Thứ Hai, 23 tháng 11, 2015
ĐÃ TỪNG HIỆN THỰC 21
NHÌN LẠI MỘT THỜI
(...)
Việc
Groves quyết định bổ nhiệm Oppi vào vị trí giám đốc trung tâm thí
nghiệm Los Alamos, lúc đầu đã bị nhiều chỉ trích. Ông này nhớ lại:
“Người ta trách móc tôi rằng chỉ có người được giải Nôben, hoặc ít ra
cũng phải là người khá đứng tuổi mới có thể đứng ở vị trí như thế được.
Nhưng tôi đã chọn Oppenheimer, và thành công của ông đã chứng tỏ rằng
tôi đã đúng. Không ai có thể làm nổi cái mà ông đã làm”.
Sau
một thời gian ngắn, trên con đường đời định mệnh của mình, “cha đẻ bom
nguyên tử” đã leo lên đỉnh cao của danh vọng và quyền lực. Nhưng ít ai
biết, để đạt được như vậy, Oppi đã phải tự làm vẩn đục tâm hồn mình
trước thói nghi kỵ và chống Cộng của cơ quan phản gián Mỹ. Lời nhận xét
của một nhân viên tình báo Mỹ tên là Peer de Silva vào tháng 9-1943 cho
thấy ông bị bắt thóp: “Có thể cho rằng Oppenheimer quan tâm sâu sắc đến
việc trở thành nhà bác học nổi tiếng thế giới, và chiếm lĩnh được vị trí
của mình trong lịch sử do đã thực hiện được đề án. Cũng có khả năng Bộ
chiến tranh có thể cho phép ông thực hiện điều đó nhưng cũng có thể
thanh toán tên tuổi, danh tiếng và sự nghiệp của ông nếu thấy cần làm
thế. Nếu cho ông ta nhận thức được triển vọng đó một cách đủ rõ ràng, nó
sẽ bắt ông phải nhìn bằng một con mắt khác quan hệ của ông với Bộ chiến
tranh”.
Các
nhà bác học cao siêu cũng chẳng thoát được vòng thèm khát danh lợi! Sự
tán tận lương tâm không phải chỉ có ở những kẻ thấp hèn!
Vào
mùa thu năm 1943, Bộ chỉ huy tối cao quân lực Mỹ đã thành lập một cơ
quan đặc biệt với mật danh là “Alsos”, theo chân lực lượng đổ bộ vào
châu Âu với nhiệm vụ thu lượm tin tức và chứng cứ về thực trạng nghiên
cứu vũ khí nguyên tử của nước Đức Quốc Xã. Trong đó có nhà vật lý học
thực nghiệm nổi tiếng người Đan Mạch, người đã từng thực hiện được một
trong những khám phá quan trọng bậc nhất của vật lý học hiện đại: hiện
tượng tồn tại Spin ở điện tử. Ông tên là Goudsmit được các đồng nghiệp
gọi thân mật là “chú Sam”. Sau một thời gian nghiên cứu các tài liệu
tịch thu được và hỏi cung các nhân chứng, Goudsmit đi đến kết luận: “…
tôi cho rằng đề án của Đức không đáng để cho thậm chí chỉ một người lính
của chúng ta bị trẹo khớp mắt cá chân”.
Không
lâu sau đó, trong khi dạo chơi với một thiếu tá Mỹ, Goudsmit có nói:
“Bọn Đức không có bom nguyên tử, thế có tuyệt không chứ? Bây giờ có thể
không cần dùng đến bom nguyên tử của ta nữa”. Ông đã phải kinh ngạc
trước câu đáp của viên thiếu tá: “Ông Sam, tất nhiên ông hiểu được rằng
nếu chúng ta có vũ khí đó, thì chúng ta phải sử dụng nó”.
Goudsmit đâu biết nổi đó là một lời tiên tri!
Những
báo cáo của “Alsos” về việc Đức Quốc Xã không có vũ khí nguyên tử, hơn
nữa trình độ nghiên cứu vũ khí nguyên tử của Đức lạc hậu hơn 2 năm so
với Đồng Minh, dù là bảo mật, vẫn lan truyền trong các phòng thí nghiệm
Đồng Minh và được bàn luận sôi nổi ở đó.
Nhưng
rồi phát xít Ý và phát xít Đức đều lần lượt bị tiêu diệt. Chỉ còn lại
phát xít Nhật mà người ta biết chính xác không có khả năng chế tạo vũ
khí nguyên tử.
Vậy
thì biện hộ thế nào nếu vẫn tiếp tục nghiên cứu chế tạo vũ khí nguyên
tử? Người ta đã tìm ra động cơ để xúc tiến, đại khái là thế này: “Nếu
như chúng ta không làm ra loại vũ khí này, và không chỉ ra cho thế giới
thấy được tính năng khủng khiếp của nó, dù chỉ bằng những cuộc thí
nghiệm công khai thôi, thì sớm muộn gì một cường quốc thiếu thận trọng
nào đó sẽ lẳng lặng sản xuất ra nó trong điều kiện hoàn toàn bí mật. Vì
sự nghiệp hòa bình trên thế giới thì tốt hơn hết, nhân loại ít nhất phải
biết rõ mình đang đứng ở đâu”. Đó cũng là nội dung lời phát biểu của
Niels Bohr trong một cuộc bàn bạc mật. Và ông cũng nói tiếp một cách
ngây thơ: “Nhân loại cần đến nguồn năng lượng mới mà chúng ta đã phát
minh và nghiên cứu. Chúng ta phải chăm lo sao cho trong tương lai, nó
được sử dụng nhằm mục đích hòa bình, chứ không phải là phá hoại”.
Tuy
nhiên, một số nhà vật lý nguyên tử đã bắt đầu cảm thấy được tầm nghiêm
trọng của vấn đề. Bohr là người đã trực tiếp lần lượt gặp tổng thống
Rudơven (Roosevelt) của Mỹ và thủ tướng Sơớcsin (Churchill) để bàn luận
vấn đề này nhưng hình như chẳng đạt kết quả gì. Người ta kể lại rằng
Sơớcsin đã bất chợt đứng lên cắt đứt cuộc tiếp kiến, quay sang cố vấn
khoa học của ông ta, huân tước Charwell, lắc đầu hỏi: “Thế ông ta nói
cái gì đó? Nói về chính trị hay về vật lý?”.
Về
phần mình, tướng Groves không mảy may nghi ngờ việc phải sử dụng bom
nguyên tử trong cuộc chiến tranh này. Đầu năm 1945, khi đã tin chắc rằng
trong vòng vài tháng nữa sẽ chế tạo xong bom, thủ trưởng của Đề án
Manhattan đã báo cáo lên người chỉ huy trực tiếp ông là tướng George
Marshall, trưởng ban tham mưu. Groves phát biểu rằng đã đến lúc cần xây
dựng chi tiết kế hoạch sử dụng bom trong chiến tranh và cần giao cho một
số sĩ quan cao cấp nghiên cứu sơ bộ vấn đề này. Bởi động cơ đó cho nên
kể cả sau khi phát xít Đức đã đầu hàng, Groves vẫn tiếp tục hối thúc các
đồng sự một cách thường xuyên: “Chúng ta không được bỏ phí một ngày nào
cả”.
Mùa
xuân năm 1945, nhóm khảo sát, chọn mục tiêu cho lần đầu sử dụng bom
nguyên tử của Đề án Manhattan (mà đa số là các nhà bác học, trong đó có
cả Oppi) đã đi đến kết luận trong một bản báo cáo đánh máy, đại ý là:
-
Theo tính toán thì bom nguyên tử sẽ gây ra sự phá hoại lớn nhất cho đợt
sóng xung kích ban đầu lan rộng trong một diện tích có bán kính đến 1,5
km, và sự phá hoại tiếp sau là do tác dụng của lửa. Do đó đối tượng
được chọn phải là một khu vực có kích thước ít ra cũng bằng khoảng chừng
như vậy mà trên đó có dày đặc các công trình kiến trúc bê tông cốt sắt
và trước đó chưa bị oanh tạc để thấy được rõ rệt hiệu quả tàn phá của
chỉ một quả bom thôi.
- Đối tượng được chọn phải mang ý nghĩa quân sự ở tầm chiến lược.
(...)
Szillard
(có nghĩa là cứng, rắn), nhân vật mà trước kia đã nỗ lực và có sáng
kiến “hay ho” sớm làm cho việc nghiên cứu chế tạo vũ khí nguyên tử nhanh
chóng được triển khai, lúc này, lại hành động với những cố gắng cuối
cùng nhằm đảo ngược tình thế. Một thời gian sau, Szillard đã nói như một
lời tâm sự: “Vào năm 1943 và một phần năm 1944, mối lo chủ yếu của
chúng tôi là sợ rằng Đức sẽ chế tạo được bom nguyên tử trước khi chúng
ta tiến quân vào châu Âu… Năm 1945, khi chúng tôi hết lo lắng về cái mà
người Đức có thể làm đối với chúng ta thì chúng tôi lại bắt đầu lo lắng
về cái mà chính phủ Mỹ có thể làm đối với các nước khác”.
Sau
khoảng 5 năm kể từ lần xin chữ ký của Anhxtanh để thuyết phục chính phủ
Mỹ chế tạo bom nguyên tử, giờ đây Szillard lại tìm đến Anhxtanh giải
thích về tình hình thế giới đã đổi khác để đề nghị Anhxtanh thảo một bức
thư gởi tới Tổng thống Rudơven cùng với bị vong lục của Szillard. Trong
bị vong lục tỉ mỉ của Szillard, có tường trình đại ý rằng bất kỳ một ưu
thế quân sự ngắn ngủi và nhất thời nào mà bom nguyên tử có thể tạo ra
cho Mỹ đều có thể nhanh chóng bị thủ tiêu bởi một sự thua thiệt nghiêm
trọng về chính trị và quân sự tiếp theo sau. Bộ tài liệu này đã được đặt
lên bàn làm việc của Tổng thống. Tuy nhiên Rudơven chưa kịp đọc đến thì
ngày 12-4-1945, ông đã đột ngột từ trần.
(...)
Dù
sao thì một tổ chức có tên “Ủy ban lâm thời” để xem xét về vấn đề - nói
theo bản chỉ thị của Marshall - “năng lượng nguyên tử không những theo
khía cạnh chiến tranh mà cả theo khía cạnh quan hệ mới của con người với
Vũ Trụ”. Nhìn vào thành phần của Ủy ban, những nhà bác học đang lo lắng
việc bom nguyên tử sẽ được đưa ra sử dụng, đã không bớt đi được sự lo
lắng đó một chút nào. Trong ủy ban có 5 nhà hoạt động chính trị nổi
tiếng là Bộ trưởng chiến tranh Steamson, phó của ông ta là (thứ trưởng)
Harrison, đại diện riêng của tổng thống là Bearns, đại diện hải quân
Berd và người của Quốc vụ viện là Cleiton; có 3 nhà bác học đứng đầu một
cơ quan đặc biệt tiến hành những nghiên cứu có mục đích quân sự từ năm
1940: Bush, Carl. T. Compton và Conent; các chuyên gia nguyên tử đóng
vai trò như “bác học đầu ngành”: Oppenheimer, Fermi, Arthur. H. Compton.
Chính Arthur H. Compton nhớ lại rằng vấn đề được đặt ra trước nhóm bác
học này, trong đó có bản thân ông, không phải là có nên chăng sử dụng
bom nguyên tử, mà là sử dụng bom nguyên tử như thế nào. Có một người
không có tên trong danh sách các thành viên của Ủy ban, nhưng cũng gây
được những ảnh hưởng nhất định, người đó có cái tên mà chúng ta rất
quen: Lesley R. Groves. Ông này đã nói thẳng thừng: “Nếu như tôi chính
thức tham gia vào ủy ban mà thành phần là những nhân vật dân sự thì thật
là không tiện. Nhưng tôi đã có mặt trong tất cả các cuộc họp của Ủy
ban, và bao giờ tôi cũng coi nhiệm vụ của mình là phải khuyến nghị việc
sử dụng bom nguyên tử. Suy đến cùng thì vào lúc đó, nhiều thanh niên của
chúng ta hàng ngày bỏ mình trong những trận đánh với quân Nhật. Theo
chỗ tôi biết, trong số các nhà bác học lên tiếng chống lại việc sử dụng
bom nguyên tử, chẳng ai có người thân thích trên các chiến trường. Vì
vậy, họ hoàn toàn có thể cho phép mình tỏ ra độ lượng”.
Kết
quả các buổi họp của Ủy ban lâm thời đã là thắng lợi hoàn toàn đối với
Groves. Trong bản kết luận gửi lên tổng thống Truman, có những khuyến
nghị sau:
1- Phải sử dụng bom nguyên tử để chống Nhật càng sớm càng tốt.
2- Cần dùng bom nguyên tử đánh vào đối tượng quân sự thuần túy hoặc nhà máy quân sự có tầm quan trọng lớn.
3- Phải ném bom mà không cảnh báo trước.
Những
khuyến nghị đó được giữ tuyệt mật, song vẫn lọt ra ngoài, tới Chicago,
Ocridge, Los Alamos, nơi mà các nhà bác học, đặc biệt là giới trẻ, càng
ngày càng công khai đứng lên chống việc sử dụng bom nguyên tử. Trường
đại học Chicago đã lập ra một hội đồng để xem xét và bàn bạc về “những
vấn đề xã hội và chính trị có liên quan đến năng lượng nguyên tử”. Đứng
đầu hội đồng là James Franck, người được giải thưởng Nôben, nguyên là
giáo sư ở Gottingen. Ngoài Franck ra, Szillard và nhà sinh hóa học
Rabinovich đã đề xuất nhiều đề nghị nhất để đưa vào bản bị vong lục của
hội đồng. Về sau này, bản bị vong lục đó được gọi là “Bản báo cáo của
Franck”.
Ngày
11-6-1945, báo cáo của các nhà bác học Chicago được gởi tới Bộ trưởng
chiến tranh, như một điều trần nhằm khuyến cáo không nên sử dụng bom
nguyên tử đánh Nhật. Trong đó, có đoạn viết: “Như vậy, ưu thế quân sự
đạt được bằng cách dùng bom nguyên tử bất thần tấn công Nhật sẽ bị thủ
tiêu do sự mất lòng tin về sau này. Làn sóng sợ hãi và kinh tởm sẽ bao
trùm thế giới chắc hẳn sẽ phân chia dư luận xã hội trong nước”.
(...)
Uy
tín của các nhà bác học Chicago đã khiến Steamson gửi ngay bản “Báo cáo
của Franck” cho Ủy ban lâm thời. Ủy ban này nhóm họp lần thứ hai ở Los
Alamos vào ngày 16-6-1945 (nhóm họp lần thứ nhất vào ngày 31-5-1945).
Oppi kể lại: “Người ta yêu cầu chúng tôi phát biểu ý kiến về vấn đề có
nên sử dụng bom nguyên tử không. Nguyên cớ là có bản điều trần của các
nhà khoa học nổi tiếng và có uy tín, họ đã đi đến kết luận là không nên
sử dụng bom nguyên tử. Đối với tất cả chúng tôi, giá họ đừng làm như thế
thì tốt hơn. Chúng tôi không biết về tình hình quân sự của Nhật, và vì
vậy không biết được có thể bắt Nhật đầu hàng bằng những phương tiện nào
khác không. Nhưng trong tiềm thức, chúng tôi cảm thấy rằng việc sử dụng
bom nguyên tử là không thể tránh được… Dù sao thì việc sử dụng bom
nguyển tử là có thể chấm dứt chiến tranh và có ảnh hưởng đến sự ổn định
của thế giới sau chiến tranh. Chúng tôi cũng đã tuyên bố rằng việc cho
nổ một quả bom như vậy trên hoang mạc chắc gì đã gây ra được một ấn
tượng lớn”.
Thế là ước mơ ngăn chặn việc ném bom nguyên tử xuống đất Nhật đã tan biến.
Ngày
12 và 13-7-1945, những bộ phận cấu thành của cơ cấu nổ bên trong quả
bom thí nghiệm được mang ra khỏi Los Alamos theo “cổng hậu”, đưa đến khu
thử nghiệm mang tên “Miền chết” (Jornada del Muerto), ở gần làng “Tối
tăm” (Oscuro). Tại đây, giữa hoang mạc, một cơ cấu thép được dựng lên để
đặt quả bom trên đó. Vì ở đấy thường có những cơn giông mạnh nên người
ta quyết định sẽ đợi đến tận lúc cuối cùng mới đặt quả bom lên. Để kiểm
tra lại mọi điều kiện, ít lâu trước khi thử quả bom nguyên tử, người ta
đặt lên cơ cấu đó một quả bom có kích thước gần như thế nhưng bên trong
nhồi bằng chất nổ thông thường. Trong một cơn giông, sét đã đánh trúng
nó. Quả bom đã nổ với một tiếng rền vang thật đáng sợ.
Quả
bom thử nghiệm được quyết định cho nổ vào 5 giờ 30 phút. Vào 5 giờ 10
phút, người phó của Oppi là nhà vật lý nguyên tử S. C. Allison, một
trong 20 người có mặt tại trạm quan sát, bắt đầu phát tín hiệu báo giờ.
Mọi người phải nằm sấp và đeo kính bảo vệ để tránh bị mù.
Thuở
hồng hoang, khi lần đầu tiên con người nguyên thủy tự nhóm lên ngọn lửa
từ sự sáng tạo của mình, họ đã hân hoan biết chừng nào và vì nhận thức
còn thấp kém mà vô tình không thấy được mặt trái tai hại của ngọn lửa.
Đến giữa thế kỷ XX, sau một quá trình không ngừng nhận thức và sáng tạo
ngày càng cao siêu và ngày một tài tình, con người đã biết thắp nên một
ngọn lửa vĩ đại hơn nhiều: ngọn lửa nguyên tử. Điều dị thường là lần này
họ cũng hân hoan không kém dù đã thấy trước mặt trái hủy diệt khủng
khiếp của ngọn lửa nguyên tử, còn mặt phải thì chưa biết thế nào. Nền
văn minh đã làm cho sự điên rồ hết thuốc chữa rồi chăng?...
Không
một ai trông thấy những tia lửa đầu tiên của ngọn lửa nguyên tử. Tất cả
chỉ là đột ngột bừng lên một ánh sáng trắng xóa, chói lòa, phản chiếu
từ bầu trời và từ các quả đồi tới. Những người sau đó đánh liều quay đầu
lại đã nhìn thấy một quả cầu lửa sáng chói càng ngày càng lớn mãi lên.
Karson Mark, một trong những thành viên xuất sắc nhất của Ban lý thuyết
cảm giác rằng quả cầu lửa sẽ không ngừng lớn lên, cho tới khi nó choáng
hết bầu trời, dù ý thức mách bảo rằng điều đó không thể xảy ra. Vào lúc
này, mọi người đều quên mất những công việc phải làm theo dự định.
Groves viết: “Một vài người bị nỗi kích động xâm chiếm đã nhảy ra khỏi ô
tô mà quên không đeo mặt nạ. Sau 2 hay 3 giây, họ bị mù và mất đi khả
năng nhìn thấy quang cảnh mà họ đã chờ đợi suốt 3 năm”.
Nỗi
bàng hoàng trước vụ nổ mãnh liệt đã bao trùm khắp mọi người. Oppi dán
mình vào một chiếc cột chống trong căn phòng của trạm quan sát. Trong
trí nhớ của ông bỗng hiện lên một đoạn trong thiên sử thi Bhagabad Gita
của Ấn Độ cổ đại:
“Với sức mạnh bất tử và khủng khiếp
Bầu trời sẽ chói lọi trên cõi trần
Nếu như ngàn ánh Mặt trời
Đồng thời lóe lên trên đó…”
Tướng
Farell diễn tả: “Tất cả khu vực đều được chiếu rọi bằng một thứ ánh
sáng chói chang, cường độ của nó lớn gấp nhiều lần cường độ Mặt trời
giữa trưa… Ba mươi giây sau vụ nổ, cơn gió mạnh đầu tiên đập vào mọi
người và mọi vật. Kèm theo nó là tiếng gầm rú kéo dài khiến người ta
kinh hoàng nghĩ đến Ngày xử án cuối cùng. Chúng tôi tự cảm thấy mình là
sinh vật nhỏ mọn đã dám cả gan báng bổ Chúa mà động vào những sức mạnh
cho tới nay chưa từng ai động đến. Ngôn ngữ là một phương tiện quá không
hoàn chỉnh để diễn đạt tất cả những gì mà chúng tôi cảm xúc vào lúc
đó”.
Có
lẽ tướng Groves là người đầu tiên tự chủ lại được. Khi một nhà bác học
nhảy bổ đến chỗ ông, suýt nữa thì phát khóc, nói rằng vụ nổ đã tiêu hủy
hết cả dụng cụ quan sát và đo đạc của mình, thì Groves đã động viên:
“Thế là tuyệt! Nếu dụng cụ đã không đứng vững được thì nghĩa là sức nổ
khá mạnh và đó chính là cái mà chúng ta muốn biết”. Rồi ông nói với
tướng Farell: “Chiến tranh phải chấm dứt! Chỉ một hay hai của cái này là
bọn Nhật đi đời”.
Những người ở gần khu vực thử nghiệm trong phạm vi 200 km đã trông thấy một chớp sáng chói lọi khác thường trên trời.
Vài
ngày sau, tin tức về cuộc thử bom thành công đã lan tới mọi phòng thí
nghiệm của Đề án Manhattan. Một lần nữa, cuộc vận động chống sử dụng bom
nguyên tử và sử dụng nó để đánh Nhật của các nhà bác học tiến bộ Mỹ lại
nổi lên như một phong trào. Trong đó có việc Szillard cố gắng đi thu
thập chữ ký càng nhiều càng tốt của các nhân viên Đề án Manhattan để
phản đối. Song tất cả, vì nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, đã hoàn
toàn thất bại.
Ngay
từ tháng 5-1945, người Mỹ đã sống với những ấn tượng sâu sắc của những
thông báo về những trận đánh quá ư đẫm máu trên đảo Okinawa. Chỉ riêng
trên đảo này, quân Mỹ chết và bị thương nhiều hơn suốt toàn bộ chiến
dịch đánh chiếm Philippines. Tình hình đó khiến người Mỹ lo sợ rằng nếu
tiến quân vào chính nước Nhật thì số thương vong sẽ còn tăng cao đến mức
nào nữa. Một tình thế được đặt ra là hoặc thả bom nguyên tử, hoặc để
cho chiến tranh kéo dài vô hạn định.
Như
bây giờ người ta đã biết, tình thế đó được đặt ra không phải là một
phản ánh đúng thực tại mà chỉ là do ý chí của một ai đó rất muốn “xài”
bom nguyên tử. Cơ quan tình báo của bộ binh và hải quân Mỹ vào lúc đó đã
cùng tin chắc như nhau rằng sự sụp đổ của phát xít Nhật chỉ còn là vấn
đề của vài tuần lễ nữa mà thôi. Alfred Mac Cormac, chỉ huy cơ quan tình
báo Mỹ trên chiến trường Thái Bình Dương đã nhớ lại: “Chúng ta nắm vững
quyền kiểm soát trên không ở Nhật đến mức là đối với từng con tàu, chúng
ta hoàn toàn biết được nó đã rời cảng nào và vào lúc nào để đi ra biển.
Nhật đã sử dụng hết dự trữ lương thực, và dự trữ nhiên liệu trên thực
tế cũng đã cạn. Chúng ta bắt đầu một chiến dịch bí mật thả mìn xuống tất
cả các vịnh và các bến cảng của họ, điều đó tăng thêm không ngừng sự cô
lập của họ đối với thế giới bên ngoài. Nếu như chúng ta đưa chiến dịch
này đến sự hoàn tất lôgic của nó thì việc phá hủy các thành phố Nhật Bản
bằng bom cháy và các loại bom khác sẽ là hoàn toàn không cần thiết”.
Nhà
sử học Mỹ là Robert J. S. Batow, nghiên cứu những sự kiện xảy ra trước
lúc Nhật sụp đổ còn cho rằng vào lúc đó có thể chấm dứt chiến tranh một
cách nhanh chóng bằng con đường ngoại giao.
Thế
thì vì sao Mỹ vẫn cố tình ném cho được hai quả bom xuống hai thành phố
của Nhật, giết chết trong nháy mắt ngót 450 ngàn người dân vô tội, chưa
kể một số lượng người không ít chết “chậm”, từ từ, lần lượt đến mãi sau
này, thậm chí là ở thế hệ kế tiếp do bị nhiễm bức xạ và di họa để lại
của nó?
Phải
chăng một trong những nguyên nhân làm cho mặt trái của nhân tính thắng
thế áp đảo mặt phải của nó là sự lo sợ rằng nếu không thả được bom
nguyên tử xuống nước Nhật (mà lúc đó chỉ còn “chỗ đó” là thả được chứ
còn thả chỗ nào nữa?) thì toàn bộ Đề án Manhattan sau khi đã ngốn hết
gần 2 tỷ đôla bỗng trở nên “vớ vẩn” để rồi thay cho lời ca ngợi, sự vinh
quang là lời chế giễu và trách cứ?
Phải
chăng đây cũng là nguyên nhân: thói huênh hoang thường thấy ở một đế
quốc muốn biểu dương sức mạnh của mình trước thế giới, trong đó có Cộng
Sản, kẻ mà nó căm ghét từ lâu?
Hay
là đây nữa: trong hồi ký của mình, Tổng thống Truman viết rằng lời
“đồng ý” của ông đã giải quyết sự tranh cãi về việc ném bom nguyên tử.
(Nhưng sao phải hủy diệt hai thành phố Nhật để giải quyết sự tranh cãi
bằng mồm ấy?). Tướng Groves đã nhận xét: “Truman đã chẳng làm gì bao
nhiêu khi ông nói “đồng ý!”. Vào lúc đó, phải có lòng dũng cảm lớn lắm
mới nói ra chữ “không” được”. (Vì sao lại quái lạ như thế?). Trong bài
phỏng vấn đăng trên báo “Le Monde” ngày 29-4-1958, người ta hỏi Oppi:
“Trong thời gian ông là ủy viên Ủy ban đặc biệt (Ủy ban lâm thời) và có
trách nhiệm kiến nghị với Tổng thống Truman những vấn đề khoa học về
việc sử dụng bom nguyên tử ở Nhật, ông có cảm giác rằng một vài nhân vật
nắm tình hình đầy đủ có thể vì lý do chính trị đã gây tác động đến việc
ra những quyết định nào đó không?”. Ông trả lời: “Người ta đòi hỏi ở ủy
ban giám định trước hết là ý kiến về những vấn đề kỹ thuật mới. Chúng
ta đừng quên rằng chính phủ mới cần đến cái đó. Họ là những người chưa
học được cách sử dụng chính quyền và cũng chưa học được cách giải quyết
những vấn đề nguyên tử mà họ phải chịu trách nhiệm. Đa số những người
cần đến ý kiến chúng tôi lại không có thời giờ để nghiên cứu vấn đề. Mặt
khác, Tổng thống Truman và ngài Winston Churchill đã tỏ ra hoàn toàn
đồng ý rằng phải sử dụng bom nguyên tử để chấm dứt chiến tranh. Ý kiến
đó đã làm nặng đĩa cân…”.
Tuy
nhiên dù có là nguyên nhân nào đi chăng nữa thì câu hỏi cơ bản nhất,
quan trọng nhất để cho những người trong cuộc tự vấn lương tâm mình
trước một sự tàn sát đồng loại vô tội đến mức kinh hoàng như thế, vẫn
là: họ đã hành động sáng suốt hay không sáng suốt, vì hòa bình hay vì
chiến tranh, chính đáng hay không chính đáng, tội lỗi hay không tội lỗi?
Lịch
sử đã lưu lại nhiều câu trả lời chân thành, nhiều câu trả lời quanh co,
nhiều câu trả lời mập mờ, nhiều câu trả lời có vẻ như chạy tội và cũng
nhiều câu có phần trâng tráo. Hiện tượng đó có thể là do nhiều nguyên
nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân là: “cái tôi danh lợi” khó lòng
mà xử một cách công minh chính bản thân mình. Dù sao thì nguyên nhân cơ
bản, chính yếu là nguyên nhân này: trên nền tảng của đa dạng về tư tưởng
thì quan niệm thị phi (đúng - sai) cũng phân ly thành đa chiều. Và cũng
chính vì như vậy mà trong nhiều trường hợp phân trần, biện minh là có
thể thông cảm được. Nhưng cái lạnh lẽo, băng giá toát ra từ rất nhiều
tâm hồn thời đó đã làm cho chúng ta có cái cảm giác rờn rợn như đứng
trước một kẻ đồ tể xa lạ, với khuôn mặt ánh lên sự vô cảm.
Robert
Broad, một trong các nhà vật lý học Mỹ đã từng học ở Gottingen trước đó
20 năm, đã mô tả cảm xúc của mình và đồng nghiệp ở Los Alamos như sau:
“Tất nhiên, chúng tôi rất xúc động vì hiệu quả vũ khí của mình, và đặc
biệt vì bom được ném xuống không phải các mục tiêu quân sự ở Hiroshima,
mà ngay chính giữa thành phố. Nhưng nếu muốn thành thực cho đến cùng thì
tôi phải thú nhận rằng cảm giác khoan khoái ở chúng tôi thắng cảm giác
ghê sợ. Và như thế vì rằng cuối cùng thì gia đình và bạn bè của chúng
tôi ở các thành phố khác và ở các nước khác đã biết được nguyên nhân vì
sao chúng tôi đã biến mất trong mấy năm nay. Và cuối cùng bản thân chúng
tôi cũng thấy rõ được rằng đã làm việc không uổng công. Về phần mình,
tôi phải nói rằng tôi không cảm thấy mình có lỗi”.
Willy
Hidginbotten, một nhà bác học 30 tuổi, chuyên gia về điện tử học, viết
từ Los Alamos cho mẹ: “Con không hề có chút tự hào gì về những việc
bọn con đã làm được… Ý nghĩa duy nhất của nó là ở chỗ nó bắt nhân loại
phải yêu hòa bình. Bây giờ không thể nào hình dung được một cái gì khác
ngoài hòa bình. Nhưng khốn thay, bao giờ cũng có những kẻ không đắn đo
gì hết”.
Người
ta quyết định hai nhà bác học nguyên tử là Alvaretz và Agnew cùng với
chuyên gia về bom của Anh là Penny sẽ tham gia vào cuộc ném quả bom
nguyên tử thứ hai nhưng bay trên một máy bay riêng với mục đích là thám
sát. Trước khi thực hiện nhiệm vụ, Alvaretz và các bạn ông là Morrison
và Serber đang ngồi uống bia thì bỗng nảy ra một ý là trong cuộc ném
bom, họ sẽ ném xuống một bức thư gửi cho một người bạn Nhật của họ là
giáo sư Sagana, người đã cùng làm việc với họ trước chiến tranh ở Phòng
thí nghiệm phóng xạ Berkeley. Bức thư đó gồm ba bản được buộc chặt mỗi
bản vào một trong ba chiếc máy đo mà Alvaretz sẽ phải ném xuống mục tiêu
(người ta đã tìm thấy được một trong ba bức thư đó sau khi bom nguyên
tử nổ ở Nagasaki). Đây là một đoạn của nội dung bức thư: “Chúng tôi gửi
bức thư này và khẩn thiết yêu cầu ông sử dụng ảnh hưởng của mình để làm
cho Bộ trưởng tham mưu Nhật nhận thức được tất cả những hậu quả kinh
khủng sẽ đổ lên đầu nhân dân nước ông, nếu họ cứ tiếp tục chiến tranh.
Ông đã biết rằng với những chi phí cực lớn, đã có thể chế tạo được bom
nguyên tử. Bây giờ hẳn ông đã thấy rõ là chúng tôi đã xây dựng được
những nhà máy cần thiết… Ông cần hình dung rõ ràng rằng tất cả sản phẩm
của các nhà máy đó, làm việc cả 24 giờ trong một ngày, sẽ nổ tung trên
tổ quốc ông. Trong ba tuần lễ, chúng tôi đã nổ thử một quả trên một
hoang mạc Mỹ, quả thứ hai đã nổ ở Hiroshima và quả thứ ba nổ sáng hôm
nay.
Chúng
tôi khẩn khoản xin ông khẳng định những sự kiện đó với các nhà lãnh đạo
của ông, và làm mọi điều có thể để không cho sự tàn phá và chết chóc
tiếp tục diễn ra trong sự tiến triển của một cuộc chiến tranh mà kết quả
duy nhất sẽ là sự phá hủy hoàn toàn tất cả các thành phố của các ông.
Là những nhà khoa học, chúng tôi lấy làm tiếc rằng một phát minh xuất
sắc đã được sử dụng như vậy. Nhưng chúng tôi có thể đoan chắc với ông
rằng nếu nước Nhật không đầu hàng ngay, thì trận mưa bom nguyên tử này
sẽ được tăng cường”.
Giọng
điệu đó là ngây ngô hay mù quáng; là năn nỉ hay dọa nạt; là nhân từ hay
ác tâm? Nhắn nhủ cho bạn bè kiểu như thế thì thà im lặng quách đi có
hay hơn không? Vì như vậy may ra còn giữ được chút tính nhân văn, sự
liêm sỉ về sau.
Theo
quan niệm Á - Đông xưa, người được gọi là quân tử là người có tâm hồn
trong sáng, chuyên làm việc nhân nghĩa. Việc nhân nghĩa là việc có ích
cho Đại Chúng, là đứng ra bênh vực, bảo vệ Đại Chúng trước cường bạo một
cách quên thân, bất vụ danh lợi riêng tư. Vì thế người quân tử cũng là
người có hành động cao thượng và đầy lòng vị tha. Tuyên ngôn hành động
của người quân tử là:
Kiến nghĩ bất vi vô dũng dã
Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng
(Nghĩa
là: Thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là người dũng cảm; gặp
người bị nạn mà không cứu thì không xứng đáng là anh hùng).
Tuy
nhiên, trên bước đường hành động, do sự phức tạp của các hiện tượng xã
hội, do sự biểu hiện muôn màu của thị phi mà đôi khi hành động của người
quân tử trở thành phi nghĩa. Nhưng dù lỡ làm điều phi nghĩa thì cũng
rất hãn hữu giết người vô tội vì ngay cả những kẻ thù khi đã sa cơ thất
thế, người quân tử (đã sẵn lòng vị tha) cũng không nỡ giết. Khi nhận
thức ra sai lầm của mình thì người quân tử luôn thành khẩn và ăn năn sâu
sắc, thậm chí là quyên sinh để tỏ cái lòng ấy.
Tiểu
nhân là kẻ có tâm hồn và hành động trái ngược với người quân tử. Trước
một kẻ đã thế cùng lực kiệt mà vẫn cứ cố đánh, thậm chí kẻ đó đã chết
rồi vẫn còn băm vằm xác thây thì đó là hành động chỉ có ở đứa tiểu nhân.
Đã là tiểu nhân thì khó mà làm được điều nhân nghĩa một cách tự nguyện.
Vì lẽ đó mà Khổng Tử bảo: “Người quân tử có khi phạm điều bất nhân, chứ
chưa từng thấy kẻ tiểu nhân mà làm được điều nhân nghĩa”.
Phát
xít Nhật đã gây ra nhiều tội ác. Nhưng trước một phát xít Nhật đã bị cả
thế giới bao vây đến chân tường và kiệt quệ sinh lực đến mức trước sau
gì cũng phải đầu hàng Đồng Minh (và trong khi Hồng quân Liên Xô đã bắt
đầu giáng những đòn đích đáng vào đạo quân cuối cùng có ý nghĩa của nó)
thì hành động của Đế quốc Mỹ: oanh tạc bằng bom cháy hàng loạt thành phố
và hủy diệt hai thành phố của Nhật bằng bom nguyên tử, bắt chính phủ
Nhật khuất phục bằng cách tàn sát dân thường Nhật, theo quan niệm Á -
Đông nói trên, phải bị gọi là đê hèn. Trước Đức Huyền Diệu thì Đế quốc
Mỹ (chứ không phải Đại Chúng Mỹ!) đã phạm tội ác tày trời chống nhân
loại trong chiến tranh thế giới thứ hai. Dù có thể nói nhăng cuội kiểu
gì đi nữa thì hai cái nấm khổng lồ một cách dị thường mọc trên đất Nhật
cùng với ngót nửa triệu oan hồn lương thiện của giống loài người đã tố
cáo vạch trần tội ác đó với trời xanh mà từ nay cho đến tận cùng của
lịch sử loài người trong tương lai, không có bất cứ kẻ nào, thế lực nào
có thể biện hộ gỡ tội được.
Xét
cho cùng thì lãnh thổ Mỹ là bộ phận của đất đai thế giới, nhân dân Mỹ
là bộ phận, được hun đúc nên từ nhân dân thế giới, do vậy cũng là con em
của loài người. Nước Mỹ giàu có được, xét cho cùng thì cũng là nhờ nhân
loại. Vì vậy nước Mỹ muốn làm anh các nước khác thì trước hết hãy là
người quân tử đầy bao dung chứ đừng nên dọa nạt bằng vũ lực vượt trội
của mình!
(...)
Căn
cứ vào kết quả nghiên cứu nhân chủng học, khảo cổ học thì người da đỏ ở
châu Mỹ có nguồn gốc từ người tiền sử châu Á, thiên di sang từ trước
đây khoảng 25.000 năm theo ngả vượt eo biển Bêrin đến Alaska rồi từ đó
lan tỏa xuống phía nam. (Trong hoang tưởng, chúng ta cho rằng điều đó
chưa chắc đúng. Nếu qui ước khái niệm “thiên di” là sự du cư của những
quần thể còn mang tính bầy đàn thì sự xuất hiện người da đỏ ở châu Mỹ là
kết quả của một cuộc lan tỏa dân cư từ một quần thể bán định cư, thịnh
vượng nhờ phương thức kiếm sống trồng trọt - chăn nuôi mà tính quần cư -
xã hội đã trở nên nổi trội. Nếu thực sự có Địa Đàng như chúng ta suy
diễn thì cuộc lan tỏa dân cư đó phải bắt nguồn từ Đại Lục Mẫu như là một
quá trình đi khám phá thiên nhiên để khai thác tài nguyên và có tính
cao trào, cách mạng. Con người xuất hiện lần đầu tiên ở châu Mỹ, vì thế,
phải là tại đâu đó ở phần cuối của khu vực phía nam của Lục địa này.
Rất có thể người Indônêdiêng, người da đỏ châu Mỹ và cả ngươi da đỏ châu
Úc đều có chung một thủy tổ gần. Lúc đó chắc là cự ly giữa bờ biển đối
diện của hai đại lục có thể “dễ dàng” vượt qua bằng thuyền. Đảo Phục
Sinh có thể đã từng là “ngọn hải đăng” thiên nhiên của một thời kỳ
thuyền bè đi về “tấp nập” và kiến thức thiên văn - hàng hải của loài
người cũng có thể xuất phát từ đây. Phải chăng những hiểu biết thiên văn
của “thời đại Mặt Trời” ấy
còn lưu dấu tích khắp Nam Mỹ cho đến tận ngày nay? Nếu đúng thế thì trí
tuệ loài người lúc đó đã đạt đến cao siêu, dù vẫn là “đồ đá”. Sự phân
tầng học thức trong xã hội là một hiện thực. Không cần thiết mà cũng
không thể là mọi người trong xã hội đều đạt được đến trình độ học thức
siêu việt một cách toàn diện. Cuộc mưu sinh không đòi hỏi phải như thế
mà chỉ cần một bộ phận làm “đầu lĩnh” đóng vai trò “kim chỉ nam” cho
hoạt động xã hội là đủ. Nhất là thời kỳ chưa xuất hiện chữ viết hoặc
xuất hiện sơ khai dưới dạng dây thắt nút thì hiện tượng phân tầng học
thức ấy biểu hiện ra càng rõ rệt. Những người có học vấn cao nhất sẽ
được qui tụ về thành một trung tâm trí tuệ của “xã hội Địa Đàng” đóng ở
trong một khu vực mà chúng ta tạm gọi là “thủ đô Mặt Trời” nằm ở vị trí
cũng được gọi là “trung tâm” của Đại Lục Mẫu. Cuộc lan tỏa dân cư đang ở
thời kỳ “rầm rộ” nhất của nó thì, đùng một cái, “tai biến thiên nhiên
vĩ đại” đã đột ngột chấm dứt tất cả. Cái bộ phận chủ yếu của “trí tuệ xã
hội Địa Đàng” bỗng chốc mất đi đến độ không thể hồi phục được, đã đem
theo biết bao nhiêu “bí quyết khoa học” gặt hái và tích lũy được trước
đó của loài người. Chúng ta thử tưởng tượng rằng trong thời đại hiện
nay, bỗng dưng vào một “ngày đẹp trời” nào đó, tất cả các sách vở, tài
liệu lưu trữ về kiến thức khoa học tự nhiên tan biến hết, các nhà bác
học, chuyên gia kỹ thuật cũng bỏ đi chơi mất dạng không bao giờ quay về
nữa thì trí tuệ của xã hội sẽ như thế nào? Có thể là phải lùi về thế kỷ
XVIII hoặc thậm chí là sâu hơn nữa vào quá khứ!). Cho đến nay hình như
khảo cổ học chưa phát hiện được một di chỉ nào thuộc thời đại tiền đồ đá
cũ ở châu Mỹ.
Khi
nói về hiện tượng “Lục địa trôi dạt”, chúng ta quen mường tượng đến một
quá trình xảy ra từ từ và đều đặn. Nhưng chắc là không hẳn thế. Vận
động nội tại của Trái Đất không thể không mang bản chất chuyển hóa tương
phản lưỡng nghi mà biểu hiện nổi trội của nó trước quan sát của con
người là những quá trình nhiệt động vừa liên tục vừa không liên tục, vừa
đều đặn vừa không đều đặn, cũng là sự xuất hiện và mất đi của các quá
trình bộ phận vừa tất yếu vừa ngẫu nhiên. Đó chính là nguyên nhân làm
cho vỏ trái đất có kiến tạo mảng, hội tụ và phân ly, trôi dạt như những
khối bọt, xỉ trên một chảo lửa khổng lồ. Sự tồn tại và trôi dạt của các
lục địa vì thế mà cũng có tính chu kỳ, biến đổi ổn định nhưng cũng có
những lúc đột biến. Chắc chắn là sự tan chảy suy sụp đồng thời với đông
kết tạo sơn đã làm cho bề mặt Trái Đất có hình thái đại dương - lục địa.
Quá trình đó cũng làm cho tổng diện tích bề mặt lục địa và cả tốc độ
trôi dạt của các lục địa cũng tăng giảm tương đối. Phải chăng sự biến
mất của Đại Lục Mẫu do tan vỡ, bùng nổ cùng với hiện tượng tăng đột ngột
tốc độ trôi dại của các lục địa còn lại không những đã làm nên một trận
đại hồng thủy mà đồng thời là cả một trận “đại hồng hỏa” có qui mô toàn cầu và đó cũng là nguyên nhân biến mất của thời đại Địa Đàng?).
Nhiều
khả năng người tiền sử châu Á cũng theo con đường vượt qua eo biển
Bêrin để xâm nhập vào châu Mỹ từ phía bắc. Nhưng chắc sự kiện này chỉ
xảy ra vào khoảng hơn 10 ngàn năm cách nay.
Có
thể cho rằng cuộc thám hiểm phát hiện ra châu Mỹ vào thế kỷ XVI của
Crixtốp Côlôngbô đã mở đầu cho một cao trào lan tỏa dân cư lần thứ ba
của loài người đến đó. Nếu cuộc lan tỏa dân cư lần thứ nhất và thứ hai
có tính chất khai phá miền đất thiên nhiên hoang dã thì có thể nói cuộc
lan tỏa dân cư lần thứ ba nổi trội lên tính chất thực dân xâm lược.
Một
trong những nguyên nhân làm cho châu Âu trở thành khu vực đã từ lâu
xuất phát nhiều cuộc viễn chinh và có một nền khoa học kỹ thuật phát
triển đột khởi sau “đêm trường trung cổ” là nhờ tính năng động sáng tạo
của dân cư ở một vùng đất “chật chội”. Sau khi đã tiếp thu những thành
quả tri thức từ phương Đông, đến lượt họ trở thành ngọn cờ đầu của những
phát kiến khoa học - kỹ thuật, phất cao và tiến nhanh về phía trước.
Việc người châu Âu tìm thấy châu Mỹ và nhanh chóng chinh phục nó là một
tình cờ tất yếu của cái quá trình vận động xã hội ấy.
(...)
Vùng
Bắc Mỹ khi đó bị coi như vùng đất vô chủ nên các nước thực dân châu Âu
đều tìm cách xâm chiếm. Lúc đầu là Pháp rồi đến Hà Lan, Thụy Điển và Anh
đến tranh giành.
Do
có ưu thế của một nền kinh tế mạnh hơn nhờ sớm bước vào thời kỳ sản
xuất công nghiệp tập trung tư bản chủ nghĩa, sự bành trướng của nước Anh
ở Bắc Mỹ trở nên vượt trội hơn hẳn. Năm 1607, người Anh chính thức đặt
chân lên khu vực Viếcginia. Cuộc đấu tranh giành quyền lợi gay gắt trong
lòng xã hội Anh trước cuộc cách mạng tư sản nổ ra vào năm 1640; đã tạo
ra một làn sóng di cư, rộng lớn đến Bắc Mỹ mà thành phần chủ yếu là nông
dân bị mất đất làm ăn. Làn sóng đó trở nên cao trào vào những năm 20
của thế kỷ XVIII. Đến năm 1752, Anh đã thành lập được 13 vùng thuộc địa.
Năm 1754, trên đất thực dân Anh ở Bắc Mỹ đã có 1,3 triệu người. Tiếng
Anh dần thành ngôn ngữ giao tiếp phổ biến…
Vào
khoảng thế kỷ XVII - XVIII, nước Anh coi Bắc Mỹ chỉ là vùng nông nghiệp
phụ thuộc chính quốc. Đối tượng bóc lột của Anh ở đây là người da đỏ,
nô lệ da đen và những dân di cư. Nhiệm vụ hàng đầu của Bắc Mỹ là cung
cấp các loại nguyên liệu và lương thực cho nước Anh. Quí tộc tư bản Anh
muốn duy trì những tàn dư phong kiến ở Bắc Mỹ để trở thành những đại địa
chủ. Vua Anh phân phong những vùng đất mới cho quí tộc, có vùng rộng
lớn tới hàng vạn cây số vuông. Chính sách tập trung ruộng đất vào tay
quí tộc và những luật lệ ràng buộc khắt khe cũng như sự bóc lột kiểu
phong kiến và chiếm hữu nô lệ đã tạo ra mâu thuẫn ngày càng gay gắt
trong cái xã hội đang định hình ở Bắc Mỹ; dẫn đến tình trạng nông dân
nghèo di cư đến, phản kháng chống đối lại, thậm chí là khởi nghĩa vũ
trang. Những vùng đất trống ở phía tây còn nhiều làm xuất hiện phong
trào nông dân tự động đi về phía tây chiếm những vùng đất trống để khai
khẩn lập nên những nông trại, đồn điền. Năm 1763, vua Anh ra sắc lệnh
cấm khai khẩn vùng đất đai rộng lớn bên kia dãy núi Alêgơnít và lưu vực
sông Mitxixipi. Năm 1774, nhà vua ra lệnh cấm cư dân 13 bang thuộc địa
không được di cư về phía tây. Những sự kiện đó càng làm cho mâu thuẫn xã
hội trở nên gay gắt: quyền lợi của quí tộc phong kiến chính quốc đã
không thể dung hòa được với quyền lợi của Đại Chúng thuộc địa, luật lệ
phi lý của nhà vua đã đối chọi với xu thế phát triển đặc thù của kinh tế
Bắc Mỹ.
Một
đặc trưng của nền kinh tế nông nghiệp Bắc Mỹ là sự hình thành chế độ
đồn điền. Sản xuất kiểu đồn điền cần nhiều lao động làm thuê và vào
những giai đoạn đầu thì lực lượng tại chỗ lại không đủ đáp ứng. Bản chất
độc ác, tham lam của thực dân - phong kiến cùng với sự cạnh tranh gay
gắt trong quá trình tích lũy tư bản thuở ban đầu đã làm cho tầng lớp
thống trị ở các nước châu Âu “khám phá” ra một nguồn lao động vừa rẻ vừa
hết sức dồi dào, đó là dân da đen ở châu Phi. Một ngành kinh doanh
không kém phần béo bở ra đời: buôn bán nô lệ da đen. Đã có một thời thị
trường mua bán này hết sức sôi nổi, rầm rộ kéo theo “nghề” dụ dỗ, mua
chuộc, săn bắt người dân châu Phi cũng trở nên “phát đạt”. Những đồng
tiền tích lũy được, sự giàu có từ ngành nghề này đã thấm đẫm biết bao
nhiêu nỗi thống khổ, đau thương, biết bao nhiêu máu và nước mắt của đồng
loại. Như thế gọi là gì nếu không phải là tội ác?
Những
người nô lệ da đen đầu tiên đến Bắc Mỹ là bị thực dân Hà Lan chở sang
vào năm 1619. Buôn bán nô lệ có khi lãi tới 1.000%. Những người nô lệ da
đen bị khinh miệt như súc vật, phải lao động kiệt lực và nhận khẩu phần
rất ít ỏi. Họ có thể bị giết, bị đánh đập và đem bán bất cứ lúc nào nếu
chủ muốn. Hàng triệu nô lệ đã phải chết do áp bức, bóc lột. Nô lệ làm
việc ở các đồn điền không loại trừ người da trắng (gồm tù nhân, con nợ,
trẻ em bị bắt cóc bán sang thuộc địa…) nhưng chủ yếu là người da đen và
họ là những người bị đối xử tàn tệ nhất. Chế độ nô lệ đồn điền đặc biệt
phát triển ở vùng kinh tế miền Nam. Nó giữ vai trò quan trọng trong nghề
trồng bông và cả trong công nghiệp đóng tàu, công nghiệp dệt…
Có
thể nói sự giàu có của các chủ đồn điền để rồi trở thành các nhà tư sản
lớn thời kỳ đó chủ yếu là nhờ vào chế độ nô lệ, nghĩa là nhờ vào xiềng
xích chứ không phải tự do.
Lúc
đầu, 13 bang thuộc địa còn quan hệ với nhau tương đối rời rạc và đều
tuân thủ luật pháp Anh. Dù thành phần cư dân là gồm nhiều quốc tịch,
nhiều sắc tộc nhưng do số lượng người Anh chiếm áp đảo nên dần dần,
tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ giao tiếp chung. Bên cạnh đó, quá trình
vận động kinh tế - xã hội đã nảy sinh những yêu cầu làm cho 13 bang
thuộc địa ngày một gần gũi, gắn bó chặt chẽ với nhau, dân cư giao lưu
qua lại hòa hợp nhau, hình thành nên một cộng đồng dân cư ổn định, thống
nhất như một dân tộc có chung một nền văn hóa khu vực với những nét
riêng đặc thù. Một cơ thể kinh tế - xã hội tương đối độc lập với chính
quốc Anh đã hình thành ở Bắc Mỹ.
Sự
lớn mạnh về kinh tế, tiềm năng phát triển dồi dào về mọi mặt cũng như
quyền lợi bản thân của khu vực thuộc địa Bắc Mỹ đã không còn “chịu đựng
nổi” sự áp chế trái chiều của chính quốc Anh. Lúc này, quyền lợi chung
của toàn dân “bản xứ” đã đối chọi với quyền lợi có tính ăn cướp của
“ngoại bang” Anh. Cuộc chiến tranh giải phóng đòi độc lập tự do của nhân
dân Bắc Mỹ là không thể tránh khỏi.
Vào
tháng 5-1756, cuộc chiến tranh giành giật đất đai ở Bắc Mỹ giữa Anh và
Pháp, lịch sử gọi là “chiến tranh bảy năm” (1756 - 1763) bùng nổ. Pháp
thua, phải ký hòa ước. Theo đó, Canada thành đất thuộc quyền Anh. Vì
“mắc tội” ủng hộ Pháp trong chiến tranh, Tây Ban Nha cũng phải mất cho
Anh vùng đất Phlorida. Sau khi lũng đoạn được vùng Bắc Mỹ, Anh tăng
cường chế độ cai trị chuyên chế, hà khắc, tăng cường bóc lột.
Tình
hình đó đã khơi dậy phong trào đấu tranh của dân cư Bắc Mỹ với khẩu
hiệu “Tự do và tư hữu”, “Thống nhất hoàn toàn hay là chết”. Những hội
kín ra đời liên kết lực lượng và thống nhất tư tưởng, trong đó có tổ
chức “Hội những người con tự do” (Sons of Liberty) do Tômát Ghépphécsơn
(1743 - 1826), người có tư tưởng tự do, lãnh đạo.
“Những
người con tự do” lấy tư tưởng của Lôcke và của Giôn Mintơn (J. Locke;
John Milton) về quan niệm một nhà nước tư sản làm mục tiêu đấu tranh.
Tác phẩm của Lôke, “Tiểu luận về chính quyền dân sự”, xuất bản năm 1690,
đã cung cấp cho cuộc đấu tranh giành độc lập Bắc Mỹ một nội dung lý
thuyết về nhà nước tư sản. Đó chính là tư tưởng cách mạng tư sản Anh lan
sang Mỹ, được chấp nhận và áp dụng trong thực tiễn. Nó nêu lên nhiệm vụ
của nhà nước là bảo vệ tính mạng, tự do và tài sản của nhân dân. Quyền
lực chính trị là của dân và dân ủy thác quyền lực đó cho chính phủ.
Chính phủ chỉ là đại diện của dân, vì thế có bổn phận thực thi quyền
hành do nhân dân giao phó. Nhưng nếu chính phủ vi phạm quyền “tự nhiên”
của công dân thì công dân có quyền và trách nhiệm phải lật đổ chính phủ.
Không
khí cách mạng ngày một sục sôi, ngay cả Oasinhtơn (Washington, 1732 -
1799), một chủ đồn điền - chủ nô giàu có ở Viếcginia, người có khuynh
hướng ôn hòa, cũng ngả theo cách mạng.
Nước
Anh điều tướng Ghêgiơ sang làm thống đốc bang Masaxuxét kiêm tổng tư
lệnh quân đội Anh ở Bắc Mỹ; thông qua ngân sách chiến tranh, tăng cường
quân đội, quyết tâm đàn áp thuộc địa.
Ngày
10-5-1775, những người lãnh đạo phong trào cách mạng ở các bang họp hội
nghị nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể của chiến tranh, quyết định
thành lập “Quân đội lục địa”, bổ nhiệm Oasinhtơn làm chỉ huy, ra lời kêu
gọi nhân dân tình nguyện tham gia đóng góp. Xu hướng độc lập đã được
các đại biểu như Giôn Adam (John Adams), R. H. Li (R. H. Lee) đề nghị và
Hội nghị chấp thuận. Một Ủy ban 5 người, đứng đầu là Giépphécxơn được ủy
quyền thảo Tuyên ngôn độc lập và Hội nghị đã long trọng công bố ngày
4-7-1776. Bản tuyên ngôn này đã nêu lên một chân lý sáng ngời của Đức
Huyền Diệu: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã
ban cho họ những quyền không thể tước bỏ được. Trong những quyền ấy, có
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Thoạt
đầu chiến tranh, “Quân đội lục địa” với số lượng không nhiều, chỉ huy
thiếu kiến thức quân sự, trang bị vũ khí còn thô sơ, nghèo nàn nên gặp
nhiều bất lợi, dù mang tính chính nghĩa, được nhân dân ủng hộ và cũng đã
chiến đấu rất anh dũng. Cuộc chiến đấu ở bang Niu Oóc đã có hàng ngàn
người da đen hy sinh. Ngày 17-6-1775, quân Anh đánh bại nghĩa quân ở
Bâncơ Hin, gần Bôxtơn nhưng cũng phải trả một giá rất đắt. Cũng trong
năm 1775, nghĩa quân bị quân Anh đánh bật khỏi Long Ailan và Manhattan,
phải rút về Niu Giớcxi. Đến mùa đông năm 1776, quân chủ lực trong tay
Oasinhtơn chỉ còn không quá 3.000 người.
Mùa
xuân năm 1777, Oasinhtơn bị thất bại ở Giécmantao. Quân Anh định mở
cuộc tấn công lớn bao vây tiêu diệt nhưng bị nghĩa quân đánh tan ngày
17-10-1777. Quân Anh thất bại lớn tại Saratôga, tướng Anh là Bớcgôn phải
đầu hàng. Chiến thắng Saratôga biểu hiện sự lớn mạnh và khả năng giành
thắng lợi trong cuộc chiến của quân khởi nghĩa.
Dần
dần, quân đội lục địa được các nước châu Âu là Pháp, Hà Lan và Tây Ban
Nha ủng hộ, gửi quân tham gia chiến đấu làm hình thành một liên minh
chống Anh.
Tháng
12-1778, bang Gioócgia bị quân Anh chiếm. Tháng 5-1779, quân Anh đánh
bại nghĩa quân, chiếm Carôlinna Nam. Ngày 12-5, quân Anh chiếm hải cảng
Saclettơn (thuộc Carôlinna Nam), bắt làm tù binh tới 6.000 nghĩa quân.
Ngày 16-8-1780, tướng Anh là Coócoalít đánh tiêu diệt một cánh nghĩa
quân ở Camđen.
Sau
khi củng cố ổn định lại lực lượng, Oasinhtơn quyết định dùng tổng lực
hải quân, bộ binh, pháo binh đánh trận sống mái ở Yoóctao. Đội quân gồm
8.000 người của Coócoalít đồn trú trên bờ sông đã bị hạm đội của Pháp
chặn đường rút để rồi bị quân của Oasinhtơn và quân của Rôsămbô (tướng
Pháp) bao vây. Không thể kháng cự và cũng hết đường tháo chạy, Coócoalít
cùng toàn bộ quân Anh đồn trú, đã phải đầu hàng ngày 19-10-1781. Chiến
thắng Yoóctao đã đánh tan hy vọng cuối cùng vào thắng lợi của nước Anh.
(...)
Một quốc gia mới ở Bắc Mỹ ra đời, được gọi là Hợp chủng quốc Mỹ (United States of American), hay gọi là Mỹ và vì cờ
Mỹ có nhiều sao thể hiện số bang nên dân ta cũng gọi là Hoa Kỳ. Hiến
pháp Mỹ được phê chuẩn vào tháng 7-1788 và có hiệu lực từ ngày 4-3-1789.
Oasinhtơn được bầu làm tổng thống đầu tiên.
Cuộc
đấu tranh vũ trang của nhân dân Bắc Mỹ vừa mang hình thái của cuộc khởi
nghĩa chống quân xâm lược Anh giành độc lập dân tộc, vừa là cuộc nổi
dậy của Đại chúng chống áp bức cường quyền và cũng là cuộc cách mạng dân
chủ tư sản. Theo Lênin thì đó là cuộc “chiến tranh vĩ đại, chiến tranh
thực sự giải phóng, thực sự cách mạng”!
Là
một nước tư bản trẻ, kế thừa được những thành tựu cách mạng khoa học -
kỹ thuật đương thời cùng với tiềm năng phát triển to lớn sẵn có, nước Mỹ
đã có một nền kinh tế phát triển cực kỳ nhanh chóng trong thế kỷ sau.
Dù
sao thì cuộc cách mạng dân chủ tư sản đồng thời cũng là cuộc đấu tranh
giành độc lập ấy là không triệt để vì chế độ nô lệ (chủ yếu là ở miền
Nam nước Mỹ) chưa bị thủ tiêu: Sự tiếp tục tồn tại chế độ nông nô - nô
lệ trở nên già cỗi, lạc hậu, cản bước tiến của sự phát triển kinh tế tư
bản chủ nghĩa, và vì vậy mà cũng gây ra mâu thuẫn giữa hai thế lực bảo
thủ và cấp tiến ngày càng gay gắt. Tình hình đó tất yếu làm xuất hiện
các cuộc khởi nghĩa của những người nô lệ và cuộc đấu đá tranh giành
quyền lợi giữa hai phe: chủ nô đồn điền miền Nam và trại chủ - dân tự
do.
Năm
1741 nổ ra cuộc khởi nghĩa nô lệ ở Ludiana, năm 1792 là ở Viếcginia.
Mùa xuân năm 1800 gần 1.000 nô lệ nổi dậy đấu tranh vũ trang ở Risơmen
(thuộc bang Viếcginia), do Cơrâybien lãnh đạo. Năm 1822 có cuộc khởi
nghĩa nô lệ ở Nam Carôlinna. Năm 1831 có cuộc nổi dậy do Toocne lãnh
đạo.
Do
sức mạnh của công nghiệp hóa thắng lợi, ưu thế hoàn toàn thuộc về các
nhà tư bản miền Bắc. Giữa thế kỷ XIX, các cuộc nổi dậy của nô lệ càng
nhiều. Chế độ nô lệ đã bị lay chuyển tận gốc rễ. Tuy nhiên, vì nắm chính
quyền thông qua đảng Dân Chủ (được thành lập năm 1791) đại diện cho nó
nên chủ nô miền Nam đã khống chế chính quyền trung ương, sử dụng quyền
lực đó để bênh vực cho chế độ nô lệ. Cuộc đấu tranh gay gắt nổ ra vào
năm 1854 trong dịp bầu cử Hội đồng địa phương Kandớt và trở thành cuộc
đấu tranh vũ trang 4 năm (1854 - 1858) mà thắng lợi thuộc về phía các
chủ nô.
Tháng
10-1859, một trại chủ ở Viếcginia là Giôn Brao đã đứng lên khởi nghĩa
đòi xóa bỏ chế độ nô lệ. Chính quyền Oasinhtơn đem quân tiêu diệt. Giôn
Brao bị thương nặng, bị bắt và bị xử án tử. Trước khi bị hành hình ông
đã nói một câu nổi tiếng: “Tôi tin rằng chỉ có máu mới rửa sạch được tội
ác của xứ sở này!”
Phong
trào đấu tranh tự phát của quần chúng đã tác động mạnh mẽ đến cả hai
phe. Đảng Dân Chủ bị phân hóa sâu sắc. Năm 1851, đảng Cộng Hòa được
thành lập bao gồm những người của đảng Tự do ruộng đất (Free soil Party,
thành lập cuối những năm 40 của thế kỷ XIX) và một bộ phận từ đảng Dân
Chủ tách ra. Đảng này dù chưa hoàn toàn nhất trí với nhau đối với chế độ
nô lệ (cánh hữu chủ trương hạn chế, cánh tả chủ trương xóa bỏ chế độ
đó) nhưng đã trở thành tiếng nói của tiến bộ xã hội và được đông đảo
quần chúng, nhất là những người nô lệ ủng hộ. Lãnh tụ đảng này là
Abraham Lincôn (Abraham Lincoln, 1809 - 1865), xuất thân là một chủ
trang trại nghèo ở Kentắcki. Gia đình ông do bị đám chủ nô ức hiếp đã
phải chạy sang miền Tây sinh sống. Thuở nhỏ, ông phải lao động vất vả.
Lớn lên, nhờ tài trí hơn người và lòng dũng cảm, ông trở thành lãnh tụ
của xu hướng mới trong xã hội. Năm 1848, Lincôn được bầu vào Quốc hội.
Năm 1860, ông được đại diện cho đảng Cộng Hòa ra tranh cử, thắng lợi và
trở thành Tổng thống.
Tầng
lớp chủ nô mất ưu thế trong chính quyền mới, lập tức chống đối. Ngày
20-12-1860, bang Carôlina Nam tuyên bố tách ra khỏi Liên bang. Tháng
2-1861, sáu bang theo chế độ nô lệ ở miền Nam cũng tuyên bố ly khai.
Những bang này mở hội nghị ở Môngômêri (bang Alabama), quyết định thành
lập chính phủ riêng và bầu đại tá Đêvít, chủ nô ở miền Nam, bang
Mítxixipi làm tổng thống. Về sau, có thêm 4 bang nữa gia nhập Hiệp bang,
thủ đô đặt tại Richmôn (Richmon) thuộc bang Viếcginia. Chính phủ Hiệp
bang gấp rút thành lập một đạo quân 10 vạn người để chống lại chính phủ
Trung ương.
Nước Mỹ bước vào nội chiến và được gọi là “Cuộc chiến tranh ly khai” (1861 - 1865).
Ngày
12-4-1861, chiến tranh nổ ra ở Carôlina Nam, rổi diễn ra ác liệt ở trên
biển, dọc sông Mítxixipi, trên đất các tiểu bang miền Nam dọc Đại Tây
Dương. Lúc đầu, lực lượng vũ trang của Hiệp bang miền Nam đã giành được
ưu thế trước lực lượng vũ trang của Liên bang miền
Bắc. Ở mặt trận trên biển, phe Liên bang bị thiệt hại nặng, nhưng ở
trận tuyến dọc sông Mítxixipi, nhờ tài chỉ huy của tướng Gran, lại giành
được thắng lợi. Sau đó, quân Liên bang chiếm được Oócliân (1862) và
thành phố Vichhớc (1863). Hai bang Tếchdát và Akandát bị cô lập. Nhờ
chiếm được lưu vực sông Mítxixipi, quân Liên bang đã bao vây được quân
chủ lực của Hiệp bang ở phía đông.
Đầu
tháng 7-1863, phe Liên bang giành được thắng lợi quan trọng trong trận
Gentibớc. Tình thế quân sự đã hoàn toàn có lợi cho phe này. Năm 1864,
Lincôn tái đắc cử Tổng thống. Ông bổ nhiệm tướng Gran làm tổng tư lệnh
quân đội Liên bang.
Mùa
xuân năm 1865, quân Liên bang tấn công thủ phủ Richmôn một cách quyết
liệt. Tướng Sôman tấn công chiếm Gioócgia, đánh lên Xavanna phối hợp với
cánh quân chủ lực của tướng Gran. Ngày 3-4-1865, quân đội Liên bang
chiếm được Richmôn. Một tuần sau, tướng Li (Lee), Tổng chỉ huy quân đội
Hiệp bang cùng với 280.000 quân, đầu hàng.
Cuộc nội chiến kết thúc với thiệt hại ở cả hai phe chừng 60 vạn quân (phe Liên bang thiệt mạng tới 36 vạn người).
Trong
ngày lễ mừng chiến thắng (14-4-1865), Tổng thống Lincôn bị ám sát.
Trước đó, ngày 1-1-1863, ông đã tuyên bố xóa bỏ vĩnh viễn chế độ nô lệ ở
Mỹ.
Đến
trung tuần tháng 12-1865, nghị viện Mỹ bỏ phiếu chấp thuận việc sửa đổi
điều thứ 13 trong hiến pháp như sau: “Không một chế độ nô lệ nào, không
một hình thức miễn cưỡng nào, trừ khi để trừng phạt một trọng tội mà hệ
thống pháp lý đúng đắn công nhận bị can đã phạm, có thể tồn tại ở Mỹ,
cũng như ở bất cứ nơi nào thuộc thẩm quyền của quốc gia này”.
Với
cuộc nội chiến giải phóng nô lệ (và cấp đất tự do cho dân di cư đến
miền Tây), nước Mỹ mới thực sự hoàn thành cách mạng dân chủ tư sản. Từ
đây, nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa vận động theo đúng con đường
phát triển tự nhiên của nó, tự do, không còn bị cản trở bởi những môi
quan hệ sản xuất cũ, và do đó nhịp độ công nghiệp hóa cũng tiến triển
rất nhanh chóng, làm cho nền kinh tế Mỹ vươn lên hàng đầu trong các nước
tư bản. Cùng với việc hầu như không bị cuộc chiến tranh thế giới lần
thứ nhất tàn phá do ở xa trung tâm xung đột, lại còn kiếm được nhiều lợi
nhuận từ “lái súng” và cho vay tài chính, nước Mỹ càng trở nên giàu sụ,
sở hữu một cơ sở vật chất - kỹ thuật đồ sộ và tiên tiến bậc nhất. Điều
đó đương nhiên đưa nước Mỹ tư bản vững vàng bước vào ngôi vị cường quốc -
đế quốc số một của thế giới thời hiện đại.
Có
thể nói nước Mỹ dân chủ tư sản hình thành từ sự xâm chiếm thực dân, từ
sự lan tỏa dân cư gồm đa số là nông dân nghèo khó, chịu phiêu lưu từ Cựu
Lục địa (châu Âu), từ tàn sát người da đỏ bản địa, từ mua bán nô lệ da
đen, từ sự đấu tranh giành độc lập và từ nội chiến. Sự mường tượng cho
chúng ta cái cảm giác lịch sử nước Mỹ như là lịch sử vắn tắt của loài
người, cũng đầy đau thương, bi tráng, cũng đầy mồ hôi, nước mắt và máu
xương của Đại Chúng cần lao.
Cái
lịch sử ấy đã làm cho mặt trái của nhân tính như: vô cảm trước sự giết
chóc, coi thường sinh mạng đồng loại, thích thú súng đạn, phân biệt
chủng tộc… ngấm sâu vào xã hội Mỹ mà chủ yếu là vào tầng lớp thống trị
Mỹ. Phải chăng hiện tượng đó, cộng với niềm tự hào, sự kiêu hãnh thái
quá đến độ mù quáng về một cường quốc vô định số một, về một dân tộc vĩ
đại cũng đã là một nguyên nhân làm xuất hiện những nhân vật “kỳ lạ”
trong chính quyền Mỹ, những người vô tình hay hữu ý đã mở đường cho sự
tàn sát nhân dân Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai?
(...)
Có
người cắc cớ hỏi rằng: nếu hồi đó phát xít Đức không gây chiến với Liên
Xô thì cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai sẽ xảy ra như thế nào và
thế giới biến đổi ra sao? Khó mà trả lời được. Rất có thế Châu Âu phải
rên xiết dưới gót giày của phát xít lâu hơn nữa; rất có thể Ý - Đức sẽ
giành thắng lợi trên chiến trường Bắc Phi; rất có thể Anh bị bao vây
khốn đốn; rất có thể chiến tranh Thái Bình Dương cầm cự với ưu thế thuộc
về Nhật; rất có thể chiến tranh sẽ lan đến tận nước Mỹ… Rất có thể phe
Trục sẽ chiếm ưu thế trong một thời gian dài và tổn thất của thế giới sẽ
nhiều hơn. Dù rất có thể thế này thế khác nhưng với bản chất thâm thù
Cộng sản của Hítle và sự thèm khát bá chủ thế giới đến ngông cuồng của
hắn làm cho phát xít Đức rồi cũng phải đánh Liên Xô, hoặc giả Liên Xô,
Anh, Mỹ rồi cũng liên minh với nhau làm xuất hiện Đồng Minh với sự ủng
hộ của Đại Chúng thế giới chống phát xít, và thắng lợi cuối cùng chắc
chắn vẫn thuộc về phe Đồng Minh. Như vậy trước sau gì Hồng quân Liên Xô
cũng đóng vai trò xung kích chủ yếu chống lại lực lượng xung kích mạnh
nhất của phe Trục là phát xít Đức. Chiến tranh Xô - Đức là sự biểu hiện
rõ ràng nhất, chói lọi nhất cái chân lý này: mặt phải nhân tính thường
“nhẫn nhịn” trước mặt trái nhân tính nhưng một khi đã bị buộc dùng đến
bạo lực thì nó trở nên vô địch, trước sau gì cũng giành được thắng lợi
cuối cùng,
Cuộc
chiến tranh vệ quốc vĩ đại của quân dân Liên Xô vừa là một cuộc tự vệ
vĩ đại, vừa là một cuộc giải phóng vĩ đại và cũng vừa là một cuộc tiêu
diệt vĩ đại sự cường bạo. Công lao của nhân dân Liên Xô đối với nhân dân
Châu Âu và cả của loài người trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ
hai là bất diệt.
Quân
dân Liên Xô dù nhiều lúc đã mở ra những cuộc tấn công to lớn, đánh dữ
dội, quyết liệt nhưng chưa bao giờ tàn sát dân thường một cách có chủ
đích và cũng không trả thù kẻ chiến bại một cách hèn hạ dù đã có lúc nó
tàn sát dân tộc mình, đã nêu một tấm gương cao thượng và nhân đạo. Liên
Xô lúc đó quả thật đã là một dũng sĩ, một trang nam nhi quân tử đích
thực.
Bản
chất vụ lợi kiển con buôn của chính phủ Anh, Mỹ lúc đó làm cho những
chiến thắng mà họ gặt hái được trở nên tầm thường đi. Trong chiến tranh
thế giới lần thứ hai, quân dân Liên Xô đã là người chiến thắng quang
vinh nhất. Chiến thắng của họ là vĩ đại nhưng cũng phải trả cái giá hy
sinh vô cùng to lớn. Trong các sách giáo khoa lịch sử về cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại, người ta thường nói đến sự quả cảm tuyệt vời của
quân đội Xô Viết, tài năng quân sự của các tướng lĩnh, lãnh tụ Xô Viết,
sự hy sinh vô bờ bến của quần chúng Xô Viết phục vụ chiến đấu trên khắp
đất nước, tại hậu phương cũng như tại chiến trường Xô - Đức, nhưng hình
như người ta đã “quên” không đề cập đến những chiến công không kém hiển
hách, những hy sinh mất mát không nhỏ của các chiến sĩ tình báo Xô Viết
trên “Mặt trận thầm lặng” ở xa Tổ Quốc, trong lòng địch.
Trong
một cuộc chiến tranh, muốn chiến thắng đối phương thì tự nhiên là phải
mạnh hơn đối phương, Muốn mạnh hơn đối phương thì phải làm thế nào? Rõ
ràng nhất là phải huy động sao cho có vũ khí vượt trội, số lượng quân
vượt trội và tinh nhuệ trong chiến đấu. Nhưng trong nhiều trường hợp, đã
không thể có đủ khả năng, đủ thời gian để huy động được một đội quân
như vậy và tình thế buộc phải tham chiến. Lúc đó phải làm thế nào để có
cơ may thắng lợi bằng một lực lượng thiếu hụt? Chúng ta đã trả lời câu
hỏi này rồi! Chỉ xin nói thêm rằng trong lịch sử chiến tranh thế giới,
những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi của dân tộc Việt Nam đã
là những điển hình của lối đánh lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều.
Nhưng phải nhấn mạnh là không nên hiểu câu nói đó một cách “ngây thơ”
máy móc vì thuận lẽ tự nhiên thì tuyệt đối không bao giờ xảy ra hiện
tượng yếu “bỗng dưng” thắng mạnh, ít “bỗng dưng” thắng nhiều. Các thánh
thần khi “choảng” nhau cũng vậy, ông nào mạnh hơn thì ông ấy thắng, thế
thôi!
Trong
một cuộc chiến tranh, một lực lượng tương đối yếu hơn, muốn tranh thắng
với một lực lượng tương đối mạnh hơn, thì chỉ có một cách duy nhất là
làm sao với lực lượng yếu hơn ấy bỗng trở nên… mạnh hơn; nghĩa là phải
biết tạo ra từng lúc, từng nơi, từng trận đánh bộ phận có thế và lực
mạnh hơn đối phương, áp chế được đối phương bằng cách lợi dụng thiên
nhiên (địa thế, thời tiết…), nắm vững địch tình (ý đồ hành động, sự điều
binh bố trận… của đối phương) và biết phân tán cũng như tập trung binh
lực kịp thời, hợp lý. Cuộc tranh đấu nào (kể cả thi đấu thể thao) và
nhất là chiến tranh, muốn có cơ hội giành thắng lợi thì phải có quyền
mưu. Một trong những yêu cầu cơ bản để xây dựng và thực hiện quyền mưu
có hiệu quả và thậm chí là có ý nghĩa quyết định đến thắng - thua trong
chiến tranh là nắm được “động - tĩnh” của đối phương, không những phải
hiểu rõ địch tình mà trong điều kiện cho phép còn phải cố gắng làm rối
loạn nội tình của đối phương, đánh lạc hướng đối phương. Đó chính là
công tác tình báo, gián điệp.
Chúng
ta sẽ kể vài câu chuyện trong lịch sử về tình báo - gián điệp, có phần
lược thuật đại khái tác phẩm “Tình báo qua các thời đại” của Jean -
Pierre Alen. (NXB Công an nhân dân, Hà Nội 1995):
Những dấu tích xưa nhất về nghề tình báo là các tài liệu của Mari, bắt đầu có từ thế kỷ XVIII trước Công nguyên.
Tài
liệu đó cho biết Mammurabi, người sáng lập Vương quốc Babilon, đã phái
gián điệp vào quân đội đối phương và ra lệnh cho quân mình bắt tù binh
để hỏi cung.
Người
Ai Cập cũng dùng gián điệp trong các cuộc chiến tranh với Xiri từ thế
kỷ XV đến thế kỷ XIII, TCN. Pharaông là Tutmét III, khi đến vùng Canaan
đã cho quân dừng lại để cùng sĩ quan nghiên cứu những báo cáo của điệp
viên trước khi chọn một trong ba con đường có thể tiến đánh vua Kadet.
Và ông đã chọn con đường Meggiđo, dẫn đến chiến thắng quyết định vào năm
1468 TCN.
Hai trăm năm sau, Tamxét II và kẻ thù là người Hittit cũng rất chú ý đến công tác tình báo.
Cũng
trong thời đại đó, Môidơ (Moise) dẫn dân Hêbrơ thiên di đến đất Canaan.
Đứng trên đỉnh núi Nabô, ngắm nhìn đất nước đầy mật và sữa, nhà tiên
tri già, trước khi quyết định đưa dân mình đến lập nghiệp ở đó, đã triệu
12 tộc trưởng đến và bảo họ: “Các vị đi xem tình hình đất nước này, dân
cư là khỏe hay yếu, đông hay ít, sản vật giàu hay nghèo, thành thị,
làng xóm, pháo đài ra sao, đất đai màu mỡ hay cằn cỗi, có cây cỏ hay
không. Các vị hãy hái hoa quả về đây”.
Cũng
người Hêbrơ (tổ tiên của dân tộc Do Thái), sau nhiều trận thua người
Philixtanh rồi mới phát hiện ra rằng vũ khí của đối phương không phải
bằng đồng thau như của mình mà là bằng sắt. Từ đó trong các cuộc chinh
chiến, người Hêbrơ luôn coi trọng công tác tình báo. Giôduê, trong quá
trình lên kế hoạch chinh phục Canaan, đã phái hai điệp viên vào thu lượm tin tức Giêricô và đến tận Sittun.
Ngay
từ thời Cổ đại, người Ba Tư đã biết dùng thủ đoạn đầu độc tin tức. Một
trong những người sử dụng thủ đoạn này một cách khéo léo nhất là Đariút
(Darius). Sau một năm đánh chiếm thành Babilon không thành công, nhà vua
đã phải nhờ đến hành động trá hàng của một người dũng cảm tên là Dôpyrơ
(Zopyre). Nhà viết sử bậc thầy Hêdôrốt đã thuật lại là sau khi tự cắt
mũi, tai, cạo trọc đầu và cho đánh nát người bằng roi. Dôpyrơ đến yết
kiến Đariút: “Tôi sẽ đóng vai phản bội để vào thành Babilon và kể rằng
chính bệ hạ đã hành hạ khiến tôi khổ thế này. Chắc rằng Babilon sẽ tin
tôi mà trao cho tôi quyền chỉ huy. Sau khi tôi vào thành 10 ngày, bệ hạ
cho 1.000 quân vào loại xoàng nhất tiến đánh cổng Sémiramis, 7 ngày sau
phái 2.000 quân về cổng Nini, 20 ngày sau đó nữa, bệ hạ cho 4.000 quân
đến cổng Chaldé. Các toán quân này chỉ mang gươm thôi. Cuối cùng, sau
thêm 20 ngày tiếp theo, bệ hạ đưa nốt số quân còn lại, vây quanh bốn
phía, rồi nhớ điều quân đến trước nơi tôi đóng và trước cổng Bêlidi và
cổng Xitxi. Tôi hy vọng quân Babilon, sau khi chứng kiến hành vi của tôi
trước những cuộc chạm trán đó sẽ trao cả cho tôi chìa khóa các cổng.
Lúc đó, chính tôi và quân Ba Tư sẽ hoàn tất nhiệm vụ”.
Quân
Ba Tư đã chiếm được Babilon như kế hoạch đó. Để thưởng công cho Dôpyrơ,
vua Đariút đã trao cho vị tướng này cai quản thành Babilon và miễn nộp
triều cống suốt đời.
Ở
Trung Hoa cổ đại chắc rằng nghề tình báo - gián điệp cũng được biết đến
từ rất sớm. Bởi vì ngay trong “Binh pháp Tôn Tử” - lý luận thành văn về
nghệ thuật quân sự được cho là cổ xưa nhất nhân loại - đã có một chương
(thiên) viết chuyên biệt và sâu sắc về công tác tình báo, gọi là “Dụng
gián” (sử dụng gián điệp). Trong chương này, Tôn Tử viết: “… Vua sáng
suốt, tướng hiền lương sở dĩ xuất quân là thắng, thành công hơn người là
nhờ biết trước tình hình địch. Muốn biết trước tình hình địch, không
thể cầu xin quỉ thần, không thể dựa vào ước đoán, không thể dùng độ số
vận hành của trời, trăng, sao để kiểm chứng, mà phải dùng người, phải
khai thác từ những người nắm được tình hình địch.
Có
5 cách dùng gián điệp là hương gián, nội gián, phản gián, tử gián, sinh
gián… Hương gián là dùng người dân địa phương bên địch làm gián điệp.
Nội gián là dùng người trong hàng ngũ, chính quyền địch làm gián điệp.
Phản gián là dùng ngay gián điệp của địch làm gián điệp cho mình. Tử
gián là tạo tin giả (ngụy tạo) rồi dùng gián điệp tung ra như một tin
tình báo thật nhằm đánh lừa địch. Sinh gián là cho người bí mật đi thám
thính địch tình (công tác trinh sát, thám báo) rồi trở về trình báo lại.
Cho
nên, việc quân không mật thiết với ai bằng mật thiết với gián điệp,
không thưởng ai hậu hơn thưởng gián điệp. Không mật thiết thì không được
lòng người, không hậu thưởng thì không sai khiến nổi, không kín đáo thì
khong thể thành việc.
… Vi diệu thay! Vi diệu thay! Không việc nào mà không cần dùng gián điệp.
…
Xưa,
nhà Ân mạnh lên là nhờ có Y Doãn làm gián điệp ở trong nhà Hạ, nhà Chu
mạnh lên là nhờ Lã Nha làm gián điệp ở trong nhà Ân. Cho nên minh quân,
hiền tướng biết sử dụng những bậc tài trí hơn người làm gián điệp thì
nhất định sẽ thành công lớn. Sử dụng gián điệp là điều trọng yếu trong
việc dùng binh, ba quân dựa vào đó mà quyết định hành động”.
Nói
chung thì tất cả các tướng lĩnh lãnh đạo quân đội thời Cổ đại, cả ở
phương Đông lẫn phương Tây, đều quan tâm sử dụng tình báo - gián điệp
trong các cuộc chiến tranh tấn công - tự vệ.
Trong
kinh thánh có chuyện “Giuda phản Chúa”. Nhiều người tự hỏi: “Giuda có
phải là điệp viên của Rôma (gọi là đế quốc La Mã) không? Trong cuốn sách
“Chúa Giêsu và thánh Gioan”, sử gia Robert Eisler táo bạo đưa ra giả
thuyết Giuda là một chỉ điểm của Rôma cài vào các tông đồ của Giêsu nhằm
giám sát hoạt động mà họ cho là quấy rối của ông này. Tuy nhiên chưa
thể khẳng định được giả thuyết này. Chỉ biết rằng khi sắp bước sang công
nguyên, mạng lưới gián điệp của Rôma đã trải khắp các tỉnh của đế quốc.
Có thể tin chắc rằng mạng lưới đó khá dày ở tỉnh “cứng đầu” nhất - tỉnh
Giuđê.
Vào
đầu thời Trung cổ, có chuyện trong nhiều thế kỷ, nhiều nước ven Địa
Trung Hải đã tung nhiều gián điệp đi dò la, cố đánh cắp bí mật “ngọn lửa
grêgoa” của người Bidăngxơ vì nó đã giúp cho dân tộc này tồn tại rất
lâu. “Ngọn lửa Grêgoa” là một chất cháy hỗn hợp gồm diêm tiêu, lưu huỳnh
và nhựa. Khi cháy nó gây ra tiếng nổ, khói đặc và lửa cháy văng tung
tóe ra bốn phía, không thể dùng nước dập tắt được mà phải dùng cát, nước
giải hoặc giấm (giống napan?). Thời đó, nó được cho là vũ khí siêu
nhiên. Để bảo mật thứ vũ khí này, vua chúa Rôma chỉ giao cho một gia
đình chế tạo nó. Mãi tới thế kỷ thứ II, bí mật của “ngọn lửa grêgoa” mới
bị người Ảrập chiếm được, nhưng trong hoàn cảnh nào thì đến nay vẫn
chưa ai biết. Họ cho thuốc nổ đó vào bình bằng sành, hoặc bằng thủy tinh
rồi dùng cơ cấu bắn đá, bắn vào quân Thập tự chinh. Trong trận quân
Ảrập vây hãm quân Thập tự chinh tại thành Thánh Jean d’Are, Joinville đã
tả thứ “đạn đại bác” này như sau: “Nó nổ to như tiếng sét đánh, lửa của
nó sáng chói trong đêm tối như rồng từ trên trời hạ xuống phun lửa
vậy”.
Sang
thế kỷ XIV, thuốc súng ra đời đã hạ bệ chất cháy Grêgoa. Dù thi thoảng
vẫn thấy người ta dùng đến, như năm 1453 quân Thổ Nhĩ Kỳ đã dùng nó để
công thành Côngxtăngtinốp, nhưng dần dần nó đã đi vào quên lãng và còn
lại trong truyền thuyết mà thôi. Vào thế kỷ XVIII, một anh chàng Đuyprê
(Duypré) nào đó, có lẽ là do háo danh, đã khoe rằng mình đã tìm lại được
cách chế tạo “ngọn lửa Grêgoa” bất diệt và liền bị vua Lui XV nhốt luôn
vào ngục Baxti để “an nghỉ đời đời” cùng với ngọn lửa khủng khiếp của
anh ta.
Người Hồi giáo sử dụng chất nổ Grêgoa chống lại người Thiên Chúa Giáo, thì chẳng bao
lâu sau, người Thiên Chúa Giáo dùng đến một thứ vũ khí có khi còn khủng
khiếp hơn để chống lại, đó là: Tòa án dị giáo. Bộ máy giết chóc dị giáo
tàn bạo này được khởi động từ thế kỷ XII, khi Giáo hoàng Inôxăng III
sáng chế ra dòng tu Đaminh (Dominique). Tây Ban Nha là nơi đạo quân của
Giáo hoàng mặc áo chùng thâm, đeo thập giá trắng, phạm những tội ác tàn
bạo nhất. Cuồng tín đến độ trong tâm hồn chỉ còn lại phần xấu xa nhất
của nhân tính (hay thường gọi là mất hết tính người) khi họ vồ được
những tín đồ dị giáo hoặc bị vu khống là dị giáo, tra tấn bằng sắt, lửa,
bằng những cách còn man rợ hơn cả quân Hung nô, quân Thổ Nhĩ Kỳ. Tính
giả dối và độc địa của họ không thua kém chút nào so với thói thích giết
chóc thành như nghiện ngập. Bề trên của họ đã cho họ cuốn “Sổ tay gián
điệp” mà sau này được in tại Rôma vào năm 1585, trong đó có đoạn: “…Điệp
viên vờ làm bạn để moi được lời thú tội của bị cáo…”. Safoel Sabatini
đã viết trong cuốn “Cuộc đời của Torquemada”: “Tòa án dị giáo là sự
nghiệp cảnh sát lớn nhất trên thế gian này”.
Ở
Pháp có chuyện: Pháp bắt được hiệp sĩ người Anh là Thomas Tuberviller.
Philippe le Bel (vua Pháp, còn gọi là Phillip “đẹp trai”) hứa trả tự do
và cấp đất nếu ông này bằng lòng quay về Anh làm nội gián cho Pháp.
Tubeville chấp nhận và trở về Luân Đôn sau một màn kịch vượt ngục. Hiệp
sĩ này đã thâm nhập được vào Hội đồng nhà vua Anh và gửi nhiều tin tức
rất có giá trị cho Pháp. Cuối cùng ông bị lộ và bị xử tử vào năm 1314.
Khi
tướng Xubôtai của Thanh cát Tư Hãn tiến hành cuộc chinh phục Đông Âu
vào đầu thế kỷ XIII, ông chỉ có một lực lượng không quá 10 vạn quân. Dù
có tinh nhuệ đi chăng nữa thì với số lượng quá ít ỏi so với đối phương,
cũng khó lòng đứng vững chứ nói gì đến thắng lợi. Ấy vậy mà họ đã đánh
đâu được đó. Những trận đánh tiêu diệt các đạo quân của Henri nước
Xilêdi, của Bêla nước Hunggari là có tính điển hình về sự dụng binh tài
tình. Làm sao Xubôtai có được những chiến thắng to lớn ấy nếu ông không
biết trước được động tĩnh và ý đồ của quân đội đối phương? Chắc rằng
phải có tai mắt hoạt động rất tích cực của công tác tình báo - gián điệp
Mông Cổ.
Thật
vậy, từ lâu Thành cát Tư Hãn đã rất chú trọng đến công tác này và lập
ra hẳn một bộ phận chuyên biệt để dò la, thu thập mọi tin tức cần thiết
những nước mà ông có ý định chinh phục. Trong khi Châu Âu mù tịt về Mông
Cổ thì Mông Cổ lại hiểu rõ Châu Âu, không chỉ nắm vững về địa hình địa
vật lãnh thổ mà cả về quân sự, chính trị, kinh tế.
Hunggari
đã bắt và xử không ít điệp viên Mông Cổ trước khi bị nước này tiến
đánh. Qua đó cũng có thể hình dung được Xubôtai, hiểu rõ nước Hunggary
đến mức như thế nào. Thậm chí, ông này còn biết vua Bêla có họ với hai
công tước Ba Lan là Boleslav
Sanđomik và Conrad Masovie, cũng như có họ với công tước Đức là Henri
Silésie, để có kế hoạch đối phó với Ba Lan và Đức, hai nước láng giềng
của Hunggari, trong trường hợp hai nước này kéo quân đến cứu cho Bêla.
Tuy
không có tài liệu nói rõ cơ cấu của bộ phận hoạt động tình báo Mông Cổ
thời Thành Cát Tư Hãn, nhưng người ta cũng biết được một số biểu hiện
của nó. Điệp viên của Thành Cát Tư Hãn thường không phải người Mông Cổ:
nói chung thì điệp viên hoạt động ở Châu Âu là người Châu Âu, hoạt động ở
Trung Quốc là người Hán, trong đó không ít người là nhà buôn và cũng có
kẻ phiêu lưu. Một số điệp viên còn kiêm luôn chức vụ ngoài nhiệm vụ
tình báo, như một hiệp sĩ Anh hoạt động gián điệp cho Xubôtai, được ông
này trao cho chức chỉ huy một đạo quân sang đánh nước Áo… Tin tức thu
thập được về tình hình Châu Âu được chuyển ngay về Mông Cổ. Nhưng làm
thế nào để những tin tức về đến trung tâm của cái Đại đế quốc bao la ấy
mà vẫn “nóng hổi thời sự”, không bị lỗi thời? Họ đã giải quyết vấn đề
bằng “yam”, trạm ngựa đặt trên khắp các nẻo đường của Đại đế quốc. Giao
liên Mông Cổ rất dẻo dai, dây da quấn quanh mình và lưng, thay ngựa sau
mỗi 50 km, trong 10 ngày họ có thể vượt 2.000 km. Theo Marco Polo, nhà
phiêu lưu số một của Châu Âu trung cổ, có khoảng một vạn trạm ngựa nằm
dọc con đường thiên lý, có trạm chứa đến 400 con ngựa. Như vậy, chỉ
riêng những trạm giao liên này đã có đến 30 vạn con ngựa.
Phương
tiện giao liên chính của thời Cổ đại và Trung đại vẫn là ngựa. Ngoài ra
người ra còn dùng những phương tiện khác như dùng lửa, khói, chim câu…
Ngay
từ thế kỷ XVIII TCN, người ta đã dùng đến ngọn lửa làm tín hiệu truyền
tin. Tùy thuộc vào qui ước ngọn lửa lúc tỏ lúc bị che khuất mà các thành
phố, quân đội hoặc lính tuần tra sẽ đọc được thông tin cần thiết. nếu
qui ước đó được giấu kín, chỉ ít người “quan trọng” “đọc” được thôi thì
tín hiệu lửa cũng trở thành một thứ mật mã. Phải chăng dạng mật mã đầu
tiên là sự qui ước tín hiệu lửa? Điều thú vị là phương pháp thông tin
bằng tín hiệu lửa vẫn còn được quân đội Pháp dạy vào năm 1938 và trong
chiến tranh thế giới thứ hai, du kích Pháp vẫn thường sử dụng.
Một
phương pháp nữa là dùng chim đưa thư. Người ta biết rằng phương pháp
này đã được người phương Đông dùng thời Cổ Đại, rồi lan truyến đến Hy
Lạp. Có thể người Hy Lạp và Rôma đã dùng nó phổ biến.
Một
trong những đòi hỏi sống còn của hoạt động gián điệp là phải bảo mật
tuyệt đối nội dung thông tin trong quá trình chuyển giao. Trong cuốn
“Mưu mẹo chiến tranh”, Polyen kể rằng Histiacus ở đất Milét sửa soạn nổi
dậy chống ách đô hộ của Ba Tư, đã gửi cho đồng minh là Aristagoras một
thông tin có nội dung: “Hãy kích động xứ Iôni khởi nghĩa”, bằng cách cạo
trọc đầu một người nô lệ thân tín, viết lên đó, chờ cho tóc mọc che lấp
rồi phái anh này đi. Khi Aristagoras hỏi, người nô lệ trả lời: “Xin cạo
trọc đầu tôi…”.
Frontin
còn cho biết ngay ở những thời đó đã có nhiều cách giấu tài liệu như:
giấu trong đế giày, khuyên tai, bụng chim, hậu môn ngựa… và thậm chí là
cả trong tử cung phụ nữ.
Khi
sự kiểm soát trở nên gắt gao thì “cách cất giấu” tài liệu như trên vẫn
không đảm bảo bí mật. Do đó, từ thời Cổ đại, người ta đã biết làm cho
ngay cả khi tài liệu bị phát giác, đối phương vẫn không biết được đó là
tài liệu hoặc dù biết là tài liệu thì cũng không đọc được. Có hai thủ
đoạn được dùng từ thời Cổ đại, phổ biến cho đến thời hiện đại, đó là
dùng “mực bí mật” và mã hóa thông tin.
Thủ
đoạn thứ nhất là khi viết nội dung thông tin bằng “mực bí mật”, các chữ
sẽ biến mất, muốn đọc phải dùng một chất nào đó (hoặc cách nào đó) làm
cho hiện lên lại: Pline và Ovide kể rằng có hai thứ “mực” được dùng là
sữa tươi và nhựa cây thầu dầu, thuốc hiện hình là bột than củi. Từ thế
kỷ II TCN, người ta dùng nước hãm quả ngũ bội tứ
để viết, muốn đọc thì dùng dung dịch sunfát đồng thấm vào miếng bông
xoa lên… (Hồi nhỏ, chúng ta dùng nước vo gạo viết lên giấy, sau đó hơ
lên ngọn đèn dầu, chữ cũng hiện ra).
Các
cách thức thuộc thủ đoạn thứ hai rất phong phú. Mã hóa thông tin phục
vụ cho công tác gián điệp cũng ra đời rất sớm, mà theo Plutarque thì
cách mã hóa đầu tiên người ta biết được là phương pháp Acytalt, xuất
hiện vào thế kỷ IX TCN. Scytale là một cái gậy được quấn vòng quanh thân
theo kiểu xoắn ốc bằng một dây da có bản rộng nhất định. Người ta viết
nội dung thông tin lên da thành những hàng song song với trục gậy. Khi
tháo dây da ra thì nội dung thông tin cũng bị “xé vụn” không thể đọc
được. Muốn đọc, lại phải cuốn đoạn dây da đó vào một cái cây có cùng
kích thước với cái cây ban đầu và theo cùng cách quấn trước đó. Phương
pháp này, vì là sự làm đảo lộn vị trí các từ, chữ nên cũng thuộc nhóm
phương pháp gọi là “chuyển vị”.
Nhóm
phương pháp thứ hai gọi là “thay thế”. Phương pháp thứ hai này, thời
xưa, được người Hêbrơ, Ấn Độ và sau này là Xêda sử dụng. Người ta cho
rằng cuốn sách mật mã đầu tiên trên thế giới là một tác phẩm do Aeneas
viết vào năm 400 TCN. Trong tác phẩm này, Aeneas cho biết: người Rôma đã
có cách mã hóa rất tinh vi là dùng một sợi dây cuộn trên một chiếc đĩa
có những cái khấc tương ứng với các chữ của bảng chữ cái: muốn đọc nội
dung , chỉ cần biết chữ đầu tiên và chỉ cần tách sợi dây ra khỏi chiếc
đĩa thì nội dung thông tin sẽ biến mất. Còn Suétene thì cho ta biết Xêda
mã hóa mệnh lệnh gửi cho các tướng bằng cách đơn giản là thay thế bảng
chữ cái thật bằng bảng chữ cái lùi ba nấc: A chuyển thành D, B chuyển
thành E…
Đến
thời Trung cổ, công việc nghiên cứu mã hóa hầu như biến mất. Suốt thời
đại này, đại bộ phận nhân dân mù chữ nên bản thân chữ viết đã là một
cách bảo mật. Ngoài ra, giáo hội còn cấm dùng mật mã, ai vi phạm là bị
phạt vạ tuyệt thông (lệnh này áp dụng ra cả ngoài Giáo hội, chỉ còn một
tu sĩ tên là Gerber, sau này trở thành Giáo hoàng Sylvestre II, sử dụng
phương pháp mật mã do chính ông sáng tác).
Trong
nghề tình báo, chẳng những phải bảo mật tin tức mà còn phải bảo vệ
nguồn tin, tức là điệp viên nữa. Các tác giả quân sự thời xưa là
Froutin, Polyen, Polybe kể rằng các tướng lĩnh Rôma đã có ý thức bảo vệ
nguồn tin: một khi chuẩn bị ra những mệnh lệnh có liên quan đến việc sử
dụng những tin tức tình báo vừa thu thập được, họ tập hợp binh lính, sĩ
quan, tổ chức lễ tế trời xin thần thánh phán dạy họ phải làm gì và với
cách đó mà giữ bí mật nguồn tin của mình. Sertorius cầm quân lâu ngày
tại Tây Ban Nha lại có một cách che giấu nguồn tin tình báo độc đáo: ông
nuôi một con hươu nhỏ, mỗi khi nhận được tin tức của điệp viên báo về,
ông lại vờ lấy cớ là thần Đian đã báo mộng cho.
Sức
mạnh có được từ công tác tình báo - gián điệp là rất đáng nể vì tác hại
mà nó gây ra cho đối tượng là không thể lường được, đôi khi là rất nặng
nề, thậm chí là thua trận, mất nước. Chúng ta sẽ kể thêm vài ba mẫu
chuyện nữa.
Một
trong những ông vua đầu tiên của nước Anh là Alferd Đại đế đã đích thân
tiến hành một điệp vụ thuộc vào hàng táo bạo nhất trong lịch sử tình
báo. Cải trang thành kẻ hát rong cùng một số nhạc công, ông đã lọt được
vào doanh trại đồn trú của tướng Đan Mạch là Gutrum, trong khi quân đội
Anh lâm vào thế nguy ngập. Nhờ lần quan sát địch tình tận mắt đó và thêm
tài thao lược, Alferd Đại đế đã chặn đứng được quân Đan Mạch xâm lược
vào năm 878.
Vào
cuối thế kỷ XVII, Pháp có một điệp viên là Léon hoạt động tại Luân Đôn,
đế đô của Anh, trong vai một chức vụ quan trọng: bí thư của vua
Guillaume III. Điệp viên này đã cung cấp nhiều tin tức quí báu cho nước
Pháp, nhất là cho Thống chế Luxembourg, Tổng tư lệnh quân đội Pháp đóng
tại Hà Lan. Nhưng đến năm 1692, điệp viên này bị lộ. Trước khi bị hành
hình, điệp viên này bị bắt buộc phải viết một bức thư không đề ngày, gửi
cho viên Thống chế Pháp với nội dung trình bày rằng không phải lo lắng
về sự chuyển quân của Anh vì chúng chỉ đi cắt và chở cỏ cho ngựa. Trước
khi quân Anh tổ chức bao vây tấn công Pháp, bức thư được gửi cho Thống
chế Luxembourg theo con đường liên lạc điệp viên đã sử dụng. Thống chế
vì thế khi thấy quân Anh “rục rịch” vẫn không đề phòng gì. Tảng sáng,
quân Anh bất ngờ tràn vào lúc quân Pháp còn ngủ. Quân Pháp thất bại nặng
nề nhưng nhờ sự ứng phó bình tĩnh và can đảm của một số tướng lĩnh mà
không bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân Anh rút lui sau khi bị thiệt hại 7
ngàn quân.
Chuyện
sau đây thật kỳ lạ. Đại Công tước thái tử nước Nga, Pierre de Holstein
Gottorp, cháu Nữ hoàng Nga Elisabeth, là một ông hoàng ngớ ngẩn, suốt
ngày chơi với lũ lính nặn bằng sáp ong. Ông ta kính trọng Frédéric (vua
nước Phổ) như thần và hay lén mặc quần áo sĩ quan Phổ. Frédéric đã lợi
dụng tình cảm đó, dụ Thái tử chuyển cho Phổ tất cả những kế hoạch tác
chiến mà chính phủ Áo gửi cho Nữ hoàng Nga. Trong khi đó, vợ của Thái tử
tên là Sophie Anhalt Zerbst, con một Thống chế Phổ, lại cung cấp cho sứ
thần Anh tại Nga cũng những tài liệu như thế. Sau khi Nữ hoàng Nga băng
hà, Đại công tước lên ngôi Hoàng đế nước Nga vào năm 1762, hiệu là
Pierre III, và ngay lập tức cho ngừng chiến tranh chống nước Phổ đồng
thời ký với Phổ một hiệp ước liên minh tấn công. Chỉ một năm sau, bà
hoàng Sophie cho ám sát người chồng ngớ ngẩn để chiếm ngôi, lấy hiệu là
Catherine II. Vậy là trong vòng một năm, lần lượt một điệp viên Phổ rồi
đến một điệp viên Anh chễm chệ trên ngai vàng của nước Nga.
Cũng
như Tôn Tử cách đó hai mươi hai thế kỷ, Frédéric chia gián điệp làm bốn
loại, nhưng hơi khác: dân thường, gián điệp đôi, điệp viên quan trọng
và điệp viên bị bắt buộc. Về điệp viên bị bắt buộc, ông giải thích cách
tuyển dụng: “Khi không có điệp viên có giá trị trong một việc quan
trọng, ta đành phải dùng đến mưu mẹo cứng rắn và tàn bạo. Bắt một kẻ
giàu có, ghép vào gia đình này một người khéo léo đóng vai người hầu. Kẻ
giàu có buộc phải dùng người đó đánh xe ngựa chở đến doanh trại quân
thù với lý do kêu cứu rằng ông ta bị hành hạ thô bạo. Nếu ông này không
chịu nhận người của ta, ta sẽ dọa cắt cổ vợ, cướp và đốt nhà ông. Trong
trận Chotusitz, trẫm đã từng dùng mưu mẹo này và đã thành công”.
Một
viên tướng Pháp khá được lòng dân của Pháp, trong cuốn “Nhìn qua vài
chi tiết của chiến tranh”; cũng viết tương tự: “Khi cần có điệp viên để
lấy tin tức về kẻ thù, hoặc đến nơi quân thù chiếm đóng để lấy tin tức,
ta nên đưa theo vài phú nông trong vùng rồi trao nhiệm vụ cho họ và dọa
sẽ đốt nhà, bắt vợ con họ… Ta cũng dùng cách này để cho kẻ thù ăn tin
giả”.
Frédéric
cũng dùng gián điệp vào trò tung tin giả. Nhờ thủ đoạn tung tin giả
khéo léo mà vua Phổ đã đánh bại Charles de Lorraine, Tư lệnh quân Áo tại
Striegau vào tháng 6-1745. Cũng vì trò tung tin giả của đối phương mà
chính ông cũng suýt nữa bị đại bại. Năm 1758, Frédéric dùng một thiếu tá
trong quân Áo thuộc đơn vị của tướng Daun. Hai bên đang dàn quân nghênh
chiến. Viên sĩ quan phản nghịch này gửi tin tức cho quân Phổ về tất cả
kế hoạch tác chiến của quân Áo mà y thu thập được. Một hôm y giấu báo
cáo trong một quả trứng rồi đưa giao liên mang sang cho quân Phổ. Người
ta tình cờ lục soát kẻ giao liên, thấy trứng và trong khi thực phẩm đang
thiếu liền tịch thu hết, giao xuống cho nhà bếp. Khi đập trứng, nhà bếp
phát hiện ra tài liệu liền trình lên Daun và vị tướng này đã dễ dàng
bắt được thủ phạm. Ông dụ dỗ điệp viên kia, muốn sống thì phải viết một
báo cáo khác theo ý ông, và viên thiếu tá điệp viên kia bị khuất phục.
Nội dung bản báo cáo mới là: “Tướng Daun do dự nên phải hội ý với Hội
đồng chiến tranh để ra quyết định đánh ngay hay chưa đánh quân Phổ. Hội
đồng này cũng do dự nên phải xin chỉ thị của Nữ hoàng. Muốn nhận được
trả lời của Nữ hoàng, phải mất 8 ngày”. Báo cáo viết xong được gửi ngay
tới Frédéric bằng con đường quen thuộc.
Frédéric
cả mừng, mời tất cả các thủ trưởng đơn vị đến ăn tối. Khi bữa tiệc sắp
tàn, ông được tin có một lính Áo đào ngũ xin được yết kiến nhà vua.
Người lính Áo đó tâu rằng tướng Daun sắp tấn công. Nhưng tin vào bản báo
cáo của điệp viên nên Frédéric không nghe theo người này và còn nhận
định đây chỉ là thủ đoạn tung tin giả của quân Áo nhằm gây rối loạn, bất
an trong hàng ngũ quân ông. Thế là vua Phổ quyết định cứ để quân lính
nghỉ ngơi, đi ngủ một cách bình thường.
May
có một đại tá kỵ binh vẫn nghi ngại. Sau khi ăn tiệc về, ông này thuyết
phục hai đại tá nữa cho các trung đoàn của họ ở trong tình trạng báo
động.
Đúng
3 giờ sáng thì quân Áo ào ạt tấn công. Nhờ sự chiến đấu hy sinh của ba
trung đoàn bộ binh đó mà quân Phổ không bị tiêu diệt. Frédéric dẫn được
tàn quân rút về một căn cứ mạnh sau khi đã mất một vạn quân và 3 tướng
giỏi là thống chế Keith, Hoàng thân Brunswich và Hoàng thân Anhalt cùng
vô số quân cụ.
Napôlêông
Bônapác là một người có thiên tài nhiều mặt. Một trong những thiên tài
ấy là “thấy” được những con người có biệt tài về mặt này hay mặt khác và
biết dung nạp, đặt họ vào đúng vị trí để họ có thể phát huy được hết
tài năng phục vụ cho Đế chế. Một trong những lĩnh vực mà Napôlêông hết
sức quan tâm và ra sức củng cố vì hiểu được tầm quan trọng cực kỳ của nó
chính là công tác tình báo - gián điệp trong đối nội cũng như đối
ngoại. Dưới thời ông, hàng loạt cơ quan mật ra đời, hoạt động độc lập
nhau, có khi nhằm giám sát nhau và chỉ trực thuộc Hoàng đế; chẳng hạn
như: Cục tình báo Bộ quan hệ đối ngoại, cơ quan tình báo của Hiến binh
ưu tú, cơ quan tình báo quân sự… Điều hành những cơ quan đó là những
nhân vật ưu tú về tài năng như: Savary, Desmarest, Talleyrand,
Landrieux, Fouché … Trong số đó, nổi bật lên trên hết là Fouché.
Phusê
(Joseph Fouché) giữ chức Bộ trưởng cảnh sát. Ông là một thiên tài trong
nghề của mình, nhất là trong công tác mật vụ, phản gián. Napôlêông
thoát được mọi mưu phản trong nước là nhờ vào sự mẫn cán và tài ba của
Phusê. Phusê đã dùng tiền bạc và mánh khóe mà mua chuộc được hoàng hậu
đa tình Joséphine và bí thư của Hoàng đế là Bourienne. Nhờ hai “điệp
viên tại chỗ” này mà ông nắm được các báo cáo của những cơ quan mật khác
và có thể chỉ ra ngay những kẻ theo dõi ông theo lệnh của vị Hoàng đế
đa nghi. Vì thế mà Phusê nắm chắc tình hình có khi hơn cả Hoàng đế và
người ta phải thừa nhận ông là người hùng thứ nhì của nước Pháp sau
Napôlêông.
Ngay
từ buổi bình minh của sự nghiệp lâu dài và đẫm máu của mình, khi mới
chỉ là một tướng trẻ, Bônapác chỉ huy chiến dịch nước Ý mà ông đề xướng
và Viện Đốc Chính (cơ quan hành pháp cao nhất của chính quyền Pháp lúc
đó) cho rằng không mấy quan trọng về mặt chiến lược, Napôlêông đã thấy
ngay công tác tình báo kiểu manh mún, mỗi tư lệnh đơn vị tham gia chiến
dịch trên đều có vài điệp viên, là thiếu hiệu quả, cần phải thay thế
bằng một cơ quan tình báo chính trị - quân sự tập trung đủ mạnh để có
thể thu thập thông tin có giá trị hơn một cách đồng bộ. Ông đã chọn đại
tá kỵ binh tên là Langdriơ (Landrieux) thực hiện việc này. Sự lựa chọn
này thật không chê vào đâu được. Langdriơ đã trở thành người “cái gì
cũng biết, cái gì cũng làm được”. Mạng lưới gián điệp của ông này giăng
ra trong một khu vực rất rộng lớn, điệp viên có mặt ở khắp nơi: Rôma,
Turinô, Florenxia, Vơnidơ, Napôli, Viên, Pari, cả trong Viện Đốc Chính,
trong quân đội đối phương, trong chính đội quân của Bônapac. Langdriơ có
thể tiêu diệt từ trứng nước bất kỳ cuộc mưu phản, bạo loạn nào; có thể
làm cho cả một thành phố bỗng dưng nổi dậy… Có thể là do phản ứng lại
việc tàn sát tại Vêrône trong dịp lễ Phục sinh và với lý do Đốc Chính
nhận được một số báo cáo giả mà ông bị thuyên chuyển về nước. Nhưng
Bônapác vẫn giữ lại và sử dụng cái cơ quan tình báo mà Langdriơ đã lập
ra. Nhờ có nó mà Bônapác chiếm được đảo Manta không mất một viên đạn.
Ở
Bộ Tổng tham mưu có phòng tình báo do tướng Savary chỉ huy. Năm 1810,
Savary thay Fusê làm Bộ trưởng cảnh sát nhưng vẫn kiêm nhiệm chức Cục
trưởng cơ quan tình báo quân sự và như vậy, trở thành thủ trưởng chính
của tất cả các cơ quan tình báo Pháp. Để thấy Savary là người tài năng
đến đâu, chỉ cần nhìn vào sự nghiệp tóm tắt của ông: là sĩ quan mật vụ
dưới chế độ Đốc Chính và Tổng Tài của cuộc cách mạng Pháp; năm 1800 là
Tư lệnh hiến binh; năm 1803 được phong cấp tướng; năm 1807 được phong
Công Tước; 1810 là Bộ trưởng cảnh sát và Cục trưởng Cục tình báo quân
sự; trung thành tuyệt đối với Napôlêông, muốn theo Napôlêông đi đày ra
đảo Thánh Bà Hêlen nhưng bị người Anh bắt giam; năm 1816 vượt ngục trốn
sang Cận Đông, rồi về Pháp; năm 1831 tái ngũ, được cử làm Tư lệnh quân
đội Pháp ở Châu Phi.
Savary
không có cái thiên tài của Fusê nên trong việc bảo vệ nội bộ đã để xảy
ra một sự kiện nghiêm trọng. Số là Malet, lính ngự lâm quân, theo cách
mạng, năm 1804 lên cấp tướng, bị đuổi khỏi chức vụ rồi bị tống giam vì
lập ra tổ chức bí mật bất hợp pháp mang tên là “Anh em xanh”. Bị giam
nhưng vẫn ngầm tổ chức được cuộc đảo chính vào đêm 20-10-1812. Lúc đó
Napôlêông đã đem quân đi đánh nước Nga xa xôi, 14 ngày liền không có tin
tức gì về ông. Malet tung tin hoàng đế đã chết và lôi kéo được hai
trung đoàn, bắt Savary đang ngủ, chiếm Bộ Nội Vụ và Cục Cảnh Sát rồi đưa
hai người theo y lên nắm hai cơ quan này. Nhưng tướng Aullin, Tư lệnh
sư đoàn 1 không theo quân phiến loạn, liền bị Malet rút súng bắn chết.
Các sĩ quan của Aullin bèn xông vào tước súng và bắt giữ luôn tên này.
Mất kẻ cầm đầu, cuộc bạo loạn thất bại. Malet và mười hai đồng bọn bị xử
bắn, còn Savary thì bị chế nhạo. Tuy nhiên, khi trở về, Napôlêông vẫn
quyết định cho Savary giữ chức vụ cũ. Công bằng mà nói với những thành
tích khác và nhất là việc tuyển mộ được Sumâytơ (Charles Louis
Schulmeister), Savary đã làm được nhiều việc đắc lực cho Hoàng đế, vẫn
là thủ trưởng đầy năng lực của cơ quan tình báo quân sự Pháp.
Sumâytơ
là một con người có những cá tính xung khắc nhau đến kỳ lạ. Là người
đặc biệt có tài trong nghề tình báo và được các nhà phân tích thừa nhận
là một trong những điệp viên vĩ đại nhất qua mọi thời đại. Ông sinh năm
1770 tại một vùng hẻo lánh bên hữu ngạn sông Ranh. Cha ông là mục sư. Vì
thèm khát danh vọng, ông thường tự khoe mình là dòng dõi của một gia
tộc cao quí ở Hunggari. Ông được giáo dục rất cẩn thận và kết hôn với
con gái một kỹ sư. Năm 1788, ông mở một tiệm nhỏ buôn bán gia vị và
thuốc lá tại Strasbourg. Dần dà, tiệm nhỏ đó chỉ còn như một cái mác
ngụy trang của một trùm buôn lậu trên sông Ranh. Năm 1799, Savary hành
quân trong xứ Rhénanie và biết đến ông. Năm sau Sumâytơ được Savary
tuyển dụng và bốn năm sau thì thực thụ vào nghề tình báo.
Sumâytơ
đã phụng sự hết sức nhiệt thành cho Hoàng đế và nước Pháp Đế chế bằng
những chuyến công tác đầy khó khăn nguy hiểm tại Áo, Đức, Hà Lan, Anh và
Ailen.
Là
một người rất nóng tính, trong chuyến công tác tại Strabourg theo lệnh
của Savary để điều tra những âm mưu chia cắt nước Pháp, Sumâytơ đã rút
súng bắn luôn hai thủ lĩnh mưu phản. Ông là người vô cùng xảo quyệt
nhưng chỉ với mục đích vì nước Pháp, muốn làm cho nước Pháp của ông
quang vinh. Không bao giờ ông phản phúc, mặc dù ở thời đại ông, sự phản
bội là một hiện tượng phổ biến (chúng ta nhớ lại Tanlâyrăng, Mácmông,
Murat, Morô…). Nhiều người cho rằng ông không có tình cảm, nhưng trong
thực tế thì ông có nhiều con nuôi và bao giờ cũng tỏ ra đại lượng với
không chỉ bạn bè mà cả những người không phải là bạn bè…
Sumâytơ
được trả lương như ông hoàng nhưng cũng có những thu nhập không chính
đáng. Savary và ông, thông qua một tay sai tên là Bernard thu tiền hồ
các sòng bạc rồi hai người chia nhau, hàng năm lên tới 9 triệu quan. Nhờ
thế mà Sumâytơ có thời trở nên rất giàu có. Ông có hai lâu đài, trong
đó có một cái tên là Meinau. Meinau được người ta ca tụng: một lâu đài
sang trọng với 2 hécta vườn theo kiểu Anh và có 162 hécta rừng bao quanh
tuyệt đẹp. Chỉ lâu đài đó thôi, đã là một núi vàng rồi. Ông chỉ còn ước
ao đến một tấm huân chương bắc đầu bội tinh. Ấy vậy mà không hiểu sao,
Napôlêông đã từ chối việc khen thưởng đó bằng lời tuyên bố bất ngờ và có
phần khinh mạn: “Người ta thưởng gián điệp bằng vàng chứ không khen
bằng huân chương”.
Có
lẽ chiến công lớn lao nhất của Samâytơ trong toàn bộ sự nghiệp tình báo
của ông là đã đạo diễn làm nên trận thắng của quân Pháp tại Ulm vào năm
1805, mở đường tiến tới Viên - thủ đô nước Áo.
Khi
chân ướt, chân ráo tới Viên, Sumâytơ diễn lại vở cũ thời xưa của mình:
xuất thân trong một gia đình quí tộc cao quí Hunggari, di cư sang Pháp,
nhưng phải trốn khỏi đó vì ai cũng biết ông thân với dòng họ Habsbourg.
Tướng Mark kết thân với ông và tiến cử ông vào triều đình Áo. Khi chiến
tranh nổ ra, tướng Mark dùng ông làm cố vấn tình báo cho mình. Trên
cương vị này Sumâytơ tuyển mộ và cộng tác chặt chẽ với chỉ huy quân báo
Áo là đại úy Word. Sumâytơ đã cố gắng làm cho tướng Mark tin rằng quân
lính Pháp đã chán ngấy chiến tranh và sẵn sàng nổi dậy chống Napôlêông,
rằng nhiều phần tử đang âm mưu phản loạn ở nước Pháp đã viết thư cho
ông, và để chứng minh, ông đã đưa trình cho tướng Mark những tờ báo kích
động bạo loạn được in và lưu truyền bí mật trong nước Pháp - mà thực ra
là do Savary chế tác, làm cho vị tướng này mê tít. Khi tướng Mark đưa
bốn vạn quân tinh nhuệ nhất của Áo đến Souabe, chờ hội quân với đạo quân
Nga do tướng Cutudốp chỉ huy để lúc đó mới cùng tiến đánh đạo quân Pháp
do thống chế Ney chỉ huy, thì quân Pháp đột nhiên rút lui (theo âm mưu
sắp đặt trước của Sumâytơ). Sumâytơ ru ngủ Mark rằng quân Pháp rút chạy
là do binh lính chống đối, không chịu chiến đấu, và đây chính là thời cơ
có một không hai đánh tan quân Pháp. Mark bèn thay đổi quyết định,
không chờ hội với quân Nga nữa mà tổ chức tiến quân truy đuổi đạo quân
của Ney. Quân Pháp rút từ từ đến Ulm thì quân Áo bắt kịp. Nhưng đến đây
đạo quân của Ney đột nhiên dừng lại, không những không hoảng loạn mà tỏ
rõ quyết tâm nghênh chiến. Đã thế hai bên sườn quân Áo còn xuất hiện hai
đạo quân Pháp do hai tướng Soult và Dupont chỉ huy, cùng lúc đó đạo
quân kỵ binh Pháp của tướng Murát cũng đã có mặt sau lưng quân Áo. Lâm
vào thế hoàn toàn tuyệt vọng, tướng Mark đầu hàng ngày 19-10.
Tại
Viên, người ta vẫn chưa hay biết về sự thảm bại ở Ulm. Sumâytơ đã tung
ra những tin tốt lành của đạo quân trên thực tế đã không còn tồn tại,
khiến cho ông được giới thiệu lên quần thần của vua Áo cũng như vua Nga.
Thậm chí khi tin thất bại về đến Viên và Mark đã bị nhà vua bắt giam mà
Sumâytơ vẫn còn lừa gạt và giữ được tín nhiệm một thời gian nữa. Đến
khi Sumâytơ lâm vào tình thế nguy hiểm, sắp bị bắt thì cũng là lúc tướng
Murát kéo quân vào Viên (ngày 13-11). Lúc này Sumâytơ mới lộ nguyên
hình là sĩ quan Pháp và được Napôlêông giao trọng trách Tổng ủy viên
cảnh sát thành Viên một thời gian ngắn. Nhưng chỉ trong thời gian ngắn
đó thôi ông cũng đã kịp đưa hàng loạt sách mang tư tưởng tiến bộ của các
nhà văn nổi tiếng Pháp như Vônte (Voltaire), Điđơrô (Didorot)… vào thủ
đô của nước Áo phong kiến cổ hủ.
Năm
1809, Sumâytơ được giữ chức Tổng ủy viên các lực lượng tác chiến của
Hoàng gia. Đây là đỉnh cao nhất về danh vọng trong sự nghiệp của ông.
Năm
1814, khi quân châu Âu Liên minh tràn vào nước Pháp, quân Áo đã không
quên mối thù cũ, đốt phá cả hai lâu đài của Sumâytơ. Ông đã không quỵ
lụy để lấy lòng kẻ chiến thắng như nhiều nhân vật cao cấp khác. Trong sự
kiện “Một trăm ngày”, khi Napôlêông từ đảo Elbe trở lại nắm quyền,
Sumâytơ đến Pari và tức khắc bị cơ quan phản gián của Phổ bắt giữ. Sau
khi chấm hết thời đại Napôlêông ở Oatéclô, ông mới được thả với khoản
tiền chuộc phải chịu khá lớn.
Khi
Lui XVIII lên ngôi, Sumâytơ đã khôn khéo tránh được sự trả thù của ông
vua này. Ra khỏi đời sống chính trị, ông cho tu sửa lại hai lâu đài, gả
con gái rất linh đình và làm phúc khá tốn kém. Ông quay về nghề kinh
doanh nhưng thua lỗ, phải bán cả hai lâu đài rồi mua một ngôi nhà nhỏ ở
quê hương Strasbourg. Cuối đời, Sumâytơ sống an bình, rất đúng mực, được
mọi người xung quanh tôn trọng. Để thanh minh trước những dư luận không
tốt về quá khứ của mình, ông cũng viết hồi ký và cho xuất bản. Sumâytơ
mất năm 1853, thọ 83 tuổi.
…
Lịch
sử tình báo thế giới là một kho khổng lồ những câu chuyện kỳ thú mà
không ai có thể kể ra hết được, nghe hết được. Đồng thời, cũng có thể
coi đó như một vở bi hài kịch trường thiên chưa dứt, như một tấn tuồng
vĩ đại đầy hỉ nộ ái ố trên mọi phương diện, mọi góc cạnh, mọi cung bậc,
mọi ngóc ngách trong đời sống sinh động của tâm hồn con người ở cả hai
chiều nhân tính xấu xa và cao đẹp; mà nhiều khi rất khó phân biệt, chọn
lựa đúng - sai và đồng thuận được bởi sự đa tạp của quan niệm, đa chiều
về thị phi, cái đa nhân cách trong một cá tính, đối với những người
trong cuộc, người đương thời và cả đối với hậu thế.
Có
đa chiều về thị phi bởi có đa tạp về quan niệm; có đa tạp quan niệm là
bởi vì con người có trí khôn nhưng vẫn còn mù quáng vì duy ý chí đã
không biết mình mù quáng; mù quáng là vì còn nhận thức mơ hồ về bản thân
cũng như về Tự Nhiên và chưa thấy được viên ngọc quí sau manh áo vải
thô, trong lòng Lão Tử. Chỉ khi nào nhận thức được đến tận cùng căn
nguyên của Tự Nhiên Tồn Tại, một cách triết học, lý trí con người mới
được cho là thông tỏ. Nhờ nhận thức xác đáng Tự Nhiên Tồn Tại mà con
người biết rằng chính áp lực của quy luật đấu tranh sinh tồn đã tạo ra
tất cả những suy nghĩ cũng như những hành động trái chiều nhau ở loài
người. Tình cảm là cảm giác bản năng được trang bị tư duy. Nhờ có tình
cảm mà lý trí được hun đúc nên và trái lại lý trí làm cho tình cảm thêm
sâu sắc và mạch lạc. Hai cái đó hòa quyện vào nhau, tương hỗ nhau
làm nên nhân tính. Từ nhận thức về có - không, còn - mất, sinh - tử và
sự mách bảo bản năng phải ưu tiên sống còn mà lý trí đã lựa chọn, phân
biệt những suy nghĩ và hành động trái chiều nhau nói trên ra thành hai
lực lượng ưu tiên - không ưu tiên, đúng - sai, tốt - xấu, có lý - vô lý,
chính nghĩa - phi nghĩa, thiện - ác…, để rồi trên phương diện tình cảm,
những cái như đúng, tốt, chính nghĩa… hay đại loại là những hành động,
suy nghĩ phụng sự cho sự sinh tồn (từ đó mà cho những nhu cầu của sinh
tồn) trước hết là của con người, đều được qui về một cái gọi là Đạo Đức;
số còn lại được gọi là phi Đạo Đức.
Khi
lý trí còn mù quáng thì tình cảm còn nặng bản năng và trở nên ích kỷ;
bởi vì thông thường và cũng tự nhiên, con người bao giờ cũng ưu tiên cho
sự sống còn của bản thân mình trước tiên, rồi mới đến người thân, cộng
đồng, chỉ có lý trí mới “nhắc nhở” đến sự nhường nhịn, hy sinh.
Trong
một xã hội còn đầy ắp bạo lực với vô vàn lý trí mù quáng làm cho tình
cảm thiên vị như thế thì quan niệm thị phi không thể không hỗn tạp được
và dẫn đến đủ mọi cách hiểu về đạo đức. Mặt khác, tuân theo tự nhiên, bị
chi phối bởi tính nước đôi của Tự Nhiên (thể hiện ra trước quan sát) mà
cái gọi là đạo đức đôi khi cũng chưa hẳn đạo đức, ở đây gọi là đạo đức
thì chưa chắc ở kia gọi là đạo đức, ở phạm vi này gọi là đạo đức thì ở
phạm vi khác biết đâu chừng bị gọi là phi đạo đức…
Tuy
nhiên, xã hội không đến nỗi siêu hình đáng sợ như thế. Cũng như Vũ Trụ,
xã hội loài người hỗn độn mà hài hòa. Xã hội tồn tại là vì nó phù hợp
đạo lý, có một vận động nội tại thống nhất, tuân theo nguyên lý Tự
Nhiên. Cái “đống” hỗn độn đủ kiểu đạo đức ấy cũng phân ra tương đối
thành hai lực lượng quan niệm có tính xã hội là Đạo Đức Xã hội và Phi
Đạo Đức Xã hội.
Đạo
Đức Xã hội là tập hợp tất cả những quan niệm đạo đức phụng sự cho sự
sống còn của toàn xã hội trên cơ sở đảm bảo sự sống còn của từng cá thể,
thành viên hợp thành xã hội và vì thế mà cũng đòi hỏi xóa bỏ những cản
trở, những tác hại đến sự tồn tại xã hội. Nhân dân là nền tảng xã hội và
Đại Chúng là đại diện của nhân dân nên Đạo Đức Xã hội cũng chính là Đạo
Đức của nhân dân và có thể gọi là Đạo Đức Đại Chúng.
Đạo
Đức Nhân Dân không phải tự dưng mà có, mà là sự nhận thức, kế thừa, hun
đúc từ đời này sang đời khác, từ thời đại này sang thời đại khác về một
quan niệm sống mà nó cho là đúng đắn (vì có tính phụng sự toàn xã hội
nên phải là đúng nhất!) như: yêu hòa bình, đoàn kết, tương thân tương
ái, ghét áp bức cường quyền… Có thể nói Đạo Đức Nhân Dân (nói chung!) là
có tính chân lý và là bộ phận của (hay chính là) truyền thống dân tộc.
Vì cùng xuất phát từ mục đích phụng sự sống còn xã hội nên Đạo Đức Nhân
Dân của các nước trên thế giới là tương đối tương tự nhau. Vậy Đạo Đức
Nhân Dân có phải là Đức Huyền Diệu mà Lão Tử đã “sáng tạo ra” và chúng
ta đã mượn “xài” thoải mái từ trước tới giờ không? Đạo Đức Nhân Dân là
tấm gương soi chân lý về thị phi nên có thể cho nó là Đức Huyền Diệu.
Nhưng vì nó mang cả tính thời đại, bị “vướng víu” ít nhiều bởi những
quan niệm còn hạn chế của thời đại nên chưa thể là Đức Huyền Diệu đích
thực. Đức Huyền Diệu đích thực là Đạo Đức của toàn Nhân Loại khi lý trí
Nhân Loại đã thông tỏ và không còn tính thời đại.
Tuy
nhiên, để bám vào hiện thực, chúng ta tạm cho rằng Đạo Đức Nhân Dân
chính là Đức Huyền Diệu và tiếng nói của Đại Chúng là đại diện cho Đức
Huyền Diệu, hành động của Đại Chúng là phụng sự cho Đức Huyền Diệu.
Cũng
vì lẽ đó mà một tư duy lành mạnh là “trùng” với tư duy Đại Chúng, quan
niệm thị phi của nó là trùng với quan niệm thị phi của Đại Chúng và đạo
đức của con người mang tư duy ấy là có bản chất của Đạo Đức Đại Chúng,
tức là thuộc về Đức Huyền Diệu. Khi đã có một tư duy lành mạnh thì tình
cảm và lý trí cũng lành mạnh. Một lý trí lành mạnh bao giờ cũng đánh giá
thị phi theo quan niệm thị phi của Đức Huyền Diệu và nhờ thế trước
những sự vật - hiện tượng xuất hiện và tồn tại trong xã hội, trước sự
lựa chọn hành động cho mình, một lý trí lành mạnh, thông thường, xác
định được đúng - sai, thiện - ác… một cách rõ ràng, mạch lạc và đích
xác, phù hợp với thời đại.
Thế
nhưng, như đã nói, bản năng sinh tồn luôn “bắt” con người phải ưu tiên
lựa chọn hành động cho bản thân mình và vì bản thân mình, do đó mà tình
cảm và lý trí cũng trở thành ích kỷ: yêu mình trước, thậm chí là chỉ
biết yêu mình thôi; vì mình trước và thậm chí chỉ biết vì mình thôi, làm
xuất hiện một đạo đức trái ngược với Đạo Đức Đại Chúng, không thuộc Đức
Huyền Diệu. Một hành động trên nền tảng đạo đức ấy, vì nặng tính mù
quáng nên chúng ta tạm gọi là hành động theo bản năng lý tính (xin nhắc
lại rằng những điều chúng ta vừa nói, nên hiểu một cách biện chứng, bởi
vì tùy góc độ qui ước mà có thể nói khác đi và vẫn đúng hoặc có thể còn
đúng hơn do sự chi phối của nguyên lý “nước đôi”).
Thật
ra, Đức Huyền Diệu đâu có loại bỏ tình cảm yêu mình và hành động vì
mình! Mục đích tối hậu của Đức Huyền Diệu là bảo đảm sự sinh tồn xã hội.
Vì mục đích ấy mà trong những trường hợp nhất định, buộc nó phải hy
sinh (hoặc thậm chí phải ra tay tiêu diệt) một bộ phận sinh tồn xã hội
nào đó (đã cản trở hoặc định tiêu diệt sinh tồn xã hội) để ưu tiên lựa
chọn, để bảo vệ đa số sinh tồn xã hội - sinh tồn của Đại Chúng. Nhưng
bảo đảm sinh tồn trên bình diện xã hội thì cũng có nghĩa phải đảm bảo
sinh tồn được ở bình diện cá thể, ở từng thành viên làm nên xã hội (hoặc
Đại Chúng), vì nếu từng cá nhân không thể sinh tồn được thì xã hội
(hoặc Đại Chúng) cũng còn đâu nữa mà nói đến sinh tồn.
Rốt
cuộc lại, Đức Huyền Diệu dạy rằng: phải ưu tiên cho sinh tồn xã hội,
nhưng đảm bảo được sinh tồn xã hội thì cũng là đồng thời đảm bảo sinh
tồn ở mỗi cá nhân, miễn sự đảm bảo sinh tồn cá nhân của mỗi cá thể không
gây cản trở, tác hại đến sự đảm bảo sinh tồn toàn xã hội, nghĩa là hai
sự đảm bảo sinh tồn ấy phải cùng chiều: Sống vì mình thì cũng chính là
vì cộng đồng xã hội và sống vì cộng đồng thì cũng chính là vì mình; bảo
vệ cộng đồng chính là bảo vệ mình và bảo vệ mình phải trên cơ sở bảo vệ
cộng đồng.
Khi
đã thấu tỏ được Tự Nhiên Tồn Tại thì cũng phải thấu tỏ Đức Huyền Diệu.
Nhưng nếu phân Tự Nhiên Tồn Tại ra thành tự nhiên và xã hội; Tồn Tại ra
tồn tại và sống còn thì thấu tỏ tự nhiên thôi là chưa hoàn thiện mà còn
phải thấu tỏ xã hội nữa. Thấu tỏ được xã hội thì cũng là thấu tỏ được xã
hội và cá nhân. Loài người sống còn được là do con người liên tục được
sinh ra thay thế con người đã chết đi, và đó là đạo lý. Con người được
sinh ra để “chờ” ngày chết đi, cũng là đạo lý. Cái khoản “chờ” ấy được
gọi là sự sống, hay cuộc sống hay cuộc đời của mỗi con người. Có thể nói
con người sinh ra là để sống trước khi để chết. Con người suy nghĩ,
trước sau gì cũng đặt ra câu hỏi : tại sao lại được sinh ra để rồi phải
chết đi, và sống để làm gì? Bởi vì đạo lý đã định đoạt như vậy: đã có
sinh thì phải có tử, là sự ngẫu nhiên trong cái tất yếu, tưởng ưu tiên
mà chẳng phải ưu tiên, tưởng rất quan trọng nhưng chẳng là cái quái gì
cả. Thế nhưng, đối với loài người thì cuộc sống con người có tầm quan
trọng bậc nhất: duy trì sự sống còn cho nó. Nếu thế thì con người sống
chỉ là vì loài người? Đúng, nhưng chưa đủ! Con người sống trước tiên là
cho nó chứ chẳng cần biết đến loài người nhưng nhờ thế mà loài người duy
trì được sống còn. Mặt khác, trong quá trình sống, con người suy nghĩ
thấy sống “một mình” thì “khó quá” nên nó phải liên kết với những con
người khác để “chung lưng đấu cật” cùng sống cho dễ dàng hơn và qua đó
mà “vô tình” phụng sự cho sự sống còn của loài người. Bản năng sinh tồn
nói chung là “bắt” mọi sinh linh phải “cố gắng” đến tận cùng khả năng
để… sống. Ở con người suy nghĩ, bản năng sinh tồn ấy đã ngấm sâu trong
tim, óc, xương, tủy làm cho nó ghê sợ cái chết hơn bất cứ con vật nào
khác và do đó mà cố gắng hơn cả con vật, đem tất cả tài năng và nghị lực
ra để duy trì cuộc sống, kéo dài cuộc sống, ghê sợ cái chết làm thiết
tha cuộc sống, tôn vinh cuộc sống và làm xuất hiện một tình cảm gọi là
Tình yêu cuộc sống.
Yêu
cuộc sống của mình thì cũng là yêu mình, mà yêu mình thì phải ưu tiên
cho mình. Nhưng ưu tiên cái gì? Đó là khi có khả năng (khi tạo được khả
năng) thì ưu tiên cho mình sống bớt đói khát, khổ đau hơn người khác, ưu
tiên cho mình được sống sung túc hơn, hạnh phúc hơn, được hưởng khoái
lạc nhiều hơn. Đến đây, để trả lời câu hỏi: sống để làm gì?, chúng ta
nói: sống là để hưởng thụ cuộc sống, nhưng không có sẵn cái để hưởng thụ
nên phải làm việc mà tạo ra. Nếu có sẵn cái để hưởng thụ rồi thì chẳng
ai thèm làm việc, nếu đã thỏa tò mò rồi thì chẳng ai thèm nghiên cứu cho
mệt xác, nếu đã biết tỏng “cái gì đó” là cái gì rồi thì chúng ta chẳng
dại gì mà cặm cụi viết nhăng cuội cho đến ngày hôm nay làm “lãng phí”
cuộc đời mình, trong khi “em út ngoài kia” đang thiếu một tay chơi có
hạng. Hay trong tục ngữ Việt nam có câu:
“Có ăn vất vả đã cam
Không ăn ta ngủ, ta làm làm chi”
Đã
là con nguời thì từ người khôn cho đến kẻ ngu, từ bậc có học cho đến mù
chữ, từ đấng minh quân cho đến thằng thất phu… đều thích hưởng thụ như
nhau và nếu trong cuộc sống không kiếm chác được gì để hưởng thụ cả thì
nói chung, cũng “ngại” làm việc như nhau. Trong một xã hội còn hỗn mang
và ai ai cũng muốn mình được hưởng thụ tối đa thì số hưởng thụ được tạo
ra sẽ chẳng bao giờ đủ. Tình hình ấy gây ra tình cảm ích kỷ, xui khiến ý
chí mù quáng làm những việc bất chính như trộm cắp, tước đoạt… đồng
loại để có cái mà thỏa mãn hưởng thụ (một cách không chính đáng). Từ đó
mà bạo lực chiến tranh nổi lên, đày đọa và giết chóc lẫn nhau tràn lan
khắp xã hội, đe dọa đến tồn tại xã hội và dẫn đến đe dọa luôn sự sống
còn của loài người. Mặt trái của đạo lý đã trở nên nổi trội!
Khi
mặt trái của đạo lý đe dọa làm tiêu vong xã hội (và loài người) thì mặt
phải của nó sẽ ra tay ngăn chặn, trấn áp để bảo vệ và trong những
trường hợp cực đoan, nó sẽ thông qua Đại Chúng tiêu diệt thiểu số sống
còn để duy trì đa số sống còn. Mặt trái của đạo lý được gọi là vô đức và
mặt phải của nó được gọi là có đức hay đức độ. Một hành động muốn làm
đức thì trước hết nó phải hiện hữu được trong hiện thực và
muốn vậy nó phải phù hợp đạo lý. Do đó mặt phải của đạo lý được gọi là
đạo đức. Khi cách gọi tổng quát của đạo lý là Đạo Tự Nhiên thì lúc đó,
đạo đức sẽ được gọi là Đức Huyền Diệu.
Trong
xã hội loài người, Đức Huyền Diệu là mặt có tính nền tảng, cơ sở, và
cũng là kết quả ưu tiên của Đạo Tự Nhiên, đồng thời cũng phù hợp với
nguyện vọng thiết tha của nhân dân là được yên ổn làm ăn, no đủ và hạnh
phúc.
Một
nhận thức đã thấu tỏ xã hội thì không thể không thấu tỏ Đức Huyền Diệu.
Thấu tỏ Đức Huyền Diệu và biết nghe theo lời khuyên dạy của Đức Huyền
Diệu thì gọi là giác ngộ. Khi nhận thức chưa giác ngộ thì lý trí và tình
cảm còn tương đối tách biệt nhau. Lúc này, một hành động tự do thường
là nghe theo sự mách bảo của con tim chứ không phải bài giáo huấn của
khối óc. Bởi vì một hành động tự do (tự giác) sẽ không bao giờ biết đến
chia sẻ, nhường nhịn, hy sinh (chưa nói đến sự hy sinh thân mình) nếu nó
không có cái động lực cao cả, thiêng liêng là tình yêu thương đồng
loại, yêu thương quê hương, tổ quốc. Yêu thương mình đồng thời với yêu
thương đồng loại là sự đảm bảo tự nhiên cho loài người sống còn và chính
vì thế mà nó là nội dung cốt lõi, cơ bản nhất của Đức Huyền Diệu. Suy
ra, một nhận thức đã giác ngộ thì cũng phải thấm nhuần cái nội dung ấy
và cái nội dung ấy là tiên quyết không thể thiếu được đối với một con
người có đạo đức chân chính nào.
(...)
Khi
nhận thức đã giác ngộ thì lý trí và tình cảm trở nên lành mạnh, hòa hợp
và nhất trí. Lúc này, hành động theo con tim thì cũng là theo khối óc
và vì thế mà nó cũng trở nên đích đáng.
Đạo
đức nhà Phật cũng đề cao tình yêu thương chúng sinh nhưng không phải là
Đức Huyền Diệu như chúng ta quan niệm. Tình yêu thương chúng sinh mà
Phật Giáo rao giảng cũng có một phần đúng và trong suốt quá trình tồn
tại của nó, nó đã có công lao to lớn trong việc ru ngủ, xoa dịu nỗi đau
khổ triền miên của tâm hồn con người, của tâm hồn quần chúng cần lao,
cũng như đã có tác dụng nhất định trong việc thu phục ác tâm, “cải tà
qui chính”. Lịch sử đã cho thấy rằng Đại Chúng yêu mến nhà Phật vì tấm
lòng từ bi hỉ xả, vì lời khuyên chí tình là sống cho lương thiện và nhân
ái của nhà Phật. Thế thôi chứ Đại Chúng không đi theo nhà Phật mà vẫn
đi theo con đường thiết thân vì quyền sống cơ bản của mình - con đường
của Đức Huyền Diệu (mà trong một xã hội thanh bình yên vui, nó có vẻ
đồng điệu, thậm chí là trùng với con đường của đạo đức nhà Phật).
Đạo
đức nhà Phật dù có cái đúng như đã nêu nhưng cũng có cái sai. Cái sai
của nó là cơ bản. Cái sai đó chính là cái mà nhà Phật đã cố thoát ra và
tưởng đã thoát ra được: sự vô minh, mê lầm. Sự vô minh, mê lầm đã làm
cho quan niệm yêu thương chúng sinh của nhà Phật bị bao trùm bởi tính mù
quáng.
Vì
bị sự mù quáng thao túng nên tình yêu thương kiểu nhà Phật trở nên nhạt
nhòa, bi lụy, cải lương, ảo tưởng và vô tình dung túng cái ác; đã không
giúp được gì mà còn cản trở Đại Chúng trên bước đường đi đòi lại quyền
lợi sống còn cơ bản và chính đáng của mình. Chính vì vậy mà lịch sử phát
triển Phật Giáo - bộ phận của lịch sử phát triển triết học thế giới -
cũng đầy những trăn trở, dằn vặt, đầy những bất đồng dẫn tới không ngừng
phân ly phe phái, tan rồi hợp, hợp rồi lại tan. Chỉ riêng khái niệm
“Niết bàn” thôi đã có vô kể lý giải nhưng chưa có lý giải nào, kể cả của
những Phật gia thâm hậu nhất, được lên ngôi độc tôn, bởi vì không có lý
giải nào mà không mâu thuẫn (không phải là loại mâu thuẫn do nguyên lý
nước đôi, mà do “kỹ thuật” và có tính “cơ học”) với chính cái nền tảng
lý luận đã sinh ra nó. Để rồi, trước nguy cơ “dễ gây rạn vỡ lòng tin”
phiền toái, người ta đã phải mở một lối để “giải thoát” cho nó: Niết bàn
là “bất khả thương nghị” vì nó ở bên ngoài, vượt lên trên khái niệm,
chỉ có thể “ngộ” được nó qua con đường tu tập Phật Giáo mà thôi (!). Vì
bị bao phủ bởi mù quáng như thế và là bộ phận của “xã hội ngoài đời”,
nên xã hội Phật Giáo cũng không thoát khỏi sự phân hóa trên - dưới,
trước - sau làm xuất hiện sự đua tranh mang bản chất danh lợi và vì danh
lợi, cũng xuất hiện đủ những cao thượng - thấp hèn, quân tử - tiểu nhân
(tuy nhiên, có thể là do mức độ không quá gay gắt, có phần ngấm ngầm
nên cũng không bộc lộ ra một cách rõ ràng, quyết liệt nhờ ở trong sự phủ
dụ của tình yêu thương nhà Phật, trong sự răn đe ân oán kiểu nhà Phật
và cũng vì sợ làm hoen ố tấm gương mẫu mực của lối sống chay tịnh, không
thị phi, bất vụ lợi mà Phật Giáo đã trưng ra trước bá tánh). Nếu ngày
xưa vua chúa lấy lộc nước làm nguồn thu để sống và làm giàu thì ngày
nay, có thể nói sự tồn tại, sung túc, và công việc từ thiện của các chùa
chiền Phật Giáo đều dựa vào nguồn thu chủ yếu từ công quả đóng góp,
hiến dâng của bá tánh. Đây là điều rất đáng phải suy nghĩ!
Đức
Huyền Diệu có bản chất ưa chuộng hòa bình vì mục đính tối hậu của nó là
phụng sự cho xã hội loài người được sống còn một cách tốt đẹp. Nhưng
mặt trái của đạo lý, trong xã hội còn hỗn mang, làm xuất hiện những bộ
phận người lấy giết chóc, cướp bóc đồng loại làm lẽ sống. Muốn giết
chóc, cướp bóc thì phải có quyền lực. Thoạt kỳ thủy, quyền lực đó có
được là do lạm dụng, “ăn cắp” cái quyền lực của nhân dân đã tín nhiệm
trao cho, dùng vào việc phụng sự nhân dân, phụng sự xã hội. Dần dần,
quyền lực ấy trở thành sở hữu riêng của bộ phận người chuyên đi cướp bóc
và giết chóc (không thể cướp bóc được mãi mà không giết chóc!). Khi đã
giàu có của cải rồi thì phải dùng một phần của cải cướp bóc được để nuôi
dưỡng quyền lực, sử dụng bạo lực nhằm bảo vệ của cải đã cướp bóc được
và tiếp tục những cuộc cướp bóc, giết chóc mới. Tình hình đó gây nên nạn
đối xử với nhau bằng bạo lực và bạo lực tràn lan trong xã hội; làm cho
xã hội bị tàn phá ngày một ghê gớm, cuộc sống xã hội trở nên ảm đạm,
ngày một ngột ngạt, thê lương đến độ đe dọa bản thân sự sống còn của
chính xã hội. Lúc này, Đức Huyền Diệu bị đặt trước một thách thức nghiêm
trọng: hoặc là phải chịu khuất phục, rời bỏ cái sứ mạng thiêng liêng
của nó hoặc phải chiến đấu. Vâng theo Tạo Hóa, nó chọn con đường chiến
đấu và Đại Chúng, như một thiên sứ của nó, sẽ thực hiện trong thực tế
nhiệm vụ mà nó đã lựa chọn ấy bằng bạo lực và tột đỉnh của bạo lực là
đấu tranh vũ trang.
Trong
xã hội, khi một bộ phận người đã trở nên phản động, ra sức bóc lột, đàn
áp, giết chóc bộ phận đa số còn lại thì coi như nó đã không xem số còn
lại đó là đồng loại của nó nữa. Do đó, Đại Chúng cũng coi đám thiểu số
ấy là lạc loài, là như một kẻ ngoại bang tàn bạo đến xâm lược và đô hộ.
Vì vậy, để sống còn, để tránh bị tiêu diệt, Đại Chúng chỉ còn cách tiêu
diệt cho bằng được quyền lực của kẻ lạc loài đó và buộc phải giết chóc
sinh linh.
Đức
Phật không khuyên Đại Chúng làm như thế mà khuyên nên cam chịu, bất bạo
động. Lời khuyên ấy có thể là đúng trong sinh hoạt dân sự bình thường
giữa các cá thể với nhau và câu “Lấy oán báo oán, oán oán chất chồng”
của nhà Phật cũng đúng trong trường hợp này. Nhưng sẽ trái đạo lý trong
trường hợp Đại Chúng phải đứng lên giành lại quyền sống cơ bản đã bị
tước đoạt của mình trước mũi tên, hòn đạn của cường bạo. Đây chính là
điểm khác biệt cơ bản, có tính nguyên tắc giữa hai quan niệm về tình yêu
thương đồng loại: đạo đức nhà Phật và Đức Huyền Diệu.
Mục
đích của Đức Huyền Diệu là phụng sự sự sống còn của nhân loại, mong
muốn của Đức Huyền Diệu là xã hội thanh bình, tươi vui. Vì lẽ đó mà Đức
Huyền Diệu rất ghét chiến tranh nhưng cũng vì lẽ đó mà trong những
trường hợp vạn bất đắc dĩ, nó cũng không chối bỏ và thậm chí là đi gây
chiến tranh. Tuy nhiên, Đại Chúng tiến hành chiến tranh chỉ là nhằm đánh
tan cái quyền lực đè đầu, cưỡi cổ, bóp nghẹt cuộc sống họ để tự giải
thoát và hơn nữa đó là cuộc chiến đấu vì sự sống còn xã hội, có tính
chính nghĩa, nhân đạo cao cả nên trước khi phải giết chóc, nó luôn cân
nhắc, không để xảy ra nạn giết chóc bừa bãi, vô cớ.
Chúng
ta cho rằng Lão Tử là nhà hiền triết sớm nhất và cũng là người duy nhất
cho đến nay thấy được căn nguyên đích thực của Tự Nhiên Tồn Tại, giải
thích nhất quán được một cách triết học những hiện tượng tự nhiên cũng
như xã hội trên cùng một cơ sở duy nhất là Đạo Tự Nhiên (vì đúng là như
thế thật, xét cho cùng thì chúng đều có cùng nguồn gốc, vận động theo
cùng một nguyên lý cơ bản và duy nhất với những biểu hiện đặc thù để
phân biệt được mà thôi). “Đạo Đức Kinh” là tác phẩm triết học vô giá của
loài người đồng thời cũng là một pho giáo huấn bất hủ về lẽ sống con
người và ứng xử xã hội. Do lối hành văn hết sức “kiệm lời” bởi hạn chế
thời đại và của văn tự tượng hình mà đám hậu thế chúng ta, dù đã hơn
2500 năm trôi qua vẫn chưa hiểu đúng và hiểu hết được ý tình Lão Tử gửi
gắm trong kiệt tác này. Chúng ta sẽ lại trích vài lời bàn luận về xã hội
và chiến tranh của nhà hiền triết số một này để… đỡ nhớ lão:
“Hết
sức giữ cho (tinh thần) cực hư, cực tĩnh, để quan sát vạn vật sinh
trưởng, ta sẽ thấy được luật phản phục (qui luật tuần hoàn).
Vạn
vật phồn thịnh rồi thì đều trở về căn nguyên của chúng (trạng thái cân
bằng, tĩnh tại). Trở về căn nguyên (qui căn) thì tĩnh, để lại (bắt đầu
làm) theo mệnh. Theo mệnh là luật bất biến. Nhận thức được luật bất biến
(qui luật) thì gọi là sáng tỏ, không nhận thức được luật bất biến thì
vọng động mà gây họa.
Nhận
thức được luật bất biến thì bao dung, bao dung thì công bằng, công bằng
thì vẹn toàn, vẹn toàn thì phù hợp tự nhiên, phù hợp tự nhiên thì phù
hợp đạo, hợp đạo thì bền vững lâu dài, cả đời không nguy”.
“Cai
trị thiên hạ bằng cưỡng bức là điều mà ta thấy không thể (thành công)
được. Thiên hạ (nhân dân) có thần khí (linh diệu) nên không thể cưỡng
bức, khống chế họ bằng bạo lực. Cai quản bằng bạo lực sẽ thất bại, thống
trị bằng áp chế sẽ bị lật đổ.
Mọi
người trong thiên hạ (là không giống nhau), có người đi trước có kẻ
theo sau, có người thở chậm có kẻ thở nhanh, có người mạnh khỏe có kẻ ốm
yếu, có người yên ổn có kẻ hoạn nạn. Cho nên thánh nhân (cai trị thiên
hạ) phải loại bỏ những hành xử thậm tệ, từ bỏ xa hoa, không đòi hỏi quá
quắt (như tăng cường bóc lột chẳng hạn)”.
“Người
giữ đạo mà phò vua thì không dùng binh lực ức hiếp thiên hạ. Vì làm như
vậy sẽ có tác dụng ngược (làm cho binh lực thiên hạ mạnh lên).
Chiến
trận xảy ra ở đâu, ở đó tan hoang, gai góc mọc đầy. Vì vậy mà sau những
cuộc chiến tranh lớn thường xuất hiện mất mùa, đói kém.
Người
khéo dùng binh, khi đạt được kết quả, mục đích thì thôi, không huênh
hoang mạnh hơn thiên hạ. Đạt được mục đích không lấy làm tự phụ, không
khoe công lao, không kiêu hãnh, mà phải cho đó là việc bất đắc dĩ. Đạt
được mục đích rồi thì không thể hiện sự hùng mạnh nữa (bãi binh).
Vật gì cũng vậy, đạt đến cường tráng thì sẽ già suy. Như vậy cương cường là không hợp đạo, không hợp đạo thì sớm bị diệt vong”.
“Binh
khí là vật bất tường (nguy hiểm, gây họa) ai cũng ghét nên người giữ
đạo không thích dùng nó. Người quân tử khi ở nhà thì trọng bên trái
(dương, sự sống), khi dùng binh thì trọng bên phải (âm, sự chết).
Binh
khí là thứ bất tường, không phải là của người quân tử, cho nên chỉ bất
đắc dĩ mới dùng đến, mà dùng đến thì nên điềm đạm (bình tĩnh, cân nhắc
kỹ càng) là hơn cả. Thắng cũng không cho là hay, nếu cho là hay tức là
thích giết người. Kẻ nào thích giết người thì không thể vui sống, đắc
chí với thiên hạ được.
Lúc
yên lành (cát) thì trọng bên trái (quan tâm, chú ý nhiều hơn đến sự
sống), lúc nguy nan (hung) thì trọng bên phải (quan tâm, chú ý nhiều hơn
đến cái chết). Phó tướng ở bên trái, thượng tướng ở bên phải để (tỏ rõ
rằng) coi việc dùng binh như tiến hành tang lễ. Giết hại nhiều người thì
nên lấy lòng bi ai mà khóc; chiến thắng rồi thì nên lấy tang lễ mà xử”.
Nhờ
những tin tức tình báo quí giá từ bên kia chiến tuyến gửi về kết hợp
với những phân tích tình báo tại chỗ, Đại Bản Doanh của Hồng quân đã báo
cho các tư lệnh phương diện quân bố trí trên khu vực vòng cung Cuốxcơ
trước 3 ngày về việc quân Đức có thể tiến công trong khoảng từ ngày 3
đến ngày 6-7-1943. Hồng quân Liên Xô đã trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Đêm
4, rạng ngày 5-7, lực lượng trinh sát Xô Viết bắt được một lính công
binh Đức. Sự việc được báo cáo lên ngay cho nguyên soái Giucốp. Tên này
khai rằng lệnh tấn công của Hítle đã được phổ biến xuống các đơn vị và
thời điểm mở màn là vào khoảng 3 giờ sáng.
Nguyên
soái Giucốp, Tổng chỉ huy chiến dịch nhanh chóng hạ mệnh lệnh tấn công
phủ đầu bằng pháo binh vào đội hình quân Đức. Đúng 2 giờ 20 phút, hỏa
lực của tất cả các loại pháo của Hồng quân bắn phá mãnh liệt sang trận
địa quân Đức. Cuộc bắn phá này làm chậm thời điểm tấn công đã dự định
của quân Đức đến hai tiếng rưỡi. Mãi đến 5 giờ 30 phút, quân Đức mới có
thể tổ chức đợt tấn công đầu tiên.
Và
như đã kể, chiến dịch “Xitađen” của quân phát xít Đức đã bị thất bại
thảm hại, mở ra bước ngoặt có tính quyết định đến chiến thắng của quân
dân Xô Viết trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Nhiều
năm sau, nguyên soái Giucốp, vị tướng thiên tài của đất nước Liên Xô và
là danh tướng thế giới đã ghi trong hồi ký của mình về nguyên nhân
thắng lợi của Hồng quân trong trận đánh tại vòng cung Cuốxcơ:
“Bất
cứ ai có chút ít kiến thức quân sự đều hiểu rằng do đâu mà có thắng lợi
quân sự. Muốn giành thắng lợi, đòi hỏi phải đánh giá đúng đắn toàn bộ
tình hình, lựa chọn chính xác hướng tấn công chủ yếu, bố trí đội hình
khéo léo, có sự tính toán và hiệp đồng chặt chẽ tất cả các loại vũ khí;
các chiến sĩ phải có tinh thần chiến đấu cao và kỹ thuật chiến đấu tốt,
phải có sự lãnh đạo kiên quyết và linh hoạt, nắm vững thời cơ và nhiều
yếu tố khác nữa…
Tình báo giỏi cũng là một trong những nguyên nhân đảm bảo thắng lợi cho trận đánh vĩ đại này.”
Công
lao của các chiến sĩ tình báo Xô Viết (có nhiều quốc tịch khác nhau)
hoạt động tại Châu Âu, đối với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của quân
dân Liên Xô và qua đó mà đối với cả nhân loại tiến bộ là to lớn, không
thể kể hết được. Sự hoạt động hiệu quả của lực lượng này đã được ngay
chính Hítle, kẻ hãnh tiến điên cuồng, cũng phải thừa nhận. Sau chiến
tranh vài năm, Vante Phôn Selenbéc, thủ trưởng cục 6 của cơ quan an ninh
đế chế Đức, đã viết trong hồi ký:
“Hítle
lại quay sang công tác phản gián của chúng tôi, thường xuyên hỏi và yêu
cầu báo cáo. Hítle nói rằng cơ quan tình báo bí mật của Nga có hiệu lực
hơn của Anh hay của bất cứ một nước nào khác. Hítle đã ra lệnh tập
trung tất cả lực lượng để đối phó lại với tình báo Liên Xô, chống lại
mạng lưới đang lan nhanh một cách ghê gớm trong nước Đức và trong những
vùng bị Đức chiếm đóng”.
Và sự hy sinh của họ cũng to lớn.
Trong tác phẩm “Trong những tháng năm của cuộc Đại chiến”, tác giả I.M.Kôrônkốp đã viết những lời tôn vinh như thế này:
“Những
dòng chữ khắc ghi trên bia mộ, những tượng đài kỷ niệm các vị anh hùng,
những cặp tài liệu lưu trữ bên ngoài đề: “Giữ vĩnh viễn”, thôi thúc ta
quay nhìn lại quá khứ. Thêm vào đó, còn có vô vàn ký ức của những người
tham gia vào các sự kiện đã qua. Nhưng con người ta đâu có tồn tại mãi
mãi, họ lần lượt theo thời gian, giã từ cuộc sống, mang theo mình những
kỷ niệm đã ăn sâu vào tâm trí. Vẫn còn có biết bao nhiêu những nấm mồ vô
danh của các đồng chí chúng ta nằm lại trên các chiến trường xưa. Ngọn
lửa vĩnh cửu trên ngôi mộ Người Chiến Sĩ Vô Danh sẽ cháy mãi để khắc ghi
công ơn của những người đã ngã xuống. Nhưng những ngọn lửa tiếc thương
của nhân dân, những ngọn lửa vinh quang dành cho người lính không thể kể
cho ta nghe về những chiến công cụ thể của họ được. Một nhà thơ đã ghi
trên mộ Người Chiến Sĩ Vô Danh bài thơ sau:
Bạn tiễn đưa anh, con người đã khuất
Không có quân hàm, chẳng thấy huân chương
Ở sâu kia, tận trong lòng trái đất.
Anh vẫn là anh, người lính bình thường
Mãi mãi ngàn năm đất mẹ thân thương
Ấp ủ cho anh, ơi người chiến sĩ
Canh giữ cho anh đời đời yên nghỉ
Một dải Ngân Hà rực sáng hào quang.
Cảm
động thay khi ta đọc những vần thơ đó. Thế nhưng chỉ có các tác phẩm
của các nhà sử học, nhà văn mới có thể kể đầy đủ chi tiết về những sự
kiện đã qua, về những con người đã lập nên những chiến tích, về những
tính cách kiên cường, phi thường của họ mà thôi…”.
Trong
những năm tháng chiến tranh ấy, có một nhà tình báo Xô Viết nổi bật hẳn
lên, tiêu biểu về tài năng cũng như đức độ và tinh thần bất khuất, tên
ông ta là Rishớc Soócgiơ.
Ngày nay ở Nhật Bản, trong nghĩa trang Tama, có một ngôi mộ bằng đá trên có tấm bia khắc bằng chữ Nhật và chữ Đức:
“RISHỚC SOÓCGIƠ
1895 - 1944
Nơi
đây an nghỉ một người anh hùng đã hy sinh tính mạng của mình để chống
chiến tranh và vì hòa bình thế giới. Sinh tại Bacu năm 1895. Đến Nhật
Bản năm 1933. Bị bắt năm 1941. Bị giết hại ngày 7-11-1944”.
(...)
Đây
là bức điện cuối cùng gửi Trung tâm trước khi nhóm tình báo chiến lược
do Soócgiơ đứng đầu bị phản gián Nhật phá vỡ, và Soócgiơ cùng các đồng
chí trung thành của ông (gồm người Nam Tư, người Nga, người Nhật) lần
lượt bị bắt:
“Nhiệm
vụ của chúng tôi ở Nhật Bản đã hoàn thành. Cuộc chiến tranh giữa Liên
Xô và Nhật Bản đã không xảy ra. Đề nghị cho chúng tôi về Liên Xô hoặc
phái chúng tôi sang Đức”.
(...)
Thời
gian đầu, khi bị hỏi cung, Soócgiơ giữ thái độ im lặng ngoài câu nói
duy nhất trước viên chánh án Nhật là Matxukô Nakamura: “Tôi là công dân
Xôviết”.
Sau
một thời gian, cơ quan phản gián Nhật đã tìm cách dịch được các bức
điện mật mã do hiệu thính viên của Soócgiơ tên là Clauden truyền đi.
Chính bản thân Clauden cũng bất ngờ trước tổng số thông tin mà mình đã
gửi đi trong 5 năm: hàng trăm ngàn nhóm điện. Đến đây, cơ quan phản gián
Nhật đã biết được toàn bộ hoạt động của nhóm tình báo do Soócgiơ đứng
đầu.
Trong
một lần hỏi cung, nhân viên phản gián Nhật đã đưa cho Soócgiơxem các
bản sao của tất cả các bức điện mà nhóm của ông đã gửi đi, kể cả luật
mật mã của nhóm và tên đài nhận là Oêthađen. Từ đó, Soócgiơ quyết định
nói với điều kiện không nói gì về những điều bí mật, về những kỹ thuật
cũng như về phương pháp hoạt động của ông.
Khi
Soócgiơ quyết định nói, viên biện lý Yôshikaoa hí hửng đọc một câu
phương ngôn Nhật: “Một ngày sống trên thế gian này còn hơn một ngàn ngày
ở thế giới bên kia”. Nghe vậy, Soócgiơ điềm tĩnh nói:
-
Một người chiến sĩ không tránh được cái chết ở trận địa. Tôi không đặt
chút hy vọng nào vào các cây tre năm nay, nhưng tôi hy vọng vào các măng
non của tương lai.
Trong các biên bản hỏi cung còn sót lại sau chiến tranh, người ta đọc thấy những dòng này:
“Vấn: - Tiến sĩ Soócgiơ, tại sao ông thành người Cộng sản?
Đáp:
- Tôi đã tham gia chiến tranh và tôi đã thấy rõ chiến tranh là điều
khủng khiếp nhất đối với thế giới. Tôi đã nghiên cứu chính trị - kinh tế
học, lịch sử, và tôi đã đi đến kết luận là chỉ có Chủ nghĩa cộng sản
mới có thể xóa bỏ nghèo khổ và đói rách. Ông nội tôi, Friđric Annbe
Soócgiơ, là thư ký của Mác, nhưng điều đó không phải là ảnh hưởng quyết
định đối với tôi. Tôi bắt đầu đọc các tác phẩm của Mác khi phải nằm bệnh
viện do bị thương. Sau đó, tôi đã thấy rõ sự sụp đổ của nước Đức quân
chủ. Sau chiến tranh, tôi đã thấy sự khổ cực của hàng triệu con người.
Tất cả điều đó đã củng cố lòng tin của tôi đối với Chủ nghĩa cộng sản.
Vấn: - Ông bắt đầu tin Chủ nghĩa cộng sản từ bao giờ?
Đáp:
- Từ năm 1918. Cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất đã ảnh hưởng sâu
sắc tới cuộc sống của tôi. Chưa nói đến các lý do khác, chỉ riêng lòng
căm thù của tôi đối với chiến tranh cũng đủ làm tôi trở thành người cộng
sản.
Vấn: - Nhóm của ông là nhóm gián điệp, và ông là một kẻ gián điệp…
Đáp:
- Cái nghĩa mà người ta thường gán cho từ “gián điệp” không có quan hệ
gì với việc mà chúng tôi làm. Những người gọi là gián điệp thường tìm
những chỗ yếu về chính trị, kinh tế của Nhật Bản để giáng những đòn mạnh
mẽ vào đấy. Nhưng nhóm chúng tôi sưu tầm các tin tức của Nhật Bản là
nhằm mục đích khác, với tinh thần khác. Năm 1935, Khi Clauden và tôi từ
biệt thủ trưởng cục 4 của Hồng quân, ông đã nói với chúng tôi: “Tôi muốn
rằng các hoạt động của các anh phải nhằm làm sao tránh được cuộc chiến
tranh giữa Nhật và Liên Xô…”. Những người Xôviết từ nhiều năm nay đã tìm
cách tránh những va chạm và những nguồn có thể gây xung đột với Nhật
Bản. Đã có nhiều ví dụ để chứng minh. Khi xảy ra sự kiện Khanka, Liên Xô
đã chấp nhận ngừng bắn, tuy phía Liên Xô đã giành được chiến thắng quân
sự. Hơn nữa, Liên Xô đã nhượng cho Nhật tuyến đường sắt Mãn Châu để duy
trì hòa bình giữa hai nước. Và còn nhiều ví dụ khác nữa… Khi Bộ trưởng
ngoại giao Nhật là Mátxuôka sang thăm châu Âu, Liên Xô đã ký ngay hiệp
ước trung lập sau khi nắm được tình hình do tôi báo cáo. Tất nhiên, tôi
không nói rằng chỉ do các hoạt động của nhóm chúng tôi mà Liên Xô và
Nhật Bản có quan hệ tốt với nhau, nhưng chúng tôi bao giờ cũng làm việc
với tinh thần đó. Đó là điều khác biệt giữa chúng tôi với những người
được gọi là gián điệp, và cũng là điều khác biệt giữa lập trường của
chúng tôi với lập trường của họ. Và đó cũng chính là điều mà tôi viết
trong bức điện cuối cùng gửi về Mátxcơva hôm trước khi tôi bị bắt, trong
đó tôi nói rõ là nhiệm vụ của chúng tôi đã hoàn thành vì sẽ không có
chiến tranh giữa Nhật và Liên Xô, và tôi xin trở về Mátxcơva hoặc sang
Đức”.
Mùa
hè năm 1944, phía Nhật báo cho sứ quán Đức là Soócgiơ muốn gặp một quan
chức của sứ quán trước khi chết. Việc đó làm náo động sứ quán Đức.
Người ta bàn tán, đoán già đoán non…
Hammel,
phiên dịch của sứ quán Đức được cử đến nhà tù nơi Soócgiơ bị giam giữ
chờ ngày hành quyết. Trước mắt viên phiên dịch là một con người xanh
xao, rất gầy, kiệt lực, đôi mắt đỏ sọc sau cặp kính, nhưng rất bình
thản. Người đó nói một cách nhẹ nhàng:
-
Tôi mong rằng mẹ tôi, Nina Sêmiônôva Kôbêlêva Soócgiơ hiện ở Hămbuốc,
không bị làm rầy rà. Mẹ tôi không hề biết gì về cuộc sống cũng như về
các hoạt động của tôi. Đó là điều mong muốn cuối cùng của tôi.
Ngày
hành quyết, theo luật định, viên giám đốc đọc bản án và báo cho Soócgiơ
biết ông sẽ bị xử tử ngay trong ngày. Không nói gì, Soócgiơ thong thả
ra khỏi phòng giam, qua sân nhà tù, bước vào một căn phòng nhỏ. Một nhà
sư tiến tới hỏi: “Người có cần cầu nguyện không?”. Soócgiơ lắc đầu, quan
sát thấy một vòng tròn chỉ chỗ đứng, ông bước vào chỗ đó. Đúng lúc đao
phủ quàng sợi dây thòng lọng vào cổ, Soócgiơ hô:
- Đảng Cộng sản, Liên Bang Xôviết và Hồng quân muôn năm!
Soócgiơ
chết vào buổi sáng ngày 7-11-1944. Đêm hôm đó, những tràng pháo hoa
sáng rực bầu trời của các thành phố Xôviết: Liên Xô kỷ niệm lần thứ 27,
ngày Cách Mạng Tháng Mười Nga thành công.
(...)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét