte
Thân mẫu Letizia Ramolino
Sinh 15 tháng 8 năm 1769
Ajaccio, Corse, Pháp
Mất 5 tháng 5 năm 1821 (52 tuổi)
Longwood, Saint Helena
An táng Điện Invalides, Paris
Chữ ký của Napoléon I

Cờ hiệu Đế chế của Napoléon I
Napoléon Bonaparte[chú thích 1] (tiếng Pháp: Napoléon Bonaparte [napoleɔ̃ bɔnɑpaʁt], tiếng Ý: Napoleone Buonaparte; 15 tháng 8 năm 17695 tháng 5 năm 1821) là một nhà quân sự và nhà chính trị kiệt xuất người Pháp trong và sau cuộc cách mạng Pháp cũng như các cuộc chiến tranh liên quan ở châu Âu.
Với đế hiệu Napoléon I, ông là Hoàng đế của người Pháp từ năm 1804 đến năm 1815. Cuộc cải cách pháp luật của ông, Bộ luật Napoléon, đã có những ảnh hưởng lớn lên nhiều bộ luật dân sự trên toàn thế giới, nhưng ông được nhớ đến nhất bởi vai trò của mình trong các cuộc chiến tranh mà Pháp phải đương đầu với hàng loạt liên minh, được gọi là các cuộc chiến tranh Napoléon. Ông đã thiết lập quyền bá chủ trên phần lớn lục địa châu Âu và tìm cách truyền bá những lý tưởng của cách mạng Pháp, đồng thời củng cố nền đế chế làm phục hồi những nét của chế độ cũ Pháp (Ancien Régime). Nhờ thắng lợi trong những cuộc chiến này, thường là chống lại đối phương có ưu thế về quân số, ông được coi là một trong những nhà quân sự vĩ đại nhất mọi thời đại, và các chiến dịch của Napoléon được nghiên cứu tại các học viện quân sự trên khắp thế giới 
Napoléon được sinh ra ở Ajaccio thuộc Corse, trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc Genova (Ý). Ông được đào tạo thành một sỹ quan pháo binh ở Pháp. Bonaparte trở nên nổi tiếng dưới thời Đệ nhất Cộng hòa Pháp khi chỉ huy thành công nhiều chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhấtthứ hai chống Pháp. Ông cũng tiến hành cuộc chinh phạt bán đảo Ý.
Năm 1799, ông đã tổ chức một cuộc đảo chính và tự đưa mình trở thành vị Tổng tài thứ nhất; năm năm sau đó Thượng viện Pháp tuyên xưng ông là Hoàng đế Pháp. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 19, Đệ nhất Đế chế Pháp dưới quyền Napoléon đã tham gia vào một loạt xung đột — những cuộc chiến tranh Napoléon — lôi kéo mọi cường quốc chính ở châu Âu tham gia. Sau một loạt thắng lợi, Pháp đạt được vị trí thống trị ở lục địa châu Âu, và Napoléon duy trì phạm vi ảnh hưởng của Pháp thông qua việc thành lập của những mối đồng minh rộng lớn và bổ nhiệm bạn bè và người thân cai trị các quốc gia châu Âu khác như những chư hầu của Pháp.
Cuộc chiến kéo dài ở bán đảo Iberiacuộc xâm lược nước Nga năm 1812 đánh dấu bước ngoặt trong cơ đồ của Napoléon. Quân đội chủ lực của Pháp, Grande Armée, bị tổn thất nặng nề trong chiến dịch và không bao giờ có thể khôi phục lại hoàn toàn. Năm 1813, Liên minh thứ sáu đã đánh bại quân đội của ông tại Leipzig, năm sau đó Liên minh xâm lược Pháp, buộc Napoléon phải thoái vị và đày ông đến đảo Elba. Chưa đầy một năm sau, ông thoát khỏi Elba và trở lại nắm quyền, nhưng đã bị đánh bại trong trận Waterloo vào tháng 6 năm 1815. Napoléon trải qua sáu năm cuối cùng của cuộc đời trong sự giam cầm của người Anh trên đảo Saint Helena. Cái chết của ông gây ra nhiều tranh cãi về sau, chẳng hạn một số học giả cho rằng ông là nạn nhân của một vụ đầu độc bằng arsen.

Dòng dõi và việc học tập


Cha của Napoléon, Carlo Buonaparte.
Napoléon Bonaparte là đứa con thứ hai trong một gia đình có tám người con, ra đời tại dinh thự Casa Buonaparte ở thị trấn Ajaccio, đảo Corse vào ngày 15 Tháng Tám năm 1769, một năm sau khi hòn đảo này được Cộng hòa Genova chuyển giao cho Pháp  Ông được đặt tên thánhNapoleone di Buonaparte, theo tên một người chú (trước đó ông bà Bonaparte đã có một con trai đặt tên Napoleone nhưng đã mất sớm). Vào tuổi hai mươi, ông lấy tên là Napoléon Bonaparte cho có vẻ Pháp hơn 
Dòng họ Bonaparte ở Corse bắt nguồn từ giới quý tộc nhỏ Ý ở Lombardia, những người đã đến Corse từ Liguria từ thế kỷ 16 . Cha của ông là Nobile Carlo Buonaparte, một luật sư, từng được chỉ định làm đại diện của đảo Corse đối với triều đình vua Louis XVI. Người có ảnh hưởng quyết định trong thời thơ ấu của Napoléon là mẹ ông, Letizia Ramolino, kỉ luật nghiêm khắc của bà đã kiềm chế đứa bé ngỗ nghịch .

Lãnh tụ dân tộc chủ nghĩa đảo Corse Pasquale Paoli, chân dung năm 1798 bởi Richard Cosway
Ông có một anh trai Joseph và sáu người em là Lucien, Elisa, Louis, Pauline, CarolineJérôme. Có hai đứa trẻ khác, một trai một gái được sinh trước Joseph nhưng chết yểu  Napoléon được rửa tội như một người Công giáo ngay trước sinh nhật hai tuổi của mình, vào ngày 21 tháng Bảy năm 1771 tại nhà thờ Ajaccio .
Nền tảng quý tộc và tương đối khá giả cùng các mối quan hệ của gia đình giúp Napoléon có cơ hội học tập lớn hơn nhiều so với một người Corse thông thường thời đó  Tháng Một năm 1779, Napoléon đã ghi danh vào một trường tôn giáo ở Autun trên đất liền để học tiếng Pháp. Đến tháng Năm, ông được nhận vào một học viện quân sự tại Brienne-le-Château . Ông nói giọng Corse và không thể đánh vần đúng cách , điều khiến ông bị bạn bè trêu chọc và do đó chuyên tâm vào việc đọc . Nhưng một viên giám thị quan sát thấy Napoléon "luôn luôn nổi trội trong sự chăm chú đối với toán học. Anh tương đối thuần thục với lịch sử và địa lý... Chàng trai này sẽ làm nên một thủy thủ xuất sắc" . Khi hoàn thành việc học ở Brienne năm 1784, Napoléon được nhận vào trường quân sự danh tiếng École MilitaireParis. Điều này đã kết thúc tham vọng hải quân từng khiến ông cân nhắc một đơn xin vào Hải quân Hoàng gia Anh . Ông được đào tạo để trở thành một sĩ quan pháo binh và, khi cái chết của người cha làm giảm thu nhập, đã buộc phải hoàn thành khóa học hai năm trong một năm  Ông là người Corse đầu tiên tốt nghiệp từ École Militaire . Ông được sát hạch bởi nhà khoa học nổi tiếng Pierre-Simon Laplace, người sau này Napoléon bổ nhiệm vào Thượng viện 

Khởi đầu sự nghiệp


Napoleon Bonaparte ở tuổi 23, trung tá của một tiểu đoàn quân tình nguyện Corse.
Khi tốt nghiệp tháng Chín 1785, Bonaparte được phong hàm thiếu úy ở trung đoàn pháo binh La Fère . Ông từng đóng ở Valence, DrômeAuxonne cho đến trước khi bùng nổ Cách mạng năm 1789, và nghỉ phép gần hai năm ở Corse và Paris trong giai đoạn này. Là một người theo chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành, ông viết cho lãnh đạo Corse Pasquale Paoli vào tháng 5 1789:
"Tôi đã được sinh ra khi dân tộc suy vong. Ba mươi nghìn người Pháp được tung tới bờ biển của chúng ta, nó nhấn chìm ngôi báu của tự do vào những làn sóng máu. Chính cảnh tượng đó là thứ ghê tởm đầu tiên đập vào mắt tôi" 
Ông trải qua những năm đầu Cách mạng ở Corse, chiến đấu trong một cuộc xung đột phức tạp ba bên giữa những người bảo hoàng, những người cách mạng, và những người dân tộc chủ nghĩa Corse. Ông ủng hộ phái cách mạng Jacobin, nhận hàm trung tá trong đoàn dân quân Corse, và chỉ huy một tiểu đoàn quân tình nguyện. Mặc dù quá thời gian nghỉ phép vắng mặt và lãnh đạo một cuộc bạo động chống lại quân đội Pháp ở Corse, ông vẫn được thăng hàm đại úy trong quân đội chính quy Pháp tháng Bảy 1792
Ông trở lại quê hương và bắt đầu mẫu thuẫn với Paoli, người quyết định chia tách Corse khỏi Pháp và phá hoại một cuộc tấn công của Pháp trên đảo Sardegna, nơi Bonaparte là một trong các viên chỉ huy chính . Bonaparte và gia đình phải bỏ trốn vào đất liền Pháp vào tháng Sáu 1793 bởi sự cắt đứt quan hệ với Paoli.

Cuộc vây hãm Toulon


Tướng Bonaparte trong trận Toulon
Tháng Sáu 1793, Napoléon đã xuất bản một cuốn sách nhỏ có khuynh hướng thân cộng hòa, Le Souper de Beaucaire (Bữa tối ở Beaucaire), thứ đem lại cho ông sự khâm phục và ủng hộ của Augustin Robespierre, em trai nhà lãnh đạo cách mạng Maximilien Robespierre. Với sự giúp đỡ của một đồng đội người Corse là Antoine Christophe Saliceti, Bonaparte được bổ nhiệm làm chỉ huy pháo binh của quân đội cộng hòa trong cuộc vây hãm Toulon. Thành phố này nổi dậy chống chính phủ cộng hòa và được quân Anh đóng giữ .
Ông tiến hành một kế hoạch chiếm một quả đồi nơi các khẩu pháo của quân cộng hòa có thể bao quát cảng thành phố và buộc các chiến thuyền Anh phải rút lui. Cuộc đột kích lên vị trí trên, trong đó Bonaparte bị thương ở đùi, đã dẫn tới việc chiếm được thành phố sau đó, nhờ vậy ông được thăng hàm Chuẩn tướng ở tuổi 24. Ủy ban An ninh Công cộng (chính phủ de facto của Pháp đương thời) chú ý đến Napoléon, ông được cử đảm trách pháo binh của Tập đoàn quân Ý của Pháp 
Trong lúc chờ sự xác nhận bổ nhiệm, Napoléon dành thời gian để khảo sát các công sự duyên hải trên bờ biển Địa Trung Hải gần Marseille. Ông thảo ra kế hoạch tấn công Vương quốc Sardegna như một phần của chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhất Tư lệnh Tập đoàn quân Ý, Pierre Jadart Dumerbion, đã chứng kiến quá nhiều viên tướng bị xử tử do không đủ hay do có quan điểm chính trị sai lầm. Do đó, ông chiều theo ý các ủy viên đặc trách của Quốc Ước (représentant en mission) là Augustin Robespierre và Saliceti, những người đến lượt họ sẵn lòng lắng nghe viên tướng pháo binh mới được thăng chức .
Thực hiện kế hoạch của Bonaparte trong trận Saorgio tháng Tư 1794, quân đội Pháp tiến lên phía đông bắc tới vùng Riviera thuộc Ý sau đó ngoặt sang phía bắc để chiếm đóng Ormea trong vùng núi. Từ Ormea, họ đột phá phía tây để thọc sườn các vị trí Áo-Sardegna xung quanh Saorge. Kết quả là, các thành thị duyên hải OnegliaLoano, cũng như con đèo Tenda chiến lược, bị chiếm bởi quân Pháp  Sau đó, Augustin Robespierre gửi Bonaparte tới một nhiệm vụ ở Cộng hòa Genova để xác định các toan tính của quốc gia này đối với nước Pháp .

Ngày 13 tháng Hái Nho


Cuộc tấn công Quốc Ước ngày 13 tháng Vendémiaire, tranh của Abraham Girardet.
Theo sau sự sụp đổ của chính quyền Jacobin vào tháng Bảy 1794 Chính biến Thermidor, một báo cáo vạch tội khiến Bonaparte bị quản chế tại gia ở Nice vì mối liên hệ với anh em Robespierre . Thư kí của Napoleon, Bourrienne, phản kháng cáo buộc này trong hồi kí của ông. Theo Bourrienne, sự đố kị giữa Tập đoàn quân Alps và Tập đoàn quân Ý (mà Napoléon đứng vị trí thứ hai lúc đó) chịu trách nhiệm về cáo buộc này Sau một lời biện hộ sôi nổi trong một lá thư mà Bonaparte gửi gấp tới các đặc phái viên Saliceti và Albitte, ông được tha bổng mọi tội 
Ông được thả trong vòng hai tuần, và do năng lực của mình, được yêu cầu thảo kế hoạch tấn công các vị trí Ý trong bối cảnh cuộc chiến Pháp-Áo. Ông cũng tham gia vào một cuộc viễn chinh nhằm chiếm lại Corse từ tay người Anh, nhưng quân Pháp đã bị đẩy lùi bởi Hải quân Hoàng gia .
Tháng Bốn 1795, Bonaparte đính hôn với Désirée Clary, em gái của Julie Clary, người đã cưới anh trai của Bonaparte là Joseph; nhà Clary là một gia đình thương nhân giàu có đến từ Marseilles . Cùng thời gian này, ông được chỉ định tới Tập đoàn quân phía Tây, lúc này đang tham gia Chiến tranh Vendée — một cuộc nội chiến kéo dài do phe bảo hoàng chống cách mạng gây ra ở vùng Vendée phía tây miền trung nước Pháp. Làm một tư lệnh bộ binh, đó là một sự giáng cấp từ tướng pháo binh — mà quân đội đã có đủ hạn ngạch — và ông viện cớ sức khỏe yếu để từ chối nhậm chức 
Ông được chuyển tới Văn phòng Trắc địa của Ủy ban An ninh Công cộng và tìm kiếm cơ hội được gửi tới Constantinople để phục vụ cho Sultan nhưng không thành  Trong thời kì này, ông viết một tiểu thuyết lãng mạn ngắn mang tựa đề Clisson et Eugénie kể về một người lính và tình nhân của anh ta, một so sánh rõ ràng mối quan hệ của chính Bonaparte với Désirée  Ngày 15 tháng Chín, Bonaparte bị loại khỏi danh sách các tướng của quân đội chính quy do việc từ chối nhận nhiệm vụ ở chiến dịch Vendée. Ông đối diện với một tình trạng tài chính khó khăn và thu hẹp những tham vọng về tiền đồ của mình
Mùng 3 tháng Mười, những người bảo hoàng ở Paris tuyên bố một cuộc nổi loạn chống lại Quốc Ước sau khi họ bị loại khỏi chính phủ mới, nội các Đốc chính . Paul Barras, một lãnh đạo của Chính biến Thermidor, biết đến thành tích quân sự của Bonaparte ở Toulon và trao cho ông quyền chỉ huy các lực lượng ứng biến phòng thủ trụ sở Quốc Ước ở Cung điện Tuileries. Chứng kiến vụ thảm sát đội Cận vệ Thụy Sĩ của nhà vua ba năm trước đó, ông nhận ra pháo binh có thể là chìa khóa để kháng cự
Ông lệnh cho một sĩ quan kị binh trẻ, Joachim Murat, chiếm các khẩu đại bác lớn và dùng chúng để đẩy lui các đợt tấn công vào mùng 5 tháng Mười 1795—13 tháng Vendémiaire (Hái Nho) năm IV theo Lịch Cách mạng Pháp. Sau khi 1400 người bảo hoàng chết, số còn lại rút lui 
Sự thất bại của cuộc nổi dậy phe bảo hoàng đã dập tắt mối đe dọa với Quốc Ước và giúp Bonaparte đột nhiên gặt hái được danh vọng, tiền tài cùng với sự bảo trợ của nội các mới. Murat cưới một trong số các em gái và trở thành em rể cũng như tiếp tục phục vụ Napoléon như một vị tướng. Bonaparte được thăng hàm thiếu tướng, đảm nhiệm chức Tư lệnh Nội địa (Commandand de l'armée de l'Intérieur) và sau đó Tập đoàn quân Ý được trao cho ông 
Trong vòng vài tuần ông đã gắn bó với nhân tình cũ của Barras, Joséphine de Beauharnais. Họ cưới nhau vào mùng 9 tháng Ba 1796 sau khi ông hủy đính ước với Désirée Clary 

Chiến dịch Ý thứ nhất (1796–1797)


Bonaparte trên Cầu Arcole, bởi Nam tước Antoine-Jean Gros, (khoảng 1801), Bảo tàng Louvre, Paris.
Hai ngày sau hôn lễ, Bonaparte rời Paris để nắm quyền chỉ huy Tập đoàn quân Ý và dẫn dắt một cuộc chinh phạt thắng lợi nước Ý. Ở trận Lodi ông đã đánh bại quân đội Áo và đẩy họ ra khỏi Lombardia[23]. Ông thất bại trong trận Caldiero bởi sự tăng viện của Áo, chỉ huy bởi József Alvinczi, tuy nhiên Bonaparte lấy lại thế chủ động trong trận đánh có tính quyết định ở Arcole tiến tới chinh phục địa phận của Giáo hoàng[40].
Bonaparte đã bác bỏ mong muốn của những người vô thần ở Hội đồng Đốc chính là hành quân vào Roma và phế truất Giáo hoàng vì ông cho rằng điều này sẽ tạo ra một khoảng trống quyền lực sẽ bị Vương quốc Napoli lợi dụng. Thay vào đó, tháng Ba 1797, Bonaparte chỉ huy quân đội tiến vào Áo và buộc nước này thương lượng một hòa ước . Hiệp ước Leoben đã cho Pháp quyền cai quản hầu hết Bắc Ý và các miền đất phía dưới châu thổ sông Rhine (Pays-Bas, gồm Bỉ, Hà Lan và một phần lãnh thổ Đức, Pháp hiện nay), trong khi một điều khoản bí mật hứa hẹn Cộng hòa Venezia cho Áo. Bonaparte hành quân tới Venezia và buộc nó đầu hàng, kết thúc 1100 năm nền độc lập của thành phố thương mại này; ông cũng lấy cớ cho quân Pháp cướp bóc những báu vật như những bức tượng ngựa bằng đồng ở Giáo đường Thánh Máccô.
Áp dụng những ý tưởng quân sự thông thường vào các tình huống thực tế đã làm nên những vinh quang quân sự của ông, chẳng hạn như việc sử dụng sáng tạo pháo binh như một lực lượng linh hoạt để hỗ trợ cho bộ binh. Ông nói về chiến thuật của mình như sau: "Tôi đã đánh sáu mươi trận và tôi không học được điều gì mà tôi chưa biết vào lúc bắt đầu. Nhìn Caesar xem; ông ta đánh trận đầu giống như trận cuối".
Ông tinh thông trong việc sử dụng gián điệp và mưu trá và có thể thắng trận chiến bằng cách che đậy việc triển khai quân và tập trung quân vào điểm mấu chốt của mặt trận bị suy yếu của đối phương. Nếu ông không thể sử dụng chiến lược bao vây ưa thích của mình (Mouvement en tenaille, chuyển quân sang hai cánh và hợp vây kẻ địch), ông sẽ nắm lấy vị trí trung tâm và tấn công hai lực lượng phối hợp ở điểm mấu chốt của họ, tung quân đánh một cánh cho đến khi nó rút lui, sau đó quay lại đương đầu với cánh kia . Trong chiến dịch Ý này, quân đội của Bonaparte bắt được 150 000 tù binh, 540 khẩu đại bác và 170 cờ hiệu  Quân đội Pháp đã đánh 67 trận và thắng 19 trận chính quy (pitched battles, trong đó hai bên chọn một địa điểm dàn quân trước khi đánh) nhờ kĩ thuật pháo binh áp đảo và các chiến thuật của Bonaparte 
Trong khi chiến dịch diễn ra, Bonaparte trở nên ngày càng có ảnh hưởng trong chính trị Pháp; ông thành lập hai tờ báo: một cho quân đội của ông và một phát hành ở Pháp  Những người bảo hoàng đả kích Bonaparte vì cướp phá Ý và cảnh báo rằng ông có thể trở thành một kẻ độc tài . Bonaparte gửi tướng Pierre Augereau tới Paris để lãnh đạo một cuộc đảo chính và thanh lọc những người bảo hoàng vào mùng 4 tháng Chín — sau được gọi là Đảo chính ngày 18 Fructidor. Điều này đem Barras và các đồng minh phe Cộng hòa trở lại nắm quyền nhưng phụ thuộc vào Bonaparte, người bấy giờ đang tiến hành đàm phán hòa ước mới với Áo. Những thương lượng này dẫn tới Hiệp ước Campo Formio, và Bonaparte trở lại Paris tháng Mười hai như một anh hùng  Ông gặp Talleyrand, Bộ trưởng Ngoại giao mới của Pháp — người về sau phục vụ ở cùng cương vị cho đế chế của Napoléon — và họ bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc xâm lược nước Anh 

Viễn chinh tới Ai Cập (1798-1801)


Napoleon tiến vào Alexandria ngày 3 tháng Bảy, 1798, tranh của Guillaume-François Colson, 1800.
Sau hai tháng lên kế hoạch, Bonaparte quyết định rằng lực lượng hải quân Pháp chưa đủ mạnh để đối diện với Hải quân Hoàng gia ở Eo biển Anh và đề xuất một cuộc viễn chinh để chiếm Ai Cập và do đó phá sự tiếp cận của người Anh với những nguồn lợi thương mại ở Ấn Độ . Bonaparte mong mỏi thiết lập một sự hiển hiện của Pháp ở Trung Đông, với giấc mộng tối hậu về việc liên kết với một kẻ thù Hồi giáo của Anh ở Ấn Độ, Tippu Sultan 
Napoléon đảm bảo với Hội đồng Đốc chính rằng "ngay khi ông chinh phục được Ai Cập, ông sẽ thành lập những mối quan hệ với các hoàng thân Ấn Độ, và cùng với họ, tấn công người Anh tại các thuộc địa của họ" . Theo một bản tường trình tháng Hai 1798 bởi Talleyrand: "Khi đã chiếm giữ và củng cố Ai Cập, chúng ta sẽ gửi một lực lượng 15000 người từ Suez tới Ấn Độ, kết hợp với Tipu-Sahib và đánh đuổi người Anh" Hội đồng đồng ý với kế hoạch để bảo đảm tuyến giao thương tới Ấn Độ 

Bức Bonaparte trước Nhân sư (tranh vẽ khoảng. 1868) của Jean-Léon Gérôme, Lâu đài Hearst
Tháng Năm 1798, Bonaparte được bầu làm thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Chuyến viễn chinh Ai Cập của ông có sự tham gia của 167 nhà khoa học bao gồm các nhà toán học, tự nhiên học, hóa học và trắc địa; trong những khám phá của họ có Phiến đá Rosetta, và công trình của họ được xuất bản thành cuốn Description de l'Égypte năm 1809 
Trên đường tới Ai Cập, Bonaparte tới Malta vào ngày 9 tháng Sáu 1798, khi đó dưới quyền kiểm soát của dòng Hiệp sĩ Cứu tế. Hai trăm hiệp sĩ gốc Pháp không ủng hộ vị Đại trưởng lão, Ferdinand von Hompesch zu Bolheim, và bày tỏ rằng họ sẽ không chiến đấu chống lại đồng bào. Hompesch đầu hàng sau một sự kháng cự yếu ớt, và Bonaparte chiếm được một căn cứ hải quân quan trọng với tổn thất chỉ ba binh sĩ 
Tướng Bonaparte cùng đoàn quân của ông đã phải né tránh cuộc truy đuổi của Hải quân Hoàng gia và cập cảng ngày 1 tháng Bảy ở Alexandria  Ông đánh trận Shubra Khit chống lại Mamluk, giới quân sự thống trị Ai Cập bấy giờ. Điều này giúp những người Pháp thực hành chiến thuật phòng thủ cho trận Kim Tự Tháp diễn ra ngày 21 tháng Bảy, cách các kim tự tháp 24 km. Lực lượng của Bonaparte vào khoảng 25000, xấp xỉ bằng quân số kỵ binh Mamluk, nhưng ông đã lập những khối quân hình vuông rỗng với quân nhu được giữ an toàn bên trong. Kết quả, chỉ có 29 người Pháp chết , so với xấp xỉ 2000 người Ai Cập. Chiến thắng này đã củng cố tinh thần cho quân đội Pháp.

Bức Trận Kim tự tháp ngày 21 tháng Bảy 1798 bởi Louis-François, Baron Lejeune, 1808
Ngày 1 tháng Tám, hạm đội Anh dưới quyền Horatio Nelson đã bắt hoặc tiêu diệt hầu như tất cả chỉ trừ hai chiếc tàu Pháp trong trận sông Nile, và mục tiêu của Bonaparte về một vị thế tăng cường của người Pháp ở Địa Trung Hải tan vỡ Quân đội của ông thành công trong sự gia tăng ngắn hạn quyền lực của Pháp ở Ai Cập, tuy nhiên sau đó đối mặt với những cuộc nổi dậy liên tiếp . Đầu năm 1799, ông chuyển quân tới tỉnh Damascus thuộc đế quốc Ottoman (SyriaGalilea). Bonaparte chỉ huy 13000 lính Pháp trong cuộc chinh phục các thành thị duyên hải Arish, Gaza, Jaffa, và Haifa . Cuộc tấn công vào Jaffa đặc biệt đẫm máu: Bonaparte, khi khám phá ra phần nhiều trong những người bảo vệ thành phố là cựu tù nhân chiến tranh từng hứa danh dự không trả thù để được tha, đã ra lệnh cho quân phòng thủ cùng 1.400 khác bị xử tử bằng lưỡi lê hoặc dìm chết đuối để tiết kiệm đạn . Đàn ông, đàn bà và trẻ con bị cướp và giết trong ba ngày .

Với đội quân bị suy yếu bởi bệnh dịch — chủ yếu là dịch hạch — và nguồn quân nhu nghèo nàn, Bonaparte không thể hạ các pháo đàiAkko và trở lại Ai Cập vào tháng Năm  Để tăng tốc cuộc hành quân, ông ra lệnh bỏ lại những người lính ốm yếu vì dịch hạch và bắt họ uống thuốc độc . (Tuy nhiên, những người Anh sau này chứng kiến đã ghi chép lại rằng hầu hết những người này sống sót và không bị đầu độc). Những người ủng hộ ông lập luận rằng điều này là cần thiết để đối phó với các trận tập hậu của quân Ottoman, và thực tế những người bỏ lại còn sống thường bị tra tấn và chặt đầu bởi kẻ địch. Trở lại Ai Cập, vào ngày 25 tháng Bảy, Bonaparte đánh bại cuộc tấn công đổ bộ của Ottoman trong trận Abukir 

Nhà cai trị nước Pháp


Tướng Bonaparte bị bao vây bởi các thành viên của Hội đồng Năm trăm trong cuộc đảo chính 18 tháng Sương mù, tranh của François Bouchot.
Khi ở Ai Cập, Bonaparte vẫn nhận được thông báo về sự vụ châu Âu thông qua các báo chí và thông điệp được chuyển tới không đều đặn. Ông biết rằng Pháp đã phải chịu một chuỗi những thất bại trong Chiến tranh Liên minh thứ hai Ngày 24 tháng Tám 1799, ông lợi dụng sự rút lui tạm thời các tàu Anh khỏi các cảng Pháp để giong buồm về nước, bất chấp sự kiện là ông không nhận được mệnh lệnh rõ ràng nào từ Paris . Quân đội ở lại được giao phó cho tướng Jean Baptiste Kléber 
Hội đồng Đốc chính đã gửi ông những mệnh lệnh quay về để ngăn ngừa những cuộc xâm lược vào đất Pháp, nhưng đường dây liên lạc nghèo nàn khiến cho các thông điệp không đến được với ông . Vào lúc ông tới được Paris vào tháng Mười, tình hình nước Pháp đã được cải thiện bởi một chuỗi những thắng lợi. Tuy nhiên nền Cộng hòa đã phá sản, và Hội đồng bất lực không được lòng dân Pháp . Hội đồng đã thảo luận về việc "đào ngũ" của Bonaparte nhưng quá yếu ớt để trừng phạt ông
Bonaparte được một trong các viên Đốc chính, Emmanuel Joseph Sieyès, tiếp cận để hỗ trợ cho một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ hợp hiến. Những người đứng đầu kịch bản này bao gồm người em trai ông là Lucien; phát ngôn viên của Hội đồng Năm trăm (tức Hạ nghị viện), Roger Ducos; một viên Đốc chính khác, Joseph Fouché; và Talleyrand. Vào ngày 9 tháng Mười một — hay 18 tháng Brumaire (Sương mù) theo lịch Cộng hòa Pháp — Bonaparte được trao nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho hai viện lập pháp, những người bị thuyết phục rời về Lâu đài Saint-Cloud ở phía Tây Paris, sau một tin đồn về một cuộc nổi loạn của phe Jacobin được lan truyền bởi những người âm mưu  Ngày hôm sau, các nghị sĩ nhận ra họ đang đối mặt với một cuộc đảo chính. Trước sự phản kháng của họ, Bonaparte chỉ huy quân đội nắm quyền và giải tán họ, kế đó một nghị viện thu nhỏ (rump legislature) chỉ định Bonaparte, Sieyès, và Ducos làm các Tổng tài lâm thời quản lí chính quyền.

Chế độ Tổng tài Pháp


Napoleon vượt dãy Alps trên lưng chiến mã Marengo (1800), bởi Jacques-Louis David.
Mặc dù Sieyès hi vọng sẽ cầm đầu trong chính quyền mới, ông sớm bị vượt mặt bởi Bonaparte, người thảo ra Hiến pháp Năm VIII và bảo đảm việc bầu chọn bản thân làm Tổng tài thứ nhất, và ông dọn đến ở điện Tuileries . Điều này khiến cho Bonaparte trở thành con người quyền lực nhất ở Pháp 
Năm 1800, Bonaparte và quân đội của ông vượt dãy Alps tới Ý, nơi quân đội Pháp đã hầu như bị đánh bật hoàn toàn bởi quân Áo trong lúc ông đang ở Ai Cập. Chiến dịch khởi đầu tệ hại cho người Pháp khi Bonarpate có những sai lầm chiến lược; một lực lượng đã bị vây hãm ở Genova nhưng cuối cùng phá được vây và do đó chiếm được tài nguyên của quân Áo . Nỗ lực này, và sự tăng viện kịp thời của tướng Louis Desaix, đã cho phép Bonaparte quay lại với chuỗi thắng lợi vào tháng Sáu trong trận Marengo có tính quyết định
Anh trai Joseph của Bonaparte tiến hành thương lượng hòa bình ở Lunéville và thông báo rằng Áo, được khuyến khích bởi người Anh, sẽ không công nhận những lãnh thổ Pháp vừa mới chiếm được. Khi cuộc thương lượng trở nên ngày càng căng thẳng, Bonaparte trao quyền cho tướng Moreau tấn công đất Áo thêm một lần nữa. Moreau đã lãnh đạo quân Pháp tới chiến thắng trong trận Hohenlinden. Kết quả là, Hiệp ước Lunéville được kí vào tháng hai 1801; những chiến quả của Pháp từ Hiệp ước Campo Formio được tái xác nhận và tăng cường 

Nền hòa bình tạm thời cho châu Âu


Bonaparte, Tổng tài thứ nhất, bởi Jean Auguste Dominique Ingres.
Cả Pháp lẫn Anh đã trở nên mệt mỏi với chiến tranh và kí với nhau Hiệp ước Amiens vào tháng 10 năm 1801 và tháng 3 năm 1802. Điều này đòi hỏi sự triệt thoái quân đội Anh khỏi hầu hết các thuộc địa họ chiếm gần đó[ . Sự hưu chiến này không dễ dàng và ngắn ngủi. Người Anh không chịu rút khỏi Malta như đã hứa và chống lại việc Bonaparte thôn tính PiedmontĐạo luật Hòa giải của ông đã thiết lập nên một Liên bang Thụy Sĩ mới phụ thuộc vào Pháp, mặc dù không lãnh thổ nào kể trên nằm trong phạm vi của hiệp ước . Sự tranh cãi đạt đến đỉnh điểm và kết thúc bằng một tuyên bố chiến tranh của người Anh vào tháng Năm 1803, và Napoléon tái lập căn cứ xâm lược ở Boulougne 
Bonaparte cũng đứng trước sự thất thế và cuối cùng là thảm bại trong đàn áp Cách mạng Haiti. Bằng Luật 20 tháng Năm 1802 ông tái thiết lập chế độ nô lệ trong các vùng thuộc địa Pháp vốn đã bị bãi trừ sau Cách mạng . Đáp trả một cuộc nổi dậy của nô lệ, ông gửi một đạo quân viễn chinh để tái chiếm Saint-Dominique và thiết lập một căn cứ. Tuy nhiên lực lượng này bị hủy diệt bởi dịch sốt vàng và sức kháng cự mãnh liệt bởi những viên tướng Haiti Toussaint LouvertureJean-Jacques Dessalines[chú thích 6]. Nước Pháp đứng trước tình trạng phá sản tài chính và một cuộc chiến tranh cận kề với người Anh, Bonaparte nhận thấy những sở hữu của Pháp ở đất liền thuộc Bắc Mĩ là không thể bảo vệ được và bán chúng cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ — Vụ mua bán Louisiana — với giá hơn ba cent mỗi mẫu Anh (acre) (tức khoảng 7,4 cent mỗi hecta) 

Đế chế Pháp

Napoléon phải đương đầu với những âm mưu của phe bảo hoàng và Jacobin, bao gồm các ‘’Âm mưu dao găm’’ vào tháng Mười năm 1800 và ‘’Âm mưu Phố Saint-Nicaise’’ hai tháng sau, đều nhắm vào ám sát cá nhân ông  Tháng Một 1804, cảnh sát khám phá một kế hoạch ám sát ông có can dự tới Moreau và dường như được nhà Bourbon thúc đẩy. Theo lời khuyên của Talleyrand, Napoléon ra lệnh bắt cóc Louis Antoine, Công tước Enghien trong một cuộc đột nhập vào lãnh thổ Baden láng giềng. Sau một phiên xử bí mật Công tước bị hành hình, mặc dù ông không tham dự vào âm mưu 

Hoàng đế Napoléon I cùng Hoàng hậu Joséphine đăng quang, tranh bởi Jacques-Louis David,năm 1804.
Napoléon sử dụng âm mưu trên để biện hộ cho sự tái lập của nền quân chủ cha truyền con nối ở Pháp, mà chính ông là Hoàng đế, với lập luận rằng sự phục hồi đáng lo ngại của nhà Bourbon sẽ khó khăn hơn nếu sự thừa kế nhà Bonaparte được ghi nhận bởi hiến pháp  Trong một cử chỉ có tính hình thức, Thượng viện yêu cầu ông lên ngôi Hoàng đế để "bảo vệ nền Cộng hòa". Napoléon tự đội đế miện với hiệu Hoàng đế Napoléon I vào ngày 2 tháng Mười hai 1804 ở Nhà thờ Đức Bà Paris và sau đó trao miện Hoàng hậu cho Joséphin  dưới sự chứng kiến của Giáo hoàng Piô VII. Ludwig van Beethoven, một người hâm mộ từ lâu của ông, đã thất vọng vì sự quay sang chủ nghĩa đế quốc này và xóa lời đề tặng Napoléon trong Giao hưởng số 3 của mình.
Tại Nhà thờ Milano vào ngày 26 tháng Năm 1805, Napoléon đăng quang ngôi Vua của Ý với Vương miện Sắt của Lombardia. Ông lập nên cấp Thống chế của Đế chế từ những vị tướng hàng đầu của mình, để đảm bảo lòng trung thành của quân đội.

Chiến tranh liên minh thứ ba


Napoléon trong trận Austerlitz, bởi François Gérard năm 1805. Trận Austerlitz, cũng được biết với tên trận Ba Hoàng đế, được xem là chiến thắng vĩ đại nhất của Napoléon, nơi Đế quốc Pháp đã đánh tan thành công Liên minh thứ ba.
Nước Anh phá vỡ Hòa ước Amiens và tuyên chiến với Pháp vào tháng Năm 1803. Napoléon thiết lập doanh trại ở Boulogne-sur-Mer để chuẩn bị cho cuộc xâm lược nước Anh. Tới năm 1805, Anh đã thuyết phục được Áo và Nga tham gia vào một Liên minh thứ ba chống Pháp. Napoléon biết rằng hạm đội Pháp không thể đánh bại Hải quân Hoàng gia trong một trận chiến mặt đối mặt và lập kế hoạch nhử họ ra khỏi Eo biển Anh .
Theo đó, Hải quân Pháp sẽ thoát khỏi sự bao vây của quân anh ở Toulon và Brest rồi đe dọa tấn công Tây Ấn, do đó sẽ loại bỏ được sự phòng thủ phía Tây quần đảo Anh, với hi vọng một hạm đội Pháp-Tây Ban Nha có thể đoạt được eo biển đủ lâu để quân đội Pháp băng qua từ Boulogne và xâm lược nước Anh . Tuy nhiên, sau thất bại trong trận hải chiến ở Mũi Finisterre vào tháng Bảy 1805 và cuộc rút lui của Đô đốc Villeneuve về Cádiz, xâm lược đất Anh không bao giờ còn là một lựa chọn hiện thực đối với Napoléon nữa  
Khi quân đội Áo được triển khai tới Bayern, ông ngừng triển khai xâm lược Anh và ra lệnh cho đạo quân đóng ở Boulogne, Grande Armée của ông, hành quân bí mật trong một cuộc di chuyển thọc sâu vào hậu phương địch — chiến dịch Ulm. Điều này bao vây lực lượng Áo sắp sửa tấn công Pháp và cắt đứt các đường liên lạc của họ. Ngày 20 tháng Mười 1805, quân Pháp bắt được 30 000 tù binh trong trận Ulm, tuy nhiên ngày hôm sau chiến thắng của người Anh ở Trafalgar đồng nghĩa với việc Hải quân Hoàng gia hoàn toàn chiếm lĩnh các vùng biển
Sáu tuần sau, trong lần kỉ niệm một năm ngày đăng quang, Napoléon đã đánh bại liên quân Áo-Nga trong trận Austerlitz nổi tiếng với tổn thất của phe Liên minh vào khoảng 27 000 người, gấp 3 lần quân Pháp . Trận này đã bẻ gãy Liên minh thứ ba, khiến cho Aleksandr I phải than thở: "Chúng ta là những em bé trong bàn tay của một gã khổng lồ"  . Napoléon trở về Paris nhận sự hưởng ứng nhiệt liệt, cho khánh thành Khải Hoàn Môn để tưởng niệm chiến thắng. Áo phải chịu nhường một phần lãnh thổ; Hòa ước Pressburg dẫn tới sự giải thể Đế quốc La Mã Thần thánh và lập nên Liên bang sông Rhine với Napoléon giữ vị trí Bảo hộ Công .
Napoléon sau này nhắc lại "trận Austerlitz là trận đánh đẹp nhất trong mọi trận đánh tôi từng thực hiện"  Frank McLynn cho rằng Napoléon đã quá thành công ở Austerlitz tới mức ông mất sự liên hệ với thực tiễn, và thứ từng là chính sách ngoại giao Pháp trở thành "một thứ của riêng Napoléon" . Vincent Cronin không tán thành, cho rằng Napoléon không tự mãn quá mức về bản thân, mà "ông là hiện thân cho lòng tự mãn của ba mươi triệu người Pháp" 

Các mối đồng minh Trung Đông


Công sứ Ba Tư Mirza Mohammed Reza-Qazvini gặp Napoléon I tại Dinh Finckenstein, 27 tháng Tư 1807, bởi François Mulard.
Ngay cả sau chiến dịch ở Ai Cập, Napoléon vẫn tiếp tục ấp ủ một kế hoạch lớn lao là thành lập một sự hiện diện của Pháp ở Trung Đông . Một mối đồng minh với các cường quốc Trung Đông sẽ là lợi thế chiến lược gây sức ép cho Nga ở biên giới phía Nam của nước này. Từ 1803, Napoléon tiến những bước đáng kể trong cố gắng thuyết phục Đế quốc Ottoman chiến đấu chống lại Nga ở bán đảo Balkan và gia nhập liên minh chống Nga của ông 
Napoléon gửi tướng Horace Sebastiani sang làm đặc sứ, hứa hẹn sẽ giúp đỡ Đế quốc Ottoman khôi phục những lãnh thổ đã mất . Tháng Hai năm 1806, sau chiến thắng của Napoléon ở Austerlitz và sự chia cắt sau đó của Đế quốc Habsburg, Hoàng đế Ottoman Selim III cuối cùng thừa nhận ngôi Hoàng đế của Napoléon, chính thức chọn liên minh với Pháp như "người đồng minh thân thiết và tự nhiên của chúng ta", đồng thời tuyên chiến với Nga và Anh .
Một liên minh Pháp-Ba Tư cũng được hình thành, trong thời gian từ 1807 tới 1809, giữa Đế quốc Ba Tư của Fat′h-Ali Shah Qajar chống Nga và Anh. Liên minh này chấm dứt khi Pháp bắt tay với Nga và chuyển trọng tâm sang các chiến dịch châu Âu .

Chiến tranh với Liên minh thứ tư


Hiệp ước Tilsit: Napoléon họp với Aleksandr I của Nga tại một chiếc bè trên sông Neman.
Liên minh thứ tư được thành lập năm 1806, và Napoléon đánh bại quân Phổ trong trận Jena-Auerstedt vào tháng Mười Ông hành quân vượt Ba Lan để đương đầu với quân Nga đang tiến sang và hai bên có đụng độ đẫm máu tại trận Eylau ngày 6 tháng hai năm 1807 nhưng bất phân thắng bại .
Sau một thắng lại quyết định tại trận Friedland, ông kí các Hiệp ước Tilsit bao gồm một văn bản với Nga hoàng Aleksandr I phân chia lục địa giữa hai cường quốc này; một văn bản khác với Phổ tước một nửa lãnh thổ nước này. Napoléon đặt các nhà cai trị lên ngai vàng các bang nước Đức, bao gồm người em Jérôme làm vua của Vương quốc Westfalen mới lập. Trong vùng Ba Lan mà Pháp kiểm soát, ông lập nên Công quốc Warszawa dưới quyền Vua Friedrich August I của Sachsen 
Với các chiếu chỉ Milanochiếu chỉ Berlin, Napoléon nỗ lực tăng cường một sự tẩy chay thương mại khắp châu Âu đối với Anh mang tên Hệ thống Lục địa. Đạo luật chiến tranh kinh tế này không thành công, bởi nó khuyến khích các thương gia Anh buôn lậu vào châu Âu lục địa, và nhân viên cưỡng bách thuế quan độc quyền của Napoléon không thể ngăn họ lại .

Chiến tranh Bán đảo

Bồ Đào Nha không tuân theo lệnh phong tỏa lục địa nên Napoléon phải cất quân chinh phạt vào năm 1807 với sự hỗ trợ của Tây Ban Nha. Dưới chiêu bài tăng cường cho quân đội Pháp - Tây Ban Nha chiếm đóng Bồ Đào Nha, Napoléon xâm lược luôn cả Tây Ban Nha, phế Carlos IV rồi đưa anh trai của mình là Joseph Bonaparte lên ngôi, đồng thời đặt em vợ là Joachim Murat lên cầm quyền thay Joseph ở Napoli. Điều này đã dẫn đến sự kháng cự mạnh mẽ của quân đội và thường dân Tây Ban Nha gây nên cuộc khởi nghĩa Dos de Mayo 

Ngày thứ 2 tháng 5 năm 1808, quân Mamluk xung kích, một bức họa của Francisco Goya
Ở Tây Ban Nha, Napoléon còn phải đối mặt với một loại hình chiến tranh mới, chiến tranh du kích   trong đó cư dân địa phương, hưởng ứng chủ nghĩa ái quốc và tinh thần tôn giáo, tham gia vào cuộc chiến. Loại hình bước đầu của chiến tranh nhân dân này bao gồm nhiều hình thức chiến đấu cường độ thấp (quấy rối, phá hoại, nổi dậy vũ trang...) và trợ giúp cho quân đội chính quy những nước đồng minh với Tây Ban Nha. Sau khi quân Pháp đồn trú buộc phải rút khỏi nhiều phần đất nước này, Napoléon nắm quyền chỉ huy trực tiếp, đánh bại quân Tây Ban Nha. Ông chiếm lại Madrid, đánh bật một đội quân Anh tới cứu viện và đẩy lui họ khỏi bờ biển . Tuy vậy, trước khi người dân Tây Ban Nha chịu khuất phục hoàn toàn, nước Áo lại đe dọa chiến tranh, buộc Napoléon phải quay về Pháp.
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Iberia tốn kém và thường đẫm máu vẫn tiếp tục khi Napoléon vắng mặt. Trong cuộc vây hãm Zaragoza lần thứ hai, gần như toàn bộ thành phố bị phá hủy và hơn 5 vạn người bỏ mạng . Mặc dù Napoléon để 30 vạn quân tinh nhuệ ở lại Tây Ban Nha để chống lại quân du kích cũng như liên quân Anh-Bồ Đao Nha dưới sự chỉ huy của Công tước Wellington, nhưng sự kiểm soát của Pháp ngày một suy yếu .
Sau khi phía đồng minh giành thắng lợi, cuộc chiến kết thúc sau khi Napoléon thoái vị vào năm 1814  Napoléon mô tả cuộc chiến tranh Bán đảo là trung tâm của sự thất bại chung cuộc của mình. Ông đã viết trong hồi ký: "Cuộc chiến tranh bất hạnh đó đã hủy diệt tôi...Tất cả...những tai họa của tôi bị buộc chặt với nút thắt định mệnh đó" 

Chiến tranh Liên minh thứ năm và tái hôn

Tháng Tư 1809, Áo bất ngờ phá vỡ liên minh với Pháp, tham gia vào Liên minh thứ năm chống Pháp. Napoléon buộc phải nắm quyền chỉ huy các lực lượng ở mặt trận Danube và Đức. Sau những thắng lợi ban đầu, quân Pháp vấp phải khó khăn trong việc vượt qua sông Donau và thất bại vào tháng Năm trong trận Aspern-Essling gần Viên  Người Áo đã bỏ lỡ lợi dụng tình thế, để cho Napoléon có thể tập hợp lại lực lượng. Ông đánh bại quân Áo trong trận Wagram, và Hiệp ước Schönbrunn được kí giữa Pháp và Áo. Tuy thắng lợi nhưng thiệt hại nặng nề trong trận Wagram đã chứng tỏ những suy sút của quân đội Pháp .
Vương quốc Anh vẫn chống Pháp và có vài trận thắng trên biển . Trên lục địa châu Âu, Anh chỉ hỗ trợ cuộc chiến trên bán đảo Iberia và gửi một đoàn quân viễn chinh gồm 40.000 người tới Walcheren (vùng Zeeland, Hà Lan) từ 30 tháng 7 tới 10 tháng 12 năm 1809 để tấn công căn cứ hải quân Antwerpen của Pháp và để chia cắt lực lượng Pháp nhằm giúp Áo nhưng cuối cùng phải rút lui khi Napoléon đem quân tăng viện 
Ông đồng thời sáp nhập lãnh thổ của Giáo hoàng bởi Giáo hội từ chối ủng hộ Hệ thống Lục địa; Giáo hoàng Piô VII đáp trả bằng cách rút phép thông công vị hoàng đế Pháp. Sau đó một số sĩ quan của Napoléon bắt cóc Giáo hoàng, Napoléon tuy không ra lệnh trên nhưng khi biết sự việc cũng không cho thả Piô. Giáo hoàng bị chuyển đi khắp các lãnh thổ của Napoléon và Napoléon đã gửi các phái đoàn tới gây áp lực buộc ông trên các vấn đề bao gồm thỏa thuận về một giáo ước mới với nước Pháp, điều Piô từ chối. Năm 1810 Napoléon kết hôn với nữ Đại công tước Marie Louise của Áo, sau khi ông ly dị với Joséphine; điều này gây thêm căng thẳng với Giáo hội, và mười ba Hồng y đã bị tống giam do vắng mặt tại lễ cưới  Giáo hoàng tiếp tục bị giam cầm trong 5 năm và không trở về Roma cho đến tháng Năm 1814 .

Đệ nhất Đế chế Pháp có quy mô rộng nhất vào năm 1811
  Đế quốc Pháp
  Các quốc gia vệ tinh của Pháp
  Các quốc gia đồng minh
Napoléon chấp nhận việc Bernadotte, một trong các thống chế của ông được bầu làm người thừa kế ngai vàng Thụy Điển vào tháng Mười một 1810. Ông thường chiều Bernadotte bất chấp những sơ suất của viên tướng này vì Bernadotte cưới hôn thê cũ của ông là Désirée Clary nhưng về sau hối hận cả đời khi Bernadotte đem Thụy Điển liên minh với các kẻ thù của Pháp trong Liên minh thứ sáu và trở thành một trong những đối thủ đáng ngại nhất của ông

Xâm lược nước Nga

Hội nghị Erfurt được tổ chức nhằm bảo vệ mối đồng minh Nga-Pháp, và các hoàng đế Pháp và Nga đã có một mối quan hệ cá nhân thân thiện sau cuộc họp đầu tiên ở Tilsit năm 1807  Tuy nhiên tới năm 1811, căng thẳng gia tăng và Alexander chịu sức ép từ giới quý tộc Nga đòi phá vỡ đồng minh. Dấu hiệu ban đầu rằng mối quan hệ đã biến đổi là sự chối bỏ trên thực tế Hệ thống Lục địa, điều khiến Napoléon đe dọa Aleksandr nhiều hậu quả thảm khốc nếu ông lập quan hệ đồng minh với người Anh 
Tới 1812, các cố vấn của Aleksandr đề xuất khả năng tiến hành xâm lược Đế quốc Pháp và tái chiếm Ba Lan. Nhận được báo cáo tình báo về những sự chuẩn bị chiến tranh của Nga, Napoléon tăng cường mở rộng đạo quân Grande Armée của mình lên hơn 450 000 lính  Ông phớt lờ lời khuyên lặp lại chống một cuộc xâm lược vào trung tâm nước Nga và chuẩn bị cho một chiến dịch tấn công; và ngày 23 tháng Sáu 1812 cuộc chinh phạt bắt đầu
Trong một nỗ lực nhằm thu được sự hỗ trợ hơn nữa từ những người yêu nước dân tộc chủ nghĩa Ba Lan, Napoléon gọi cuộc chiến là Chiến tranh Ba Lan lần thứ haiChiến tranh Ba Lan lần thứ nhất là cuộc nổi dậy Liên bang Bar của quý tộc Ba Lan chống lại Nga năm 1768. Những người yêu nước Ba Lan muốn khu vực Ba Lan thuộc Nga sáp nhập vào Công quốc Warszawa và một nhà nước Ba Lan độc lập được tạo ra. Điều này bị từ chối bởi Napoléon đã hứa với đồng minh Áo không cho phép như vậy. Napoléon cũng từ chối giải phóng cho nông nô Nga bởi lo ngại điều này có thể tạo nên những chống đối trong miền hậu phương của quân đội ông. Những nông nô này về sau đã đối xử khốc hại đối với lính Pháp khi họ rút chạy 

Napoléon rút khỏi Nga, tranh của Adolph Northen.
Người Nga từ chối mục tiêu của Napoléon về một trận giao chiến quyết định, thay vào đó thoái lui ngày càng sâu vào lãnh thổ Nga. Một nỗ lực kháng cự ngắn ngủi được thực hiện ở Smolensk vào tháng Tám; người Nga bị đánh bại trong một loạt trận, và Napoléon tiếp tục tiến công. Người Nga vẫn trì hoãn đánh nhau, mặc dù trong một vài trường hợp điều này chỉ đạt được do sự ngần ngừ ít thấy ở Napoléon khi cơ hội tới. Do chiến thuật tiêu thổ của quân Nga, người Pháp cảm thấy ngày càng khó để tìm kiếm thức ăn cho bản thân và cho ngựa 
Người Nga bấy giờ mới tung ra những trận đánh ở ngoại vi Moskva ngày 7 tháng Chín: trận Borodino khiến cho 44 000 quân Nga và 35 000 quân Pháp tử vong, bị thương hoặc bị bắt, và có lẽ là ngày chiến sự đẫm máu nhất trong lịch sử từ trước tới thời điểm đó . Mặc dù quân Pháp thắng, quân đội Nga đã đương đầu, và đứng vững, trong trận chiến trực diện mà Napoléon đã hi vọng sẽ mang tính quyết định. Napoléon đã ghi chép lại: "Trận khủng khiếp nhất trong mọi trận đánh của tôi là trận trước Moskva. Người Pháp đã chứng tỏ họ xứng đáng với chiến thắng, nhưng người Nga đã chứng tỏ họ bất khả chiến bại" .
Quân đội Nga rút xa khỏi Moskva. Napoléon tiến vào thành phố, giả định rằng sự thất thủ của nó sẽ kết thúc chiến tranh và Aleksandr sẽ đàm phán hòa bình. Tuy nhiên, dưới lệnh của tổng đốc thành phố Feodor Rostopchin, thay vì một sự đầu hàng, Moskva bị đốt cháy. Sau một tháng, lo lắng mất quyền kiểm soát ở Pháp, Napoléon và quân đội rút lui .
Người Pháp chịu tổn thất to lớn trong quá trình rút quân tai hại, mà một phần là do Mùa Đông Nga  . Quân đội Pháp bắt đầu với hơn 400 000 quân tiền phương, nhưng vào lúc kết thúc chỉ có ít hơn 40 000 người vượt sông Berezina tháng Mười một 1812 . Phía Nga mất 150 000 lính trong trận chiến và hàng trăm nghìn người dân khác thiệt mạng .

Chiến tranh Liên minh thứ sáu


Adieux de Napoléon à la Garde impériale dans la cour du Cheval-Blanc du château de Fontainebleau (Napoléon từ biệt Cận vệ Đế chế ở sân Bạch Mã của Cung điện Fontainebleau) – ngày 20 tháng Tư 1814. Tranh của Antoine Alphonse Montfort, Bảo tàng quốc gia Cung điện Versailles.
Có một thời gian tạm lắng chiến sự trong mùa đông 1812–1813 khi cả người Nga lẫn người Pháp đang tái xây dựng lực lượng; Napoléon sau đó có thể tung ra chiến trường 350 000 quân . Được cổ vũ bởi thất bai của Pháp tại Nga, Phổ liên hợp với Áo, Thụy Điển, Nga, Anh, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong một liên minh mới. Napoléon nắm quyền chỉ huy ở mặt trận Đức và giáng cho Liên minh một chuỗi trận thua bao gồm thảm bại ở trận Dresden vào tháng Tám 1813 .
Bất chấp những thắng lợi này, các con số tiếp tục ngày càng chống lại Napoléon, và quân Pháp bị khóa chặt bởi một lực lượng đông gấp đôi và do đó thua trong trận Leipzig. Đây có lẽ là trận chiến lớn nhất trong toàn bộ các cuộc chiến tranh của Napoléon và nó gây cho 90 000 người thương vong 
Napoléon rút về Pháp với đội quân giảm xuống còn 70 000 lính và 40 000 người tụt khỏi đội hình, chống lại đội quân Liên minh đông gấp hơn ba lần . Nước Pháp bị bao vây: quân Anh dồn ép từ phía nam, các đạo quân Liên minh khác đang nhắm vào tấn công các bang chư hầu Đức. Napoléon thắng một loạt trận xuất sắc trong Chiến dịch Sáu ngày  tuy nhiên chúng không đủ ý nghĩa để thay đổi cục diện. Quân Liên minh đã đánh bại Napoléon trong những trận đánh quan trọng tại LaonArcis-sur-Aube, và tiến chiếm Paris vào tháng Ba 1814 
Khi Napoléon đề xuất hành quân tới thủ đô, các thống chế của ông quyết định gây binh biến . Ngày 4 tháng Tư, đứng đầu bởi Thống chế Ney, họ phản kháng Napoléon. Napoléon khẳng định rằng quân đội sẽ theo ông, và Ney đáp lại rằng quân đội sẽ theo những vị tướng của nó. Napoléon không có lựa chọn nào ngoài thoái vị. Ông quyết định nhường ngôi cho con; tuy nhiên, Liên minh từ chối điều này, và Napoléon buộc phải thoái vị không điều kiện vào ngày 11 tháng Tư.

Lưu đày tới Elba


Biếm họa (tranh khắc axit) của Anh từ năm 1814 về buổi lễ lưu đày lần thứ nhất của Napoléon tới Elba vào thời điểm chấm dứt Chiến tranh Liên minh thứ sáu.
Các Lực lượng Liên minh đã tuyên bố rằng Hoàng đế Napoléon là trở ngại duy nhất cho sự khôi phục nền hòa bình ở châu Âu, Hoàng đế Napoléon, trung thành với lời thề của mình, nay tuyên bố rằng ông từ bỏ, về phần ông cũng như những người thừa kế của ông, ngai vàng của nước Pháp và Ý, và rằng không sự hy sinh nào, ngay cả mạng sống của mình, mà ông không sẵn lòng làm vì lợi ích của nước Pháp.
Thảo ở Cung điện Fontainebleau, 11 tháng Tư 1814.
—Tuyên ngôn thoái vị của Napoleon
Trong Hiệp ước Fontainebleau, những người chiến thắng đày ông tới Elba, một hòn đảo 12 000 dân ở Địa Trung Hải, cách bờ biển Toscana 20 km. Họ cho ông quyền cai trị hòn đảo và cho phép ông giữ lại danh hiệu hoàng đế. Napoléon đã định tự tử bằng viên thuốc mà ông mang theo mình kể từ một lần suýt bị người Nga bắt được trong đợt rút lui khỏi Moskva. Tuy nhiên độc tính của nó đã giảm sau vài năm, và Napoléon sống sót. Ông chấp nhận lưu đày, trong khi vợ và con trai tìm sự nương náu ở nước Áo . Trong vài tháng đầu ở Elba ông đã tạo dựng một đội quân và cả một lực lượng hải quân nhỏ trên đảo, phát triển các mỏ sắt, và ra những sắc lệnh liên quan đến phương thức canh tác nông nghiệp hiện đại 

Triều đại Một trăm ngày


Napoléon trở về từ Elba, tranh của Karl Stenben, thế kỉ 19.
Dù bị chia cắt khỏi vợ và con trai, những người đã chịu sự kiểm soát của nước Áo, bị cắt khoản trợ cấp được đảm bảo cho ông bởi Hiệp ước Fontainebleau, và dấy lên những tin đồn ông dường như bị trục xuất tới một hòn đảo xa xôi ở Đại Tây Dương, Napoléon trốn khỏi Elba ngày 26 tháng Hai 1815. Ông cập bến ở Golfe-Juan trên đất liền Pháp, hai ngày sau đó.
Trung đoàn số 5 được gửi tới để ngăn chặn ông và nối lại tuyến đường tới nam Grenoble vào mùng 7 tháng Ba 1815. Napoléon tiếp cận đội quân một mình, xuống ngựa và khi đứng trong tầm đạn, ông hét lên: "Ta ở đây. Giết Hoàng đế của các người đi, nếu các người muốn" .
Những người lính đáp lại bằng tiếng hô "Hoàng đế Vạn tuế!" ("Vive L'Empereur!") và hành quân cùng Napoléon tới Paris; Louis XVIII bỏ chạy. Ngày 13 tháng Ba, các cường quốc tại Hội nghị Viên đã tuyên bố Napoléon là kẻ ngoài vòng pháp luật, và bốn ngày sau Anh, Nga, Áo và Phổ kết hợp một lần nữa để gửi mỗi nước 15 vạn quân tới chiến trường để chấm dứt nền cai trị của ông 
Napoléon đến Paris ngày 20 tháng Ba và cầm quyền trong một thời kì mà ngày nay gọi là Triều đại Một trăm ngày. Đến đầu tháng Sáu lực lượng vũ trang mà ông tập hợp được đạt con số 200 000, và ông quyết định chọn tấn công để đánh bật gọng kìm của quân đội Anh và Phổ. Tập đoàn quân phía Bắc băng qua biên giới tới Vương quốc Liên hiệp Hà Lan, nay là Bỉ
Quân đội Napoléon chiến đấu với quân liên minh, chỉ huy bởi Wellington và Gebhard Leberecht von Blücher, trong trận Waterloo ngày 18 tháng Sáu 1815. Quân đội Wellington chịu đựng các đợt tấn công liên tiếp của người Pháp và đẩy lùi họ trên chiến trường trong khi quân Phổ tới tăng viện và phá vỡ sườn phải của đội hình quân Napoléon. Napoléon bị đánh bại bởi ông phải chiến đấu một chọi hai, tấn công một đội quân chiếm được vị trí phòng ngự tuyệt vời trên địa hình ẩm ướt lầy lội.
Sức khỏe của ông ngày hôm đó có thể đã ảnh hưởng tới sự hiện diện và sự hăng hái của ông trên chiến trường, thêm vào sự kiện là cấp dưới có thể đã khiến ông ngã. Một sự kiện khác có ảnh hưởng quan trọng tới kết cục là lực lượng kị binh do tướng Grouchy đã không tiếp ứng kịp thời. Dù vậy, Napoléon đã tiến rất gần tới một chiến thắng chớp nhoáng. Bị áp đảo về số lượng, quân đội Pháp rút khỏi chiến trường trong hỗn loạn, điều cho phép lực lượng Liên minh tiến vào nước Pháp và khôi phục ngai vàng nước Pháp cho Louis XVIII.
Ở ngoài cảng Rochefort, Charente-Maritime, sau khi cân nhắc một cuộc đào thoát sang Hợp chúng quốc, Napoléon chính thức yêu cầu tị nạn chính trị từ đại tá người Anh Frederick Lewis Maitland trên chiến hạm HMS Bellerophon ngày 15 tháng Bảy 1815

Lưu đày ở Saint Helena


Napoléon trên đảo Saint Helena
Napoléon bị tống giam và sau đó lưu đày tới đảo Saint Helena trên Đại Tây Dương, cách bờ biển Tây Phi 1 870 km. Trong hai tháng đầu tiên ở đây, ông sống trong một căn lều ở khu đất Briars thuộc về một người tên William Balcombe. Napoléon trở nên gần gũi với gia đình này, đặc biệt với cô con gái út tên Lucia Elizabeth người về sau viết cuốn Những hồi ức về Hoàng đế Napoléon Tình bạn này bị chia cắt vào năm 1818 khi chính quyền Anh bắt đầu nghi ngờ rằng Balcombe đóng vai một người trung gian giữa Napoléon và Paris và đuổi ông này khỏi đảo
Napoléon chuyển tới Longwood House vào tháng Mười hai 1815; nó đã rơi vào tình trạng hư nát, ẩm ướt và gió lùa, hại cho sức khỏe. Tờ The Times đã xuất bản những bài báo ám chỉ rằng chính phủ Anh đang cố gắng làm ông chết mau, và ông thường phàn nàn về điều kiện sống trong những bức thư gửi cho tổng đốc và là người canh giữ ông Hudson Lowe 
Với sự đỡ đần của một ít người đi theo, Napoléon viết hồi kí và lên án những người giam giữ ông — đặc biệt là Lowe. Sự đối xử của Lowe với Napoléon bị xem là tồi tệ bởi các học giả như Frank MacLynn . Lowe đã gia tăng thêm tình trạng khổ cực của ông bằng những biện pháp bao gồm sự hạn chế việc đi lại của Napoléon, một quy định yêu cầu không món quà nào được gửi cho ông nếu nó đề cập đến danh hiệu hoàng đế của ông, và một văn bản mà những người ủng hộ phải kí đòi hỏi rằng họ sẽ phải ở lại với người tù thời gian không xác định Năm 1818, The Times tường thuật một tin đồn thất thiệt về sự đào thoát của Napoléon và nói rằng tin tức được chào đón bởi sự thắp nến đồng thời ở nhiều gia đình London  Có một sự thông cảm cho ông ở Nghị viện Anh:Nam tước Holland có một diễn văn trước Nghị viện yêu cầu tù nhân phải được đối xử mà không chịu sự tàn nhẫn không cần thiết nào . Napoléon tiếp tục theo dõi thời sự qua tờ The Times và từng hi vọng được thả khi Holland trở thành Thủ tướng. Ông cũng nhận sự giúp đỡ của Nam tước Cochrane, người tham dự vào các cuộc đấu tranh của Chile và Brasil giành độc lập và muốn cứu Napoléon và giúp ông lập nên một đế chế mới ở Nam Mỹ, một viễn cảnh bị sụp đổ bởi cái chết của Napoléon vào năm 1821 
Có những âm mưu khác để cứu thoát Napoléon khỏi sự giam cầm bao gồm một âm mưu từ Texas, nơi những người lính lưu đày của Grande Armée muốn một sự phục hưng Đế quốc Napoléon ở Mỹ. Có cả một kế hoạch cứu ông bằng một tàu ngầm sơ khai Trong thời kì Napoléon bị giam cầm, Nam tước Byron đã viết những vần thơ xem Napoléon như hiện thân của anh hùng lãng mạn, thiên tài bất toàn, cô độc và bị ngược đãi. Tin tức rằng Napoléon khởi sự làm vườn ở Longwood cũng làm dậy lên sự đồng cảm với nhiều gia đình Anh

Qua đời và an táng


Thi hài của Napoléon đến bến Courbevoie.
Ngay từ cuối năm 1817, đã xuất hiện nhiều dấu hiệu bệnh tật nơi vị cựu Hoàng Đế, một phần cũng vì ông thiếu vận động. Napoléon có triệu chứng bị ung thư bao tử. Bác sĩ riêng của Napoléon, Barry O'Meara, cảnh báo chính quyền về tình trạng sức khỏe suy giảm của người tù mà nguyên nhân chính, theo ông, là sự đối xử khắc nghiệt của viên "cai ngục", Lowe, buộc Napoléon giam thân hàng tháng trời trong nơi cư trú hư nát và ẩm ướt Longwood. O'Meara có một liên lạc thư từ bí mật với một thư kí ở Bộ Hải quân Anh, được biết rằng những lá thư này được đọc bởi lãnh đạo cao cấp: ông hi vọng, bằng cách này, cảnh báo chính phủ, nhưng thực tế không đem lại điều gì Đã vậy, O'Meara còn bị thuyên chuyển đi nơi khác, thay thế bằng một bác sĩ gốc đảo Corse tên là Francesco Antommarchi.
Tháng Hai 1821, sức khỏe Napoléon trở nên suy sụp nhanh chóng, ông phải nằm liệt trên giường. Tháng 4, Napoléon Bonaparte đã đọc lời di chúc cuối cùng, gồm có câu: "Tôi ước muốn nắm xương tàn của tôi nằm bên bờ sông Seine, ở giữa những người dân Pháp mà tôi rất yêu mến. Tôi chết trước thời hạn, bị giết bởi thể chế hoạt đầu Anh và do các kẻ sát nhân được thuê mướn". Ngày 2 tháng Năm hai bác sĩ Anh, những người vừa tới gần đó, chăm sóc cho ông nhưng chỉ có thể kê những liều giảm đau  Ông mất hai ngày sau đó, sau khi trải qua lễ thú tội, xức dầu thánh và ban thánh thể với sự hiện diện của Giám mục Ange Vignali Những lời cuối cùng của ông là "France, armée, tête d'armée, Joséphine" (Nước Pháp, quân đội, chỉ huy quân đội, Joséphine)[143]. Napoléon đã qua đời lúc 5 giờ 49 phút giờ chiều ngày hôm đó, khi chưa tròn 52 tuổi. Thi thể của ông được mặc bộ quân phục mà ông ưa thích và được phủ lên bằng tấm áo choàng màu xám, tấm áo trận mà ông đã khoác trong trận Marengo.
Trái với di nguyện của ông, tổng đốc người Anh cho rằng ông nên được chôn ở St. Helena, trong Thung lũng Willows. Hudson Lowe khăng khăng đòi câu khắc trên bia mộ phải đề "Napoleon Bonaparte"; những thuộc hạ theo đi đày, MontholonBertrand muốn Đế hiệu "Napoleon" phải được viết chỉ bằng tên đầu. Kết quả là tấm bia mộ để trống tên 

Mộ Napoléon ở Điện Invalides.
Năm 1840, Louis Philippe I nhận được sự cho phép của Anh để đem di hài Napoléon về Pháp. Di hài được vận chuyển bằng chiến hạm Belle-Poule, được sơn đen trong dịp này, và ngày 29 tháng Mười một nó cập bến ở Chebourg. Di hài tiếp đó được mang bởi tàu hơi nước Normandie tới Le Havre., ngược sông Seine tới Rouen và dừng ở Paris 
Ngày 15 tháng Mười hai, tang lễ quốc gia được cử hành. Xe tang di chuyển từ Khải Hoàn Môn xuống đại lộ Champs-Élysées, băng qua Quảng trường Concorde tới Les Invalides (Điện Phế binh) và tới mái vòm ở nhà nguyện St Jérôme nơi nó nằm lại cho đến khi ngôi mộ thiết kế bởi Louis Visconti hoàn thành. Năm 1861, thi hài được táng trong một chiếc quách làm từ đá tràng thạch (porphyry) trong hầm mộ dưới mái vòm của Điện Invalides .

Nguyên nhân cái chết

Cuộc khám nghiệm tử thi chỉ ra rằng nguyên nhân cái chết là ung thư dạ dày. Tuy nhiên, François Carlo Antommarchi, bác sĩ riêng của Napoléon và là người chỉ đạo cuộc khám nghiệm, đã không kí vào báo cáo chính thức . Cha của Napoléon cũng qua đời vì ung thư dạ dày nhưng điều này dường như không được biết vào thời điểm mổ tử thi . Antommarchi tìm thấy bằng chứng về một vết loét dạ dày, và đây là cách giải thích tiện lợi nhất đối với chính phủ Anh, những người muốn tránh sự chỉ trích về việc chăm sóc vị hoàng đế Pháp

Napoléon sur son lit de mort (Napoléon hấp hối trên giường), bởi Horace Vernet, 1826.
Năm 1955, nhật kí của người hầu phòng của Napoléon, Louis Marchand, xuất hiện trên báo chí. Bản mô tả về Napoléon những tháng trước khi mất khiến cho Sten Forshufvud đề xuất những nguyên nhân khác cho cái chết, bao gồm sự đầu độc arsen từ từ, trong một bài báo trên tờ Nature năm 1961  Arsen được dùng làm thuốc độc vào thời kì đó bởi khi ấy nó không thể bị phát hiện khi áp dụng trong một thời gian dài. Forshufvud, trong một cuốn sách năm 1978 với Ben Weider, lưu ý rằng cơ thể vị hoàng đế được thấy là được bảo quản tốt một cách đáng ngạc nhiên khi di chuyển vào năm 1840. Arsen là một chất có tính bảo quản mạnh, và do đó điều này củng cố giả thuyết đầu độc. Forshufvud và Weider nhận xét rằng Napoléon từng cố hạ bớt cơn khát bất thường bằng uống nhiều si-rô nước mạch ướp hoa cam (orgeat syrup) chứa các hợp chất xianua trong quả hạnh dùng để tạo mùi .
Họ khẳng định rằng kali tactrat, được sử dụng để ngăn dạ dày đào thải các chất này và cơn khát là triệu chứng của đầu độc. Giả thuyết của họ là calomen (thủy nhân clorua HgCl2, xưa kia được dùng làm thuốc nhuận tràng) được áp dụng quá liều cho Napoléon, đã giết ông và để lại những tổn thương mô rộng khắp  Một bài báo năm 2007 đã khẳng định loại arsen tìm thấy trên thân tóc Napoléon là loại vô cơ, độc tính cao nhất, và theo nhà độc dược học Patrick Kintz, điều này ủng hộ kết luật rằng cái chết của ông là một vụ ám sát 
Giấy dán tường được dùng ở Longwood chứa nồng độ cao hợp chất arsen được sử để nhuộm màu bởi những nhà sản xuất Anh. Chất kết dính, vốn vô hại ở điều kiện nước Anh, có lẽ đã bị mốc trong khí hậu ẩm hơn nhiều ở St. Helena và nhả ra khí arsin (arsen hidrua, AsH3) độc hại. Lý thuyết này đã được loại trừ do nó không giải thích được số liệu về nồng độ hấp thụ arsen tìm thấy trong các phân tích khác .
Dù sao, những nghiên cứu hiện đại tỏ ra nghiêng về chứng cớ giải phẫu ban đầu . Các nhà nghiên cứu năm 2008 đã phân tích các mẫu tóc Napoléon khác nhau từ suốt cuộc đời ông, từ gia đình và những người đương thời. Tất cả các mẫu đều có nồng độ arsen rất cao, xấp xỉ gấp 100 lần con số trung bình. Theo các nhà nghiên cứu này, cơ thể Napoléon đã bị nhiễm độc arsen nặng khi còn là một cậu bé, và nồng độ arsen cao trong tóc không phải do sự đầu độc có chủ ý nào; người ta có thể phơi nhiễm liên tục với arsen từ các loại keo và chất nhuộm trong suốt cuộc đời họ 

Những cải cách lớn

Napoléon đã tiến hành những cải cách lâu dài, liên quan đến giáo dục bậc cao, một đạo luật thuế, hệ thống đường sá và cống thoát nước, và thiết lập nên Ngân hàng Pháp (Banque de France — ngân hàng trung ương của Pháp). Ông thương lượng Giáo ước 1801 với Giáo hội Công giáo, tìm cách hòa giải với dân chúng hầu hết theo Công giáo với nền cai trị của ông. Nó được ban hành song song với Bộ Điều khoản Cơ bản (Les Articles Organiques), bộ luật chỉnh đốn tín ngưỡng dân chúng ở Pháp. Cùng năm đó, Bonaparte trở thành Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và bổ nhiệm Jean Baptiste Joseph Delambre làm Thư kí Thường trực
Tháng Năm 1802, ông lập nên Bắc Đẩu Bội tinh (tiếng Pháp là Légion d'honneur, nghĩa là "Binh đoàn danh dự"), một sự thay thế cho các huân chương hoàng gia và tước hiệu hiệp sĩ cũ, để khuyến khích các thành tích quân sự lẫn dân sự; huân chương này hiện vẫn là phần thưởng danh dự cao nhất ở Pháp ngày nay  Quyền lực ông được tăng cường nhờ Hiến pháp Năm X do ông chỉ đạo biên soạn: "Điều 1. Nhân dân Pháp chỉ đinh, và Thượng viện tấn phong Napoléon-Bonaparte là Tổng tài Thứ nhất suốt đời . Chính sau văn bản này mà ông thường được gọi là Napoléon thay vì Bonaparte 
Bộ luật dân sự của Napoléon, Code Civil — nay thường được biết dưới tên Bộ luật Napoléon — được chuẩn bị bởi hai viện lập pháp dưới sự giám sát của Jean Jacques Régis de Cambacérès, vị Tổng tài thứ hai. Napoléon tham gia tích cực vào các phiên họp của Hội đồng Nhà nước để sửa chữa bản thảo. Sự phát triển bộ luật là một thay đổi căn bản về bản chất của hệ thống luật dân sự với sự nhấn mạnh rõ ràng lên các luật phải được viết rõ ràng và có thể tiếp cận được. Các bộ luật khác do Napoléon ấn định nhằm hệ thống hóa luật thương mại và luật hình sự; một Hướng dẫn Luật Hình sự thiết lập lần đầu tiên một cách quy củ các quy trình tố tụng
Trong số các cải cách của Napoléon, đáng kể nhất là luật pháp và hệ thống đo lường. Về ý nghĩa các cải cách của Napoléon, xem phần Di sản.

Bộ luật Napoléon


Trang đầu của ấn bản gốc năm 1804 của Bộ luật Dân sự Pháp.
Bộ luật Napoléon được tiếp nhận trên phần lớn châu Âu, dù chỉ trong những vùng đất ông chinh phục được, và được duy trì ngay cả sau thất bại của ông. Napoléon từng nói: "Vinh quang thực sự của tôi không phải là thắng 40 trận chiến...Waterloo sẽ xóa sạch kí ức về rất nhiều chiến thắng như vậy. ... Nhưng...thứ sẽ tồn tại mãi mãi, đó là Bộ luật Dân sự của tôi". Bộ luật vẫn có tầm quan trọng ngày nay trên một phần tư hệ thống luật thế giới bao gồm ở châu Âu, châu Mỹ và châu Phi .
Đánh giá tầm ảnh hưởng của nó tới Đức, Dieter Langewiesche mô tả bộ luật như một "dự án cách mạng" khuyến khích sự phát triển của một xã hội tư sản ở miền Đức bằng việc mở rộng quyền đối với tài sản tư hữu và một sự đẩy nhanh kết thúc của chế độ phong kiến. Napoléon đã tái cấu trúc thứ từng là Đế quốc La Mã Thần thánh, tạo nên từ hơn một nghìn lãnh địa lớn nhỏ, thành một Liên bang sông Rhine gồm bốn mươi bang; điều này cung cấp cơ sở cho Liên bang Đức và sự thống nhất nước Đức năm 1871 
Phong trào hướng tới thống nhất dân tộc ở Ý cũng được thúc đẩy một cách tương tự bởi sự cầm quyền của Napoléon . Những sự thay đổi này góp phần vào sự phát triển nói chung của chủ nghĩa dân tộcquốc gia dân tộc 

Hệ thống đo lường

Việc ban hành chính thức hệ thống đo lường vào tháng Chín 1799 không được biết đến nhiều trong nhiều tầng lớp xã hội Pháp, và nền cai trị của Napoléon đã khuyến khích mạnh mẽ sự tiếp nhận những tiêu chuẩn mới không chỉ trên nước Pháp mà cả những lãnh thổ trong phạm vi ảnh hưởng của Pháp. Napoléon rốt cục lại có một bước đi thụt lùi vào 1812 khi ông thông qua đạo luật giới thiệu mesures usuelles (những đơn vị đo lường truyền thống) cho các giao dịch bán lẻ — một hệ thống đo lường tương tự những đơn vị trước Cách mạng nhưng dựa trên kilôgam và mét; chẳng hạn như "bảng hệ mét" (livre metrique) bằng 500 g  thay vì 489.5 g—giá trị livre du roi (bảng nhà vua) . Các đơn vị khác quay trở lại theo cách tương tự. Dù vậy điều này ít nhất đã thiết lập cơ sở để đưa ra dứt khoát hệ mét trên khắp châu Âu vào giữa thế kỉ 19 

Napoléon và tôn giáo

Lễ rửa tội của Napoléon diễn ra ở Ajaccio ngày 21 tháng Bảy 1771; ông được nuôi dưỡng trong một gia đình ngoan đạo và nhận một nền giáo dục Công giáo. Tuy nhiên, các thầy giáo của ông đã thất bại trong việc đem lại niềm tin tôn giáo cho ông khi còn nhỏ. Khi trưởng thành, Napoléon được miêu tả như một người "hữu thần với niềm tin và sự tôn kính không tự nguyện với Công giáo" . Ông chưa bao giờ tin vào một vị Chúa hiện hữu; thượng đế với ông là một vị Chúa vắng mặt và xa xôi  nhưng ông thừa nhận một cách thực dụng rằng những tôn giáo có tổ chức là yếu tố then chốt của trật tự xã hội và đặc biệt là Giáo hội Công giáo Rôma, mà theo ông, có "những nghi lễ tráng lệ và luân lí cao cả hơn là các đạo luật có ảnh hưởng lên trí tưởng tượng của dân chúng tốt hơn những tôn giáo khác" 
Napoléon có một hôn lễ dân sự với Joséphine de Beauharnais mà không cử hành nghi lễ tôn giáo nào, vào ngày 9 tháng Ba 1796. Trong chiến dịch Ai Cập, ông thể hiện nhiều sự khoan dung đối với tôn giáo hơn so với bất kì một vị tướng cách mạng nào khác, và thảo luận với các học giả Hồi giáo và cho phép các buổi lễ tôn giáo, nhưng tướng Dupuy, người tham gia chiến dịch cùng ông, về sau tiết lộ sau cái chết của Giáo hoàng Piô VI, về những lí do chính trị cho cách đối xử như vậy: "Chúng ta đang lừa gạt những người Ai Cập với mối quan tâm giả vờ của chúng ta đối với tôn giáo của họ; chẳng phải Bonaparte lẫn chúng ta tin vào tôn giáo này hơn chúng ta đã từng tin vào tôn giáo của ngài Piô quá cố"  Trong hồi kí của mình, thư kí của Bonaparte là Bourienne viết về mối quan tâm tôn giáo của Bonaparte theo những lời lẽ tương tự
Chủ nghĩa cơ hội về tôn giáo của ông được tóm tắt trong câu nói nổi tiếng của chính ông: "Chính bằng việc làm cho mình thành người Cơ đốc giáo ta đã đem hòa bình cho BretagneVendée. Chính bằng việc làm cho mình thành người Ý ta đã chinh phục tinh thần ở Ý. Chính bằng việc làm cho mình thành một người Hồi giáo ta đã thiết lập quyền lực ở Ai Cập. Nếu ta cai trị một quốc gia Do Thái, ta hẳn nên cho xây lại Đền Solomon" .
Napoléon đã tự đội vương miện cho mình làm Hoàng đế Napoléon I vào ngày 2 tháng Mười hai 1804 ở Nhà thờ Đức Bà Paris với sự ban phúc của Giáo hoàng Piô VII. Ngày 1 tháng Tư 1810, Napoléon kết hôn theo giáo lễ với công chúa nước Áo Marie Louise. Trong một cuộc thảo luận riêng tư với tướng Gourgaud khi đang lưu đày ở St. Helena, Napoléon bộc lộ các quan điểm duy vật về nguồn gốc con người  và nghi ngờ tính thần thánh của Giê-su, khẳng định rằng thật là ngu xuẩn để tin rằng Sokrates, Platon, MuhammadAnh giáo cần bị nguyền rủa vì không thuộc Giáo hội Công giáo Rôma[chú thích 14]. Tuy nhiên, Napoléon vẫn nhận xức dầu bởi một linh mục khi sắp từ trần .

Giáo ước


Lãnh đạo Giáo hội Công giáo nhận lời thề thế tục theo yêu cầu của Giáo ước.
Tìm kiếm một sự hòa giải dân tộc giữa những người Cách mạng và những người Công giáo, Giáo ước 1801 được kí vào ngày 15 tháng Bảy 1801 giữa Napoléon và Giáo hoàng Piô VII. Nó củng cố vai trò của Giáo hội Công giáo Rôma như giáo hội đa số của Pháp và mang trở lại hầu hết vị thế thế tục của nó.
Trong Cách mạng Pháp, Quốc hội Pháp đã đoạt lấy các tài sản của Giáo hội và ban bố Luật Tổ chức dân sự của Tăng lữ, biến Giáo hội thành một bộ phận của Nhà nước, tách nó khỏi quyền lực của Giáo hoàng. Điều này gây nên sự thù địch của những người vùng Vendée đối với sự thay đổi trong mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và chính phủ Pháp. Các đạo luật sau đó hủy bỏ lịch Gregorius truyền thống và các ngày lễ Công giáo.
Trong khi Giáo ước phục hồi một số liên hệ với Giáo hoàng, nó chủ yếu có lợi cho chính quyền; cán cân mối quan hệ nhà nước-nhà thờ nghiêng hẳn theo hướng có lợi cho Napoléon. Giờ đây, Napoléon có thể thu được lợi ích của giới Công giáo trong nước Pháp đồng thời kiểm soát Roma về mặt chính trị. Napoléon từng nói với người em Lucien vào tháng Tư 1801, "Những nhà chinh phục khéo léo không bị vướng víu bởi những thầy tu. Họ có thể vừa kiềm chế chúng vừa sử dụng chúng ". Như một phần của Giáo ước, ông giới thiệu một bộ luật song song mang tên Những Điều khoản Cơ bản.

Giải phóng tôn giáo

Napoléon đã giải phóng những người Do Thái, cũng như những người Tin Lành ở các quốc gia Công giáo và những người Công giáo trong các quốc gia Tin Lành, khỏi các đạo luật hạn chế họ trong các khu biệt lập, và ông đã mở rộng quyền của họ đối với tài sản, tín ngưỡng và nghề nghiệp. Bất chấp phản ứng bài Do Thái đối với các chính sách của Napoléon từ các chính phủ nước ngoài và một bộ phận dư luận bên trong nước Pháp, ông tin rằng sự giải phóng đó sẽ làm lợi cho Pháp nhờ việc thu hút người Do Thái tới đất nước mình nơi không có những hạn chế như những nơi khác .
Ông từng tuyên bố: "Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận một đề xuất nào bắt buộc dân tộc Do Thái phải rời Pháp, bởi đối với tôi người Do Thái giống như bất kì công dân nào khác trên đất nước chúng ta. Đẩy người Do Thái khỏi đất nước sẽ làm suy yếu, nhưng đồng hóa họ sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho đất nước". Ông được người Do Thái mến mộ tới mức Giáo hội Chính thống Nga kết tội ông là "kẻ chống lại Giê-su và kẻ thù của Chúa Trời"

Hình ảnh trong văn hóa


Napoléon thường được thể hiện trong quân phục màu xanh của Kỵ binh Cận vệ, với một chiếc mũ nồi rộng và cử chỉ một tay nắm áo gi-lê.
Napoléon đã trở thành một biểu tượng văn hóa thế giới, hiện thân của thiên tài quân sự và quyền lực chính trị. Sử gia Martin van Creveld mô tả ông như "con người tài ba nhất từng sống". Kể từ khi ông qua đời, rất nhiều thành thị, con đường, tàu và cả các nhân vật hoạt hình được đặt theo tên ông. Ông được minh họa trong hàng trăm bộ phim và được thảo luận trong hàng nghìn cuốn sách và bài báo 
Trong thời kì Chiến tranh Napoléon ông bị báo chí Anh quốc xem như một bạo chúa nguy hiểm, rình rập xâm lược. Một khúc hát cho trẻ em cảnh báo trẻ nhỏ rằng Bonaparte ăn ngấu nghiến những đứa trẻ hư; một "ông ba bị" . Báo chí phái Bảo thủ Anh đôi khi mô tả Napoléon lùn hơn nhiều chiều cao trung bình của con người, và hình ảnh này kéo dài dai dẳng. Sự ngộ nhận về chiều cao của ông cũng là kết quả của sự khác biệt giữa các đơn vị đo là pouce của Pháp (2.71 cm) và inch của Anh (2.54 cm); ông cao khoảng 1,7 mét, chiều cao trung bình thời bấy giờ  Napoléon thường được bao quanh bởi các cận vệ cao lớn và biệt hiệu le petit caporal (hạ sĩ bé) là một tiếng thân mật thể hiện sự thân thiết được ghi nhận giữa ông với những người lính hơn là chiều cao của ông 
Năm 1908, nhà phân tâm học Alfred Adler lấy Napoléon để mô tả một phức cảm thấp kém (inferiority complex) trong đó những người lùn có cư xử hiếu chiến để bù đắp cho sự thiếu chiều cao; điều này gợi cảm hứng cho thuật ngữ Phức cảm Napoléon . Nhân vật hình mẫu về Napoléon là một "bạo chúa bé nhỏ" lùn một cách tức cười và điều này đã trở thành một sáo ngữ (cliché) trong văn hóa đại chúng. Ông thường được minh họa mang một mũ nồi rộng với cử chỉ tay đưa lên áo gi-lê — liên hệ với bức tranh năm 1812 của Jacques-Louis David

Di sản

Quân sự


Tượng Napoléon Bonaparte ở Cherbourg-Octeville khánh thành bởi Napoléon III năm 1858. Napoléon I từng tăng cường khả năng phòng thủ của thành phố này để ngăn cản sự xâm nhập của hải quân Anh.
Trong lĩnh vực tổ chức quân đội, Napoléon đã vay mượn nhiều từ các nhà lý thuyết trước đó như Jacques Hippolyte, và từ các cuộc cải cách của những chính phủ Pháp tiền nhiệm, đồng thời phát triển nhiều thứ đã có sẵn. Ông tiếp tục chính sách, ra đời từ thời Cách mạng, về thăng chức dựa trên công trạng .
Quân đoàn thay thế sư đoàn làm đơn vị quân đội lớn nhất, và pháo tự hành được tích hợp vào các khẩu đội dự bị, hệ thống nhân sự trở nên linh hoạt hơn và kỵ binh trở lại làm một đội hình quan trọng trong lý thuyết quân sự Pháp. Các phương pháp này ngày nay được xem là các đặc điểm chủ yếu của học thuyết quân sự Napoléon . Mặc dù ông đã củng cố việc thực hành chế độ tòng quân cưỡng bức hiện đại được đưa ra bởi Hội đồng Đốc chính, một trong các chiếu chỉ đầu tiên của nhà Bourbon phục hưng là chấm dứt nó 
Các đối thủ của Napoléon học tập từ các cách tân của ông. Tầm quan trọng được tăng cường của hỏa lực pháo sau 1807 bắt nguồn từ việc ông tạo nên một lực lượng pháo có tính cơ động cao, tăng cường số lượng pháo và thay đổi trong cách vận dụng chúng. Kết quả của những yếu tố này là Napoléon, thay vì dựa vào bộ binh làm xói mòn sức phòng thủ của kẻ địch, giờ có thể sử dụng hỏa lực tập trung như một mũi nhọn để khoét một lỗ thủng trong phòng tuyến của kẻ địch và sau đó khai thác lỗ thủng đó bằng bộ binh và kỵ binh hỗ trợ. McConachy bác bỏ lập luận cho rằng sự phụ thuộc tăng lên vào pháo binh bởi quân đội Pháp bắt đầu từ 1807 là một sản phẩm tự nhiên của chất lượng suy giảm của bộ binh Pháp và sau này là sự yếu thế của Pháp về số lượng kỵ binh . Vũ khí và các loại kĩ thuật quân sự khác nhìn chung không đổi trong kỷ nguyên Cách mạng và thời Napoléon, nhưng sự vận động tác chiến của thế kỉ 18 đã chứng kiến những thay đổi đáng kể Ảnh hưởng lớn nhất của Napoléon là trong cách ông chỉ đạo chiến tranh. Antoine-Henri Jomini đã giải thích các phương pháp của Napoléon trong một cuốn sách giáo khoa được sử dụng rộng rãi đã ảnh hướng tới tất cả các quân đội châu Âu và Mỹ. Napoléon được nhà lí thuyết quân sự đầy ảnh hưởng Carl von Clausewitz xem như một thiên tài trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh, và các nhà sử học xếp ông vào một trong những chỉ huy quân sự vĩ đại nhất . Wellington, khi được hỏi ai là vị tướng vĩ đại nhất thời đó, đã trả lời: "Trong thời đại này, trong những thời đại đã qua, [cũng như] trong bất kỳ thời đại nào, [đó là] Napoléon" .
Dưới thời Napoléon, đã xuất hiện một sự nhấn mạnh mới vào sự hủy diệt, chứ không phải ưu thế chiến thuật, đối với kẻ thù. Các cuộc xâm lược và lãnh thổ địch xảy ra trên những mặt trận rộng lớn hơn, thứ làm cho các cuộc chiến tranh hao tiền tốn của hơn và có tính dứt điểm hơn. Hệ quả chính trị của chiến tranh tăng lên rõ rệt; sự thất trận đối với một cường quốc châu Âu đáng kể hơn nhiều việc mất các nước vùng đệm cô lập. Những nền hòa bình tựa Hòa bình Carthago (nền hòa bình khắc nghiệt với phe bại trận) bện chặt với toàn thể các nỗ lực dân tộc, làm khuếch trương hiện tượng Cách mạng của chiến tranh tổng lực

Chủ nghĩa Bonaparte

Trong lịch sử chính trị Pháp, chủ nghĩa Bonaparte (Bonapartisme) có hai ý nghĩa. Thuật ngữ này có thể chỉ những người muốn khôi phục Đế chế Pháp dưới sự cai trị của Nhà Bonaparte bao gồm gia tộc của Napoléon ở Corse và cháu ông Louis. Tâm lý luyến tiếc thời đại Napoléon trong dân chúng đã giúp Louis trở thành Tổng thống Pháp đầu tiên rồi thành Napoléon III, Hoàng đế của Đệ nhị Đế chế Pháp. Theo một nghĩa rộng hơn, chủ nghĩa Bonaparte liên hệ với một phong trào chính trị trung hữu hoặc ôn hòa rộng rãi có chủ trương chính là ủng hộ một nhà nước mạnh, tập quyền dựa trên chủ nghĩa dân túy 

Chỉ trích


"EXIT LIBERTÉ a la FRANCOIS ! or BUONAPARTE closing the Farce of Egalité, at St. Cloud near Paris Nov. 10th. 1799", tranh châm biếm ở Anh về cuộc đảo chính 18 tháng Sương mù, bởi James Gillray.
Napoléon đã chấm dứt thời kì vô luật pháp và hỗn loạn hậu Cách mạng Pháp Tuy nhiên, ông bị các đối thủ xem là một tên bạo chúa, một kẻ cướp ngôi .
Những người chỉ trích ông cáo buộc rằng ông không hề băn khoăn lắm khi đối mặt với viễn cảnh chiến tranh và cái chết của hàng ngàn người, biến việc tìm kiếm một nền thống trị đồng thuận sang một chuỗi những xung đột trên khắp châu Âu và phớt lờ các hòa ước và hiệp định. Vai trò của ông trong Cách mạng Haiti và quyết định phục hồi chế độ nô lệ ở các thuộc địa hải ngoại của Pháp gây nên tranh cãi và làm ảnh hưởng tới hình ảnh của ông 
Napoléon đã thể chế hóa sự cướp bóc ở các lãnh thổ chinh phục được: các bảo tàng Pháp chứa đựng những tác phẩm nghệ thuật vơ vét bởi quân đội của ông trên khắp châu Âu. Các vật tạo tác được đem tới Bảo tàng Louvre để tạo nên một bảo tàng trung ương vĩ đại; ví dụ của ông về sau thành nguồn cảm hứng cho những kẻ bắt chước khét tiếng hơn  Ông bị đem so sánh với Adolf Hitler, nổi tiếng nhất bởi nhà sử học Pieter Grey năm 1947 . Tuy nhiên David G. Chandler, chuyên gia về lịch sử Napoléon chỉ trích so sánh trên: "Không gì có thể hạ cấp người trước [Napoléon] và làm tăng giá trị cho kẻ sau [Hitler] hơn"
Những người chỉ trích cũng lập luận rằng di sản thực sự của Napoléon phải phản ánh sự mất mát vị thế của nước Pháp và những cái chết vô ích do nền cai trị của ông đem lại: sử gia Victor Davis Hanson viết, "Xét cho cùng, kỷ lục quân sự là không phải tranh cãi - 17 năm chiến tranh, chừng sáu triệu người chết, nước Pháp khánh kiệt, các thuộc địa hải ngoại bị mất"  McLynn lưu ý với độc giả rằng, "Ông có thể xem như người đã kéo chậm đời sống kinh tế châu Âu cả một thế hệ bởi những biến động do những cuộc chiến tranh của ông . Tuy nhiên, Vincent Cronin đáp lại rằng những chỉ trích như vậy dựa vào một tiền đề không đầy đủ rằng Napoléon chịu hoàn toàn trách nhiệm cho những cuộc chiến mang tên ông, trong khi thực tế nước Pháp là nạn nhân của một loạt những mối liên minh nhằm hủy diệt những lí tưởng của Đại Cách mạng Pháp . Mặt khác, một cuộc thăm dò ý kiến xuất bản trên báo Le Figaro năm 2005 cho thấy gần 40% người Pháp coi ông là "một tay độc tài đã dùng mọi cách để thỏa mãn sự thèm khát quyền lực của mình". 

Tuyên truyền và tưởng niệm

Khả năng vận dụng tuyên truyền bậc thầy của Napoléon đóng góp nhiều vào sự nổi lên nắm quyền của ông, hợp thức hóa nền cai trị của ông, và thiết lập hình ảnh ông cho hậu thế. Chính sách kiểm duyệt nghiêm ngặt, kiểm soát sự thể hiện của sách, báo, sân khấu, mỹ thuật, chỉ là một phần trong kế hoạch tuyên truyền của ông, nhằm vào việc mô tả ông như liều mình mang lại một nền hòa bình và ổn định mà nhân dân Pháp mong mỏi. Thuật hùng biện thay đổi theo những sự kiện chính trị và theo không khí uy quyền của Napoléon, tập trung trước hết vào vai trò của ông như một vị tướng lĩnh quân đội và sự đặc tả như một người lính, rồi chuyển sang vai trò của ông như một hoàng đế và lãnh tụ dân sự. Vì đặc biệt nhắm vào công chúng bình dân, Napoléon đã nuôi dưỡng một mối quan hệ quan trọng, nhưng không dễ dàng, với giới nghệ thuật đương thời, nắm vai trò tích cực trong việc đặt hàng và kiểm soát các sản phẩm nghệ thuật nhiều hình thức khác nhau để đảm bảo mục đích tuyên truyền của mình 
Học giả Hazareesingh năm 2004 đã xem xét hình ảnh và sự tưởng niệm Napoléon trong ngữ cảnh chính trị-xã hội của nó. Theo đó, nó đóng một vai trò quan trọng trong những thách thức chính trị tập thể đối với nền quân chủ Bourbon những năm 1815-1830. Người dân ở mọi tầng lớp và mọi khu vực trên nước Pháp, đặc biệt là các cựu binh thời kì Napoléon, gợi đến di sản của Napoléon và những mối liên hệ của nó đối với những lý tưởng của cuộc cách mạng 1789 . Những tin đồn lan nhanh về sự quay về của Napoléon từ đảo St. Helena và Napoléon như một cảm hứng cho chủ nghĩa ái quốc, sự tự do tập thể lẫn cá nhân, cùng với sự vận động chính trị đã tự thể hiện trong những chất liệu có tính nổi loạn, đáng chú ý là sự thể hiện các họa tiết ba màu (cách mạng) và hoa hồng (nhà Bonaparte), và những hoạt động tổ chức những ngày kỷ niệm cuộc đời và triều đại Napoléon trong khi phá hoại những ngày lễ hoàng gia, và chứng tỏ mục tiêu thành công và thịnh hành của những người ủng hộ Napoléon các loại nhằm liên tục làm mất ổn định nền cai trị của nhà Bourbon
Datta (2005) chỉ ra rằng sau sự sụp đổ của chủ nghĩa quân phiệt Boulanger vào cuối những năm 1880, huyền thoại Napoléon đã tách li khỏi chính trị đảng phái và hồi sinh trong văn hóa đại chúng. Tập trung phân tích một số tác phẩm văn học thời Belle Époque, Datta xem xét cách các tác giả và nhà phê bình thời kì này khai thác huyền thoại Napoléon cho những mục đích chính trị và văn hóa đa dạng  Quy giảm về một nhân vật phụ, hình ảnh hư cấu mới về Napoléon không còn là một nhân vật lịch sử thế giới mà là một nhân vật gần gũi hơn, phỏng theo những nhu cầu của mỗi cá nhân và được tiếp nhận như sự giải trí đại chúng. Trong nỗ lực của các tác giả để thể hiện vị hoàng đế như một biểu tượng của sự thống nhất quốc gia, những người đề xướng lẫn đả kích Đệ tam Cộng hòa sử dụng huyền thoại này như một phương tiện để thăm dò những nỗi lo về giới và những nỗi sợ về quá trình dân chủ hóa đi kèm với kỉ nguyên của văn hóa và chính trị quần chúng
Các Hội nghị Napoléon Quốc tế được tổ chức thường xuyên và có sự tham gia của các thành viên của giới quân sự Pháp và Mỹ, các chính trị gia Pháp và các học giả đến từ nhiều quốc gia khác nhau .
Được dự tính hoàn thành vào năm 2014, Công viên giải trí Napoleonland ở gần Montereau-Fault-Yonne trên vị trí diễn ra chiến thắng của Napoléon trong trận Montereau sẽ có nội dung hoạt động liên quan đến cuộc đời ông.

Di sản ngoài nước Pháp

Napoléon chịu trách nhiệm cho việc lật đổ nhiều Chế độ cũ (Ancien Régime) — những nền quân chủ điển hình ở châu Âu và lan truyền các giá trị chính thống của Cách mạng Pháp tới các quốc gia khác. Đặc biệt, chủ nghĩa dân tộc Pháp của Napoléon đã có ảnh hưởng lên sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc ở những miền khác — thường là một cách không chủ ý. Một ví dụ là chủ nghĩa dân tộc Đức của Fichte đã thách thức sự chinh phục nước Đức của Napoléon. Napoléon cũng là tác giả tạo ra cơ sở cờ tam sắc xanh-trắng-đỏ của nước Ý trong thời kì ông cai trị đất nước này.
Đạo luật Napoléon là sự hệ thống hóa luật pháp bao gồm luật dân sự, luật gia đìnhluật hình sự mà ông áp đặt lên các lãnh thổ bị chinh phục. Sau sự sụp đổ của Napoléon, bộ luật này không những vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia bao gồm Hà Lan, Bỉ, một phần của Ý và Đức, mà còn được dùng làm cơ sở cho nhiều phần của những bộ luật ngoài châu Âu bao gồm Cộng hòa Dominica, bang Lousiana của Hoa Kỳ và tỉnh Quebec của Canada 
Ở Ba Lan hồi ức về Napoléon rất mạnh mẽ, do sự ủng hộ của ông với nền tự chủ và đối lập lại Nga, đạo luật của ông, sự kết thúc chế độ nông nô, và việc hình thành bộ máy quan liêu trung lưu hiện đại 
Một số nhà lãnh đạo chịu ảnh hưởng bởi Napoléon. Muhammad Ali của Ai Cập tìm kiếm liên minh với nước Pháp của Napoléon và tìm cách hiện đại hóa Ai Cập theo các cách thức của chính quyền Pháp. Vào thế kỉ 20, Adolf Hitler từng bày tỏ sự tôn kính Napoléon bằng cách viếng mộ 3 ngày sau khi Đức chiếm được Pháp (1940) trong Thế chiến thứ hai. Hitler được cho là đã nói rằng đây là "một trong những khoảnh khắc lớn nhất trong đời tôi". Hôm sau, Hitler lại thăm mộ Napoléon trong chuyến tham quan Paris, và trong suốt chiến tranh, vị lãnh tụ Đức Quốc xã đã đặt các túi cát quanh mộ Napoléon để tránh sự hư hại do bom đạn gây ra 

Hôn nhân và con cái

Vợ đầu của Napoléon, Joséphine, hoàng hậu Pháp
Vợ đầu của Napoléon, Joséphine, hoàng hậu Pháp
Vợ đầu của Napoléon, Joséphine, hoàng hậu Pháp

Vợ thứ hai của Napoléon, Marie-Louise, hoàng hậu Pháp
Napoléon kết hôn với Joséphine de Beauharnais năm 1796, khi ông 26 tuổi; còn bà là một góa phụ 32 tuổi mà người chồng trước bị xử tử trong Cách mạng. Khi bà gặp Bonaparte, bà được biết đến với tên "Rose", một cái tên mà ông không ưa. Ông gọi bà là "Joséphine", và từ đó bà mang tên này. Bonaparte thường gửi các bức thư tình trong các chiến dịch của mình . Ông chính thức thừa nhận con trai riêng của bà Eugène và em họ Stéphanie và sắp xếp các hôn lễ hoàng gia cho họ. Joséphine có một con gái riêng là Hortense, cưới em trai Bonaparte là Louis 
Joséphine có nhiều nhân tình, bao gồm một trung úy người Hungary, Hippolyte Charles, trong chiến dịch Ý của Napoléon . Napoléon biết được đầy đủ mức độ mối quan hệ của bà với Charles khi ở Ai Cập, và một bức thư ông viết cho anh trai nói về chủ đề này bị người Anh chặn được. Lá thư xuất hiện trên các báo chí ở London và Paris, gây cho Napoléon nỗi xấu hổ to lớn. Napoléon cũng có những mối quan hệ của riêng mình: trong chiến dịch Ai Cập ông đã chiếm Pauline Bellisle Foures, vợ của một sĩ quan cấp thấp, làm nhân tình của mình 
Trong khi các nhân tình của ông có những đứa con bởi ông, Joséphine không sinh được một người thừa kế, có thể vì hoặc những ám ảnh về sự bắt giam trong Thời kỳ Khủng bố hoặc lần bà từng phá thai ở tuổi 20 . Napoléon sau cùng chọn lựa li dị để ông có thể tái hôn để tìm người thừa kế. Tháng Ba 1810, ông cưới Marie Louise, nữ Đại Công tước Áo, và cháu của Marie Antoinette thông qua một đám cưới vắng mặt; do đó ông đã kết hôn với một gia đình đế vương Đức 
Họ duy trì hôn nhân cho tới khi ông mất, mặc dù bà không đi đày cùng ông ở Elba và do đó không nhìn thấy chồng lần nữa. Họ có một đứa con, Napoléon Francis Joseph Charles (1811–1832), từ lúc sinh ra đã được phong Vua của người La Mã. Đứa trẻ về sau trở thành Napoléon II năm 1814 và tại vị chỉ hai tuần. Ông hoàng được ban danh hiệu Công tước Reichstadt năm 1818 và chết do bệnh lao ở tuổi 21, mà không có con cái .
Napoléon cũng công nhận hai đứa con ngoài giá thú khác: Charles Léon (1806–1881) sinh bởi Eléonore Denuelle de La Plaigne Bá tước Alexandre Joseph Colonna-Walewski (1810–1868) bởi Nữ bá tước Marie Walewska. Ông có thể có bốn đứa trẻ ngoài giá thú không được thừa nhận nữa, như Karl Eugin von Mühlfeld bởi Victoria Kraus ; Hélène Napoleone Bonaparte (1816–1910) bởi Albine de Montholon; và Jules Barthélemy-Saint-Hilaire, người mà mẹ hiện còn chưa rõ

Các trận đánh lừng danh của Napoléon


  • Trận Toulon (1793)
  • Chiến dịch ITALY (1796-97)
  • Viễn chinh Ai Cập(1798-99)
  • Trận Marengo (1800)
  • Trận Ulm (1805)
  • Trận Chiến Austerlitz-1805
  • Trận Jena-Auerstad (1806)
  • Trận Eylau (1807)
  • Trận Friedland (1807)
  • Trận Essling-Aspern (1809)
  • Trận Wagram (1809)
  • Trận Borodino (1812)
 The Napoleon Series
Dưới chế độ quân chủ Bourbon, Napoléon có rất ít hy vọng được thăng cấp nhưng khi cuộc Cách Mạng Pháp lên cao độ vào ngày 10-8-1792 với chế độ quân chủ đã bị lật đổ và một nước Cộng Hòa được thành lập, thì đây là cơ hội rất tốt, có tính quyết định đối với cuộc đời của Napoléon và đã mở ra để Napoléon tiến lên đài vinh quang với những trận đánh nổi tiếng….
 imperio-napoleonico

Trận Toulon (1793)

Tran Toulon (1793)
Đây là trận đánh đầu tiên đánh dấu sự bắt đầu của một tài năng quân sự sẽ làm rung chuyển châu Âu trong suốt gần 2 thập kỷ tiếp theo. Lúc này sau cách mạng Tư Sản 1789, ở Marseille có cuộc nổi dậy của những người ủng hộ hoàng gia được sự hậu thuẫn của người Anh, Sau khi tướng Carteaux giải phóng Marseille vào ngày 25-8, phe bảo hoàng đã kịp giao Toulon cho quân Anh, Hạm đội hải quân hoàng gia đã thả neo, đổ bộ một bộ phân quân lính tăng cường cho lực lượng vốn đã rất đáng gờm ở đây.
Cảng Toulon lúc đó chiếm một vị trí quan trọng, trấn giữ vùng Địa Trung Hải và 1/3 số chiến thuyền của Pháp đóng tại đây. Đô đốc Samuel Hood và tướng O’Hara phía quân Anh đã củng cố lại các pháo đài, trang bị với các khẩu thần công lớn yểm trợ nhằm ngăn cản nỗ lực chiếm lại cảng của quân cộng hòa.
Phía Pháp tướng Carteaux vốn bất tài, ngay khi Napoleong lúc đó đang là đại úy thăm các ụ pháo do ông này bố trí xây dựng đã thấy ngay tầm bắn của đạn pháo không thể với tới các chiến thuyền Pháp. Trước đó Napoleong đã gửi về bộ trưởng chiến tranh ở Paris đề xuất một mô hình lò có khả năng nung đỏ đạn đại bác đến mức có thể làm cháy thuyền địch. Mặc dù bị Carteaux gây cản trở nhưng Bonaparte vẫn được tín nhiệm thăng cấp thiếu tá chỉ huy pháo binh.
Quân Anh chủ động tấn công vào các ụ pháo của quân Pháp nhưng tổn thất nặng nề, Napoléong truy quét và bắt được tướng O’Hara. Pháo Binh Pháp bắt đầu tấn công vào hai pháo đài Éguillette và Balaguir, vốn ở vị trí then chốt có thể hỷ diệt mọi tàu bè tiến vào cảng. Quân Anh cũng trả đũa bằng phản pháo. Vào giữa đêm 16/12 Bonaparte dẫn đầu một tiểu đoàn bộ binh tấn công vào đánh vào điểm cao Caire và chiếm pháo đài nhỏ Gibraltar. Sau đó chính những thần công của Anh được quay nòng về chính phía họ. Bonaparte mặc dù bị thương ở đùi vẫn thừa thắng dẫn bộ binh đánh thẳng vào hai pháo đài Éguillette và Balaguir. Quân Anh hoảng loạn bỏ chạy để lại toàn bộ số thần công còn chưa dùng đến. Ngay lập tức các hạm đội Anh trong cảng bị pháo binh tấn công. Ngày hôm sau cũng với chiến thuật như vậy Napoléon chiếm tiếp pháo đài Malbosquet, các chiến thuyền Anh phải bỏ chạy trước khi đốt cháy các chiến thuyền Pháp.
Napoléon được thăng lên cấp tướng chỉ huy lữ đoàn. Khi đó ông mới 24 tuổi.
 410px-Siege_of_Toulon_map

Chiến dịch ITALY (1796-1797)

Đây là chiến dịch đầu tiên trong đời của Napoleon. Nó bắt đầu vào ngày 11/3/1796 khi ông nhận lệnh từ viện Đốc chính, tức 3 ngày sau khi ông kết hôn với Josephine.
Nhưng ngay khi đặt chân đến đơn vị của mìn, rắc rối đầu tiên đã xảy ra. Đơn vị do ông chỉ huy rơi vào tình trạng đến nỗi không khác gì một đám đói rách. Nạn tham nhũng hoành hành khắp nơi. Binh lính đói rách, nghèo khổ, thậm chí cả một tiểu đoàn không có giày. Nạn bóc lột, ăn hối, ăn cắp vặt…… diễn ra từng ngày. Các tướng lĩnh lại không ưa Napoleon vì họ thấy phải phục tùng một thắng nhóc 27 tuổi là sự sỉ nhục.
Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng Napoleon vẫn rất bình tĩnh. Ông đến từng đơn vị động viên binh lính và cố gắng phát lương cho họ. Ông thay những khẩu pháo cũ kĩ bằng những khẩu pháo mới và mạnh hơn.Ông dùng nhiều cách để kích động, lấy tinh thần binh sĩ và xử bắn những kẻ nổi loạn. Vì vậy chỉ trong một thời gian ngắn, quân đội của ông đã đâu vào đấy.
Ngày 9/4/1796, Napoleon quyết định vượt núi Aples cùng với quân đội cuả mình. Chiến dịch thật sự bắt đầu.
Đây là một cuộc hành quân gian khổ. Tuy vậy, quân đội Pháp đã vượt qua trong 6 ngày. Ngay sau đó họ đã có một trận đấu với quân Áo và quân Piemont và sau đó quân Pháp đã chiếm được vùng đất phì nhiêu này. Không dừng ở đó, Napoleon thúc quân đi đánh chiếm Milan đang nằm trong tay quân Áo. Với sự nghi binh tài tình, Napoleon đã dẫn binh lính vượt qua sông Po thành công và tiến sát vào Milan hơn. Sau thất bại này, quân Áo rút qua sông Ada cố thủ, ngăn không cho quân Pháp tiến lên. Ngày 10/5/1769 quân Pháp và Áo đánh nhau đẫm máu ở cầu Lodi bắc qua sông Ada.Trước khi trận đánh nổ ra, Napoleon đã đích thân đi trinh sát trận địa và đã tự tay bố trí trận địa pháo binh. Ông căn đo thật kĩ và chính xác vì ông biết chỉ có hoả lực pháo binh mới hạ được quân Áo.
Đúng như ông dự kiến, hoả lực mạnh mẽ của pháo binh Pháp đã làm tê liệt quân Áo.Lúc cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ở đầu cầu thì Napoleon, dẫn đầu một tiểu đoàn cận vệ, xông tới dưới làn mưa đạn, 20 khẩu pháo của quân áo nhả đạn quét sạch cầu và lân cận. Lính cận vệ, do Napoleon dẫn đầu, đã chiếm được cầu và đánh bật được quân áo ra xa. Sau một ngày đánh nhau đẫm máu, Quân Áo vỡ trận bỏ chạy bỏ lại trên chiến trường 15 khẩu pháo và chừng 2.000 người vừa bị chết và bị thương. Napoleon tung quân truy kích và chiếm Milan ngày 15/5/1796. Vùng Lombardie rơi vào tay quân Pháp.
Nước Áo, sau thảm bại ở Milan, đã quyết định phục thù. Họ liền thay đổi tướng viên tướng già bằng một viên tướng trẻ mới và tăng cường thêm hỏa lực, bổ sung thêm quân. Để đối đầu với quân Áo mạnh hơn hẳn, Napoleon đã quyết định dùng kế để thắng. Ông ra lệnh cho binh sĩ rút khỏi thành Mantova, để lại một lượng lớn pháo và vũ khí. Khi tiến vào,quân Áo thâý thành trống trơn, tưởng đối phương đã rút lui liền mừng ra mặt. Và họ đã phạm sai lầm khi chia quân ra truy kích. Chỉ chờ thời cơ này, Napoleon liền phản công bằng cách diệt từng cánh quân đối phương. Vì vậy, chỉ mất 6 ngày, quân Pháp đã diệt gọn 20 ngàn lính Áo. Quân Pháp thừa thắng tiến lên tấn công tàn quân Áo đã chạy về thành Mantova. Sau khi bao vây suốt năm tháng trời, triều đình Áo cử ngay 40 ngàn quân đến giải vây. Ngaỳ 15/11/1796 tại cầu Arcole đã diễn ra trận đánh đẫm máu kéo dài đến ngày 17/11/1796. Quân Áo đại bại, phải đầu hàng vô điều kiện.
Napoleon đã vượt qua những thử thách máu lửa đấu tiên ở nước Italy khi mới 27 tuổi. Sang năm 1797, được sử phê chuẩn của phủ đốc chính, Napoleon dẫ quân tiến vào nước Áo. Cả triều đình Áo hoảng sợ, rối loạn và phải cầu hòa.
Tháng 7/1797, hai nước Pháp-Áo kí hiệp ước đình chiến, chiến tranh kết thúc.

Viễn chinh xâm lăng Ai Cập (1798-1799)

Vào tháng 5 năm 1798, Napoléon bắt đầu cuộc viễn chinh tại Ai Cập với 38,000 quân. Các chiến thắng bắt đầu: pháo đài Malta của các hiệp sĩ Hospitallers (the Knights Hospitallers of St. John of Jerusalem) bị thất thủ vào ngày 10-6-1798, rồi thành phố Alexandria của Ai Cập đầu hàng vào ngày 1 tháng 7. Napoléon đã đánh bại các kẻ cai trị xứ Ai Cập có tên là nhóm Mamelukes, trong trận đánh tại các Kim Tự Tháp gần thành phố Cairo.Quân Mamelukes đã chạy trốn về phía nam, bỏ lại một phần pháo binh (40 khẩu pháo). Mấy nghìn xác chết phủ kín chiến trường. Rồi đồng bằng sông Nile bị chinh phục rất nhanh chóng.

Nhưng, vào ngày 1-8-1798, hạm đội Pháp bỏ neo tại Vịnh Abu Qir đã bị hoàn toàn phá hủy bởi hạm đội Anh của Đô Đốc Horatio Nelson trong trận thủy chiến “Dòng Sông Nile” (the Battle of the Nile) khiến cho đoàn quân Pháp bị mắc kẹt trong miền đất mà họ đã chinh phục được và bị cắt đứt các nguồn tăng cường và tiếp tế. Cũng vào thời gian này, Napoléon đã cố gắng đưa vào xứ Ai Cập các định chế chính trị, cách quản trị và tài năng kỹ thuật của tây phương. Quốc gia bảo hộ Ai Cập là Thổ Nhĩ Kỳ bèn liên minh với các nước Anh, nước Nga và tuyên chiến với nước Pháp vào tháng 9 năm đó. Để ngăn chặn cuộc tấn công của Thổ Nhĩ Kỳ vào xứ Ai Cập và có lẽ cũng vì muốn trở về đất Pháp bằng con đường Anatolia, Napoléon đã đưa quân qua Syria vào tháng 2 năm 1799, tiến tới pháo đài Acre (ngày nay là Akko, thuộc nước Do Thái) và đoàn quân Pháp đã bị chặn đánh thảm bại tại nơi này.Sau nhiều đợt xung phong vô hiệu, ngày 20 tháng 5 năm 1799, quân Pháp phải bỏ cuộc bao vây, tổng cộng quân Pháp đã mất 3.000 người. Bên bị bao vây còn thiệt hại lớn hơn thế nữa.
Napoléon đành phải rút về Ai Cập và khi tới Abu Qir, gần Vịnh Abu Qir, ông đã đột kích và tiêu diệt gần 15.000 quân Thổ vào ngày 25 tháng 7 năm 1799.
Vào tháng 8 năm 1799,Có nhiều âm mưu phản cách mạng. Chế độ Cộng Hòa đang cần cấp cứu.Hội Đồng Chấp Chính đã ra lệnh cho Napoléon trở về . Tháng 8 năm 1799, Napoléon Bonaparte lên tầu, lẻn về Pháp, giao quyền chỉ huy đoàn quân Ai Cập cho Tướng Jean Kleber.

Trận Marengo (1800)

Đây là trận đánh quan trọng đầu tiên của Napoleon trong cương vị Tổng tài của nước Pháp.Trận đánh khởi đầu vào buổi sớm ngày 14 tháng 6 năm 1800 ở gần Marengo.Napoleon có cả thảy 20.000 quân và chỉ điều động bộ phận pháo loại tồi nhất cùng vượt đèo Grăng Xanh Béc-na với ông hồi tháng 5, còn pháo binh chủ lực đã hành quân đến chậm vì bị mắc vây và đánh chiếm một cứ điểm mạnh trong núi che chở cho quân áo. Trong khi tướng Áo Melas chỉ huy một đạo quân 30.000 người và 100 cỗ pháo có đầy đủ đạn dược thì Napoleon lại còn phải giao cho tướng De Saix một phần trong số pháo tồi của mình. Thế là Napoleon chỉ có 15 khẩu pháo để chống với 100 khẩu của quân áo.
Quân Pháp vừa đánh vừa lùi và giáng cho quân địch những đòn đích đáng, nhưng bản thân cũng bị thiệt hại nặng. Đến hai giờ chiều, trận đánh xem chừng thất bại, không thể cứu vãn được. Quá ba giờ, Melas ca khúc khải hoàn, cử người về Viên báo tin quân áo toàn thắng, thu nhiều chiến lợi phẩm và tù binh, tướng vô địch Napoleon đã thất bại. Tình trạng hỗn độn đã bao trùm lên tổng hành dinh quân đội Pháp. Napoleon giữ thái độ bình tĩnh, vừa nhắc nhở cần phải cầm cự, vì trận đánh chưa kết thúc. Và đến ba giờ chiều, tình thế đột nhiên thay đổi một cách bất ngờ, bởi sư đoàn De Saix được phái xuống phía nam để cắt đường rút lui của quân địch đang từ Giên trở về cấp tốc hành quân quay trở lại, đã công kích ồ ạt vào quân áo đúng giờ phút quyết định chiến trường.
Quân áo hết sức tin tưởng vào sự toàn thắng của họ đến nỗi lúc ấy có nhiều đơn vị quân đội áo cho toàn thể đơn vị bố trí chuẩn bị nghỉ ngơi và ăn chiều. Bị sư đoàn tinh nhuệ của De Saix ập đánh và tiếp đó là tất cả các đơn vị của Napoleon cũng đánh vào, quân đội áo hoàn toàn bị đánh bại. Năm giờ chiều, quân áo bỏ chạy, bị kỵ binh Pháp truy kích. Tướng De Saix hy sinh ngay từ phút đầu của trận đánh,Napoleon đã bật khóc khi biết tin đó.
Nước Áo bị bắt buộc phải ký Hòa Ước Luneville vào tháng 2 năm 1801, công nhận nước Pháp có quyền chiếm đóng các miền sông Rhine, dãy núi Alps và dãy núi Pyrenées.

Trận Ulm (1805)

Đây là chiến địch đầu tiên của Napoleon trong vai trò hoàng đế Pháp.Sau khi biết tin chính xác quân Nga tiến sang nước Áo, Napoléon bỏ ý định tiến sang nước Anh và hướng các lực lượng chính của mình ra chống lại cuộc liên minh quân sự lần thứ 3 (Nga – Áo). Kế hoạch của Napoléon là tiến hành phòng thủ ở Italia và tập trung lực lượng chủ yếu dưới sự chỉ huy trực tiếp của mình trên mặt trận Nadube. Về mặt chiến dịch, chiến thuật, Napoléon chủ trương tìm cách không cho liên minh sát nhập lại với nhau và dự định dùng cách đánh tỉa để buộc đối phương rời ra từng mảnh. Thực hiện kế hoạch trên, theo lệnh Napoléon từ trại Boulogne (Tây Bắc Pháp), đại quân Pháp gồm 7 quân đoàn (186000 người) chia làm nhiều ngả, hành quân cấp tốc tiến về sông Danube có vị trí Ulm (Nam nước Đức) kiên cố án ngữ sườn bên trái. Chưa đầy 3 tuần lễ, một đoàn quân to lớn đối với thời bấy giờ đã di chuyển từ biển Manche đến sông Danube (hơn 1200 km) mà hầu như không có bệnh binh và người đi rớt lại phía sau. Đây là điều bất ngờ đối với khối liên minh quân sự lần thứ ba (Nga – Áo). Nhờ có kế hoạch hành quân cấp tốc, tất cả đã đến nơi tập trung xung quanh thành Ulm và dồn tướng Áo là Mack cùng phần lớn quân Áo như bị nhốt trong một cái túi.
Quân đoàn của Sout và Lannes cũng như kỵ binh của Murat đã vượt sông Danube và bất ngờ xuất kích vào sau lưng quân của Mack. Thấy tình hình nguy khốn, một bộ phận quân Áo chạy thoát về phía Đông, nhưng dại bộ phận bị vây dồn vào Ulm. Xung quanh Mack, vòng vây ngày càng thịt chặt. Mark muốn phá vây chạy trốn nhưng bị một tên gján điệp của Napoléon là Sunmaixte đánh lừa. Tên này quả quyết xin Mark cố thủ và chẳng bao lâu nữa Napoléon sẽ phải bỏ vây vì ở Paris đang có biến nổ ra một cuộc chống lại ông ta và thế là Mark đã trúng kế.
Ngày 15/10/1805, Nây và Lannes chiếm các cao điểm xung quanh Ulm. Tình thế của Mack trở nên tuyệt vọng. Napoléon cho người đến thương lượng đòi Mark phải đầu hàng và dọa nếu buộc phải đánh vào thì sẽ tiêu diệt hết. Ngày 20/10/1808, Mack đầu hàng, Napoléon thả cho Mark về, còn tù binh thì đưa sang Pháp.
Không nán lâu ở Ulm, Napoléon tiến thẳng đến Viên theo hữu ngạn sông Danube. Trong lúc truy kích, quân Pháp còn bắt thêm được rất nhieu tù binh. Số tổn thất của quân Áo lúc này đã lên tới 61000 người (32000 người ở Ulm, 29000 người bị bắt trước khi thành Ulm thất thủ) chưa kể số bị thương, bị chết, mất tích và một số bị bắt trong quá trình truy kích.

Trận Chiến Austerlitz-1805

Trận Austerlitz còn được gọi là Trận Ba Hoàng đế hay Trận Tam Vương là chiến thắng lớn nhất về mặt quân sự của Napoléon. Hoàng đế Napoléon với đạo quân 73.000 người đã đánh bẹp hai đạo quân Áo và Nga dưới quyền của Hoàng đế Áo Franz II và Nga hoàng Alexander I của Nga (tổng cộng 85.000 người) vào ngày 2 tháng 12 năm 1805 gần thành phố Austerlitz, ngày nay là thành phố Slavkov u Brna của Cộng hoà Séc.

Hoàn cảnh trước trận đánh
Napoléon đã đánh bại quân Áo tại Ulm vào tháng 10 và đã chiếm giữ Viên, thủ đô của Áo vào tháng 11.Khối liên minh lúc này chỉ còn trông vào quân Nga. Napoleon nhắm tới một chiến thắng nhanh chóng trước khi quân Phổ có thể gia nhập liên minh chống Pháp và đe doạ đến ông.Hạ thành Viên xong, Napoléon cấp tốc qua cầu, vượt sông Danube và xông thẳng vao quân Nga lúc này đang ở bên tả ngạn sông Danube, cũng vừa qua cầu. Ý định của Napoléon là chặn đường rút lui của quân Nga đang hối hả rút về phía Bắc. Kutuzov, Tổng chỉ huy quân đội liên minh đã thấy rõ, muốn thoát chết thì chỉ còn cách gấp rút lui quân về Onrăng ở phía Nam Onmát.Mặc dù trên suốt chặng đường lui quân dài hơn 400km từ Bơraonao đến Onmát, Kutudov gặp bao nỗi khó khăn và hiểm nguy nhưng với tài tổ chức và chỉ huy của mình, cuối cùng ông đã đưa được 75000 quân Nga hầu như đã kiệt sức về tới Onmát, tránh được sự đầu hàng nhục nhã và truy sát gấp của Napoléon. Như vậy, cuộc rút lui chiến lược của Kutuzov đã đạt được mục đích để ra là cứu thoát đại bộ phận quân Nga khỏi nguy cơ bị tiêu diệt; còn Napoléon thì không những không đạt được mục đích đề ra là truy kích gấp buộc Kutudôv phải giao chiến để tiêu diệt chủ lực quân Nga kết thúc sớm chiến tranh, mà còn buộc phải để lại một số quân ở các thành phố Áo nhằm bảo vệ hậu phương và các kho cung cấp lương thảo, vũ khí của mình.
Quân Nga vừa rút về đến Onmát có địa thế thuận lợi cho việc phòng thủ thì gần 15000 tàn quân Áo cũng vừa chạy tới. Song khi về đến Onmát, điều mà Kutuzôv quan tâm hơn cả là vừa lo củng cố, chấn chỉnh và tập trung quân liên minh lại, vưà suy nghĩ và xem xét đến hành động của Napoléon. Khi tới Onmát, Kutuzốv trù tính nếu quân Pháp còn tiến công thì tốt nhất là cứ tiếp tục rút lui. Ông phân tích: “Nếu Napoléon càng tiến sâu bao nhiêu thì hắn càng ở xa các đơn vị dự bị của hắn, và khi hắn tiên sâu vào Galixia tôi sẽ đào mồ chôn bọn Pháp ở đấy.” Quả nhiên đúng như vậy, khi sắp đến gần Onmát, mặc dầu quân Pháp đã mệt mỏi nhưng Napoléon vẫn thúc đội tiền vệ đuổi gấp Kutuzốv. Trước hành động đó, với kế hoạch đã được trù tính trước, Kutuzov hạ lệnh cho quân liên minh tiếp tục rút lui, nhưng kế hoạch rút lui của ông không sao thực hiện được vì ông đã vấp phải một trở lực lớn. Hoàng đế Aleksanđr cà một con người không hiểu gì về chiến tranh, nhưng lại hám danh, muốn quyết chiến và mở ngay một trận công kích vào quân Pháp. Không để ý gì đén ý kiến của Kutuzov, Aleksanđr liền quyết định tấn công và bác bỏ kế hoạch rút lui của Kutuzov. Không những thế, Aleksanđr còn làm một điều dại dột nữa là ủy nhiệm cho tướng Áo Frankz Von Weyrother người đã từng bị Napoléon đánh cho thua tơi bời ở nhiều nơi, nắm quyền chỉ huy liên quân Nga – Áo nghiên cứu kế hoạch tấn công.

Napoleon và các thống chế trước trận đánh
Chín vạn quân liên minh đã từ Onmát kéo về tập trung quanh Visan.Ý định tiến công của quân liên minh là không đánh thẳng từ Visan về Briun, nơi đại quân Pháp đóng,mà lại hành quân từ Visan xuống Austerlitz, lấy đó làm trận địa xuất phát tấn công và hình thành một mũi vu hồi lớn về phía quân Pháp để cắt đứt đường rút về Viên. Thực hiện kế hoạch trên vào ngày 1 tháng 12, toàn bộ liên minh quân Nga – Áo đã tới làng và hình thành bốn khối tiến công. Hướng tiến công chủ yếu là từ làng Austerlitz đánh xuống phía Tây Nam hướng cánh phải của quân Pháp.Kutudốv phản đối kế hoạch bố trí quân của Weyrother. Theo ý ông thì phải mau chóng thu thập những tin tức chính thức về lực lượng và việc bố trí quân của đối phương, rồi sau đó mới làm kế hoạch dàn quân. Song ý kiến của Kutudốv không được ai chú ý tới. Chiều tối ngày 1/12/1805, kế hoạch tấn công do Weyrother thảo ra đã được Aleksanđr thông qua.Khi nhận kế hoạch, một số tướng lĩnh Nga có kinh nghiệm đều cho rằng đó là do sự kém cỏi của Weyrother về các vấn đề chiến tranh nên trong bản đồ không thấy Weyrother nói gì đến lực lượng và ý định đối phương, không thấy nói gì đến hành động của từng khối quân và việc bố trí thành từng khối chỉ là phỏng chừng, cũng chẳng tính toán gì đến việc phối hợp lẫn nhau ở ngoài chiến trường. Do sự bố trí quân tự tin một cách mù quáng của Weyrother nên ông ta không để lại một sư đoàn nào làm lực lượng dự trữ khi quân Pháp tấn công
Đang truy kích quân Nga, Napoléon bỗng cho đội tiền vệ dừng ngay lại khi thấy quân Nga không rút lui nữa, đóng quân lại ở Onmát và đang chuẩn bị tấn công lại quân Pháp. Với tài phát hiện và phán đoán được đúng ý định tấn công của Aleksanđr, Napoléon tính rằng ở Austerlitz quân Nga – Áo sẽ được tập trung thành những khối lớn tiến công về hướng Nam và hình thành một mũi vu hồi lớn để rồi sau đó sẽ tìm cách đánh chặn đường đến Viên, đến Danubel và bao vậy hoặc đuổi quân Pháp lên phía Bắc dồn vào núi.Từ cơ sở nhận định như vậy, Napoléon hạ quyết tâm là bằng tác chiến hợp đồng binh chủng giữa bộ binh, kỵ binh và pháo binh, tấn công chớp nhoáng tiêu diệt quân liên minh, dùng hành động mau lẹ làm cho quân liên minh không kịp trở tay đối phó, không sao đoán được ý định của quân Pháp và lấy khu vực Nam cao điểm Pờrátden làm khu vực quyết chiến. Cho nên suốt trong quá trình Aleksanđr điều quân từ Visan xuống Austerlitz, Napoléon bí mật đưa dần quân Pháp từ Briun lên tăng cường cho các đơn vị tiền tiêu thành những khối tập trung lớn bố trí ở phía Đông suối Gômbathờ (khối ở quanh Puntôvích là khối tập trung lớn nhất). Triển khai trên một chính diện rộng từ Bắc xuống Nam chừng 7 km. Ông cũng không quên cài sẵn một mũi quân lớn nữa bí mật bố trí quanh khu vực sông Bônava và do Davout chỉ huy. Mũi này có nhiệm vụ đánh chặn đầu và dồn đuổi quân đối phương lên phía Bắc để tạo điều kiện cho chủ lực quân Pháp bố trí ở quanh khu vực Puntôvich đánh tiêu diệt. Mục đích chỉ duy nhất của Napoléon trong lần dàn quân này quyết bẻ gãy cuộc tấn công của quân đối phương. Vì vậy, ông cho tập trung quân thành những gọng kìm lớn để giáng đòn quyết định và sườn quân liên minh khi có thời cơ hoặc khi chúng đã bộc lộ sơ hở sa vào cạm bẫy của ông. Cuối cùng ông cũng không quên dành lại cho trận đánh một số tiểu đoàn cận vệ mạnh ở phía sau làm lực lượng dữ trữ (đội dự bị mạnh).
Thế là Napoléon đã bày xong thế trận vận động tấn công tiêu diệt quân liên minh với ba thế rất lợi hại: thế kìm (cánh quân của Lannes, Murat và Bécnađốt), thế công (cánh quân của của Sout và Ney), thế chặn ( cánh quân của Đavout). Că ba thế này sẽ cùng nhau phát huy tác dụng dưới sự điều khiển của Napoléon Bonaparte.Đặc biệt các mũi tên tấn công của quân Pháp ở Austerlitz hình thành nên ba thế trên đều nhằm vào hai bên sườn quân liên minh mà công kích, khi đã dồn được chín vạn quân liên minh vào bẫy. Theo Napoléon thì đây vừa là sơ hở, vừa là điểm yếu của đối phương, công kích vào đó thì dễ chia cắt được đội hình của đối phương dễn tạo ra thời cơ đánh tiêu diệt.Đêm ngày 1/12/1805 đã tới, cả hai bên đều đã triển khai xong lực lượng và chỉ chờ đến rạng sáng là bước vào cuộc đọ sức quyết liệt này.Và sáng ngày 2 tháng 12, khi trời chưa sáng rõ, người ta đã thấy Napoléon rời bản doanh ra phía trước, và theo như lời của những nhà chép sử đương thời thì Napoléon đích thân ra chỉ huy trận đánh lịch sử này từ đầu đến cuối, và hầu hết các Nguyên soái có tên tuổi của ông đều có mặt đông đủ như: Lannes, Murat, Bécnađốt ở cánh trái với ba khối quân Sout, Ney ở cánh giữa với hai khối quân tập trung lớn chủ yếu cùng với đại bộ phận số pháo có trong trận đánh này; Đavout ở cánh phải.
Đầu trận đánh

Trời sáng rõ, từ trên đài chỉ huy của mình, Napoléon thấy quân liên minh Nga – Áo từ phía Austerlitzs chia làm 7 mũi lớn ào ào tấn công về phía quân Pháp, đại bộ phận tấn công chính ở Phía Nam, khoảng giữa cao điểm Pờrátden và dải hồ Đatran. Còn quân Pháp thì sẵn sàng và vẫn kín đáo nấp sau những chướng ngại thiên nhiên, hình thành thế trận hình cánh cung.

Kỵ Binh Pháp dàn trận

Qua tình huống trên, Napoléon nhận định ý định tiến công của quân Nga – Áo đúng như ông đã phán đoán và nắm chắc. Đặc biệt ông lấy làm lạ rằng quân Nga-Áo không lên chiếm cao điểm Pờrátden mà còn để hở hai bên sườn, nhất là bên sườn trái. Hơn nữa ông còn phát hiện ra được một điểm nữa là trong quá trình tiến công, các mũi của quân liên minh dù ở cánh trái hay ở cánh phải đều không có sự phối hợp lẫn nhau gì cả. Từ trên cơ sở nhận định đó, một mặt Napoléon hạ lệnh cho Sout và Ney lặng lẽ đưa quân và pháo lên chiếm lĩnh cao điểm Pờrátden, mặt khác ông giả đò để ngỏ sườn phải, không phòng giữ và cố ý giấu kín sườn trái để dụ quân Nga – Áo tiến sâu hơn nữa; do đó ông đã lệnh cho Davout đánh cầm chừng để thu hút chủ lực đối phương về phía đó.
Cao điểm của cuộc chiến

Khi thấy quân liên minh đã bộc lộ sơ hở và có những mũi đã đi qua cao điểm, Napoléon quyết định mở đợt tiến công quyết liệt vào sườn những khối quân chủ lực Nga – Áo đang đi qua dưới chân phía Nam cao điểm. Bằng hỏa lực tập trung và mãnh liệt của pháo binh đặt ở trên cao điểm, Napoléon ngay từ phút đầu đã gây nên nhiều thiệt hại lớn cho bên liên quân. Đội hình tiến công của quân Nga – Áo bỗng trở nên rối loạn. Tiếp sau cuộc nã pháo dữ dội, bất ngờ và kéo dài không lâu này, dưới sự yểm trợ của pháo binh, bộ binh và kỵ binh từ trên ba hướng chia làm nhiều mũi bắt đầu xung phong ra chia cắt đối phương từ hướng Bắc đánh ra, từ trên cao điểm (hướng tập trung ở cánh giữa) đánh xuống, từ hướng Nam đánh lên.

Bộ binh Pháp tấn công Kỵ binh Nga

Thế là bằng những lực lượng tập trung lớn của mình ở trên cao điểm đã chiếm lĩnh được từ trước và ở quanh khu vực Puntôvich và bằng mũi hiểm đánh chặn của Đavout, Napoléon đã đè bẹp được đại bộ phận quân chủ lực đối phương. Cho đến lúc này, rõ ràng ba thế lúc ban đầu của Napoléon đã tạo nên thế diệt mạnh như bão cuốn.Số phận của chín vạn quân liên minh vì thế đã được định đoạt. Đội kỵ binh cận vệ Nga hầu như bị tiêu diệt ngay từ lúc trận chiến đấu ở vào giai đoạn quyết liệt, do đó sau một trận giao chiến với đội kỵ binh cận vệ của Napoléon kỵ binh Nga đã quay lui. Lập tức kỵ binh Pháp xung phong vào đội hình liên quân, chia cắt đối phương ra mà tiêu diệt, sau đó lại truy đuổi tàn quân Nga – Áo đến tận làng Austerlitsz.
Kết thúc cuộc chiến

Quân Nga do tướng Buxoveden chỉ huy khi rút lui thì lại tiến hành thiếu khẩn trương và thiếu nghệ thuật, đến nỗi làm cho hàng nghìn binh lính thuộc quân đoàn chủ của y bị đuổi dồn đến vùng hồ.Sau khi nắm được cuộc điều quân ấy của Buxơveđen, Napoléon đã ra lệnh nã đại bác lên mặt nước đóng băng,hàng trung đoàn bị chết đuối hoặc làm mồi cho đạn đại bác của quân Pháp tiêu diệt. Còn một số khác thì đầu hàng. Khi trận đánh sắp kết thúc,Napoleon đã tung nốt những tiểu đoàn dự trữ mạnh của mình ra để giải quyết gọn chiến trường.

Quân Nga-Áo bị dồn xuống hồ nước

Đêm đến thì mọi việc đã xong xuôi, chừng 15000 quân Nga – Áo bị giết, 20000 bị bắt cầm tù, hầu hết pháo của liên quân bị tước và nhất là đội quân Nga – Áo đã bị tiêu diệt thực sự, số tàn quân bỏ chạy tán loạn đi tứ phía, bỏ lại rất nhiều kho tàng quân trang, quân dụng và lương thực. Đó là những nét lớn về kết quả của cuộc chiến thắng đó. Quân Pháp bị thiệt mất ngót 9 nghìn người .

Hoàng đế Áo đến cầu hoà với Napoleon
Ngày mùa đông ngắn ngủi ấy kết thúc.Mặt trời rực rỡ chiếu từ buổi sớm đã lặn và nhờ có bóng tuối của đêm đen Aleksanđr và François đã thoát chết và không bị bắt. Aleksanđr mất tự chủ run cầm cậo như sắp lên cơn sốt rét và khóc lóc. Mấy ngày sau, còn phải chạy trốn cực nhục, khốn đốn hơn nữa. Nguyên soái Kutuzov của quân Nga đã phải vất vả lắm mới thoát khỏi tay quân Pháp.Tướng Weyrother bị thương nặng và chết sau trận đánh vài tháng .Vài ngày sau,nước Áo đầu hàng Napoleon. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của liên minh chống Pháp.

F. Engels đánh giá: ”Trận đánh Austerlitz được coi là một trong những chiến trường lớn nhất của Napoléon và là bằng chứng không thể bác bỏ được về thiên tài quân sự có 1 không 2 cua Napoléon,bởi vì nếu như những sai lầm của quân liên minh đã rõ ràng là nguyên nhân chủ yếu làm họ thất bại thì con mắt phát hiện ra được những lầm lẫn đó ,lòng kiên nhẫn chờ đợi cho lầm lẫn đó chín mùi để quyết tâm giáng đòn quyết định, sự mau lẹ cực kỳ như chớp nhoáng để đánh tan kẻ địch, tất cả những cái đó của Napoléon đáng cho ta hoàn toàn khâm phục và không đủ lời khen ngợi. Trận Austerlitz là một sự kỳ diệu về chiến lược mà người ta sẽ không bao giờ quên được chừng nào còn chiến tranh.”

Trận Jena-Auerstad (1806)

Ngày 14/10/1806, trận đánh Jena bắt đầu và nó đã quyết định số phận nước Phổ. Trận đánh nổ ra ngay sau khi mặt trời mọc. Nó rất ác liệt và kéo dài. Lúc đầu, quân Phổ và đồng minh Saxony đánh rất gan dạ, ngoan cường. Sau đó là vừa đánh vừa lui. Nhưng Napoleon ra lệnh cho quân Pháp từ hai cánh mở gọng kềm bao vây quân Phổ, pháo binh phối hợp chặt chẽ với bộ binh, nhanh chóng chiếm ưu thế trên chiến trường. Quân Phổ tuy rất gan lì nhưng không cơ động và cứng nhắc. Do khéo léo chỉ huy các quân đoàn tinh nhuệ của mình nên Napoleon đã thực hiện được kế hoạch của mình từng điểm một.
Ngay khi quân Phổ rút lui, kị binh của Murat nhanh chóng được tung ra truy kích. Kị binh Pháp đang hăng, chém sạch cả những kẻ xin hàng. Quân Phổ hoàn toàn bị đánh bại, chỉ có một bộ phận nhỏ là rút lui có trật tự, còn lại là bị giết chết, bị thương hoặc bị bắt ( phần này chiếm số đông nhất ).
Cùng ngày hôm đó, quân đoàn của Davout đã đánh tan đạo quân của nguyên soái Brunswick ở Auerstad. Trận đánh đó, quân Pháp mất chừng 7000 quân và quân Phổ mất khoảng 13000 quân. Còn ở Jena, quân Pháp mất 5000 quân và quân Phổ tổn thất 25000 quân. Như vậy, chỉ trong một ngày, toàn bộ quân chủ lực Phổ đã bị tiêu diệt.
Ngày 27/10/1806, 19 ngày sau khi chiến tranh bùng nổ và 13 ngày sau trận Jena và Auerstad, Napoleon ca khúc khải hoàn tiến vào Berlin giữa tiếng nhạc chào mừng.

Trận Eylau (1807)

Ngày 8/2/1807, ở gần Eylau, quân Pháp và Nga đã đánh nhau một trận dữ dội. Khi trận đánh nổ ra, quân Nga điều ra trận một lực lượng pháo binh đông gấp đôi quân Pháp và các thống chế Pháp còn chưa có đủ ở trận địa. Thống chế Davout dẫn quân đoàn của mình xông thẳng vào đội hình quân Nga, chém giết dữ dội. Tướng Augereau dẫn một đạo quân Pháp cũng tiến đánh ở tuyến giữa khiến quân Nga phải rút lui.

Nhưng ngay sau đó, pháo binh Nga đã chống trả dữ dội và diệt gần hết lực lượng của Augereau. Chính bản thân của Napoleon cùng với bộ binh ở giữa trận địa cũng suýt chết vì đạn pháo rơi như mưa ở quanh ông. Napoleon biết chỉ có sự có mặt của hoàng đế mới giữ vững tinh thần cho binh lính trong tình thế này khủng khiếp này. Lúc đó, đoàn kị binh cossack đang phản công với khí thế như triều dâng. Họ đã đánh tan tuyến phòng thủ của quân Pháp và áp sát sở chỉ huy mặt trận của Napoleon.
Đúng lúc đó, Napoleon nở một nụ cười khó hiểu trên khuôn mặt sạm đen vì khói thuốc súng. Khi quân Nga đã đến gần, ông ra lệnh cho đội cận vệ hoàng gia Pháp lao vào cuộc chiến này. Đó là lực lượng ưu tú nhất trong quân đội Pháp. Hai bên Pháp-Nga lao vào nhau và chém giết dữ dội. Rốt cuộc, quân Pháp vẫn giữ vững trận địa và trung tâm trận đánh chia thành nhiều điểm trên chiến trường rộng mênh mông.
Trận đánh đó, cả hai bên Pháp và Nga đều tổn thất nặng nề. Napoleon từ trận địa trở về, nói:
-Trong cuộc đời binh nghiệp của tôi, để cho kẻ thù cùng đứng ngồi ngang hàng, cùng chia hưởng vinh quang, đây là lần đầu tiên, nhưng sẽ không có lần thứ hai.

Trận Friedland (1807)

Trận đánh Friedland diễn ra vào ngày 14/6/1807.

Vào lúc 3 giờ sáng, thống chế Lannes nhận thấy quân Nga đã tiến vào thành phố nhỏ Friedland từ hôm trước và đang chuẩn bị vượt hữu ngạn sông Alle. Lập tức Lannes hạ lệnh nổ súng. Cùng lúc đó, viên thống chế này cũng phái các sĩ quan tùy tùng đến báo cáo với Napoleon. Lập tức, Napoleon chỉ thị cho tất cả các lực lượng cấp tốc hành quân ra chiến trường và đích thânNapoleon cũng ra chiến trường. Sa hoàng Nga Alexandre do muốn thắng nhanh nên hối thúc tổng tư lệnh Benningsen xua quân tấn công một cách vội vã. Napoleon nhanh chóng nhận ra sai lầm tai hại của đối phương. Vì quá vội nên quân Nga đã ùn tắc thành một khối lớn ở khuỷu sông Alle. Không do dự, Napoleon liền cho phá hỏng chiếc cầu nhỏ bắc qua sông, sau đó ông giao cho quân đoàn của Ney nhiệm vụ nguy hiểm là tiến công thẳng vào quân chủ lực đối phương. Quân Nga đã chống lại rất ngoan cường và đã tiêu diệt hoàn toàn một phần quân đoàn của Ney. Sai lầm của Bennigsen đã dẫn đến thất bại hoàn toàn. Quân Nga phải nhảy xuống sông để tránh bị tiêu diệt và hàng ngàn lính Nga đã chết đuối. Chỉ có một số nhỏ chạy trốn được. Quân Pháp chiến thắng, thu được vô số pháo của đối phương.
Trong trận đánh này, quân Nga mất hơn 20000 quân và quân Pháp mất không quá 8000. Thảm bại ở Friedland đã buộc Sa hoàng Nga Alexandre kí vào hòa ước Tilsit, một hòa ước rất nhục nhã.

Trận Essling-Aspern (1809)

Trận Essling-Aspern là 1 thất bại của quân Pháp. Lúc này quân Pháp định vượt sông Danube từ đảo Lobau bằng cầu giã chiến. Nhưng khi đang vượt sông thì bị quân Áo phản công. Chỉ có 2 binh đoàn đã vượt sông : binh đoàn của Massena và của Lannes. Thế là 24 000 ngưòi của 2 binh đoàn này bị 95 000 quân Áo ép vào bờ sông trong khi binh đoàn Davout không qua sông tiếp trợ được do nước lũ làm hỏng cầu. Cuối cùng Napoleon phải hạ lệnh rút lui sau khi quân Pháp mất khoảng 20 000 người.

Thống chế Lannes cũng bị 1 viên đạn đại bác bắn đứt 1 chân. Nhưng chỉ bị thương, hơn 10 ngày sau mới chết do bị nhiễm trùng máu…
Hơn 1 tháng sau Napoleon thắng lớn quân Áo ở Wagram cách đấy không xa bắt nước Áo phải ký hoà ước. Thất bại Essling được xí xoá, nhưng thống chế Lannes thì không thể thay thế được.

Trận Wagram (1809)

Sau thất bại ở Aspern-Essling, cả Châu Âu đã phấn khởi reo mừng. Nước Áo mở tiệc ăn mừng chiến thắng, giáo hoàng Pius VII đã nhận xét rằng thảm bại Aspern-Essling là sự trừng phạt của Chúa trời dành cho kẻ tham lam, bạo ngược và xúc phạm giáo hội.

Napoleon đã rất tức giận khi nghe những điều này. Ông ra lệnh cho quân đội Pháp chiếm đóng Roma, trụ sở cuả giáo hoàng, cho bắt giáo hoàng và tịch thu sạch đất đai của Tòa Thánh đã được thừa hưởng suốt 1500 năm. Sau khi giải quyết xong chuyện giáo hoàng, Napoleon chuẩn bị nốt những việc còn lại để chuẩn bị cho chiến dịch sắp tới.
Ngày 5/7/1809, Napoleon cho binh lính vượt sông Danube, chiến dịch mới bắt đầu. Cuộc vượt sông diễn ra theo trật tự hoàn hảo. Trận đánh ngày 5/7 đã diễn ra không đúng như thời gian và địa điểm dự kiến của đại công tước Charles, tổng tư lệnh quân Áo. Không bao giờ hành động như kẻ địch dự tính, Napoleon lấy đó làm nguyên tắc. Trong trận đánh này quân Pháp có 550 cỗ pháo và quân Áo có 500 khẩu. Trận đánh kéo dài đến tận đêm, đó là giai đoạn ác liệt nhất. Napoleon ở giữa trận đánh với các thống chế như Davout, Massena…Thật hiếm thấy trận đánh nào, kể từ trận Austerlitz, mà các thống chế của Napoleon lại hành động chính xác như trận này. Sau một đợt pháo khủng khiếp, quân đoàn của McDonald ( vừa thay thống chế Lannes ) gồm 26 tiểu đoàn đã dàn thành một hình vuông mỗi bề 1000 mét, đã phá vỡ trung tâm của quân Áo với tổn thất không nhỏ. Nhưng các đội dự bị đã kịp thời bổ sung lực lượng. Xa hơn nữa, ở hướng Bắc, Davout đã nhận được lệnh của hoàng đế, lấy làng Wagram nằm ở các điểm cao làm mục tiêu. Và viên thống chế này đã chiếm được bằng một trận cường tập, và thế là quyết định sự thất bại của quân Áo. Quân Áo mặc dù bị đánh bật khỏi các điểm cao nhưng vẫn rút lui trật tự, chỉ có một vài bộ phận là rối loạn.
Thảm bại này khủng khiếp không kém gì thảm bại ở Austerlitz. Trong hai ngày 5/7 và 6/7, quân Áo tổn thất lên đến 36000 ngưới. Quân Pháp mất chừng 30000 quân. Mặc dù phải trả giá đắt nhưng Napoleon vẫn rất hài lòng. Một thời gian sau, quân Áo và Pháp kí hiệp định đình chiến. Nưóc Áo bại trận phải bồi thường chiến phí rất lớn và mất gần hết đất đai. Chiến dịch năm 1809 kết thúc.

Trận Borodino (1812)

Vào những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, bằng các cuộc hành binh liên tiếp của mình, Napoléon đã tạo dựng được những chiến thắng vang dội làm cho các nước châu Âu phải hoảng sợ. Năm 1812 Napoléon quyết định tiến công nước Nga.
Chiếm được nước Nga cũng có nghĩa là là Napoléon sẽ làm chủ được toàn bộ châu Âu. Vì vậy trong cuộc viễn chinh này Napoléon đã chuẩn bị một đội quân lớn nhất thời bấy giờ gồm 60.8 vạn quân, 1372 khẩu pháo… Với lực lượng đó. Napoléon giữ lại 16.5 vạn quân làm lực lượng dự bị triển khai từ sông Ôđe đến sông Enbơ. Lực lượng còn lại với 44.3 vạn quân, ông ta triển khai trên một tuyến dài 300 km và chuẩn bị vượt biên giới Nga.
Ngày 24-6-1812, Napoléon cho quân Pháp vượt sông Nêman bất ngờ mở đầu cuộc tiến công đánh chiếm nước Nga. Ngày 28-6-1812, chiếm Vinnô và đầu Tháng 8 chiếm Smôlenxcơ. Quân Nga dưới quyền chỉ huy của tướng Bagratiôn bà Bakkai đã chiến đấu một cách dũng cảm nhưng do so sánh lực lượng quá chênh lệch nên buộc phải rút lui từng bước.

Trận Smolenxcơ

Việc mất Smôlenxcơ đã dấy lên làn sóng bất bình của nhân dân Nga. Dưới áp lực của quần chúng nhân dân, nhất là tầng lớp qúy tộc Aleksanđr Đệ nhất buộc phải cử tướng Kutuzốv làm Tổng tư lệnh quân đội. Ngày 29 Tháng 8 năm 1812, Kutuzốv nhận chức Tổng tư lệnh. Tình hình nước Nga lúc đó hết sức khó khăn. Quân Pháp với lực lượng lớn áp đảo đã tiến đến gần Moskva, chỉ còn cách 180 km mà ở đó Napoléon dự định sẽ kết thúc chiến tranh. Ý định của Napoléon là phải tiêu diệt được lực lượng chủ yếu của quân Nga trong một trận quyết chiến chiến lược. Biết được ý đồ ấy, Kutuzốv quyết định cho quân Nga tiếp tục rút sâu vào vùng trung tâm đất nước. Nhưng cuộc rút lui lần này khác với những cuộc rút lui trước đấy. Kutuzốv thực hiện chính sách vườn không nhà trống, vừa rút lui vừa tổ chức ngăn chặn tiêu hao lực lượng quân Pháp; buộc quân Pháp phải tiến quân trong điều kiện căng thẳng và bị tổn thất. Kutuzốv một mặt tăng cường bổ sung lực lượng hậu vệ, một mặt cho chiếm lĩnh những địa hình có lợi và tổ chức các trận phục kích, tiến công nhỏ nhằm làm tiêu hao quân Pháp, phá vỡ kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của dối phương. Bên cạnh đó Kutuzốv cho tập đoàn quân 3, tập đoàn quân Danube và các tập đoàn độc lập khác đang bảo vệ hướng Peterburg, tiến hành các hoạt động tác chiến tích cực ở sâu trong hậu phương quân Pháp. Ngoài ra, Kutuzốv còn tổ chức một số đơn vị bảo vệ các trục đường giao thông lớn. Đặc biệt ông còn xây dựng một lực lượng dự bị mạnh. Với các biện pháp trên, Kutuzốv đều nhằm một mục đích cuối cùng là cải thiện tình hình bất lợi, tạo điều kiện thuận lợi nhất để quân Nga có thể chuyển sang phản công.
Đầu Tháng 9, tình hình chiến tranh đã có những chuyển biến mau lẹ. Napoléon không những không thực hiện được ý đồ giao chiến trực tiếp với lực lượng chủ yếu của quân Nga mà còn bị tiêu hao một cách đáng kể. Việc vận chuyển hậu cần của quân Pháp gặp khó khăn do phải di chuyển liên tục. Lúc đó, lực lượng trực tiếp tiến công của Napoléon chỉ có 13 vạn quân với 587 khẩu pháo, còn Kutuzốv đã tập trung được một lực lượng gồm 11.5 vạn quân và 640 khẩu pháo. Xét tương quan lực lượng giữa 2 bên gần như tương đương. Chính trong điều kiện đó, Kutuzốv đã quyết định tiến hành trận quyết chiến chiến lược.

Kutuzov và các tướng Nga trong trận Borodino

Kutuzốv chọn một khu vực địa hình kéo dài trên chính diện rộng 8 km tại khu vực thôn Bôrôđinô để tiến hành trận quyết chiến chiến lược. Đây là khu vực có địa hình phức tạp, thuận lợi cho việc bố trí hỏa lực của quân Nga. Bên phải trận địa giáp vùng rừng rậm khó vượt qua phía Tây Nam thôn Utisa. Tại chính diện cánh phải trận địa có sông Klotska với vùng đầm lầy án ngữ đường tiến công của quân Pháp. Để tăng cường cho đội hình chiến đấu, Kutuzốv cho xây dựng nhiều công sự với các ổ đề kháng vươn ra phía trước. Toàn bộ khu vực trận địa, được quân Nga bố trí theo hai dải, dải một có các quân đoàn bộ binh và dải hai có các quân đoàn kỵ binh. Các quân đoàn bộ binh cũng được bố trí thành từng khối tiểu đoàn trên hai tuyến. Trước trận địa, Kutuzốv còn bố trí các đội thiện xạ chính diện để bảo vệ đội hình. Tại trung tâm trận địa về phía sau, Kutuzốv thành lập các đội dự bị bao gồm quân đoàn kỵ binh của Uvarốv và đội quân Kazak Platốv cùng đội dự bị chung là quân đoàn bộ binh cận vệ số 5. Ngoài ra còn có đội dự bị pháo binh cũng ở phía sau đội hình.
Về phía quân Pháp, Napoléon quyết định mở cuộc tiến công chủ yếu vào trung tâm và cánh trái đội hình quân Nga nhằm bao vây dồn quân Nga về phía sông Moskva để tiêu diệt. Napoléon còn tổ chức 2 hướng đột kích vào cạnh sườn trận địa nằm lôi kéo lực lượng chủ yếu quân Nga từ trung tâm trận địa vào cuộc chiến.

5 giờ sáng ngay 7-9-1812, quân Pháp bắt đầu tiến công. Lúc đầu do có lực lượng ưu thế nên quân Pháp đã chiếm được thôn Bôrôđinô nhưng không phát triển tiếp theo được do quân Nga đánh trả dữ dội. Nhìn chung các cuộc đột kích đầu tiên của quân Pháp nhằm lôi kéo quân Nga di chuyển đội hình về hai cạnh sườn đều không đạt kết quả.

Đến 6 giờ, quân Pháp chuyển sang tiến công trận địa phòng ngự quân Nga ở thôn Semenovski nhưng cũng bị đẩy lùi. Ngay sau đó, Napoléon tập trung 8 sư đoàn bộ binh, 3 quân đoàn kị binh và 120 pháo mở cuộc đột kích lần thứ hai. Quân Pháp lúc đầu chiếm được phía Nam khu vực phòng ngự do tướng Bagratiôn chỉ huy, nhưng sau đó quân Nga phản kích chiếm lại. 8 giờ, quân Pháp mở cuộc công kích lần thứ 3, nhưng lại bị thất bại. Trong khi đó 2 sư đoàn kỵ binh Pháp tiến công trận địa pháo do Raévski chỉ huy cũng không đạt kết quả. Như vậy, cả 3 cuộc công kích của quân Pháp vào khu vực chủ yếu trận địa của quân Nga đã thất bại.

Ở cánh trái trận địa quân Nga, một quân đoàn Pháp sau 3 giờ công kích liên tục đã chiếm được thôn Utisa. Thắng lợi ở Utisa đã củng cố quyết tâm của Napoléon. Ông tiếp tục mở 4 cuộc công kích vào trận địa pháo của Raévski và khu vực phòng ngự ở Semenovski. Cuộc chiến tại đây diễn ra rất quyết liệt. Quân Pháp và Nga giành giật nhau các khu vực trận địa. Trong đợt công kích lần thứ 6, Napoléon tập trung trên một đoạn hẹp rộng 1.5 km tới 100 khẩu pháo, và 4.5 vạn quân. Quân Nga có khoảng 1.5 vạn quân và 200 khẩu pháo đã kháng cự lại một cách rất quyết liệt. Trong lần công kích này của quân Pháp, Bagratiôn đã hy sinh nhưng tinh thần dũng cảm và ý chí của ông đã thôi thúc những người lính Nga tiếp tục chiến đấu. Lệnh của Kutuzốv “giữ vững trận địa đến người cuối cùng” đã được thông báo cho toàn bộ các đơn vị quân Nga. Tuy nhiên, do lực lượng quân Pháp chiếm ưu thế nên Kutuzốv quyết định cho quân rút lui theo khe núi ở thôn Semenovski để củng cố lực lượng.

Cái chết của tướng Bagration

Sau khi chiếm được một số khu vực phòng ngự, quân Pháp tập trung lực lượng mở đợt tiến công và chiếm được khu vực phía Tây thôn Semenovski. Tại đây, trận địa pháo của Raevski đã ở trước mặt quân Pháp. Napoléon tung hầu hết lực lượng dự bị và đội cận vệ của mình vào chiến đấu. Trước tình thế nguy hiểm đó, Kutuzốv lệnh cho kỵ binh Nga tiến công đánh vào cánh trái quân Pháp, đồng thời sử dụng đội kỵ binh Kazak tiến công đoàn xe vận tải của đối phương. Kỵ binh Nga đã chọc thủng được đội hình quân Pháp buộc Napoléon phải điều lực lượng về cánh trái để duy trì cuộc tiến công vào trận địa pháo của Raevski. Chớp thời cơ, Kutuzốv tăng cường lực lượng ở trung tâm và cánh trái bằng cách điều lực lượng dự bị và lực lượng từ cánh phải dồn lại.

Đến 14 giờ, Napoléon tiếp tục cho lực lượng tiến công trận địa pháo quân Nga và đưa đội dự bị cuối cùng vào chiến đấu. Mặc dù bị thiệt hại nặng nề, nhưng đến 15 giờ 30 phút, quân Pháp đã chiếm được trận địa. Song việc chiếm trận địa pháo của Raevski không có ý nghĩa. Lúc đó, quân Nga đã bỏ khu vực phòng ngự ở cánh trái và trung tâm lên chiếm lĩnh trận địa mới cách đó từ 1 đến 1.5 km. Như vậy, quân Nga mặc dù bị mất một số khu vực nhưng vẫn giữ được vững đội hình chiến đấu. Trong khi đó quân Pháp sau nhiều lần công kích, lực lượng bị tiêu hao quá lớn buộc Napoléon phải ngừng công kích, ra lệnh cho quân Pháp rút về vị trí xuất phát tiến công. Đó cũng là biểu hiện sự bế tắc của Napoléon trong trận này.
Trong trận này, quân Pháp bị thương vong 3.2 vạn người. Phía quân Nga chết và thương vong 4.3 vạn.Nếu tính trung bình mỗi giờ có 8.500 binh sĩ của cả hai bên phải bỏ mạng tại chiến trường, một trung đội trong một phút. Có những đơn vị mất gần 80% quân số.Đây được coi là trận đánh lớn thứ 3 và đẫm máu nhất trong các cuộc chiến tranh của hoàng đế Napoleon I. Ý định của Napoleon nhằm tiêu diệt hoàn toàn quân Nga trong trận quyết chiến chiến lược không đạt được.

Trận Bôrôđinô cho thấy nghệ thuật chỉ huy tài giỏi của vị thống soái Nga Kutuzốv. Trước hết, phải thấy rằng việc lựa chọn thời cơ và lựa chọn địa điểm tiến hành trận quyết chiến chiến lược của Kutuzốv là khá chính xác. Kutuzốv quyết định tiến hành trận quyết chiến chiến lược đầu tiên khi mà tương quan lực lượng hai bên đã cân bằng. Việc lựa chọn địa hình trận quyết chiến đã buộc quân Pháp phải tiếng công trên một khu vực phức tạp và về phía quân Nga, việc tổ chức phòng ngự và phản công hoàn toàn thuận lợi, Việc xây dựng đội hình chiến đấu có chiều sâu và luôn được giữ vững trong suốt quá trình trận đánh đã tạo điều kiện cho quân Nga phát huy được sức mạnh của bộ binh và pháo binh, hạn chế được sức mạnh đột kích của quân Pháp. Chính vì thế, kỵ binh Pháp đã bị thiệt hại nặng nề trong trận đánh. Với các cứ điểm pháo binh xen kẽ trên trận địa cùng việc tổ chức đội dự bị pháo binh lớn được Kutuzốv đặc biệt chú ý đã giúp cho sự đề kháng mạnh của đội hình chiến đấu quân Nga.

Đến 18 giờ, sau khi tổ chức củng cố lại trận địa, Kutuzốv vẫn động viên quân Nga sẵn sàng đánh bại các cuộc tiến công của quân Pháp đồng thời chuẩn bị cho cuộc tiến công quân địch vào sáng hôm sau. Về phía quân Nga cũng bị tổn thất lớn qua các đợt công kích liên tục của quân Pháp khiến Kutuzốv phải suy nghĩ. Ông cho rằng dù đã đánh bại các cuộc công kích của quân Pháp, song cho đến thời điểm này, lực lượng chủ yếu của quân Nga vẫn cần phải được bảo toàn, chờ thời cơ dành chiến thắng quyết định. Bằng sự cân nhắc trận trọng đó, Kutuzốv quyết định cho quân Nga rut khỏi Borodino.
Quyết định không ở lại Bôrôđinô và tiếp tục rút lui để bảo toàn lực lượng đã buộc Napoléon phải kéo dài cuộc hành binh. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân Nga chuyển sang thế phản công có tính chất quyết định. Đó là quan điểm chiến lược đúng đắn nhất của Kutuzốv. Nếu như Napoléon cho việc kết thúc chiến tranh chỉ bằng một cuộc quyết chiến chiến lược thì ngược lại, Kutuzốv cho rằng phải tiến hành nhiều cuộc quyết chiến chiến lược; trận trước tạo điều kiện cho trận sau và tất cả dành cho trận thắng cuối cùng. Trận đánh ở Bôrôđinô đã báo hiệu sự thất bại hoàn toàn của đội quân xâm lược Pháp và mở đầu cho thắng lợi cuối cùng của quân Nga.
Tổng hợp Tâm Nghĩa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét