Thứ Hai, 16 tháng 11, 2015
BÍ ẨN LICH SỬ 12/b (Ải Nam Quan)
Chứng Minh Lịch Sử Ải Nam Quan Là Của Việt Nam / Tác giả: Trịnh Quốc Thiên
9 bài đăng của 3 tác giả
trinhqu...@gmail.com |
18/02/2014
|
Tác giả: Trịnh Quốc Thiên
Một câu hỏi lớn trong lịch sử Việt Nam đã được mọi người trong thời gian gần đây đặt ra là "Ải Nam Quan có thật sự là của Việt Nam hay của Tàu ?". Câu nói "nước Việt Nam ta kéo dài từ Ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mau" là câu nói đúng lịch sử hay là câu nói nhận vơ bậy cái Ải Quan của nước khác (Trung Hoa) rồi tự nhận xằng là của Việt Nam ta ?
Sau đây là đoạn sử quan trọng trong Việt Sử Toàn Thư (và 1 số sách khác có nói đến đoạn này) để chứng minh ẢI NAM QUAN đã từng thuộc Tổ Tiên của chúng ta. Tác giả xin trích nguyên văn : Vào ngày 21 tháng Chạp năm Giáp Thân (1284), quân Mông Cổ huy động 50 vạn binh sĩ cùng với các danh tướng như : Tả Thừa Lý Hằng, Bình Chương A Thích, Bình Chương A Lý Hải Nha để sang xâm chiếm nước ta. Tổng chỉ huy là thái tử Thoát Hoan. Phụ tá cho Thoát Hoan là Thượng tướng Ô Mã Nhi và Toa Đô.
Quân bản bộ của Thoát Hoan đến Cửa Nam Quan thì ngừng lại. Thoát Hoan phái Bá Tổng A Lý mang thư qua nói : "Bản súy chỉ nhờ đường Nam Quốc qua đánh Chiêm Thành, chứ không có bụng gì đâu mà ngại. Nên mở cửa cho bản súy đi và đến đâu chỉ nhờ giúp ít nhiều lương thảo, khi phá xong Chiêm Thành sẽ có trọng tạ. Nhược bằng kháng cự thiên binh, bản súy sẽ không dong tình, bờ cõi sẽ tan hoang, lúc đó có hối cũng đã muộn". (trích nguyên văn, Việt Sử Toàn Thư, tác giả Phạm Văn Sơn, trang 183. Có thể kiểm chứng trang 183 ở ấn bản điện tử : http://namkyluctinh.org/a-
Qua đoạn sử trên của bộ Việt Sử Toàn Thư chúng ta thấy rất rõ là Việt Nam tổ tiên chúng ta đã từng làm chủ Ải Nam Quan. Quân Tàu muốn qua cửa thì phải viết thư xin phép tổ tiên chúng ta để mở cửa cho đi qua. Qua đoạn sử này, tác giả thấy rõ ràng câu "nước Việt Nam ta kéo dài từ Ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mau" là câu nói hoàn toàn đúng đắn về mặt lịch sử. Tức là cho tới năm 1284, dân Việt Nam ta đã làm chủ Ải Nam Quan. Đến thời Lê Lợi thì tướng giữ ải Pha Lũy (chính là Ải Nam Quan) là Trần Lựu. Nếu ải không là của Việt Nam thì cần gì phải cử 1 tướng quân để giữ cái ải này.
Thêm nữa, đại Văn Hào Nguyễn Du (vào ngày 06-04 Quí Dậu-tức 06-05-1813, và khi đi sứ về ngày 29-03 Giáp Tuất-tức là ngày 18-05-1814), khi đi sứ qua Ải Nam Quan đã cảm tác bài thơ Trấn Nam Quan trong Bắc Hành Tạp Lục. Bắc Hành Tạp Lục gồm 110 đề mục, và vì có nhiều đề mục thi sĩ Nguyễn Du sáng tác hai bài thơ, nên có tất cả 120 bài thơ chữ Nho, trong đó có hai bài Nguyễn Du viết về tâm sự của mình khi tiến qua ải Nam Quan để vào đất Trung Hoa. Đó là bài "Nam Quan đạo trung" và "Trấn Nam Quan". Riêng bài "Trấn Nam Quan" nói rõ biên giới giữa nước ta và Trung Hoa nằm ngay nơi mặt ải. Nguyên văn bài thơ như sau :
Trấn Nam Quan
"Lý Trần cựu sự yểu nan tầm,
Tam bách niên lai trực đáo câm (kim).
Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện,
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm.
Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ,
Thiên cận tài tri giáng trạch thâm..
Đế khuyết hồi đầu bích vân biểu,
Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm."
(bản dịch của Đỗ Văn Hỷ-tr.279-sách Địa Chí Lạng Sơn) :
Lý-Trần việc cũ dấu phai mờ
Năm đã ba trăm kể đến giờ
Muôn núi ải quan nằm chính giữa
Một thành Hoa-Việt vạch đôi bờ
Trời đất mới biết ơn sao nặng
Ddất hẹp xui nên chuyện hóa ngờ
Mây biếc quay nhìn nơi cửa khuyết
Nhạc Thiều văng vẳng tiếng xa đưa
Qua bài thơ này đã chứng tỏ Trấn Nam Quan đã thuộc nhà Lý-Trần và nó có cách đó khoảng 300 năm tức là khoảng năm 1513. Tức là Trấn Nam Quan có trước thời Gia Tĩnh Triều Minh (1522-1560). Ngoài ra nó còn cho ta biết, bức tường thành chính là biên giới phân cách Việt-Trung vào thời đó.
Cuốn Việt Sử Tân Biên của sử gia Phạm Văn Sơn, tập 2, trang 393 có in lại 1 bản đồ mệnh danh là "Đại Việt Quốc Tổng Lãm Đồ" đã có ghi rõ ràng Ải Phá Lũy (tức Ải Nam Quan) nằm ở phía Bắc-Đông Bắc của bản đồ (Bản đồ này là của ông Thái Văm Kiểm tặng cho sử gia Phạm Văn Sơn). Bản đồ này cũng đã được đăng lại trong bộ sách Việt Sử Khảo Luận của L/S Hoàng Cơ Thụy (Cuốn 1, trang 501-Nhà xuất bản Nam Á -Paris 2002-địa chỉ 44 Avenue D'Ivry 75013 Paris).
Lịch Sử Ải Nam Quan theo các thời kỳ :
Vào thế kỷ 19, nhà bác học Lê Quý Đôn đã viết trong Vân Đài Loại Ngữ, ở điều 81 ghi rõ : "Phía bắc nước ta giáp với Trung Quốc có 3 cửa ải :
Mạn trên có Thủy khẩu quan thuộc tỉnh Cao Bằng
Mạn giữa có Bình nhi quan thuộc huyện Thất Khê
Mạn dưới có Trấn Nam quan (có lúc gọi là ải Pha Lũy, Trâ'n Nam Giao, Mục Môn Quan, Ải Nam Quan, hay Hữu Nghị Quan) thuộc tỉnh Lạng Sơn.
Ba cửa ải ấy là nơi quan hệ trọng yếu để ngăn ngừa quân địch".
Ải Nam Quan là nơi đã từng diễn ra và chứng kiến nhiều cảnh tang thương và hùng tráng trong suốt thời gian của Việt sử nghĩa là từ thời nước ta lập quốc cho tới nay.
Năm 40 Tây Lịch, Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán, Nam Quan đã là cửa ngõ xâm lược của viên tướng Mã Viện. Và năm đó, Ải Nam Quan cũng đánh dấu nhiều chiến công huy-hoàng của dân-tộc Việt bất khuất như Thái thú Tô Định bị nghĩa quân của Hai Bà Trưng đánh đuổi phải bỏ chạy về Tàu qua ngả Nam Quan. Năm 981 vua Lê Đại Hành đã chém đầu Hầu Nhân Bảo và đánh đuổi tàn quân nhà Tống ở cửa Nam Quan.
Đời nhà Lý, năm 1060, quân xâm lược nhà Tống lại bị chận đánh ở Nam Quan và Lạng Châu tức Lạng Sơn. Bấy giờ Châu-mục Thân Thiệu Thái từng đánh sang Châu Ung bên Trung-quốc bắt sống Chỉ huy sứ Dương Bảo Tài, chưa kể sau đó là các chiến công phá Tống oanh liệt của Lý Thường Kiệt nữa.
Năm 1285, Đời nhà Trần, năm 1285 Trấn Nam Vương Thoát-Hoan phải nhục nhã chui vào ống đồng trốn chạy về Tàu qua ải Pha-Lũy tức Ải Nam Quan.
Năm 1427, Liễu Thăng bị phục binh của nghĩa quân Bình Định-Vương Lê Lợi chém chết ở Đảo Mã-Pha (Gò Té Ngựa) thuộc ải Chi-Lăng, ở về phía nam cửa Nam Quan khoảng 50 km và tàn quân Minh cũng phải theo cửa Nam Quan mà trốn chạy về nước.
Thời Lê Thánh Tông (1460 -1497), nhà vua cho tu bổ lại Đoàn Thành (Lạng Sơn), xây dựng lại các ải lớn, đặt 4 trạm dịch trên đất Lạng Sơn : Pha Lũy (Phia Lũy-theo tiếng địa phương), Mai Pha, Nhân Lý, Chi Lăng. Quy định của nhà nước là : chỉ có sứ bộ mới được đi qua ải Pha Lũy (sau này là Ải Nam Quan), còn những người bị tù tội, dân buôn bán trao đổi đều đi theo đường ải Du Thôn. Trên núi Kháo Sơn cũng có hai con đường : một cho sứ bộ, và một cho dân buôn. Nhà nước cũng quy định : các tổng quản, tuyên úy trị nhậm ở phiên lộ cách kinh thành 200 dặm, phải luôn luôn đẩy mạnh việc vũ vệ. Năm 1460, nhà vua hạ lệnh : "Những người coi giữ biên giới phải giữ quan ải cẩn thận, không được thông đồng với người nước ngoài". Trong bộ luật Hồng Đức, chương "Cấm Vệ" có điều "Những người bán ruộng đất, bờ cõi cho người nước ngoài thì bị xử chém". Điều 243 nêu rõ : Các tướng sĩ phòng giữ nơi quan ải nếu không phòng bị cẩn thận, dò la không đích thực để quân giặc đến bất ngờ đánh úp thì bị xử tội lưu hay tử".
Về cửa hay ải Nam Quan, theo Phương-Đình Dư địa chí của Nguyễn Văn-Siêu [bản dịch của Ngô Mạnh Nghinh, Tự Do xuất bản, Saigon, 1960], đời Hậu-Lê trở về trước gọi là cửa Pha-Lũy [hay Pha-Dữ], ở về phía bắc châu Văn-Uyên, trấn Lạng Sơn. Từ châu Bằng Tường [tỉnh Quảng-Tây] bên Trung-quốc muốn vào nước An Nam phải qua cửa quan này. Theo Cương-mục và Lam Sơn Thực Lục, cửa Pha Lũy chính là cửa Nam Quan ở xã Đồng Đăng thuộc huyện Văn-Uyên [xưa là Văn Châu hay Châu Văn], tỉnh Lạng-Sơn. Từ đời Lê Trung Hưng, người Tàu gọi cửa Pha Lũy là Trấn Nam Quan (Chen Nan Kuan) ; còn ta thì quen gọi là cửa hay Ải Nam Quan.
Theo Đại-Nam Nhất-Thống-Chí, Trấn Nam Quan thuộc nội-địa nuớc Tàu, dựng dưới đời vua Gia Tĩnh [1522-1566] nhà Minh.
Theo tác giả thì dịch giả đã diễn dịch sai lầm. Thật sự thì có lẽ tác giả muốn nói là Ải Nam Quan thuộc Tàu vào thời vua Gia Tĩnh. Vì sao nó lại thuộc Tàu vào ngày lúc này ? Theo tác giả thì có lẽ Mạc Đăng Dung do quá ươn hèn nên đã bị Tàu chiếm lấy cái Ải Nam Quan này sau khi làm lễ dâng biểu mất đất đai cho nhà Minh bên Tàu. Theo đoạn sử tả lại sự nhục nhã của phái đoàn Mạc Đăng Dung (xin xem lại chương 5) thì lúc đó Tàu chưa có làm chủ Ải Nam Quan gì cả. Quan quân Tàu còn phải đóng cách Ải Nam Quan 1 khoảng ngắn gọi là Mạc Phủ.
Bộ "Đại Nam Nhất Thống Chí", quyển 14, đã viết về ải Nam Quan như sau : "Cửa quan Nam Giao : Cách tỉnh thành 31 dặm về phía bắc, ở địa phận hai xã Đồng Đăng và Bảo Lâm thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp địa giới châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi là Trấn Nam Quan. Cửa này dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ưng Chính thứ 3 (năm 1726) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại, có tên là "Đại Nam Quan". Phía đông là một giải núi đất, phía tây là một giải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng (gần 400 mét ; 1 trượng =3.3 mét), cửa quan đặt ở quãng giữa, có biển đề ba chữ "Trấn Nam Quan", dựng từ năm Ưng Chính thứ 6 triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ "Trung ngoại nhất gia", dựng từ năm Tân Sửu, đời Càn Long nhà Thanh. Phía bắc có cửa Chiêu Đức Đài, đằng sau đài có đình Tham Đường (nhà nuôi ngựa) của nước Thanh. Phía Nam có Ngưỡng Đức Đài của nước ta, bên tả bên hữu có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng chỗ này làm nơi tạm nghỉ.
"Xét : Trấn Nam Quan không rõ bắt đầu từ triều đại nào, trong Nam sử và Bắc sử đều không có nói minh văn. (Theo tác giả thì ải Nam Quan có lẽ đã thuộc Tàu vào thời Mạc Đăng Dung-Sử gia nhà Mạc thì không dám nói những cái ươn hèn của chính họ. Còn, các sử gia nhà Lê thì không biết rành vì vùng này thuộc nhà Mạc đến 150 năm sau. Ngay cả đốc trấn Lạng Sơn cũng còn không rõ xuất xứ của Ải Nam Quan. Còn sử gia Tàu thì cũng chẳng nói rõ chuyện này vì chỉ là chuyện nhỏ đối với họ. Cụm chữ "thuộc nhà Minh" đã bao hàm nhiều ý nghĩa : cũng có thể chính cái ải do nhà Minh xây lên, hay là nhà Minh đi ăn cuớp cái ải đó, hay là được nhà Mạc hiến dâng ải Nam Quan. Tất cả mọi tình huống đều nằm trong cụm chữ mập mờ "thuộc Nhà Minh thời Gia Tĩnh". Ngoài ra, bọn nhà Minh bên Tàu đã vét sạch tất cả các sách sử của Việt Nam đem về Tàu khi chúng sang xâm chiếm nước ta nên sau này việc tra cứu sử liệu Việt Nam có phần khó khăn).
Khoảng đời Lê Cảnh Hưng, đốc trấn Lạng Sơn Nguyễn Trọng Đang, sửa lại Ngưỡng Đức Đài bằng gạch, lập bia ghi việc đại lược nói : "Nước Việt ta có Ngũ Lĩnh, quan ải trước ở đâu không rõ, là vì diên cách thế nào không ghi đủ. Gần đây lấy địa giới châu Văn Uyên trấn Lạng Sơn làm cửa quan, cửa quan có Ngưỡng Đức Đài không rõ dựng từ năm nào, có lẽ bắt đầu từ đời Gia Tĩnh nhà Minh." Văn bia ấy nay vẫn còn.
Lại xét : niên hiệu Gia Tĩnh (1522-1566) ngang với niên hiệu Nguyên Hòa (1533-1543) nhà Lê (Trang Tông), văn bia cũng nói có lẽ thế thôi. Sử chép : năm Nguyên Hòa thứ 8, Mạc Đăng Dung cùng với bầy tôi là bọn Nguyễn Như Khuê qua Trấn Nam Quan, đến Mạc phủ nhà Minh dâng biểu xin hàng." Đến đây mới thấy sử chép tên Trấn Nam Quan." Thời nhà Minh xâm lăng đô hộ nước ta, năm 1406, ông Nguyễn Trãi theo cha là Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Tàu cùng cha con Hồ Quý Ly. Tại ải Nam Quan, Nguyễn Trãi đã vâng nghe theo lời cha ghi nhớ hận mất nước và sau này phò Bình Định Vương Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh, thu hồi lại nền tự chủ cho nước nhà.
Theo Phương Đình Dư Địa Chí, cửa Nam Quan, tùy theo từng triều đại mà còn có những tên gọi khác như Đại Nam Quan, Trấn Di Quan, cửa Nam Giao. Năm 1541, Mạc Đăng Dung và bày tôi qua cửa Nam-Quan xin hàng nhà Minh, bấy giờ cửa ải này có tên gọi là Trấn Man Quan. Trấn Nam Quan (hay ải Nam Quan) thì thuộc địa giới châu Bằng-Tường [tỉnh Quang-Tây bên Tàu], đối diện với các xã Đồng-Đăng và Bảo-Lâm thuộc châu Cao-Lộc [Văn-Uyên cũ], tỉnh Lạng-Sơn của tạ Hai bên cửa ải là núi đồi núi đá khá cao. Cửa ải Nam Quan luôn luôn khóa kín, chỉ mở khi có việc thông sứ chính thức giữa hai nước. Theo Bắc-Thành Dư-Địa-chí [của Lê Đại-Cương] ở về phía bên phải cửa Nam Quan có nhiều ải nhỏ như Ải Bang [ở châu Lộc-Bình], ải Tầm Bang [ở xã Tam-Lộc], Ải Kiệm [ở xã An-Khoái], ải Na Chi [ở xã Xuất-Lễ], ải Khấu-Sơn [ở xã Cần-Lua], Ải Du [hay cửa Du-Thôn ở xã Bảo-Lâm] và ở về phía bên trái cửa Nam Quan có các ải Bố Sa, Sơn-Tử [ở xã Tiên-Hội], ải Học-Mô [ở xã Hành-Lư], ải Bản Dương, Bản Quyên [ở xã Lạc-Khư], ải Nguyên-Anh, Bình-Công [ở xã Khánh-Môn], ải Bình-Nhi [ở xã Cửu-Dương] ; thuộc châu Thất-Tuyền có các ải Bắc-Bố, Khấu-Trung [ở xã Nghĩa-Điền], ải Ba Tạm, Cảm Môn [ở xã Cụ-Khánh], ải Na-Mân, Khô-Thịnh [ở xã Nghĩa Khản], ải Kiều-Lễ, Kiều-Lân [chưa rõ ở xã nào], ải Cốc Ngọa [ở xã Bình-Lục], Ải Hoa, Ải Mộ [ở xã Nông-Đồn].
Riêng về cửa ải Du-Thôn [ở xã Bảo-Lâm, châu Văn Uyên cũ - tỉnh Lạng-Sơn], phía bắc giáp thôn Điếu-Sách [thuộc châu Thượng-Thạch bên Trung-quốc]. Từ cửa ải Du-Thôn đến cửa Nam-Quan đi đường núi độ 2 canh rưỡi. Theo Phương Dình Dư Địa Chí, phàm tống đạt công văn việc thường [không khẩn cấp], trao trả tội phạm và khách thương [buôn-bán] đi lại giữa Ta và Tàu đều do cửa này.
Năm 1789 (Mùa Xuân Năm Kỷ Dậu), vua Quang Trung cũng từng đánh cho tan tác hàng vạn quân Tàu cùng với tổng đốc Tôn Sĩ Nghị khi sang giúp vua Lê Chiêu Thống. Kết quả, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, phải bỏ chạy trốn qua Ải Nam Quan.
Năm 1802, Vua Gia Long thống nhất sơn hà. Theo Đại-Nam Thực lục, sau khi thống nhất đất nước, vua Gia-Long vẫn theo lệ cũ của đời nhà Lê cho thi-hành những thủ tục điều hành công vụ ở cửa Du Thôn. Giấy thông hành qua cửa Du Thôn phải có đóng dấu ấn Văn Uyên Châu Quảng Úy Sứ Ty Chi Ấn. Còn các giấy tờ, công-văn ở địa phương Văn Uyên giao thiệp với Trung-quốc thì dùng ấn Văn Uyên Tấn Khẩu [nghĩa là dấu của Cửa quan châu Văn-Uyên]. Vua Gia-Long cho đổi chức Quảng Úy-Sứ ra là Thủ-Hiệu và cho đúc ấn đồng, khắc chữ triện, gồm các chữ : Văn Uyên Châu Thủ Hiệu Chi Chương. Bấy giờ cửa Du-Thôn phụ-trách bởi hai viên Chánh và Phó Thủ-Hiệu và hai hiệu quân. Đồng thời, vua Gia Long cũng sai Trịnh Hoài Đức vẽ lại bản đồ thống nhất Việt Nam. Năm 1806, Trịnh Hoài Đức hoàn thành công việc và trình vua Gia Long với bản đồ Việt Nam trong đó có ải Nam Quan.
Ngày 06-05-1813 (vào ngày 06-04 Quí Dậu-khi đi về thì vào ngày 29-03 Giáp Tuất-tức là ngày 18-05-1814), đại văn hào Nguyễn Du vâng mệnh vua Gia Long đi sứ, khi đi sứ qua Ải Nam Quan đã cảm tác bài thơ Trấn Nam Quan như sau (bản dịch của Đỗ Văn Hỷ-tr.279-sách Địa Chí Lạng Sơn-1999" :
Lý-Trần việc cũ dấu phai mờ
Năm đã ba trăm kể đến giờ
Muôn núi ải quan nằm chính giữa
Một thành Hoa-Việt vạch đôi bờ
Trời đất mới biết ơn sao nặng
Ddất hẹp xui nên chuyện hóa ngờ
Mây biếc quay nhìn nơi cửa khuyết
Nhạc Thiều văng vẳng tiếng xa đưa
Qua bài thơ này đã chứng tỏ Trấn Nam Quan đã có cách đó khoảng 300 năm tức là khoảng năm 1513. Tức là Trấn Nam Quan có trước thời Gia Tĩnh triều Minh (1522-1560). Ngoài ra nó còn cho ta biết, bức tường thành chính là biên giới phân cách Việt-Trung vào thời đó.
Ngoài những chi tiết liên quan đến ải Nam Quan nói trên, ông Nguyễn Văn Siêu còn viết về những vụ lộn xộn tại biên giới liên hệ đến thị trấn Đồng Đăng, nơi có ải Nam Quan, trong đó có một đoạn đáng lưu ý như sau : "Năm thứ 29 niên hiệu Hồng Võ, Thổ tri phủ Tư Minh là Hoàng Quảng Thành tâu phủ ấy từ nhà Minh đặt lộ Tư Minh, châu huyện động trại trong hạt, phía Đông đến châu Thượng Tư, phía Nam đến Đồng Trụ, quân nhà Nguyên đánh nước Giao Chỉ, cách Đồng Trụ 100 dặm, đặt trại Vĩnh Bình, để quân đóng giữ, bắt người Giao Chỉ phải cung quân lương. Người Giao Chỉ đem quân đánh phá trại Vĩnh Bình khiến nhà Nguyên rối loạn, sau đó vượt qua Đồng Trụ hơn 300 dặm, xâm chiếm nhiều đất thuộc lộ Tư Minh, như 5 huyện Khâu Ôn, Như Ngạo, Khánh Viễn, Uyên Thoát. Lại Đồng Đăng thực là đất của Tư Minh, mà người Giao Chỉ nói là Đồng Trụ dựng ở nơi ấy, xin ban sắc cho An Nam phải trả lại đất cũ để bờ cõi được đúng. Vua Minh Thái Tổ sai chức Hành nhân là Trần Thành Lã Nhượng sang dụ, bàn cãi đi lại, mãi vẫn không quyết, việc [quên] dần thôi."
Tới đời nhà Thanh gần đây, trong bài Trùng tu Nam Quan Ký của Tuần phủ Lý Công Phất còn nhắc tới việc này như sau : Nam Quan trông sang Giao Chỉ thật là hiểm yếu, ở đó có cột đồng Mã Viện.
Đến ngày mồng 8 tháng giêng năm Ất Dậu (1885) thì thiếu tướng De Négrier lên đến cửa Nam Quan, truyền phá ải quan, rồi trở về Lạng Sơn (Việt Nam Sử Lược, tác giả TrầnTrọng Kim, trang 225, phần "Lấy thành Lạ.ng Sơn", ấn bản điện tử tại www.vnet.org/vanlangsj/
Theo lời mô tả của bác sĩ Hải Quân Neis (thành viên phái đoàn phân định biên giới) trong hồi ký Phân Ddịnh Biên Giới Pháp Hoa 1885-1887 của ông (Nguyên văn tiếng Pháp và được dịch giả tiến sĩ Walter ẸJ. Tips dịch ra tiếng Anh) thì :
Ải Nam Quan nằm ở dưới 1 rảnh núi hẹp, hai bên là hai đồi núi khá dựng đứng, cao chừng 50-60 m (xin xem hình vẽ Ải Nam Quan của Eug. Burand). Khi đó thì Trung Hoa đã xây sửa lại Ải này và nối liền nó với 1 bờ tường thành thấp chạy dài theo hai bên núi. Các thành viên Trung Hoa đã kịch liệt phản đối và cho rằng bờ tường thành không phải là biên giới (nên nhớ đại văn hào Nguyễn Du đã làm 1 bài thơ Trấn Nam Quan vào năm 1813, bài thơ nói rõ bờ tường này chính là biên giới phân cách hai nước-xin xem chương 13). Phía Trung Hoa yêu cầu cột biên giới phải cách xa khỏi Ải Nam Quan. Cuối cùng, phía Pháp đồng ý cột mốc biên giới (thứ 25) cách Ải Nam Quan là 100m (theo hồi ký của bác sĩ Neis thì là 150 m (nghĩa là lấy biên giới là con suối nhỏ ở phía trước ải (suối này tên là suối Phi Khanh), theo hình chụp biên bản biên giới tại Văn Khố Đông Dương-Pháp thì cho biết chính xác là 100m). Kết quả là Việt Nam mất 100m ngay trước của Ải Nam Quan. Sau khi đó, hai phái đoàn đi qua các làng kế bên để tiếp tục đóng các cột mốc biên giới khác. Sau hai ngày, thì hai phái đoàn trở lại Ải Nam Quan để làm 1 bản báo cáo chính thức về việc đóng cột mốc biên giới. Cách Ải Nam Quan 150 m là một con suối nhỏ (sau này có 1 cây cầu bắc qua gọi là cầu Nam Quan).
Theo Địa dư Các Tỉnh Bắc Kỳ của Ngô Vi Liễn (1999) thì cửa Nam Quan ở ngay biên giới Trung Quốc và Việt Nam. Kể từ Hà Nội lên đến tỉnh lỵ Lạng Sơn là 150 km ; đến cây-số 152 là chợ Kỳ Lừa ; đến cây số 158 là Tam Lung ; đến cây số 162 là Đồng Đăng ; đến cây số 167 là Ải Nam Quan đi sang Long Châu bên Tàu. Như vậy từ Đồng Đăng lên cửa Nam Quan có 4 km (xin xem hình anh lính Pháp ngồi với bản đề 4 km) ; từ Kỳ Lừa lên Nam Quan mất 15 km.Về phía Tây-Nam chợ Kỳ Lừa có động Tam Thanh, trước động Tam Thanh có núi Vọng Phu hay tượng nàng Tô Thị là những danh thắng của tỉnh Lạng Sơn và từ tỉnh-lỵ Lạng-Sơn lên Nam-Quan là 17 km. Thời Pháp-thuộc, người Pháp gọi cửa Nam-Quan là Porte de Chine, nghĩa là cửa ngõ Trung-quốc. Tên này được dùng cho đến năm 1945. Năm 1931, Tờ báo National Geographic có chụp hình Ải Nam Quan từ bên phía phải của nó.
Sau năm 1954, Mao Trạch Đông cho đổi cách gọi Trấn Nam Quan là Mục Nam Quan (Mục : theo từ điển Hán Việt của Ddào Duy Anh thì có nghĩa là hòa thuận, tin cậy, thân thiết-vì vậy tên tiếng Anh là Friendship Gate. Hồ Chí Minh thì cho gọi là Hữu Nghị Quan). Còn Bộ trưởng ngoại giao Trần Nghị (Chen Yi) thì cho gắn bảng là Mục Môn Quan.
Từ thời Pháp, dựa theo bức họa của Eug. Burnand vẽ năm 1887, biên giới hai nước Trung-Việt ở Nam Quan ngăn cách bởi một bức tường thành, ở giữa có cửa thông sang Trung-quốc và hai bên là hai ngọn núi khá cao (xin xem hình đính kèm). Trải qua những trận chiến Pháp-Hoa ở vùng biên-giới Lạng Sơn, bức tường thành và cửa ngăn cách biên-giới hai nước nay không còn nữa. Còn bưu-thiếp của Collection de L'Union Commerciale Indochinoise vào năm 1910 (xin xem hình) cho thấy một cửa Nam Quan sát chân núi khá cao ; ngoài cửa chính có lính canh gác và còn có một cửa phụ ở bên cạnh và phía sau cửa ải có một tòa nhà lầu ở lưng chừng núi. Cũng vì chiến-tranh Pháp và Việt-Minh, cửa Nam Quan này nay không còn.
Từ Đồng Đăng lên Nam Quan lác-đác có ít nhà nhỏ xây bằng gạch (xin xem ảnh tư liệu). Gần đồn lính của Pháp ở Nam Quan thì có vài hàng quán nhỏ dành cho khách đi đường, lính-tráng trong đồn hoặc một ít người tài-xế lái xe vận-tải hay những người làm nghề khuân vác lẩn quẩn ở đó chờ đêm xuống lẻn qua biên giới sang Tàu để khuân hàng lậu về nước ta để kiếm lời. Từ biên giới Nam-Quan sang Bằng-Tường cũng vậy, nhà cửa thưa-thớt chứ không có phố sá gì nhiều cả. Một đồn lính biên phòng nhỏ của Việt-Nam ở ngay sát đường biên-giới hai nước trước cửa Nam Quan (xin xem hình)
Từ Lạng Sơn đến Đồng Đăng khoảng 14 cây số và từ Đồng Đăng đến cột mốc số 0 do Pháp cắm ngày xưa để làm dấu lằn ranh giới giữa hai nước và cũng là cột mốc đầu của Quốc lộ 1, phải mất 4 cây số nữa. Trước khi tới cột mốc số 0 (theo tài liệu biên bản biên giới Pháp-Thanh thì cột mốc này được đánh số 25. Vào năm 1979, cột mốc này đã bị lính Trung Quốc dùng xe ủi nát mất dấu. Sau đó, dân địa phương cho dựng lại cột mốc nhưng họ không rõ trước đó nó là số mấy nên đành để 0 (trên cột có đề chữ H. N. Quan). Vị trí cột này dễ nhận biết vì nó nằm gần ngay 1 cây đa và 1 giếng nước-còn gọi là giếng Phi Khanh) khoảng 100 thước, phải dừng xe ở trạm gác biên phòng của Việt Nam. Tại đây, mọi người phải vào Phòng Xuất Nhập Cảnh làm thủ tục kiểm dịch quốc tế, đóng thuế Hải Quan rồi mới được đi tiếp. Từ trạm gác biên phòng đi khoảng 100 thước nữa thì đến cột mốc số 0 đã nói ở trên. (Cách đường cái quan là đường xe lửa Việt Trung cách đó 50 mét. Điểm nối ray là cách Ải Nam Quan 300 mét. Bản tín hiệu xe lửa thì cách Ải Nam Quan 500 mét). Qua khỏi cột mốc biên giới khoảng 100 thước lại gặp trạm kiểm soát biên phòng của Trung Quốc rồi đến Phòng Xuất Nhập Cảnh như bên Việt Nam. Tại đây, hải quan biên phòng của Trung Quốc thâu lệ phí và thâu passport cùng giấy tờ tùy thân, rồi cấp giấy tạm nhập khẩu Trung Quốc. Có khi vui miệng, họ còn nhắc rằng phải đổi giờ 1 tiếng đồng hồ vì Trung Quốc theo giờ Bắc Kinh còn dân Việt thì theo giờ Hà nội. Ra khỏi Phòng Xuất Nhập Cảnh là thấy ngay cổng Hữu Nghị Quan (Ải Nam Quan) đồ sộ hiện ra trước mắt-bên tay trái, chỉ cách phòng này khoảng 100 thước. Đi xuôi về phía Trung Quốc khoảng hơn 200 mét nữa thì có trạm xe buýt quốc tế có bảng "International Terminal" để chở khách du lịch đi đến Long Châu (xin xem các ảnh tư liệu đính kèm).
Hữu Nghị Quan - Ải Nam Quan nhìn từ tòa nhà Xuất Nhập Cảnh của Trung Quốc.
Hữu Nghị Quan - Cột cây số 0 KM.
http://www.thegioinguoiviet.
Thật đau buồn cho dân tộc Việt Nam !
Qua các cuộc thương thảo về phân định biên giới Việt-Trung, Thứ trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng đã phải thú nhận nhà cầm quyền VN đã nhượng 200 mét tính từ cột mốc O Km (H.N.Quan). Tính ra biên giới Việt-Trung ngày nay là chính ngay chổ nhà Xuất Nhập Cảnh Việt Nam (tức cách Ải Nam Quan-Hữu Nghị Quan khoảng 400 mét).
***
Phần trên là trích từ các chương 13&14 của sách "Những Biến Cố Mất Lãnh Thổ-Lãnh Hải của Việt Nam từ 939-2002". Sách hiện đang được bày bán tại các nhà sách báo hải ngoại. Ở xa có thể đặt mua qua tác giả tại :
Trinh Quoc Thien, Esq.
trinhqu...@gmail.com
Giá 22USD/cuốn (bao cước phí và thuế).
Ải Nam Quan Trong Lịch Sử
Kể từ khi vấn đề “ải Nam Quan” bùng lên trên
mạng Internet vào năm 2002, nó đã trở thành vấn đề gây tranh cãi gay
gắt. Khó khăn trong việc nghiên cứu đề tài này bắt nguồn từ những
định kiến chính trị khiến người ta cường điệu hay cố gắng giảm thiểu
mặt này hay mặt khác của vấn đề, nhưng trở ngại lớn nhất là thiếu
những nguồn tư liệu khách quan. May thay, nhờ lòng yêu nước và nỗ lực
của rất nhiều người, xuất phát từ những lập trường chính trị hết sức
khác nhau nhưng cùng chung lòng thương yêu đối với Tổ quốc, cho nên
những dữ liệu ngày càng dồi dào hơn, giúp cho chúng ta có thể vẽ nên
một bức chân dung tương đối chính xác về ải Nam Quan trong lịch
sử.
Mặc dù vẫn còn khá mù mờ về tình trạng hiện
tại của khu vực ải Nam Quan, do đó chưa thể xác định một cách chắc
chắn Việt Nam đã mất bao nhiêu đất đai ở vùng này, nhưng diện mạo và
lịch sử của ải Nam Quan được mô tả trong bài tiểu luận này có thể
giúp ích phần nào cho việc tìm ra sự thật đó.
I - NHẬN DIỆN ẢI NAM QUAN
Căn cứ vào định nghĩa của Đào Duy Anh thì chữ ải
có nghĩa là “chỗ đất hiểm trở, chật hẹp”, còn ải quan có nghĩa là
“cửa quan, cửa ải nơi biên-giới (passe frontière)”. Trong khi đó, chữ
quan được định nghĩa là “đóng cửa, lấy then ngang mà chặn cửa, cửa ải”
và quan ải có nghĩa là “chỗ đất hiểm trở ở nơi biên giới của hai
nước (poste frontière)”. Như vậy, ải không nhất thiết phải là một địa
điểm nằm trên một con đường núi quanh co, chật hẹp, mà liên quan đến
tính chất hiểm yếu của vị trí.
Mặt khác, đối với các nhà sử học và địa lý học ở
nước ta vào đời nhà Nguyễn, có sự phân biệt giữa cửa quan và cửa ải.
Trong Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) bộ cũ – biên soạn vào đời Tự
Đức, những cổng gác trong nội địa được gọi là cửa quan (vd: cửa quan
Quỷ Môn, cửa quan Lạng Thành, cửa quan Quang Lang v.v…); chỉ những
cửa quan ở vùng biên giới mới được gọi là ải hoặc cửa ải. Một ải nào
đó có thể có ý nghĩa quan trọng đối với nước này hơn là đối với nước
kia, nhưng ải bao giờ cũng nằm ở biên giới giữa hai nước.
Một ví dụ điển hình về cửa ải không nằm trên một
con đường núi quanh co, chật hẹp là “ải Bình Nhi”. Theo mô tả của bác
sĩ Paul Neis trong bài bút ký “Trên vùng biên giới của Bắc Kỳ” (Sur
les frontières du Tonkin), xuất bản vào năm 1888, Bình Nhi là tên một
làng của Trung Hoa nằm trên hữu ngạn sông Kỳ Cùng, gần chỗ dòng sông
rời biên giới Việt Nam để chảy vào đất Trung Quốc. Phía đối diện với
làng Bình Nhi là những ngọn đồi cao, trên đó nhà Thanh bố trí các
đồn lũy hay đúng hơn là những cứ điểm phòng ngự (camps retranchés) để
kiểm soát con đường đi đến Long Châu. Sông Kỳ Cùng khi chảy trong
địa phận của nước ta có rất nhiều ghềnh thác, chỉ có thể đi lại bằng
thuyền độc mộc hoặc bè bằng tre, nhưng khi đến Bình Nhi thì lòng sông
mở rộng ra và có thể chuyên chở những loại thuyền cỡ trung bình. Theo
các nhà địa lý học của nước ta vào thời nhà Nguyễn, sông Kỳ Cùng “đổ
ra cửa ải Bình Nhi thuộc Long Châu nước Thanh, người Thanh dùng dây
sắt chắn ngang lòng sông”. Như vậy, Bình Nhi được coi là một “ải” là
do vị trí hiểm yếu trên một dòng sông chứ không phải là một điểm trên
một con đường núi hiểm trở. Ngược lại, phần lớn các cửa ải lại nằm
tại các hẻm núi, trên một con đường hiểm trở, mà ví dụ điển hình là
ải Nam Quan – đối tượng nghiên cứu của bài này.
Một số người (kể cả các quan chức ngoại giao của
nước ta) giải thích rằng giữa hai nước bao giờ cũng có một “vùng
đệm”, đánh dấu bằng “hai cửa khẩu” của hai bên, và biên giới nằm giữa
hai cửa khẩu đó. Cách giải thích này xuất phát từ thực tế của các
tuyến đường bộ xuyên biên giới thời nay nhưng hoàn toàn không phù hợp
với khái niệm “ải” của nước ta thời xưa. Đó là chưa kể đến sự lẫn
lộn giữa “cửa khẩu” với “trạm kiểm soát” nơi cửa khẩu. Có hai trạm
kiểm soát của hai nước nằm ở hai bên đường biên giới, nhưng suy cho
cùng: chỉ có một cửa khẩu, một đường biên giới.
1) Ải Nam Quan và hệ thống phòng ngự biên giới
Xét toàn bộ tuyến biên giới Việt – Trung, hệ
thống phòng thủ thuộc tỉnh Lạng Sơn có tầm quan trọng đặc biệt bởi vì
vùng đất này có những ngõ giao thông thuận tiện mà quân Trung Quốc
thuộc mọi triều đại có thể dùng để tấn công Hà Nội và vùng đồng bằng
Bắc Bộ, đồng thời cũng là nơi có địa thế hiểm trở mà nước ta có thể dựa
vào đó để phòng vệ. Vì lý do đó, ải Nam Quan được chú ý nhiều hơn so
với tất cả các ải ở biên giới phía Bắc nước ta. Vào thời nhà Nguyễn,
ải Nam Quan là trung tâm của một hệ thống biên phòng thuộc tỉnh Lạng
Sơn bao gồm 12 ải từ phía tây sang phía đông.
Trong ĐNNTC có chép lại một đoạn từ cuốn Bắc
thành địa dư chí của Lê Đại Cương, qua đó liệt kê 12 cửa ải của tỉnh
Lạng Sơn: ở giữa là ải Nam Quan, phía tả có 5 cửa ải, phía hữu có 6
cửa ải. Năm cửa ải phía bên trái của ải Nam Quan bao gồm: (1) ải Bình
Nhi (ở địa giới Long Châu nước Thanh), (2) ải Cảm Môn (ở địa giới
châu Hạ Đống nước Thanh và địa phận thôn Cụ Khánh huyện Thất Khê),
(3) ải Cổ Thành (ở địa phận châu Hạ Đống giáp giới xã Nghĩa Thầm
huyện Thất Khê), (4) ải Nguyệt Hoa (ở địa giới châu Hạ Đống, giáp địa
phận Bình Lăng huyện Thất Khê) và (5) ải Ba Ôn (ở địa giới châu Hạ
Đống giáp Long Châu và địa phận xã Nông Đồn huyện Thất Khê cùng đồn Na
Lạn châu Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng). Sáu cửa ải phía bên phải của ải
Nam Quan là: (1) ải Du Thôn (xã Bảo Lâm châu Văn Uyên, phía bắc giáp
thôn Điếu Sách, châu Thượng Thạch của nước Thanh), (2) ải La (ở địa
giới châu Ninh Minh, giáp địa phận xã Trừ Trị, châu Thoát Lãng), (3)
ải Khấu Sơn (ở địa giới châu Ninh Minh, giáp địa phận xã Suất Lễ châu
Lộc Bình), (4) Mã ải (ở địa giới châu Tư Lăng, giáp địa phận xã Suất
Lễ châu Lộc Bình), (5) Tiệm ải (ở địa giới châu Tư Lăng, giáp địa
phận thôn Trị Mã xã An Khoái châu Lộc Bình) và (6) ải Na Thôn, ở địa
giới châu Tư Lăng, giáp địa phận xã Tĩnh Gia châu Lộc Bình và giáp
đồn Định Lập huyện Tiên Yên tỉnh Quảng Yên).
Ảnh 1: Bản đồ biên giới Quảng Tây giữa Chima (Trị Mã) và Binhi (Bình Nhi)
Tấm bản đồ in kèm theo đây (Ảnh 1) được trích từ
bút ký của bác sĩ P. Neis. Nó có thể giúp chúng ta hình dung phần nào
hệ thống đồn biên phòng ở Lạng Sơn vào giữa thập niên 1880. Bình Nhi
(Bin-hi) là cửa ải cuối cùng ở phía tây của tỉnh Lạng Sơn, đường
biên giới chạy ngang một đập nước (barrage) ở phía thượng lưu của
Bình Nhi. Ải Trị Mã (porte de Chi-ma, cửa Chi Ma) chính là Tiệm ải
(hay Kiệm ải) nằm ở thôn Trị Mã xã An Khoái châu Lộc Bình giáp với
châu Tư Lăng (Se-ling-Tchéou). Ải Nam Quan nằm ở giữa, được ghi là
“Cua-ai ou Tche-nan-quan” (Cửa ải hay Trấn Nam Quan), được chú thích
bằng tên tiếng Pháp ”Porte de Chine” (Cửa Trung Hoa). Năm cửa ải bên
trái của ải Nam Quan là: Bin-hi (Bình Nhi), Pa-kéou-aï, Porte de
San-chi (Cửa San-chi), Porte de Bochaï (Cửa Bochaï), Ki-da-aï. Số
lượng phía bên phải của ải Nam Quan nếu tính cả ải Na Thôn (trong bài
viết ghi là Nathong, trên bản đồ ghi là Na-tong) lên đến 8 cái,
nhiều hơn 2 cái so với miêu tả trong ĐNNTC. Đó là các ải: Aï-Ro (ải
Du, hay còn gọi là ải Du Thôn), Pan-Pien-aï, Aï-Loa (ải La),
Tonguen-aï, Pa-chi-aï, Na-chi-aï, Na-ho-aï hay còn gọi là Porte de
Chi-ma (ải Trị Mã hay ải Chi Ma), Na-tong (Na Thôn).
Điều đáng chú ý là không phải tất cả các cửa ải
đều được mở cho nhân dân hai nước tự do đi lại. ĐNNTC có ghi rõ một số
cửa bị cấm không cho đi lại thông thương: như năm cửa ải phía bên
trái của ải Nam Quan, hoặc ải La, ải Khấu Sơn, Mã ải.
Đặc biệt quan trọng là hai cửa ải Nam Quan và Du
Thôn. Ải Du Thôn (còn gọi là ải Du) “cách tỉnh thành 30 dặm về phía
bắc, ở địa phận Du Thôn xã Bảo Lâm châu Văn Uyên, phía bắc giáp thôn
Điếu Sách, châu Thượng Thạch nước Thanh, từ ải này đến Trấn Nam Quan
đi theo đường núi, ước hết hai trống canh rưỡi, phàm công việc giao
tống công văn và khách buôn đi lại, đều do cửa ải này.” Còn ải Nam
Quan (còn gọi là ải Nam Giao hoặc Đại Nam Quan, người Thanh gọi là
Trấn Nam Quan) thì “cách tỉnh thành 31 dặm về phía bắc, ở địa phận
hai xã Đồng Đăng và Bảo Lâm thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp địa
giới châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh”. Cửa quan này “có một
cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở.”
Như vậy trong hệ thống đồn biên phòng giữa hai
nước Trung-Việt, do quá trình xâm lược và chống xâm lược lâu dài, cả
hai bên không ai tin ai hoàn toàn, đặc biệt là phía Việt Nam là nước
nhỏ hay bị xâm lược lại càng phải cảnh giác, đề phòng. Vì vậy cửa Du
Thôn được mở để giao thương, còn ải Nam Quan thì vẫn cửa đóng then
cài, chỉ mở để cho các đoàn ngoại giao qua lại. Kỹ sư Trương Nhân
Tuấn có tìm ra trong thư khố ở Pháp một bài bút ký kể lại chuyến du
hành của một người Hoa tên là Tsai-Tin-Lang. Vào năm 1873, ông này bị
đắm tàu tại vùng biển Trung Kỳ và tìm cách trở lại Trung Quốc bằng
đường bộ. Theo lời kể của Tsai, ông đã trở về Trung Quốc bằng một cửa
ải có tên là Yo-ai hay Nan-Kouan (Nam-Quan). Cũng theo ông này,
“người An-Nam gọi ải nầy là Io-tsong-ai”. Thật ra, Yo-ai trong tiếng
Việt chính là “Du ải” (ải Du), còn Io-tsong-ai là “Du Thôn ải” (ải Du
Thôn), như cách gọi trong ĐNNTC. Ông Tsai đã nhầm tưởng ải Du Thôn
là ải Nam Quan.
Chúng ta có thể hiểu ải Nam Quan là trung tâm
của một hệ thống phòng thủ, là kết tinh lâu đời của một quá trình
chống ngoại xâm. Đó là điểm nút của một hệ thống bố phòng mà quân
Trung Quốc không bao giờ có thể phá vỡ được và mỗi khi phá vỡ được,
kẻ địch có thể chiếm Đồng Đăng và tiến thẳng vào chiếm Lạng Sơn, uy
hiếp thành Thăng Long (Hà Nội).
Mặc dù từ thời Gia Long, thủ đô đã được dời vào
Phú Xuân (Huế), tầm quan trọng của Hà Nội không còn như trước kia,
nhưng nhà Nguyễn cũng hết sức coi trọng hệ thống cửa ải của Lạng Sơn,
đặc biệt là hai cửa ải Nam Quan và Du Thôn. Theo Đại Nam thực lục,
“phàm có sứ bộ qua lại thì do ải Nam Quan đưa đi, người phạm tội và
dân bị bão xiêu dạt thì do ải Du Thôn”. Vào thời Lê có đặt hai hiệu
để giữ hai ải, mỗi ải có hai chức quan là chánh và phó thủ hiệu, được
cấp một chiếc ấn khắc chữ “Văn Uyên châu quảng úy sứ ty chi ấn” để
mỗi khi tiếp lãnh công văn của nhà Thanh thì đóng ấn ấy làm tin. Đến
đời Gia Long, nhà vua tiếp tục sử dụng hai quan thủ ải cũ là Nguyễn
Đình Minh và Nguyễn Đình Giáp, cho Đình Minh làm Thủ hiệu giữ ải Nam
Quan, Đình Giáp làm phó thủ hiệu giữ ải Du Thôn, và cấp cho ấn đồng
khắc chữ triện “Văn Uyên châu thủ hiệu chi chương”.
Cũng vào đời vua Gia Long, tại Lạng Sơn có đặt
một cơ đặt tên là cơ Hùng tiệp gồm 9 hiệu, mỗi hiệu có 2 đội, tổng
cộng 18 đội. Trong 9 hiệu, có hai hiệu giữ cửa ải: một ở cửa Nam Quan
và một ở cửa Du Thôn. Mỗi đội có khoảng 23-24 người.
Vào lúc vua Minh Mệnh lên ngôi, tổng số thổ binh ở
Lạng Sơn là 424 người, toàn bộ số lính đó được dồn lại thành 3 hiệu
(Trung, Tiền, Hậu), mỗi hiệu có 3 đội, ngoài ra còn có một hiệu giữ
cửa quan. Thổ ty ở Lạng Sơn là chánh thủ hiệu Nguyễn Đình Minh được
phong chức Phòng ngự sử, đóng giữ cửa Nam Quan, Phó thủ hiệu là
Nguyễn Đình Ái làm Phòng ngự đồng tri, giữ cửa Du Thôn. Từ thời nhà
Lê cho đến đời vua Gia Long nhà Nguyễn, cả hai cửa quan đều dùng chung
một chiếc ấn, khi có văn thư đi lại thì người giữ hai cửa cùng bàn
bạc mà đóng ấn. Đến năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) nhà vua cấp cho mỗi
cửa quan một chiếc ấn đồng, chánh thủ hiệu giữ cửa Nam Quan sử dụng
chiếc ấn có khắc chữ “Văn Uyên tấn khẩu”, còn phó thủ hiệu giữ cửa Du
Thôn thì sử dụng chiếc ấn có khắc chữ “Du Thôn tấn khẩu”.
2) Diện mạo của Nam Quan
Vai trò quan trọng của ải Nam quan bắt nguồn từ
vị trí hiểm yếu của nó. Diện mạo của nó được mô tả trong Đại Nam Nhất
Thống Chí như sau :
“… phía đông là một dải núi đất, phía tây là một
dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng,
cửa quan đặt ở quãng giữa, có biển đề ba chữ 'Trấn Nam quan', dựng
từ năm Ung Chính thứ 6 triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào
có công việc của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4
chữ 'Trung ngoại nhất gia', dựng từ năm Tân Sửu đời Càn Long nhà
Thanh. Phía bắc cửa có Chiêu Đức đài, đằng sau đài có Đình Tham Đường
(nhà dừng ngựa), của nước Thanh; phía nam có Ngưỡng Đức đài, của nước
ta, bên tả bên hữu đài có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa
quan, thì dùng chỗ này làm nơi tạm nghỉ.”
Bức tường gạch ở hai bên cửa ải dài đến 119
trượng. Nếu tính theo thước của người Trung Quốc thì 1 thước Tàu =
0,3333 thước tây, vậy 1 trượng (10 thước) = 3,33 m; 119 trượng tương
đương 396 m. Nhưng nếu tính theo hệ thống thước đo ruộng đất vào đời
nhà Nguyễn thì 1 thước = 0,47 m, 119 trượng tương đương với 559 m. Một
bức tường như thế không dễ bị phá hủy, do đó luận điệu của phía
Trung Quốc về việc ải Nam Quan bị hủy hoại nhiều lần trong chiến
tranh là luận điệu tuyên truyền không đáng tin cậy. Bom đạn có thể
phá hủy một phần của cửa ải hay của bức tường, nhưng không thể phá hủy
hoàn toàn, trừ khi con người cố tình tìm cách xóa dấu tích.
Như vậy, ải Nam Quan nằm ở dưới thấp, trên một
con đường quanh co chật hẹp chạy giữa hai dãy núi. Vào năm 2002, khi
cuộc tranh luận về ải Nam Quan nở rộ trên mạng Internet, trong một số
bài viết có đăng kèm một tấm ảnh không ghi rõ do ai chụp và chụp vào
thời điểm nào, cho thấy toàn cảnh ải Nam Quan vào thời Pháp thuộc
(ảnh 2). Tấm ảnh này cho chúng ta thấy quang cảnh chung của con đường
hiểm trở và cửa ải Nam Quan, gần giống với điều được mô tả trong
ĐNNTC. Con đường biên ải chạy theo thung lũng hẹp, hai bên là đồi và
núi. Ở giữa là cửa ải, trên có trùng đài (đài có nghĩa là “cái nhà
làm cao có thể đứng trông xa được”, trùng là “chồng lên trên”). Ở
phía trái tấm ảnh, trên đồi cao chúng ta thấy một doanh trại của quân
đội nhà Thanh.
Có một vấn đề đặt ra là Chiêu Đức đài và Ngưỡng
Đức đài nằm ở vị trí nào? Theo từ điển của Đào Duy Anh thì đài là
“cái nhà làm cao có thể đứng trông xa được”. Từ trùng đài người ta có
thể nhìn xa, nhưng tầm nhìn bị hạn chế vì xung quanh là đồi núi. Như
vậy, muốn nhìn được xa hơn thì đài Chiêu Đức phải được xây ở vị trí
cao hơn, như trên đỉnh một ngọn đồi hay ở lưng chừng đồi. Nhìn vào
ảnh 2, chúng ta thấy vị trí của Chiêu Đức đài và Đình tham đường (nhà
dừng ngựa) của nhà Thanh ngày trước có thể chính là vị trí của doanh
trại xây trên đỉnh đồi. Hạn chế của tấm ảnh nói trên là chúng ta
không nhìn thấy vị trí của Ngưỡng Đức đài của phía Việt Nam.
Có một bức họa giúp chúng ta làm rõ được thắc mắc
này (ảnh 3). Bức họa này do Eugène Burnand thực hiện để minh họa cho
bài bút ký “Sur les frontières du Tonkin” (Trên vùng biên giới Bắc
Kỳ) của bác sĩ P. Neis, tức là bài bút ký kể lại công tác phân định
biên giới Việt-Trung trong những năm 1885-1887, được xuất bản lần đầu
tại Pháp vào năm 1888 trong bộ sách Tour du monde (Vòng quanh thế
giới) tập 54. Có thể xem bức họa này trong bản dịch tiếng Anh của tác
phẩm này, được xuất bản tại Thái Lan vào năm 1998. Bức họa này –
cũng như tất cả các bức họa khác đăng trong bút ký của Neis, rất đáng
tin cậy, vì nó được họa sĩ Eugène Burnand vẽ lại dựa vào các ảnh chụp
của trung úy Hairon, một thành viên của phái đoàn Pháp tham gia công
tác phân định biên giới Việt-Trung.
Ảnh 1: Ải Nam Quan nhìn từ phía Việt Nam
Ảnh 2: Cổng Trung Hoa (Chinese gate, tức Ải Nam Quan) nhìn từ phía Trung Quốc
Nhìn vào bức họa này, chúng ta thấy một toán kỵ
binh Pháp từ phía Trung Quốc trở về ải Nam Quan. Một doanh trại của
quân đội nhà Thanh nằm trên ngọn đồi phía tây của cửa ải (tức bên
phải tấm ảnh); đó chính là vị trí của Chiêu Đức đài và Đình Tham
Đường. Bức tường thành và cái cổng ở phía dưới đã được sửa chữa lại
sau khi bị tướng Négrier phá vào năm 1885, nhưng chưa xây lại trùng
đài. Mặt khác, chúng ta thấy cửa ải vẫn nối liền một mạch với bức
tường thành ở hai bên cửa ải và cả hai bức tường này đều không cao
lắm (phải chăng do hư hại trong cuộc chiến Pháp-Thanh?). Phía sau cửa
ải, chúng ta nhìn thấy thấp thoáng vị trí của “Ngưỡng Đức đài và
những dãy hành lang làm nơi tạm nghỉ của sứ bộ ta” nằm trên sườn đồi
phía đông-nam của cửa ải (bên trái của bức họa). Bức họa này cũng cho
thấy những đồi núi trùng điệp của Việt Nam phía sau cửa ải. Bức họa
này cũng cho thấy những đồi núi trùng điệp của Việt Nam phía sau cửa
ải. Điều này giúp chúng ta hiểu được tại sao trong khi nhà Thanh cho
xây doanh trại kiên cố trên đỉnh đồi và bức tường thành hai bên cửa
ải thì về phía nước ta, từ đời nhà Lê cho đến nhà Nguyễn, các vua
chúa nước ta không quan tâm nhiều đến việc xây tường gạch hay trại
đóng quân quy mô ở vùng Nam Quan. Địa hình hiểm trở về phía ta cho
phép chỉ cần có quân canh gác và hệ thống báo động (bằng cách đốt lửa)
dọc theo đường từ Nam Quan về tới Đồng Đăng là ta có thể ứng phó kịp
thời mỗi khi địch quân kéo đến xâm lược, vì Đồng Đăng chỉ cách ải
Nam Quan từ 4 đến 5 km. Hơn thế nữa, tất cả các cửa ải phía bên trái
của ải Nam Quan (nhất là hai cửa ải Kida và Bochaï sát cạnh ải Nam
Quan) đều không được phép đi lại, do đó quân địch không thể đánh tập
hậu từ phía sau lưng ải Nam Quan.
Theo Nguyễn Trọng Đang thì trước khi ông đến nhậm
chức đốc trấn Lạng Sơn, đài Ngưỡng Đức (hay Vọng Đức) “không có
quân, hai bên tả hữu lợp bằng cỏ, sửa chữa qua loa.” Ông đã đến nhậm
chức ở Lạng Sơn vào đời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 41,
tức là năm Canh Tý (1780), ngang với năm thứ 45 niên hiệu Càn Long
nhà Thanh. Đến năm thứ 5, tức là năm Giáp Thìn (1784), ông mới xin
phép triều đình sửa chữa lại công trình này. Khởi công từ mùa đông
Giáp Thìn đến mùa xuân năm Ất Tỵ (1785) thì hoàn thành công việc tu
sửa. Do được “sửa chữa lại, đổi dùng gạch ngói” cho nên đài mới “có
vẻ hoành tráng”. Sửa chữa xong, Nguyễn Trọng Đang cho dựng một tấm
bia để ghi lại sự kiện này. Mặc dù ngày nay tấm văn bia không còn,
nhưng nội dung của nó đã được ghi lại trong cuốn Phương Đình dư địa
chí của Nguyễn Văn Siêu - một tác phẩm địa lý được viết dưới đời vua
Minh Mệnh.
Tấm ảnh trên đây (ảnh 4) do tác
giả Trương Nhân Tuấn công bố vào năm 2006. Đó là một tấm bưu ảnh
(carte postale) chụp vào đầu thế kỷ 20, cho thấy toàn cảnh ải Nam
Quan nhìn từ phía Trung Quốc. Chúng ta thấy ở hướng tây (bên phải của
tấm ảnh) có một dãy núi đá vôi, đúng như ĐNNTC đã mô tả. Bức tường có
lỗ châu mai (mur crénelé) ở hai bên đã được xây lại và làm thành một
đường thẳng với cửa ải. Ảnh này cũng cho thấy rõ phía đông của cửa ải
(bên trái tấm ảnh) là một ngọn đồi khá cao, đúng như nhận xét của P.
Neis khi ông ước lượng các ngọn đồi xung quanh ải Nam Quan có độ cao
trung bình từ 50 đến 60 m. Ở phía dưới thung lũng là một ngôi làng
của Trung Quốc. Có thể xác định gần như chắc chắn: tác giả của tấm bưu
ảnh mang số 791 này (và cả tấm bưu ảnh số 115, tức ảnh 2) chính là
nhà nhiếp ảnh nổi tiếng Pierre Dieulefils (1862-1937), sang Đông
Dương năm 1885, trước là hạ sĩ quan trong quân đội Pháp, sau khi xuất
ngũ hành nghề nhiếp ảnh tại Hà Nội. Từ cuối năm 1902 đến 1924, ông
đã sản xuất trên 5.000 tấm bưu ảnh (carte postale), trong đó phần lớn
là ảnh về Đông Dương.
Ảnh 4: Trường thành và ải Nam Quan nhìn từ phía Trung Quốc
Ảnh 5: Ải Nam Quan nhìn từ phía Trung Quốc
Một tấm bưu ảnh khác (mang số 797) cũng do tác
giả Trương Nhân Tuấn công bố cho thấy cận ảnh của ải Nam Quan nhìn từ
phía Trung Quốc (ảnh 5).
Ảnh 6: Cửa Trung Hoa và Trường thành ở Nam Quan
Bức ảnh này có lẽ chụp vào cùng thời điểm với tấm
bưu ảnh số 791 (vì kiến trúc của trùng đài rất giống nhau) cho thấy
bức tường có lỗ châu mai (mur crénelé) được xây khá cao. Chúng ta có
thể tìm thấy tấm bưu ảnh này trong bộ sưu tập của Pierre Dieulefils.
Một tấm bưu ảnh khác của Pierre Dieulefils mang
số 598 cho chúng ta thấy được toàn cảnh của ải Nam Quan nhìn từ phía
Việt Nam (ảnh 6). Tấm ảnh này có lẽ được chụp vào một thời điểm muộn
hơn so với các tấm ảnh trước, vì cửa quan có mái cong và có dáng vẻ
đẹp hơn so với trước. Chúng ta cũng thấy rõ bức trường thành
(muraille) ở phía tây chạy dài đến tận chân núi đá vôi. Mặt khác,
nhiếp ảnh gia đã đứng từ một vị trí rất cao trong lãnh thổ Việt Nam
để chụp ảnh, chứng tỏ về phía nước ta có những cao điểm có thể khống
chế các vị trí của quân địch.
Tấm bưu ảnh mang số 792 trên đây mà một tác giả
tên là Chân Mây vừa giới thiệu trên Internet cách đây không lâu giống
hệt với tấm bưu ảnh mang số 598 vừa giới thiệu ở trên. Tấm ảnh (ảnh 7)
hấy ở phía tây (bên trái tấm ảnh) có một doanh trại của phía Trung
Quốc nằm trên đỉnh một ngọn đồi, tức là vị trí của Chiêu Đức đài
trước kia.
Ảnh 8: Cửa Trung Hoa ở Nam Quan
Điều cần lưu ý là về phía Việt Nam, trước mặt
trùng đài của Trung Quốc, cách một quãng ngắn còn có một cửa nhỏ nối
liền với một bức tường chạy song song với bức trường thành của phía
Trung Quốc. Tấm cận ảnh sau đây mà Chân Mây giới thiệu giúp chúng ta
thấy được rõ hơn cái cửa nhỏ này (ảnh 8).
Tóm lại, diện mạo của ải Nam Quan là một diện mạo
rất đặc biệt, không thể nhầm lẫn: cửa ải nằm trên một con đường hiểm
trở chạy giữa hai dãy núi, một bên là núi đá (núi đá vôi), một bên
là núi đất. Một bức trường thành được xây ở cả hai sườn đồi nằm hai
bên cửa ải; về phía tây, bức tường này chạy lên đến tận chân dãy núi
đá vôi. Cửa quan được đặt ở giữa hai quả đồi, tại một vị trí thấp
ngay trên con đường bộ chạy từ nước này sang nước kia. Điều đáng lưu ý
là về phía đông-nam của cửa ải, từ các vị trí khá cao, người ta có
thể nhìn thấy toàn bộ cửa ải và bức tường do Trung Quốc xây, và có
thể chụp được những tấm ảnh toàn cảnh chẳng khác gì ảnh chụp từ máy
bay.
Điều này khiến cho người ta thắc mắc: tại sao các
cấp thẩm quyền của cả phía Trung Quốc lẫn phía Việt Nam từ trước đến
nay không hề trưng ra những tấm ảnh tương tự để “đập tan luận điệu
của bọn phản động và bọn cơ hội”, trong khi đó là cách tốt nhất để
chứng minh rằng đường biên giới cũ không hề thay đổi? Có hai giả
thuyết: một là Việt Nam đã đánh mất tất cả các điểm cao ở phía Nam của
ải Nam Quan, do đó không thể chụp được những tấm ảnh toàn cảnh như
những nhiếp ảnh gia người Pháp đã chụp. Giả thuyết thứ hai là vẫn còn
có những cao điểm tương tự, nhưng người ta không chụp những tấm ảnh
như thế vì sợ để lộ ra sự thật là một diện tích khá lớn của Việt Nam
đã mất về tay Trung Quốc ngay tại cửa ải Nam Quan.
Cũng cần lưu ý đến một điểm khác: tại sao trong
Đại Nam nhất thống chí chỉ nói đến một cửa, có khóa, trong khi nhìn
vào các tấm ảnh chụp từ phía Việt Nam, chúng ta lại thấy hai cửa ải và
hai bức tường song song, ít nhất là ở phần dưới thấp? Đó là vấn đề
mà chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần sau, khi đi sâu vào lịch sử của ải Nam
Quan.
Phần 2
Trong một bài trả lời phỏng vấn vào đầu năm
2008, ông Vũ Dũng – lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, tuyên bố một
cách chắc nịch: “Tại khu vực cửa khẩu Hữu Nghị, theo các văn bản
pháp lý lịch sử, đường biên giới luôn nằm phía nam Ải Nam Quan. Trấn
Nam Quan do Trung Quốc xây dựng vẫn thuộc Trung Quốc, chứ không phải
đường biên giới đi qua ải Nam Quan như một số người vẫn hiểu.”
Nếu dựa trên văn bản pháp lý (tức là văn bản ký
kết giữa nước Pháp và nhà Thanh) thì có thể nói đường biên giới nằm ở
phía nam ải Nam Quan. Nhưng nếu dựa trên những văn bản lịch sử như
trên vừa trình bày thì đường biên giới “đi ngang qua ải Nam Quan” chứ
không nằm ở phía nam của cửa ải. Chỉ những người tin vào sử Tàu mà
không tin vào sử Việt mới cho rằng đường biên giới lịch sử nằm ở phía
nam ải Nam Quan. Đảng Cộng sản Trung Quốc sau khi đã xác lập quyền
thống trị trên toàn bộ lục địa Trung Hoa vào năm 1949 đã “bê nguyên
xi” luận điệu của nhà Thanh vào quan niệm sử học và địa lý học của
họ. Trong khi đó, những người cộng sản Việt Nam không hiểu do đâu mà
trở nên mơ hồ, mù mờ, thay vì dựa vào sử liệu của tổ tiên lại thừa
nhận luận điểm của phía Trung Quốc, thậm chí coi đó là luận điểm
chính thống của mình?
2) Đường biên giới pháp lý theo Hiệp ước Pháp-Thanh
2) Đường biên giới pháp lý theo Hiệp ước Pháp-Thanh
Vậy thì tại sao đường biên giới từ giữa thế kỷ
16 đến giữa thế kỷ 18 vẫn chạy ngang ải Nam Quan, bỗng dưng lại bị
đẩy lùi xuống phía nam ải Nam Quan? Điều này có liên quan đến hoàn cảnh
lịch sử của nước ta vào thập niên 80 của thế kỷ 19.
Vào ngày 25.8.1883, nhà Nguyễn phải ký Hiệp ước
Harmand (còn gọi là Hòa ước Quý Mùi) chấp nhận chế độ bảo hộ
(protectorat) của nước Pháp đối với Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Ngày
11.5.1884, tại Thiên Tân, nhà Thanh ký hòa ước công nhận quyền bảo hộ
của nước Pháp đối với Việt Nam và đồng ý rút quân khỏi Bắc Kỳ. Nhưng
do quân Pháp bị phục kích bất ngờ tại Bắc Lệ, một cuộc chiến tranh
không tuyên bố lại bùng nổ giữa quân đội hai nước Pháp và Trung Hoa,
kéo dài mãi đến giữa năm 1885. Mặc dù đạt được thắng lợi trên mặt
biển (như phá hủy hạm đội đóng tại quân cảng Phúc Châu, gây thiệt hại
nghiêm trọng cho hạm đội Nam Dương) cũng như đạt được một số thắng
lợi trên chiến trường ở miền Bắc Việt Nam, nhưng do cuộc rút quân đột
ngột tại Lạng Sơn vào cuối tháng 3 năm 1885, chính phủ Jules Ferry bị
phe đối lập (đứng đầu là Georges Clémenceau) công kích kịch liệt,
dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ này vào ngày 30.3.1885. Do đó, nước
Pháp không muốn kéo dài cuộc chiến và đồng ý ký Hiệp ước Thiên Tân
(ngày 9.6.1885) chấm dứt cuộc chiến tranh Pháp-Thanh. Để thực hiện hiệp
ước này, hai phái đoàn đã được thành lập để tiến hành công tác phân
định đường biên giới, bắt đầu bằng việc xác định ranh giới ở ải Nam
Quan và vùng lân cận.
Như bác sĩ Paul Neis đã kể lại, công tác này đã
gặp trắc trở ngay từ đầu, không phải do phía Pháp mà do phía nhà
Thanh cố tình gây rắc rối và tìm cách lấn chiếm. Có thể kể ra hai ví
dụ. Một là ngay khi phái đoàn Pháp đến ải Nam Quan để dự phiên họp
chính thức đầu tiên, phía nhà Thanh đã cho quân chính quy mang cờ tràn
đến chiếm các vị trí thuộc lãnh thổ Việt Nam và cho dù có sự phản
đối, họ cũng không chịu rút, có lẽ muốn uy hiếp phái đoàn Pháp về mặt
tâm lý. Về sau, khi phái đoàn Pháp chính thức phản đối, các nhà
ngoại giao của nhà Thanh thanh minh rằng họ hoàn toàn không biết về
hành động của giới chỉ huy quân sự, và hành động vừa qua có lẽ cũng
chỉ nhằm để thể hiện nhiệt tình chào đón phái đoàn Pháp. Ví dụ thứ
hai là việc phía nhà Thanh tìm cách dời vị trí của ải Bosa (Bochaï)
để lấn chiếm bốn làng của người Việt; nếu không có sự phản đối của đại
diện các làng này thì có lẽ phái đoàn Pháp cũng không biết gì về sự
thực này.
Về phía Pháp, vì họ đàm phán mà không có mặt của
triều đình nhà Nguyễn nên sự am hiểu về vấn đề biên giới cũng có
phần hạn chế. Hơn nữa chính phủ Pháp cũng không muốn kéo dài cuộc đàm
phán để có thể rảnh tay trong việc ổn định tình hình ở Việt Nam.
Phía Trung Quốc biết chuyện đó, nên họ cố tình dây dưa và cố tìm phần
lợi về cho mình. Bác sĩ Neis đã kể như sau về đường biên giới ở cửa
Trung Hoa (tức ải Nam Quan):
“Cửa Trung Hoa nằm ở đáy một khe núi (gorge)
không sâu lắm, những ngọn đồi dốc đứng nghiêng bóng trên cửa ải chỉ
có độ cao từ 50 đến 60m. Từ khi có hòa bình, người Hoa đã tái thiết
lại cổng bằng đá chẻ và nó được nối liền với một bức tường có lỗ châu
mai với những doanh trại phòng ngự bao quanh các ngọn đồi. Các ủy
viên người Hoa giữ vững đòi hỏi rằng cái cổng và bức tường có lỗ châu
mai không phải là đường biên giới; họ muốn có ít nhất là vài thước
đất hoang nằm trước đó. Người ta đến tận nơi, và như một sự nhượng bộ
lớn lao về phía chúng ta mà sau đó chúng ta không ngừng khoe khoang,
chúng ta đã thỏa thuận rằng biên giới sẽ dựa theo dòng suối chảy
dưới chân những ngọn đồi của cửa Trung Hoa, cách khoảng 150 m trước
cửa ấy. Đó là cái mà tôi gọi là phiên họp đầu tiên để xác định biên
giới, sáu tháng sau khi chúng tôi khởi hành từ Pháp, ba tháng sau khi
chúng tôi đến Đồng Đăng.”
Trong thực tế, đường biên giới được xác định
cách ải Nam Quan không phải là 150 m, mà là 100 m. Tác giả Trương Nhân
Tuấn đã tìm thấy trong các thư khố ở Pháp một biên bản
(procès-verbal) ký ngày 7 tháng 4 năm 1886 Đồng Đăng giữa hai phái
đoàn Pháp và nhà Thanh với nội dung như sau:
Ủy ban Phân định biên giới Pháp –Hoa thừa nhận,
vào ngày 7.4.1886, rằng: tính từ một điểm cách 100m phía trước Cổng
Nam Quan, trên con đường từ Nam Quan đến Đồng Đăng, đường biên giới
đi về phía tây lên đến đỉnh của núi đá trên đó trên đó có một cái đồn
đánh dấu bằng chữ A trên tấm phác đồ kèm theo, từ cái đồn đó chạy
theo đường đỉnh của dãy núi đá nhìn xuống con đường Đồng Đăng cho đến
tận điểm B trên bản vẽ. Điểm B này nằm ở nơi giao nhau giữa con
đường mòn với dãy núi đá, con đường mòn này tách ra khỏi đường lớn
chạy từ Đồng Đăng đến Nam Quan dẫn đến cửa làng Lũng Nghiêu
(Lung-Ngieu). Sau đó đường biên giới sẽ theo cùng con đường đó chạy
đến cửa làng Lũng Nghiêu. Từ cửa làng đó nó chạy theo đường đỉnh của
núi đá bọc quanh lòng chảo của làng Lũng Nghiêu để đi đến một điểm
được đánh dấu bằng chữ C. Từ điểm C này nó chạy đến ải Kida .
Ải Kida là ải nào?
Để có thể hiểu rõ hơn, chúng ta có thể xem lại tấm bản đồ của đại úy Chapès năm 1894 (ảnh 10) do tác giả Trương Nhân Tuấn công bố , mà tôi xin mạn phép trích đoạn và phóng lớn như sau:
Ảnh 10: Bản đồ Chapès (trích)
Chúng ta thấy đường biên giới đáng lẽ chạy ngang
cửa quan (porte) đã phải lùi một quãng (100 m) về phía Việt Nam.
Đường biên giới này chạy về phía tây đến đỉnh của núi đá, sau đó chạy
dọc theo đường đỉnh của dãy núi đá vôi, vòng xung quanh làng Lũng
Nghiêu (trong ảnh ghi là Lung-Ngau) thuộc địa phận Trung Quốc, rồi
lại chạy theo đường đỉnh để đến ải Kida. Trong ảnh, ải này được ghi
là Khua Da Aï (Neis phiên âm là Ki-da). Ngoài ải Ki-da, trong bản đồ
ta còn thấy Bo Sa Aï (ải Bo Sa, chính là Bo-chaï đã kể trong bài bút
ký). Hai ải này thuộc loại không cho phép thông thương, vì ĐNNTC cho biết tất cả các ải ở phía tây của ải Nam Quan đều không được phép thông thương.
Cũng trên tấm bản đồ của Chapès, chúng ta thấy
đường biên giới ở phía đông chạy theo một đường gần như thẳng góc với
con đường đi Đồng Đăng, nối từ cột mốc số 18 với đường phân thủy của
dãy núi ở phía đông. Ở phía đông-nam của ải Nam Quan, trên một ngọn
đồi nối liền với dãy núi đất, có một vị trí của phía quân Pháp có ghi
chữ “Blockhaus Francais en construction” (lô-cốt của Pháp đang xây
dựng). Chính nhờ ngọn đồi có lô-cốt này và những vị trí cao hơn ở
hướng đông-nam mà các sĩ quan và nhà nhiếp ảnh người Pháp đã chụp
được những tấm ảnh toàn cảnh về ải Nam Quan mà chúng ta thấy trên
đây.
Như vậy là do Việt Nam bị mất chủ quyền, không có
mặt trong đàm phán cho nên đã mất một phần đất tại ải Nam Quan do sự
nhượng bộ của người Pháp đối với nhà Thanh. Đường biên giới vì thế
lùi sâu vào lãnh thổ Việt Nam 100 m trước ải Nam Quan. Điều này giải
thích rõ nghi vấn mà chúng ta đã nêu trên đây: tại sao ĐNNTC mô tả ải
Nam Quan “có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ
mới mở”, trong khi trên một số tấm bưu ảnh chụp vào thời Pháp thuộc,
chúng ta thấy có đến hai cửa và hai lớp tường gạch chạy song song –
ít nhất là ở phần dưới thấp, tiêu biểu là tấm ảnh sau đây do Chân Mây
sưu tầm
Ảnh 11: Ngõ vào Cửa Trung Hoa và bức trường thành
Vào năm 1908, cuộc nổi dậy của những người thuộc
phái Tôn Trung Sơn đã bắn phá và làm thiệt hại cho hai bức tường
cũng như hai cửa ải ở Nam Quan. Dòng chữ in bằng tiếng Pháp và dòng
chữ viết thêm trên tấm bưu ảnh này có nghĩa là: “Lối vào cổng Trung
Hoa (tức ải Nam Quan) và bức trường thành: cách Lạng Sơn 15 km. Các
thành lũy và trạm gác bị bắn phá bởi những người cải cách
(réformistes) vào năm 1908 và đã có nhiều thiệt hại về vật chất.”
Việc đẩy lùi đường biên giới 100 m về phía Việt
Nam rõ ràng là một hành động xâm phạm lãnh thổ Việt Nam. Nếu coi đó
là một căn cứ pháp lý thì đó cũng chỉ là sự hợp pháp hóa một hành vi
bất hợp pháp, do chỗ Việt Nam bị mất chủ quyền ở Bắc Kỳ vào tay người
Pháp kể từ Hiệp ước Patenôtre (1884). Nếu như ở cả hai nước Việt Nam
và Trung Quốc đều có những chính quyền thật sự đại diện cho nhân dân
hai nước, và nếu hai quốc gia đều thực hiện đúng đắn chính sách về
một đường biên giới hữu nghị thì phía Trung Quốc phải xóa bỏ văn bản
ký kết bất bình đẳng đó và trả lại cho Việt Nam 100 m mà nhà Thanh đã
lấn chiếm bất hợp pháp, chứ không thể lợi dụng điều đó để tiếp tục
lấn chiếm thêm đất đai nhằm xóa bỏ hình t
Tóm lại, đường biên giới lịch sử tại ải Nam Quan
và đường biên giới pháp lý do Hiệp ước Pháp-Thanh quy định vào cuối
thế kỷ 19 là hai đường biên giới hoàn toàn khác nhau. Đường biên giới
lịch sử hình thành vào khoảng thập niên 30 của thế kỷ 16 nằm ngay
tại vị trí của ải Nam Quan và được xác định bằng cửa ải cũng như hai
bức tường xây hai bên cửa ải, đúng như ĐNNTC mô tả. Đường biên giới
lịch sử đó đã tồn tại ba thế kỷ rưỡi và tạo ra hình tượng “ải Nam
Quan” trong văn học và sử học Việt Nam. Nhiều thế hệ người Việt -
như thế hệ chúng tôi và nhiều thế hệ trước đó, mỗi khi nhắc đến cái
tên “ải Nam Quan”, đều hình dung đó là điểm khởi đầu của Tổ quốc. Còn
đường biên giới pháp lý hình thành vào cuối thế kỷ 19 thật ra là hậu
quả của một thứ hiệp ước bất bình đẳng được ký giữa nhà Thanh với
nước Pháp, trong hoàn cảnh dân tộc ta bị mất chủ quyền.
Bất cứ người Việt yêu nước nào cũng không thể
chấp nhận luận điểm “đường biên giới luôn nằm phía nam ải Nam Quan”
và coi đó là chân lý, bởi vì luận điểm đó là do nhà Thanh ngụy tạo
nhằm lấn chiếm biên giới. Những người cộng sản Trung Quốc tiếp tục nêu
luận điểm đó là do ý đồ tiếp tục lấn chiếm biên giới theo gương các
tiền nhân của họ. Về phía người Việt Nam, bất cứ ai tự nhận mình là
người Việt đều phải có nghĩa vụ tìm hiểu cặn kẽ lịch sử của đất nước
thông qua các tư liệu lịch sử do cha ông để lại, đối chiếu chúng với
thực tế và các tư liệu khách quan khác (ví dụ: các tư liệu của người
Pháp), chứ không thể vội vàng tin vào các chứng cứ ngụy tạo mà phía
Trung Quốc trao cho và nhiệt tình làm người phát ngôn hay người bảo
vệ luận điểm cho phía họ.
Lịch sử bao giờ cũng công bằng. Cho dù người ta
cố tìm cách xuyên tạc, bóp méo lịch sử vì ý đồ cá nhân hay phe phái,
lịch sử bao giờ cũng căn cứ vào sự thật, mà che giấu sự thật là điều
bất khả thi. Bởi vì người ta có thể lừa dối một người nào đó suốt đời
hay lừa dối nhiều người trong một quãng thời gian nào đó, nhưng không
ai có thể lừa dối mãi mãi cả một dân tộc!
Đà Lạt, 4-8-2009
Mai Thái Lĩnh
Đà Lạt, 4-8-2009
Mai Thái Lĩnh
Tài liệu tham khảo
1) Đào Duy Anh, Hán-Việt từ điển, Trường Thi, In lần thứ 3, Sài Gòn 1957
2) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản cũ (đời Tự Đức), bản dịch của Phạm Trọng Điềm do Đào Duy Anh hiệu đính, Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, 1997, 6 tập
3) Docteur P. Neis, “Sur les frontières du Tonkin”, in Tour du monde, Vol LIV: 1888 - 1er semestre, pp. 312-416. Bản điện tử đăng ở địa chỉ:
4) Đại Việt sử ký toàn thư, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1679), Hoàng Văn Lâu và Ngô Thế Long dịch và chú thích, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, 4 tập
4) Đại Việt sử ký toàn thư, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1679), Hoàng Văn Lâu và Ngô Thế Long dịch và chú thích, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, 4 tập
5) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Viện Sử học, Nxb Giáo dục tái bản, 2001-2007, 10 tập
6) Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Viện Sử học, Nxb Giáo dục tái bản, 2007, 2 tập
7) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Trung tâm Học liệu - Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1971, 2 tập
8) Trương Nhân Tuấn, “Tìm hiểu về Ải Nam Quan qua một vài tài liệu”, talawas 10.10.2008,
9) Trương Nhân Tuấn, “Trao đổi với ông Lê Công Phụng về lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam và hai hiệp ước biên giới Việt – Trung”, talawas 21.20.2008,
10) Trương Nhân Tuấn, "Tìm hiểu Ải Nam Quan và giới thiệu sách Biên giới Việt-Trung 1885-2000 – Lịch sử thành hình và những tranh chấp“, Đàn Chim Việt Online, 22.8.2005:
11) Trần Gia Phụng, “Vài sử liệu về Ải Nam Quan”, Thư viện Tiếu Lùn, 2003-06-21
12) Trần Gia Phụng, “Ải Nam Quan trong lịch sử”, Thư viện Tiếu Lùn, 2006-12-25:
13) Institut Franco-Asiatique (IFA), Bản điều trần của bác sĩ Trần Đại Sỹ, 10.11.2001,
14) Hà Mai Phương – Lưu Chu Thanh Tao, “Từ Cửa Nam Quan đến Ải Chi Lăng, Châu Ôn và núi Phân Mao”, Thư viện Tiếu Lùn, 2002-06-18:
15) Từ Mai, “Một số sử liệu liên quan tới biên giới Việt Hoa”, Mạng Ý kiến: http://www.ykien.net/tl_tm_sulieu.html
9) Trương Nhân Tuấn, “Trao đổi với ông Lê Công Phụng về lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam và hai hiệp ước biên giới Việt – Trung”, talawas 21.20.2008,
10) Trương Nhân Tuấn, "Tìm hiểu Ải Nam Quan và giới thiệu sách Biên giới Việt-Trung 1885-2000 – Lịch sử thành hình và những tranh chấp“, Đàn Chim Việt Online, 22.8.2005:
11) Trần Gia Phụng, “Vài sử liệu về Ải Nam Quan”, Thư viện Tiếu Lùn, 2003-06-21
12) Trần Gia Phụng, “Ải Nam Quan trong lịch sử”, Thư viện Tiếu Lùn, 2006-12-25:
13) Institut Franco-Asiatique (IFA), Bản điều trần của bác sĩ Trần Đại Sỹ, 10.11.2001,
14) Hà Mai Phương – Lưu Chu Thanh Tao, “Từ Cửa Nam Quan đến Ải Chi Lăng, Châu Ôn và núi Phân Mao”, Thư viện Tiếu Lùn, 2002-06-18:
15) Từ Mai, “Một số sử liệu liên quan tới biên giới Việt Hoa”, Mạng Ý kiến: http://www.ykien.net/tl_tm_sulieu.html
Do trang “Mạng Ý kiến” bị phá hoại, hiện nay không thể tìm được bài này ở địa chỉ nói trên.
16) Nguyễn Đình Sài, “Biên giới Việt-Trung: Đi tìm sự thật sau những che giấu”; Sự thật về Ải Nam Quan (phần 2), Hội chuyên gia Việt Nam, 11.12.2002:
17) Chân Mây, “Tài liệu hình ảnh hiếm quý chứng minh Ải Nam Quan là của Việt Nam”, Diễn đàn Một góc phố, 18.6.2009:
Mai Thái Lĩnh
Ải Nam Quan trong hiện tại (1)
Bài viết này là phần thứ hai của một tiểu luận mà phần đầu là bài viết “Ải Nam Quan trong lịch sử” (đã được công bố trên các trang mạng talawas và Bauxite Việt Nam vào đầu tháng 8 năm 2009). Thế nhưng, khi bước vào tìm hiểu tình hình của khu vực ải Nam Quan hiện nay, bất cứ ai cũng gặp phải khó khăn trong việc sưu tầm tư liệu. Đề tài này cho đến nay vẫn còn thuộc lĩnh vực “bí mật Nhà nước”, các cấp có thẩm quyền của cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc đều tìm cách bưng bít, che giấu sự thật. Điều này có thể ảnh hưởng ít nhiều đến tính chất khách quan, khoa học của quá trình nghiên cứu.
Vì thế chỉ có thể coi đây là một nỗ lực khiêm tốn nhằm phá thủng bức màn sương khói đã phủ lên khu vực này từ hơn nửa thế kỷ nay. Trên con đường tìm ra “sự thật về ải Nam Quan”, có lẽ cần có sự đóng góp nhiều hơn nữa của những người Việt Nam yêu nước. Tác giả hy vọng sẽ có sự tiếp tay của những người cộng sản yêu nước – nhất là những người nắm trong tay những bằng chứng xác thực, không thể chối cãi nhưng cho đến nay, vì những lý do nào đó, vẫn chưa thể hoặc chưa dám nói lên toàn bộ sự thật.
________________
Vào cuối thế kỷ 19, do Việt Nam bị mất chủ quyền vào tay thực dân Pháp,
cuộc thương lượng để phân định đường biên giới đã diễn ra không phải
giữa nhà Nguyễn và nhà Thanh mà là giữa chính phủ Pháp với nhà Thanh. Do
hoàn cảnh chính trị của thời đó, các văn kiện ký kết về biên giới không
phải là một hiệp ước bất bình đẳng gây bất lợi cho nhà Thanh như phía
Trung Quốc thường rêu rao mà trong thực tế, đã gây thiệt hại cho phía
Việt Nam. Mãi đến hơn mười năm sau, nghĩa là sau cuộc chiến tranh
Trung-Nhật (1894-1895), Trung Quốc mới chịu thiệt thòi gây ra bởi sức ép
của Nhật Bản và các cường quốc phương Tây. Không thể đánh đồng Hiệp ước
Thiên Tân năm 1885 với các hiệp ước bất bình đẳng sau này.
Sau khi Hiệp ước Thiên Tân được ký kết (9.6.1885), một ủy ban phân định
biên giới được thành lập, bao gồm các thành viên được chỉ định của hai
bên Pháp và Trung Hoa. Việc phân định ranh giới đã diễn ra từ cuối năm
1885 cho đến giữa năm 1887. Ngày 26.6.1887, một văn kiện xác định đường
biên giới mới được ký kết tại Bắc Kinh giữa chính phủ Pháp và nhà Thanh,
có tên gọi là Công ước về việc phân định đường biên giới giữa Trung
Hoa và Bắc Kỳ (Convention relative à la délimitation de la frontière
entre la Chine et le Tonkin). Đến năm 1895, hai bên ký thêm một Công ước bổ sung (Convention additionnelle)
nói riêng về đoạn biên giới giữa Bắc Kỳ và tỉnh Vân Nam. Cả hai
công ước này là những văn bản pháp lý chính thức xác định đường biên
giới Việt-Trung mãi cho đến cuối thế kỷ 20.
Như tôi đã trình bày trong bài viết trước đây, tại khu vực ải Nam Quan,
đường biên giới đã bị đẩy lùi về phía nam, làm cho Việt Nam mất đi 100 m
ngay trước cửa ải Nam Quan. Nhưng sự thiệt hại này là không đáng kể, vì
về phía lãnh thổ Việt Nam, người Pháp vẫn còn giữ được các điểm cao
khống chế ải Nam Quan. Mặt khác, nhìn vào các tấm ảnh chụp vào
đầu thế kỷ 20 (ảnh 1), chúng ta thấy khoảng cách giữa cổng
nhỏ (của Việt Nam) và cổng lớn (của Trung Quốc) rất ngắn, từ
bờ tường thứ nhất có thể nhìn thấy bờ tường thứ hai bằng mắt thường một
cách dễ dàng.
Ảnh 1: Ải Nam Quan đầu thế kỷ 20
Câu hỏi đặt ra là: hơn 100 năm sau, liệu đường biên giới pháp lý được ấn định bởi Công ước Pháp-Thanh có được giữ vững hay không?
I) MẤT ĐẤT TẠI ẢI NAM QUAN – TỪ TIN ĐỒN ĐẾN SỰ THẬT:
Vào khoảng đầu năm 2001, dư luận về việc “mất đất tại ải Nam Quan” đã
bùng lên từ trong nước ra đến hải ngoại. Cuộc tranh luận đó đã không thể
đem đến kết quả rõ ràng, bởi lẽ do thông tin bị bưng bít, cả phía bênh
vực lẫn phía chống đối đều không có được những tài liệu khách quan.
Trong khi đó, Đảng và Chính phủ của Việt Nam vẫn một mực khẳng định
“không có chuyện mất đất”, rằng dư luận về việc mất đất chỉ là tin đồn
vô căn cứ do luận điệu xuyên tạc, có ác ý của những phần tử cơ hội, bất
mãn trong nước hoặc những người phần tử phản động tại hải ngoại.
Giờ đây, nhìn lại sự việc một cách khách quan, cần phải thừa nhận rằng
dư luận về việc “mất đất” tại khu vực này, bất luận nảy sinh từ đâu, đều
dựa trên một thực tế: có sự thay đổi về đường biên giới ngay trước mặt
Hữu Nghị Quan. Kể từ khi đường biên giới tại khu vực này được thông
thương, rất nhiều người đặt chân đến nơi đây đã nhìn thấy một sự thật:
đứng từ vị trí của cột mốc số 0, người ta không thể nhìn thấy Hữu Nghị
Quan bằng mắt thường như trước nữa; nói cách khác là đường biên giới
đã bị đẩy lùi về phía Việt Nam.
1. Những thay đổi diễn ra tại Hữu Nghị Quan:
Đầu năm 2002, khi cuộc tranh luận về ải Nam Quan bắt đầu diễn ra gay
gắt, một thanh niên ở Hà Nội đã đến thăm cửa khẩu Hữu Nghị và sau đó gửi
bài lên Internet để tường thuật lại cuộc viếng thăm đó, kèm theo một số
hình ảnh. Trên trang mạng Giao điểm, một tác giả có bút danh là Bàn Tân
Định đứng trên lập trường bênh vực Đảng Cộng sản Việt Nam đã sốt sắng
giới thiệu bài viết này cùng một số hình ảnh kèm theo để bác bỏ nguồn
tin “Việt Nam mất ải Nam Quan”. Bản thân chàng thanh niên đó cũng hoàn
toàn tin tưởng rằng “ải Nam Quan” vẫn còn đó, và đường biên giới không
hề thay đổi. Thế nhưng chính lời tường thuật và những tấm ảnh đăng kèm
lại trở thành bằng chứng cho thấy đường biên giới bị đẩy lùi về phía
nam, vào trong lãnh thổ của Việt Nam[1].
Dựa vào lời kể của chàng thanh niên có bút danh là Văn Khoa đó, chúng ta
được biết tại đường biên giới giữa hai nước có một “cột mốc số 0”, phía
sau là một cây si mà theo truyền thuyết là do cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng trồng vào năm 1965 (ảnh 2).
Ảnh 2: “Cột mốc số 0” và cây si (2002)
Ảnh 3: Trạm xuất nhập cảnh của Trung Quốc (2002)
Điều đáng nói là đứng từ vị trí của “cột mốc số 0” (thật ra là “cột Km
số 0”), người ta không thể nhìn thấy Hữu Nghị Quan mà chỉ có thể nhìn
thấy thấp thoáng “tòa nhà mái tròn”, tức Trạm xuất nhập cảnh của phía
Trung Quốc (ảnh 3). Phải đứng từ chỗ tòa nhà mái tròn này, chúng ta mới
có thể nhìn thấy được Hữu Nghị Quan (ảnh 4). Như vậy, ta có thể ước
lượng khoảng cách từ vị trí của cột Km số 0 đến Hữu Nghị Quan tối thiểu
phải là 200m – tính theo đường chim bay[2].
Ảnh 4: Hữu Nghị Quan nhìn từ cửa trước của Tòa nhà mái tròn (2002)
Cuộc tranh luận trên Internet đã diễn ra hết sức gay gắt, kẻ bênh người
chống. Chính trong quá trình tranh luận mà một tác giả người Việt ở hải
ngoại (Trương Nhân Tuấn) đã gắng công tìm kiếm tư liệu và chứng minh
được rằng theo Hiệp ước Pháp-Thanh, khoảng cách đó (giữa ải Nam Quan và
đường biên giới) chỉ có thể là 100m, nếu xa hơn thì điều đó có nghĩa là
ta đã mất thêm đất đai ở khu vực này.
Ảnh 5: “Cột mốc số 0” và di tích của “cây si” (2005)
Có lẽ để đối phó với dư luận, từ năm 2005, phía Trung Quốc đã làm một
cuộc đại trùng tu nhằm làm biến dạng hoàn toàn bộ mặt của Hữu Nghị Quan.
Trước hết, họ đốn bỏ “cây si Phạm Văn Đồng”, để lại cột Km số 0 cùng
với gốc cây si trơ trụi bên vệ đường. Đáng chú ý là trong tấm ảnh này
(ảnh 5), cột Km số 0 là một cột mốc hoàn toàn khác. Trên cột mốc mới,
dòng chữ “HN – Quan” được thay bằng dòng chữ “Hữu Nghị”. Mặt khác,
nhằm tạo cho người ta có “cảm tưởng” là đứng từ cột mốc này vẫn có thể
nhìn thấy cửa quan, từ năm 2006, phía Trung Quốc đã phá hủy hoàn toàn
tòa nhà mái tròn để xây lại một trạm kiểm soát xuất nhập cảnh mới, đồng
thời mở rộng toàn bộ khu vực từ cột Km số 0 đến Hữu Nghị Quan, làm thành
một quảng trường rộng lớn (ảnh 6)
Ảnh 6: Khu vực Hữu Nghị Quan đang được trùng tu (tháng 5 - 2006)
Ảnh 7: Đường hành lang dẫn đến trạm xuất nhập cảnh mới
Để tạo ra vẻ hoành tráng và hiện đại cho khu vực Hữu Nghị Quan, phía
Trung Quốc còn xây một hành lang dẫn từ biên giới mới đến trạm xuất nhập
cảnh (ảnh 7). Mặc dù vậy, cái ảo giác gần gũi với Hữu Nghị Quan cũng
không thể che giấu được sự thật: đứng từ cột Km số 0, người ta không thể
nhìn rõ Hữu Nghị Quan. Bằng con mắt thường, ta có thể ước lượng khoảng
cách đó phải từ 200 đến 300m, lấy mức tối thiểu, khoảng cách đó phải là
hơn 200m (xem ảnh 8). Và như vậy có nghĩa là trước mặt Hữu Nghị Quan,
đường biên giới đã bị đẩy lùi ít nhất là 100m về phía nước ta.
Ảnh 8: Quảng trường trước Hữu Nghị Quan nhìn từ phía Trung Quốc
(Còn tiếp)
Mai Thái Lĩnh
------------
[1]Bàn Tân Định, “Bàn về biên giới Việt Nam – Trung Quốc: Vấn đề dữ kiện”, Giao điểm 2002: http://www.giaodiemonline.com/thuvien/doithoai/biengioi_one.htm.
ĐẬP TAN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ ẢI NAM QUAN - THÁC BẢN GIỐC
Một luận điệu thường gặp của các phần tử phản động là "Đảng cộng sản Việt Nam dâng Ải Nam Quan và thác Bản Giốc cho TQ". Luận điệu này đã lừa phỉnh được khối người nhẹ dạ cả tin và lười tìm hiểu. Sau đây, HNNGBPĐ xin cung cấp đến các mem những thông tin để phản bác điều đó.
1/ Ải Nam quan và thác Bản Giốc là 2 trở ngại cuối cùng trong việc đàm phán với TQ
Trả lời câu hỏi của phóng viên báo Vnexpress, nguyên thứ trưởng ngoại giao Vũ Dũng đã nói:Trong cuộc đàm phán cuối cùng (28-31/12), vấn đề mấu chốt còn lại giữa hai bên là gì?
Trong những ngày đàm phán cuối cùng, hai bên tập trung bàn thảo hai khu vực còn tồn tại, đó là khu vực thác Bản Giốc (Cao Bằng) và cửa sông Bắc Luân (Quảng Ninh). Đây là hai khu vực nhạy cảm, chưa được phân định rõ ràng.
Trong những ngày đàm phán cuối cùng, hai bên tập trung bàn thảo hai khu vực còn tồn tại, đó là khu vực thác Bản Giốc (Cao Bằng) và cửa sông Bắc Luân (Quảng Ninh). Đây là hai khu vực nhạy cảm, chưa được phân định rõ ràng.Khi ký hiệp ước năm 1999, các khu vực khác đều vẽ được đường biên giới chung, riêng hai khu vực này chỉ vẽ được đường chủ trương của hai bên, có nghĩa có hai đường chủ trương của Việt Nam và Trung Quốc. Do đó, đây là hai khu vực khó khăn nhất và được giải quyết vào phiên cuối cùng giữa hai Trưởng đoàn đàm phán.
(http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2009/01/3ba0a080/)
Ngoài ra còn có ý kiến của nguyên thứ trưởng ngoại giao Lê Công Phụng
Hai khu vực này thuộc các khu vực phức tạp, nhạy cảm nhất trong quan hệ biên giới giữa hai nước. Trên thực tế, tại hai khu vực này đã từng xẩy ra tranh chấp phức tạp và kéo dài trong nhiều năm. Các văn bản pháp lý về hoạch định và phân giới cắm mốc giữa chính quyền Pháp và Nhà Thanh cũng có những điểm quy định không rõ ràng. Đường biên giới được vẽ trên bản đồ tỷ lệ lớn (1/100.000), địa hình ở khu vực Hữu Nghị Quan được vẽ tổng hợp, không phù hợp với địa hình tự nhiên trên thực địa, nên rất khó xác định hướng đi của đường biên giới. Những hạn chế về cơ sở pháp lý và điều kiện tự nhiên đó đã dẫn đến hai bên có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới ở hai khu vực này.
2/ Vấn đề Thác Bản Giốc được giải quyết theo tập quán quốc tếKhu vực thác Bản Giốc là một trong số các khu vực đường biên giới đi theo sông, suối. Do đó, cũng như ở các khu vực sông, suối khác đường biên giới ở khu vực này được giải quyết theo tập quán quốc tế là theo trung tuyến dòng chảy chính; việc xác định trung tuyến dòng chảy chính ở thác Bản Giốc sẽ do hai bên cùng đo đạc xác định trong quá trình phân giới, cắm mốc và dòng chảy chính vẫn ở trên thác. Như vậy, hòan toàn không có việc ta mất thác Bản Giốc mà chỉ là việc xác định hu'ớng đi của đường biên giới phù hợp với nguyên tắc xác định hu'ớng đi của đu'ờng biên giới trên sông, suối đã được hai bên thỏa thuận, phù hợp với tập quán quốc tế.
Tại thác Bản Giốc, hai bên đã thống nhất đường biên giới đi từ mốc 53 cũ (do Pháp - Thanh xây dựng). Thác Bản Giốc có hai phần, phần hoàn toàn về phía Việt Nam gọi là thác cao. Thác cao nhưng lại là thác phụ vì lượng nước không lớn. Thác thấp là thác chính sẽ chia đôi, mỗi bên được một nửa. Đương nhiên chỗ đó không cắm mốc, chỉ để nhận biết và quản lý.Thỏa thuận thứ hai đạt được ở thác Bản Giốc là hai bên không xây dựng các công trình nhân tạo trong phạm vi hẹp khu vực thác để giữ nguyên cảnh quan, vì đây là một thác đẹp thác có thể khai thác du lịch.Thỏa thuận thứ ba là hai bên sẽ cùng nhau nghiên cứu và hợp tác phát triển du lịch khu vực thác Bản Giốc. Nếu chúng ta hợp tác, phát triển khu du lịch có thể thu hút khách nội địa, khách Trung Quốc và các nước khác.Hai bên còn hai cột mốc nữa ở thác Bản Giốc chưa cắm, đó là cột mốc trên thượng lưu ở mốc 53 mà tôi vừa đề cập và cột mốc ở ngay dưới chân thác. Hy vọng ngày 2/1 sẽ cắm cột mốc này.Về vấn đề cửa sông Bắc Luân, hai bên đã đạt được thỏa thuận tạo được đường biên giới từ thượng lưu cho đến hạ lưu và đi ra điểm đầu của đường phân định Vịnh Bắc bộ.
3/ Ải Nam Quan ở phía Nam đường biên giới theo công ước Pháp – ThanhKhu vực Hữu Nghị Quan có liên quan đến đoạn biên giới đi qua đ¬ờng bộ nối liền hai n¬u'ớc và đi qua tuyến đ¬ờng sắt. Đối với đoạn đ¬ờng bộ thì Biên bản hoạch định Pháp - Thanh năm 1886 quy định rằng đ¬u'ờng biên giới "nằm ở phía Nam ải Nam Quan, trên con đ¬ờng từ Nam Quan đến làng Đồng Đăng". Khi phân giới, hai bên đã cắm mốc số 18 để xác địnhđường biên giới và vị trí của mốc này cũng được mô tả là nằm trên đường từ Nam Quan đến Đồng Đăng (mốc này đã bị mất); còn trên bản đồ cắm mốc Pháp - Thanh năm 1894 thì địa danh Nam Quan nằm ở phía Bắc đường biên giới. Như' vậy, đư'ờng biên giới luôn luôn ở phía Nam của Nam Quan, chứ không phải đi qua địa danh đó. Đối với đoạn đường sắt, phía Trung Quốc cho rằng đường biên giới đi qua điểm nối ray, nhưng qua đàm phán hai bên đã đi đến giải pháp là đường biên giới nằm ở phía Bắc điểm nối ray 148m, chứ không phải ở điểm nối ray như ý kiến của Trung Quốc.
4/ Tại sao lại chọn công ước Pháp – Thanh 1887 và 1895 lại được chọn như là một tiêu chuẩn để giải quyết các tranh chấpTrong số các nguyên tắc giữa 2 bên thì nguyên tắc số 1 làMột là, hai bên lấy các Công ước Pháp - Thanh năm 1887, 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới kèm theo, cũng như các mốc giới cắm theo quy định để xác định lại đu'ờng biên giới trên đất liền. Đây là nguyên tắc cơ bản và quan trọng.
Tại sao vậy ?Theo hòa ước Giáp Thân 1884 được kí kết giữa triều đình nhà Nguyễn và Pháp , có điều khoản nhà Nguyễn công nhận sự bảo hộ của Pháp ở Việt Nam. Tháng 9/1884 tới tháng 6/1885, Pháp và Thanh đánh nhau để tranh giành ảnh hưởng đối với VN.Năm 1887, Công ước Pháp-Thanh được kí kết nhằm phân chia lại đường biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc.Rõ ràng nếu như Ải Nam Quan có từng thuộc về Việt Nam thì nhà Nguyễn phải chịu trách nhiệm đã làm mất nó vì đã nhu nhược , bán nước cho Pháp, chấp nhận sống dưới trướng bảo hộ, để Pháp và TQ thỏa thuận về chủ quyền dân tộc.
5/ Ý nghĩa của việc giải quyết cắm mốc biên giới trên đất liền với TQ.Cắm mốc biên giới để xác định chủ quyền trên đất liền là một vấn đề quan trọng đối với bất cứ quốc gia nào. Nói một cách dễ hiểu, cũng tương tự như việc xây một cái hàng rào để xác định khuôn viên của một hộ dân cư được qui định trong số đỏ.Trong số các nước láng giềng TQ, có những nước vẫn chưa hoàn thành xong cắm mốc hoặc là hoàn thành trễ và đã trở thành nạn nhân để TQ lấn chiếm đất như Ấn Độ, Nga, Kazakhstan và Triều Tiên.
Việc hoàn thành cắm mốc biên giới giữa VN và TQ là một thành tựu quan trọng, cho thấy sự khôn khéo của Việt Nam trong vấn đề chủ quyền.
----------------------------------
Nguồn:
http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2009/01/3ba0a080/
http://viet.vietnamembassy.us/tintuc/story.php?d=20020916234331
Ải Nam Quan và thác Bản Giốc được phân chia thế nào
Thứ bảy, 31/1/2015 | 05:06 GMT+7
VE – Việt Nam và Trung Quốc đang đẩy mạnh đàm phán hiệp định hợp tác bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc, một trong các địa điểm nhạy cảm suốt quá trình phân giới trên bộ giữa hai nước, cùng với Ải Nam quan và sông Bắc Luân.
Nhân dịp này, ông Trần Công Trục, nguyên trưởng ban Biên giới Chính
phủ nói về quá trình đàm phán xác lập biên giới trên bộ tại Ải Nam Quan
và thác Bản Giốc giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Việt Anh (thực hiện)
Đường phân giới Việt – Trung tại khu vực ải Nam Quan – Ảnh 1.
|
– Thưa, ông có thể nói chi tiết việc phân chia khu vực Ải Nam Quan như thế nào?
– Ải Nam Quan là một trong 164 khu vực loại C, là
những khu vực được hình thành sau khi Việt Nam và Trung Quốc tiến hành
đối chiếu bản đồ đường biên giới chủ trương. Trước đó hai bên chưa thống
nhất được chủ yếu là do mỗi bên vận dụng các tư liệu pháp lý khác nhau
để lý giải quyền sở hữu của mình.
Trấn Nam Quan là khu vực 249C, còn được gọi là khu vực
Hữu Nghị. Khu vực này liên quan đến đoạn biên giới đi qua tuyến đường
bộ nối liền hai nước và đi qua tuyến đường sắt liên vận.
Về căn cứ pháp lý, đường biên giới Việt – Trung đi qua
tuyến đường bộ đã được mô tả trong Biên bản hoạch định năm 1886 giữa
Pháp và nhà Thanh là “đường biên nằm ở phía nam Ải Nam Quan, trên con
đường từ Nam Quan đến làng Đồng Đăng”. Khi phân giới, Pháp và nhà Thanh,
Trung Quốc đã cắm mốc số 18 để cố định đường biên giới này, vị trí của
mốc này cũng được mô tả là “nằm trên con đường từ Nam Quan đến Đồng
Đăng”. Tuy nhiên mốc này đã bị mất. Trên bản đồ cắm mốc Pháp – Thanh
năm 1894, địa danh Nam Quan được thể hiện ở phía Bắc đường biên giới.
Như vậy, căn cứ vào các tư liệu có giá trị pháp lý
theo Thoả thuận những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh
thổ mà Việt Nam và Trung Quốc ký năm 1993, thì rõ ràng đường biên giới
tại khu vực này luôn nằm về phía nam Ải Nam Quan, chứ không phải đi qua
Ải Nam Quan theo tiềm thức của người Việt Nam.
Khi thể hiện đường biên giới chủ trương ở khu vực này,
Việt Nam đã vẽ đường biên giới (màu đỏ trên bản đồ trong Ảnh 1). Theo
đó, đường biên giới chủ trương của Việt Nam không vẽ qua Ải Nam Quan mà
vẽ về phía nam Ải Nam Quan. Còn đường biên giới chủ trương của Trung
Quốc (màu xanh trên bản đồ Ảnh 1) vẽ lệch về phía nam, đi qua cột Km số 0
trên tuyến đường bộ nối liền giữa hai nước. Với hai đường biên giới chủ
trương khác nhau đó, hai bên tạo thành khu vực 294C, khá rộng, trải dài
từ tây sang đông của tuyến đường bộ.
Trong khi đàm phán hoạch định đường biên giới ở khu
vực này, hai bên đều không có đủ căn cứ pháp lý rõ ràng để bảo vệ
đường biên giới chủ trương của mình. Vì vậy đã thống nhất lựa chọn một
đường biên giới theo các nguyên tắc mà hai bên đã thỏa thuận để hoạch
định biên giới ở các khu vực C có nhận thức khác nhau.
Đường màu tím trên sơ đồ kèm theo là đường biên giới
đã được hoạch định cuối cùng mà hai bên chấp nhận, phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản mà hai bên thỏa thuận, đảm bảo công bằng, thỏa đáng
cho cả hai bên, đảm bảo lợi ích cơ bản lâu dài của 2 nước.
Như vậy không có chuyện Việt Nam đã nhường Ải Nam Quan
cho Trung Quốc như nhiều người suy diễn theo cảm tính và dựa vào những
thông tin thiếu khách quan, không có giá trị pháp lý.
Ông Trần Công Trục trong một chuyến đi khảo sát trên biên giới Việt – Trung. Ảnh do nhân vật cung cấp
|
– Trong quá trình thương lượng ở Ải Nam Quan, có câu chuyện nào khiến ông nhớ nhất?
– Trước khi thống nhất được đường biên ở khu vực này,
Việt Nam và Trung Quốc phải trải qua một chặng rất cam go, đó là làm sao
khai thông tuyến đường sắt Đồng Đăng – Bằng Tường, nối Lạng Sơn của
Việt Nam với khu vực tự trị ở Quảng Tây, Trung Quốc. Tuyến đường này đi
qua Hữu Nghị Quan, thuộc khu vực 249C.
Đây là khu khu vực Việt Nam và Trung Quốc có nhận thức
khác nhau về mặt pháp lý, từng xảy ra đụng độ đẫm máu. Lịch sử bảo vệ,
quản lý tại thực địa ở đây khiến việc đàm phán không dễ dàng giải quyết
một sớm một chiều.
Trong khi đó, nhu cầu khai thông tuyến đường sắt liên
vận sau khi hai nước khôi phục quan hệ là rất cần thiết, không chỉ đáp
ứng nhu cầu hợp tác phát triển kinh tế, dân sinh của mỗi nước, mà còn có
ý nghĩa về mặt chính trị, xã hội trong quan hệ ngoai giao giữa hai quốc
gia láng giềng, vừa trải qua một cuộc chiến tranh biên giới khốc liệt.
Tuy vậy, câu hỏi đặt ra làm sao có thể khai thông được khi mà tuyến
đường sắt liên vận này phải đi qua khu vực tranh chấp về biên giới, lãnh
thổ chưa được giải quyết? Trong khi Trung Quốc từ lâu tìm cách khẳng
định đường biên giới đi qua điểm nối ray, còn Việt Nam cho rằng đường
biên giới phải đi qua “nhà mái bằng”, ngôi nhà bảo vệ thiết bị thông tin
kết nối đường sắt. Hai điểm này cách nhau 300 m.
Đại diện đàm phán hai nước, với tinh thần khách quan,
cầu thị, đã thẳng thắn khẳng định đường biên giới chủ trương của cả
Trung Quốc và Việt Nam thể hiện trong khu vực này là không hoàn toàn
chuẩn xác, không thể đi qua vị trí mà Trung Quốc, Việt Nam đã lựa chọn.
Vì thế hai bên cần phải đàm phán để tìm ra một đường biên giới mới mà cả
hai nước có thể chấp nhận.
Trong khi đàm phán hoạch định biên giới theo thỏa
thuận, hai bên nên thống nhất chọn một giải pháp tạm thời, mang tính
kinh tế, kỹ thuật, để khai thông tuyến đường sắt liên vận. Giải pháp
tạm thời này không làm ảnh hưởng đến việc hoạch định hướng đi của đường
biên giới mới tại khu vực tranh chấp.
Việt Nam và Trung Quốc chấp nhận “đóng băng” khu vực
300m này, tức là khi con tàu chạy từ phía Việt Nam đến “điểm nối ray”
và từ phía Trung Quốc đến vị trí “nhà mái bằng” thì dừng lại, để các lực
lượng quản lý nhà nước của hai bên rời khỏi tàu. Trên tàu chỉ còn các
chuyên gia kỹ thuật, lái tàu và nhân viên phục vụ hàng hóa ở lại làm
nhiệm vụ chuyên môn, dịch vụ.
Mặc dù đã được lãnh đạo hai nước phê chuẩn “vùng đệm”
nhưng lúc đó trong nội bộ chúng ta, nhiều người vẫn không tin rằng phía
Trung Quốc có thể chấp nhận phương án này. Tôi khi đó là trưởng đoàn
Việt Nam cùng ông Đường Gia Triền, Thứ trưởng Ngoại giao, trưởng đoàn
Trung Quốc trao đối thẳng thắn và cũng khá căng thẳng trong suốt một
ngày trời, cuối cùng đoàn Trung Quốc mới thống nhất được phương án do
đoàn Việt Nam đề xuất. Sau đó hai nước ký biên bản khai thông đường sắt
Đồng Đăng – Bằng Tường và Lào Cai – Sơn Yêu ngay trong dịp Tổng Bí thư
Đỗ Mười thăm hữu nghị Trung Quốc cuối năm 1995.
Khu vực tranh chấp trên đỉnh thác Bản Giốc được quy định là khu 186 C. Ảnh 2
|
– Việc phân định ở khu vực thác Bản Giốc thì thế nào? Việt Nam có bị mất không?
– Khu vực thác Bản Giốc là một trong các khu vực đường biên giới đi theo sông suối, cụ thể là sông biên giới Quây Sơn.
Trong Biên bản phân giới cắm mốc giữa Pháp và nhà
Thanh ngày 31/5/1892 ghi rõ “Từ điểm này, đường biên giới chạy theo
chính giữa (trung tuyến) dòng sông cho đến thác Ta Tung”. Do cùng căn cứ
vào lời văn mô tả này nên khi vẽ đường biên giới chủ trương Việt Nam và
Trung Quốc đều vẽ trùng nhau, từ giữa dòng sông Quây Sơn đến chính giữa
ngọn thác chính. Hai bên chỉ vẽ khác nhau ở phần phía trên đỉnh thác,
nơi có hai dòng chảy ôm lấy cồn Pò Đon (Pò Thoong) mà cả Việt Nam lẫn
Trung Quốc đều muốn nhận là lãnh thổ của mình.
Nguyên nhân tranh chấp đối với cồn Pò Thoong là do
trong Công ước Pháp Thanh 1887 và 1895, cùng những biên bản bản đồ kèm
theo không mô tả cụ thể khu vực này. Do đó đây cũng được xếp là khu vực
loại C, mang số hiệu 186C, một trong 4 khu vực chưa được Hiệp ước biên
giới năm 1999 giải quyết dứt điểm. Khu vực này được thể hiện bằng nét
đứt trong bản đồ Ảnh 2, chờ đến khi phân giới cắm mốc mới giải quyết
theo nguyên tắc hoạch định đối với sông suối mà tàu thuyền không đi lại
được.
Đến phút cuối cùng, năm 2008, Việt Nam và Trung Quốc
đồng ý đường biên giới từ mốc 53 cũ đi qua cồn Pò Thoong, rồi đi tiếp
đến chính giữa mặt thác chính của thác Bản Giốc, sau đó đi theo trung
tuyến của dòng chảy chính của sông Quây Sơn. Đường này được thể hiện
trên Ảnh 3. Như vậy, một phần hai thác chính của Bản Giốc cùng toàn bộ
phần thác phụ và một phần tư cồn Pò Thoong quy thuộc Việt Nam. Trong khi
nếu theo nguyên tắc quốc tế thì toàn bộ cồn này phải thuộc về Trung
Quốc vì dòng chảy chính nằm về phía Việt Nam.
Như thế là không có chuyện Việt Nam đã để mất thác Bản
Giốc cho Trung Quốc như nhiều người đánh giá. Họ viện dẫn các tư liệu
lịch sử, văn học, sách giáo khoa, thậm chí cả Sách Trắng của Bộ Ngoại
giao công bố vào những năm 70 để khẳng định rằng toàn bộ thác Bản Giốc
là của Việt Nam. Đáng tiếc là những tư liệu mà họ nêu ra lại không phải
là bộ phận của Công ước Pháp Thanh 1887, 1895 mà Việt Nam và Trung Quốc
thỏa thuận làm căn cứ pháp lý duy nhất để đàm phán xác lập đường biên
giới mới.
Đường phân chia ranh giới Việt – Trung ở thác Bản Giốc. Ảnh 3
|
– Nguyên tắc quốc tế có tạo lợi thế cho Trung Quốc ở những điểm nào khác?
– Không thể có chuyện đó. Bởi vì khi giải
quyết các khu vực như vậy, Việt Nam và Trung Quốc đều phải tôn trọng lẫn
nhau, theo nguyên tắc công bằng, hợp lý, có tính đến một giải pháp tổng
thể, có đi có lại, chiếu cố đến sự quan tâm chính đáng của mỗi bên, vì
lợi ích dân cư.
Ở khu vực cửa sông Bắc Luân, nơi mà công ước Pháp
Thanh năm 1887 và 1895 không mô tả đầy đủ, rõ ràng, hai bên thống nhất
đường biên đi từ điểm đầu phía Tây Bắc theo các đoạn thẳng đi đến điểm
cuối phía Đông Nam của bãi Tục Lãm, sau đó cắt qua bãi Dậu Gót, rồi xuôi
theo trung tuyến luồng chính tàu thuyền đi lại được đến giới điểm 62.
Đường này được thể hiện trên Ảnh 4.
Theo thỏa thuận thì ba phần tư bãi Tục Lãm và một phần
ba bãi Dậu Gót quy thuộc Việt Nam. Còn một phần tư bãi Tục Lãm và hai
phần ba bãi Dậu Gót quy thuộc Trung Quốc.
Tại một số khu vực nhạy cảm khác, như khu vực Hoành
Mô, Quảng Ninh, hai nước thống nhất đường biên giới đi giữa ngầm Hoành
Mô theo thực tế quản lý mà không đi theo dòng chảy tại cống thoát nước.
Đối với khu dân cư tại Hà Giang, Lạng Sơn và khu nghĩa
trang có mồ mả của nhân dân thì hai bên dựa trên cơ sở giảm tối đa tác
động đến khu dân cư về đời sống, sản xuất, tâm linh để nhất trí điều
chỉnh đường biên giới đảm bảo cân bằng diện tích, giữ nguyên hiện trạng
dân cư.
Tại Lạng Sơn, phía Việt Nam đồng ý điều chỉnh để Trung
Quốc giữ lại 13 nóc nhà, thuộc khu vực mốc 1103. Đổi lại, tại Cao Bằng,
phía Trung Quốc đồng ý điều chỉnh để Việt Nam giữ nguyên trạng hầu hết
đất canh tác và mồ mả của dân, khu vực mốc 830/1 đến mốc 835).
Ở khu vực bản Ma Lỳ Sán của Việt Nam, gồm 5 hộ 35
khẩu thuộc tỉnh Hà Giang, mặc dù đường biên giới theo hoạch định cắt
ngang qua bản này, nhưng theo đề nghị của Việt Nam, Trung Quốc đồng ý
điều chỉnh để giữ nguyên bản này về phía Việt Nam, hoán đổi cho Trung
Quốc khu vực khác có diện tích tương đương.
Như vậy, không thể nói rằng Việt Nam đàm phán để mất
đất cho Trung Quốc ở những nơi nếu căn cứ vào cơ sở pháp lý thì chưa
hoàn toàn là đất của Việt Nam. Những khu vực có nhận thức khác nhau mà
cả hai bên không thể bảo vệ được quan điểm của mình và không thể chứng
minh được là đất của mình thì phải giải quyết theo những nguyên tắc mà
hai bên có thể chấp nhận, phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp và
thực tiễn quốc tế.
Kết quả giải quyết đường biên giới tại các khu vực
nhạy cảm là hoàn toàn công bằng hợp lý, phù hợp với luật pháp và thực
tiễn quốc tế, tuân thủ các nguyên tắc mà hai bên đã thỏa thuận, đáp ứng
nhu cầu hợp lý, chính đang của cả hai bên, đảm bảo tạo thuận lợi cho
công tác bảo vệ quản lý biên giới ổn định, lâu dài, tránh được những
tranh chấp phức tạp có thể xảy ra trong tương lai. Bởi vì, đường biên
giới ổn dịnh lâu dài và bền vững có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp
bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc Việt Nam, góp phần củng cố hòa bình , tạo
môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng và an
sinh xã hội trong bối cảnh khu vực và quốc tế hiện nay.
Đường ranh giới phân chia ở cửa sông Bắc Luân. Ảnh 4
|
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét