"Renel the Alchemist", by Sir William Douglas, 1853
Giả kim thuật đã có lịch sử hàng mấy nghìn năm. Nó là tiền thân của môn hóa học cận đại và có ảnh hưởng sâu sắc đến khoa học kỹ thuật thời cổ cũng như đời sống loài người.
Lịch sử
Mục đích của giả kim thuật là nghiên cứu phương pháp biến đổi các kim
loại thường như chì thành các kim loại quý như vàng hoặc phương pháp
luyện thuốc trường sinh bất tử. Giả kim thuật sử dụng quan điểm của Aristoteles làm cơ sở lý thuyết: có thể chuyển hóa được chất này thành một chất khác, kim loại này thành kim loại khác.
Ý nghĩ điều chế được vàng từ kim loại thường đã nảy nở từ ngày xưa khi mà sự phát triển của thương mại đã dần dần biến vàng thành thứ kim loại quý giá nhất mang đến tiền bạc và quyền lực cho con người.
Từ rất lâu trước Công nguyên, ở Ai Cập, Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại người ta đã biết rằng vàng có thể hỗn hợp với bạc, đồng
và nhiều thứ kim loại khác. Thế là xuất hiện vàng nhân tạo bằng cách
đưa thêm đồng và các kim loại khác vào vàng. Ngoài ra người ta còn trộn
đồng màu đỏ và thiếc màu trắng thành hợp kim đồng-thiếc có màu giống vàng. Điều đó chừng như xác nhận rằng có thể biến các kim loại khác thành vàng.
Năm 296, Hoàng đế La Mã
buộc phải ra sắc lệnh hủy bỏ những cách điều chế vàng nói trên vì vàng
giả tràn ngập thị trường. Để trốn tránh lệnh truy nã, các nhà giả kim
thuật chạy từ Ai Cập sang Babylon, Syria và dựng các phòng thí nghiệm kiên trì biến kim loại thường thành vàng.
Khát vọng điều chế được vàng của các nhà giả kim thuật có thể tồn tại dai dẳng như vậy vì họ chịu ảnh hưởng học thuyết của Aristotle, một nhà triết học cổ Hy Lạp sống ở thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên.
Trong quá trình nghiên cứu, các nhà giả kim thuật đã góp phần tìm ra các hợp chất mới: kim loại (Bi, Zn), muối (Hg, NH4+,…), các axit vô cơ H2SO4, HCl, HNO3,
nước cường thủy,... và hoàn thiện nhiều kĩ thuật thí nghiệm quan trọng:
nung, chưng cất, hòa tan, lọc, bay hơi, kết tinh, thăng hoa,...
Ngày nay, việc chế tạo vàng vẫn còn là một mục tiêu theo đuổi của một
số nhà khoa học, người ta đã hiểu rõ bản chất của vàng cũng như cấu tạo
hạt nhân của nó; Do đó, việc biến các kim loại rẻ tiền khác thành vàng
là điều có thể làm được nhưng đòi hỏi kĩ thuật rất cao, tốn kém và không
kinh tế, vì thế các nghiên chế tạo vàng theo hướng này hầu như ít được
theo đuổi mà hiện nay có một hướng nghiên cứu mới không phải chế tạo
vàng mà là trích xuất vàng có trong tự nhiên. Dựa vào lượng vàng khổng
lồ có sẵn trong các đại dương cũng như lượng vàng rơi rãi trong các
quặng nghèo mà người ta có ý tưởng dùng công nghệ biến đổi gien để tạo
ra những bãi rong biển có khả năng hấp thụ vàng trong nước biển cũng như
những thảm cỏ có khả năng hấp thụ vàng cao trong đất để phủ đầy trên bề
mặt các quặng nghèo. Nếu việc nghiên cứu này thành công thì lúc đó
chúng ta có thể có những mùa gặt vàng bội thu.
Giả kim thuật của người Ả Rập
Vào thế kỷ thứ 8, sau khi người Ả Rập chinh phục Ai Cập, Syria và hàng loạt các quốc gia ở vùng Cận Đông
thì trung tâm khoa học đã chuyển về Ả Rập. Vào đầu thế ký thứ 9, họ đã
có giả kim thuật riêng và khác với giả kim thuật của người Hy Lạp.
Các nhà giả kim thuật Ả Rập không tiếp thu một cách đơn thuần thuyết
Aristotle mà còn giải thích chúng theo ý họ và bổ sung các khái niệm
mới. Họ giải thích sự xuất hiện của các kim loại trong thiên nhiên là do
2 chất ban đầu là lưu huỳnh và thủy ngân vì:
Thủy ngân có điểm đặc biệt là khả năng hòa tan các kim loại khác, kể cả vàng và đặc quánh lại tạo thành hỗn hống.
Lưu huỳnh có tính chất lí thú là khi kết hợp với chì và thiếc
nó sẽ cho các kim loại đó vẻ sáng và màu sắc của bạc, kết hợp với đồng
và sắt sẽ cho các kim lại đó màu sắc và vẻ sáng của vàng.
Theo ý kiến của các nhà giả kim thuật Ả Rập muốn điều chế vàng và bạc
từ kim loại thường thì cần tỉ lệ kết hợp giữa thủy ngân và lưu huỳnh là
đủ và hàng loạt cách điều chế vàng đã ra đời. Tuy nhiên tất cả đều thất
bại.
Nhưng các nhà giả kim thuật Ả Rập không chỉ điều chế vàng mà còn
nghiên cứu các chất và phương pháp điều chế các chất đó. Từ đó nhiều
loại axít, bazơ, khoáng chất đã dược phát hiện. Đó là sự đóng góp vô cùng to lớn của các nhà giả kim thuật Ả Rập cho sự phát triển của hóa học.
Chính người Ả Rập đã thêm vào từ chymeia, nghĩa là "hóa học", tiếp đầu ngữ al để thành alchymeia, nghĩa là "giả kim thuật". Tên gọi này tồn tại đến cuối thế kỷ 18.
Giả kim thuật của người Trung Quốc
Giả kim thuật của người Trung Quốc
khác hẳn với giả kim thuật của người Hy Lạp. Trong khi người Hy Lạp cố
biến kim loại thường thành vàng thì người Trung Quốc cố tìm kiếm thuốc
trường sinh bất lão. Vì thế giả kim thuật Trung Quốc có tên gọi là luyện đan, dựa trên cơ sở học thuyết thần tiên. Các đạo gia chia luyện đan thành ngoại đan và nội đan.
Ngoại đan là dùng lửa luyện các khoáng chất như chì, thủy ngân trong
các lò đặc biệt biến chúng thành đan dược nuốt vào có thể thành tiên hay
trường sinh bất lão.
Thứ được các nhà giả kim thuật Trung Quốc ưa sử dụng nhất là đan sa, công thức hóa học
là HgS, luyện trong các lò thành vàng, uống vàng đó sẽ trường sinh bất
lão. Các đạo sĩ cho rằng đan sa có màu đỏ là màu cao quý, có khả năng
chữa bách bệnh, ngoài ra khi đun nóng còn phân tích thành thủy ngân là
thứ kim loại kì lạ và có những đặc điểm lí thú. Chính vì thế mà đan sa
được xem là tiên dược để luyện thuốc trường sinh.
Do đan sa có độc tính cao nên nhiều trường hợp người xưa đã chết khi sử dụng nó. Thời nhà Đường, Đường Thái Tông, Đường Hiến Tông, Đường Mục Tông, Đường Kính Tông trúng độc do uống kim đan. Vì thế, ngoại đan dần dần suy vi chỉ còn luyện đan là khởi thủy của ngành luyện kim ngày nay.
Bí ẩn thuật biến kim loại thành vàng thời xa xưa
27 Tháng Sáu, 2015
Trong các tác phẩm giả tưởng của loài người, pháp sư hay
phù thủy là người có thể chế tạo ra “thuốc thần” giúp hàn gắn vết
thương, cứu giúp người hay để trở thành bất tử… Trong quá khứ, có nhiều
người luôn cố gắng làm được những điều kỳ diệu ấy.
Dưới đây là câu chuyện về thuật giả kim – phương pháp nghiên cứu biến
kim loại thành vàng thời xa xưa cùng bí ẩn về Nicholas Flamel – nhân
vật huyền thoại được cho rằng có khả năng lĩnh hội thuật giả kim thành
công nhất.
Quyển sách “thuật giả kim” quyền năng
Nicholas Flamel (1330-1418) sinh ra trong một gia đình nghèo ở Pháp.
Khi trưởng thành, để có tiền mưu sinh ông phải làm việc trong tiệm sách
cũ ở Paris.
Đêm nọ, Flamel bất chợt có giấc mơ kỳ lạ về một thiên thần cầm trên
tay cuốn sách có bìa ngoài bằng gỗ cây được trang trí bằng các ký tự lạ
mắt.
Vài ngày sau, Flamel vô tình được một thương nhân kỳ lạ tặng cho cuốn
sách y hệt trong giấc mơ của ông, viết bằng chữ Do Thái và chữ Hy Lạp,
dòng đầu tiên có nghĩa là “Cuốn sách của Abraham” (Abraham là một nhân
vật nổi tiếng trong Kinh Thánh, ông được coi là tổ tiên của dân Do Thái.
Ông có thể nói chuyện với Chúa và được ngài chúc phúc, ban cho phép
màu).
Tuy nhiên, Flamel không thể hiểu được cuốn sách này đang nói tới vấn
đề gì nên đã để nó qua một bên. Mãi tới khi ông kết bạn với một nhà
thuật giả kim (người nghiên cứu các phương pháp biến đổi kim loại thành
vàng thời bấy giờ) thì mọi chuyện mới được sáng tỏ.
Nhà thuật giả kim sau khi nghe câu chuyện và đọc cuốn sách liền giải
thích:>“Tài liệu này liên quan tới việc chuyển đổi vật chất, năng
lượng, các phép thuật cổ đại của nhân loại. Tôi nghĩ rằng, nó nằm ngoài
sự hiểu biết của chúng ta”.
Quá hứng thú, Nicholas Flamel hạ quyết tâm tìm hiểu bằng được những
bí ẩn trong “Cuốn sách của Abraham”. Năm 1368, ông quyết định cùng vợ
rời quê hương, đi bôn ba khắp nơi để tìm những nhà thuật kim giỏi giúp
ông giải mã bí ẩn này. Flamel đã đến một trường ĐH tại Andalusia để nhờ
những nhà chuyên môn giúp dịch nghĩa cuốn sách.
Đến Tây Ban Nha, ông kết thân với các nhà giả thuật kim nơi đây. Họ
đã dạy cho ông thuật giả kim, từ đó Flamel dần hiểu rõ những nghệ thuật
ẩn chứa trong cuốn sách.
Nhiều năm sau, hai vợ chồng quay trở về Paris, tất cả bạn bè cùng
người thân đã rất ngạc nhiên khi thấy diện mạo của Nicholas Flamel cùng
vợ không hề thay đổi, thậm chí còn có phần trẻ trung, đầy sức sống.
Nhưng đây chưa phải là điều khó hiểu nhất, Nicholas giàu lên một cách
bất ngờ. Ông mang tiền đi xây dựng bệnh viện, nhà thờ, giúp đỡ những
người nghèo khổ. Không chỉ vậy, mặt trước của nhà thờ Sainte Genevieve ở
Paris được Flamel tài trợ tiền để xây mới, ông còn cung cấp miễn phí
các loại sách, mở các buổi thuyết giảng, các phòng sám hối trong trại
giam.
Hòn đá phù thủy và sự bất tử…
Nicholas Flamel đã chia sẻ hiểu biết của mình về các tài liệu thuật
giả kim. Ông cho rằng, một vật chất đều được tạo ra bởi bốn yếu tố: lửa,
không khí, đất, nước.
Mỗi chất là kết quả của sự phối hợp 4 nhân tố theo tỷ lệ khác nhau,
muốn tạo ra chất mới ta chỉ cần thay đổi tỉ lệ các nhân tố trong chất
cũ. Một công việc nghe thì dễ nhưng để thực hiện cần phải có một vật ma
thuật mang tên “hòn đá phù thủy”. Con người hoàn toàn có thể biến thủy
ngân thành vàng nếu sở hữu hòn đá thần kỳ này.
Vậy “hòn đá phù thủy” là gì? Đó chính là một vật huyền thoại xuất
hiện trong rất nhiều văn bản cổ đại ở châu Âu và được nhắc tới trong các
câu chuyện thần bí, huyền diệu.
Người sở hữu “hòn đá phù thủy” sẽ tạo ra được mọi vật chất, chữa lành
tất cả bệnh tật, thắp sáng nơi tăm tối, hồi sinh người chết và giữ chìa
khóa của sự bất tử. Các tài liệu của Flamel đã miêu tả cụ thể về hòn đá
phù thủy, nó có 2 màu là trắng, đỏ. Màu trắng dùng để tạo ra bạc, chữa
bệnh, màu đỏ dùng để tạo ra vàng ròng và làm bất tử mọi thứ.
Đá có thể ở dạng rắn nhưng khi cần sẽ chuyển đổi qua trạng thái lỏng
và hơi. Khi nghiền nhỏ thành bột có thể hòa tan trong nước tạo ra một
loại chất lỏng kỳ lạ. Đổ chất lỏng này vào bất cứ kim loại nào sẽ tạo ra
vàng, bạc, ngoài ra, nó còn là một thứ “nước thánh” chữa bách bệnh.
Nhưng thật đáng tiếc, Nicholas Flamel chưa bao giờ tiết lộ cách tạo
ra “hòn đá phù thủy”. Bởi ông cho rằng, một vật quyền năng như vậy nếu
rơi vào tay kẻ xấu sẽ là một thảm họa.
Theo ông, “hòn đá phù thủy” là quà tặng của Thiên Chúa, nên chỉ được
sử dụng vào những mục đích cao cả, cứu nhân độ thế mà thôi. Ngoài ra,
muốn chế tạo ra hòn đá quyền năng này cần phải có đức tin to lớn cùng
tấm lòng cao thượng.
Nhiều người cho rằng, Nicholas Flamel chỉ là kẻ bịp bợm không hơn
không kém. Số khác lại vô cùng tin tưởng những kiến thức của ông, không
ít người mạnh miệng tuyên bố đã thấy Flamel dùng “hòn đá phù thủy” cứu
người, tạo ra vàng từ chì, thủy ngân.
Câu chuyện này truyền tới tai vua Charles VI, người đã ra lệnh
Cramoisi – thành viên của Hội đồng nhà nước đi điều tra vấn đề này.
Cramoisi quyết định tới gặp Flamel để ép nhà giả kim đưa ra bí kíp làm
đá ma thuật. Nhưng sau cuộc gặp gỡ, vị công tước lại trở nên sùng bái,
thần tượng Flamel đến lạ lùng. Cramoisi trở về, hết mực khuyên vua
Charles VI không nên sử dụng vật thần bí trên và nên để cho Flamel được
sống yên ổn.
Tranh cãi tưởng chừng đã chấm dứt khi Flamel và vợ chết vào năm 1418
nhưng từ đây, huyền thoại về ông mới bắt đầu. Cả hai được chôn cất ở
nghĩa trang của nhà thờ Saint Jacques. Lúc đó rất nhiều người tò mò đã
đột nhập vào nhà của Flamel để tìm kiếm vàng, hòn đá phù thủy, hay quyển
sách của Abraham… nhưng tất cả đều thất bại.
Nhiều năm sau, một nhóm người đã lẻn vào hầm mộ của Nicholas Flamel
và vợ để tìm kiếm vàng, của cải. Thế nhưng, trong ngôi mộ đó, chẳng
những không có vàng mà họ cũng không tìm thấy thi thể của Nicholas cùng
vợ.
Tin đồn lan truyền rằng, Nicholas Flamel không thực sự chết và vẫn
còn sống bất tử mãi cho đến ngày nay. Rất nhiều người dân nói đã nhìn
thấy ông và vợ lang thang khắp Paris. Thỉnh thoảng, nhiều người ở đây
lại thấy một người mang trang phục kỳ lạ, rao bán những quyển sách hay
bản chép tay mang tên Nicholas Flamel.
Một câu chuyện truyền miệng vào thế kỷ XVII kể rằng, một người tên
Dubois đã dùng một chất bột màu đỏ để biến quả chì thành vàng trước mặt
vua Louis XII. Thắc mắc vì điều kì diệu ấy, Đức Hồng Y Richelieu yêu cầu
Dubois giải thích về màn trình diễn.
Dubois lúc này thừa nhận trước nhà vua và Đức Hồng Y rằng, anh là hậu
duệ của Nicholas Flamel. Và chất bột này chính là món đồ gia bảo được
tạo ra từ Nicholas Flamel.
Dubois còn tặng một bản chép tay từ “Cuốn sách của Abraham” cho Đức
Hồng Y Richelieu. Tuy nhiên, không có tài liệu nào cho thấy,
Richelieu giải nghĩa được bản chép tay kia. Nhưng trong triều đại của
vua Louis XII, nước Pháp trở nên vô cùng hùng mạnh, tổ chức nhiều cuộc
chiến tranh xâm lược Ý.
Trên bia mộ của ông chứa nhiều ký tự đặc biệt.
Cho tới nay, cuộc đời với nhiều điều bí ẩn đã khiến ông trở thành
huyền thoại của thế giới. Tên ông được nhắc đến trong nhiều cuốn sách và
truyện như “Harry Potter và hòn đá phù thủy” của J.K Rowling, hay là
nhân vật chính xuyên suốt loạt truyện của Michael Scott – “Bí mật của
Nicholas Flamel bất tử”…
Câu chuyện "nhà giả kim" sáng chế ra vật chất quý hơn vàng
00:00:01
29/09/2014
Bằng sự say mê nghiên cứu hóa học, Johann Böttger từ một nhà giả kim thuật "quèn" đã thay đổi cả thế giới với sáng chế của mình.
Giả kim thuật là một trong những nghề nghiệp phổ biến nhất trong xã hội phương Tây xưa. Với ước mơ biến các kim loại rẻ tiền thành vàng khối, không ít người đã lao tâm khổ tứ, dành cả cuộc đời để nghiên cứu với các thí nghiệm hóa học thô sơ.
Phần
lớn trong số đó đều thất bại bởi vàng không thể chế ra từ các vật liệu
khác. Tuy nhiên, cũng có một số ít người may mắn thay vì tạo ra được
vàng lại có được những phát minh khác. Nhà giả kim thuật Johann Böttger
là một người như vậy khi phát minh ra cách làm gốm sứ - thứ vật chất quý hơn vàng vào thời đó...
Tương lai đầy hứa hẹn của nhà "giả kim thuật" tí hon
Johann
Böttger (1682 - 1719) có một tuổi thơ khá êm đềm. Ông sinh ra và lớn
lên trong gia đình có truyền thống làm nghề kim hoàn tại Berlin, Đức.
Böttger từ nhỏ đã rất sáng dạ và đam mê với hóa học. Vì thế khi lớn lên
ông bắt đầu theo học ngành dược sĩ.
Chân dung nhà giả kim thuật Johann Böttger.
Năm
19 tuổi, với niềm say mê vô tận, ông đã bắt đầu bí mật đi sâu vào
nghiên cứu những lĩnh vực thú vị hơn ngành học của mình rất
nhiều. Böttger dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu với đủ thể loại
hóa chất dù có bị gia đình và nhà trường cấm đoán.
Mục
tiêu cả đời của ông chỉ có một - chính là biến chì hoặc các kim loại
không đáng giá khác thành vàng. Với nhiều kinh nghiệm thu được, ông đã
dần thuyết phục được hàng xóm gần nhà rằng mình đã thành công.
... bước ngoặt của cuộc đời...
Sau
đó, chàng thiếu niên Böttger quyết định tổ chức một buổi biểu diễn
đường phố. Ông tập hợp đám đông xung quanh rồi vẫy những mảnh bạc cho họ
xem.
Böttger cũng giống các nhà giả kim thuật khác, luôn tìm mọi cách để biến chì thành vàng.
Với
vài kĩ năng giả kim cùng những phương pháp xử lý hóa học, ông đã biến
đổi những mảnh bạc ấy thành một mảnh kim loại màu vàng duy nhất.
Böttger đã
thuyết phục hoàn toàn đám đông và câu chuyện này truyền đến tai August
- đại cử tri bang Saxony và là vua của Ba Lan không lâu sau đó.
August
lúc đó đang ngập chìm trong nợ nần, nhanh chóng tìm đến Böttger. Nhà
vua yêu cầu Böttger sản xuất ra vàng và chàng thiếu niên đã nhận lời sẽ
hoàn thành chỉ trong vòng vài tuần.
Bước ngoặt cuộc đời đến khi Böttger gặp vua August.
Thế
nhưng, thời gian cứ thế trôi qua và vẫn không có kết quả nào. August
bắt đầu mất bình tĩnh và cuối cùng tống Böttger vào ngục với tối hậu thư
: “Hoặc tạo ra vàng, hoặc phải chết”.
... phát minh thay đổi thế giới phương Tây...
Böttger
bị giam suốt 7 năm ròng rã. Trong khoảng thời gian đó, ông đã gặp
Ehrenfried Walther von Tschirnhaus cũng là một giả kim thuật sư kiêm nhà
toán học.
Tschirnhaus không muốn chế tạo vàng
mà lại hứng thú hơn với việc tạo ra sứ - loại vật chất được coi là còn
quý hơn cả vàng thời đó. Bởi lẽ vàng có thể tìm thấy ở mọi nơi, nhưng
vào thời đó, sứ chỉ có ở phương Đông và người Trung Hoa kiên quyết giữ
bí mật sản xuất của họ.
Tấm biển phía trước địa danh Böttger từng bị giam giữ.
Nhờ
có Tschirnhaus, Böttger biết được rằng cao lanh (đất sét trắng) có một
lượng nhất định trong sứ. Đó là thành phần chính, vậy còn những nhân tố
khác thì sao?
Trầm
tích của cao lanh được tìm thấy ở dãy núi Alps, vì thế Böttger đã bắt
tay ngay vào thí nghiệm với những công thức khác nhau mong chế tạo được
ra gốm sứ.
Chỉ có gia đình quyền quý ở châu Âu bấy giờ mới sở hữu được gốm sứ Trung Hoa.
Bước
đột phá đến vào ngày 15/1/1708. Trong khi thử nghiệm các tỉ lệ giữa cao
lanh và thạch cao, Böttger đã tìm ra ba tỉ lệ đồng nhất với thông số
thu được từ một mảnh sứ có sẵn.
Sau
đó, Böttger cùng đồng nghiệp tiếp tục miệt mài nghiên cứu. Không lâu
sau, ông đã tìm được công thức cuối cùng để sản xuất sứ, bên cạnh đó còn
cả nhiệt độ cần thiết của lò nung và cách tráng men các bình sứ.
Sau
bảy năm nghiên cứu cực khổ, ông đã tạo ra vật chất quý hơn vàng. Nhà
vua vì thế đã tài trợ cho ông để mở xưởng nung sứ đầu tiên ở châu Âu,
đặt tại Meissen.
Quá trình làm ra sứ của giả kim thuật sư Böttger.
Böttger
được tuyên bố tự do, nhưng nhà vua lo sợ việc lộ công thức sản xuất nên
ông và cả những công nhân ở xưởng đều gần như bị giam lỏng.
Böttger
mất năm 1719 nhưng những thí nghiệm vẫn được tiếp tục. Cuối cùng đến
năm 1724, xưởng Meissen đã tìm ra được công thức hiệu quả như dùng thạch
anh thay thế cho thạch cao. Công thức này vẫn được áp dụng cho tới tận
ngày nay.
Việc phát minh ra cách sản xuất gốm
sứ của Johann Böttger khi đó đã thay đổi cả châu Âu. Thành công của ông
giúp châu Âu không còn quá phụ thuộc vào nguồn cung gốm sứ từ Trung Hoa
nữa.
Đồng thời, phát minh này cũng mở ra cuộc
đua để tranh giành những mảnh đất màu mỡ chứa cao lanh và các khoáng
chất cần thiết khác ở khắp nơi.
Trong thời Trung cổ, mơ ước về một cuộc sống vĩnh cửu và
giàu sang đã khiến các nhà giả kim thuật lao đầu vào những thuật giả
kim hão huyền. Dù vậy, trong cuộc tìm kiếm vô vọng này, họ ít nhiều cũng
có những đóng góp nhất định cho nhân loại.
Xuất phát từ ham muốn giàu sang và trường sinh bất lão
Trong suốt nhiều thế kỷ của thời kì cổ đại và trung đại, hoá học chưa
phải là một ngành khoa học, nó chỉ dừng lại ở mức độ thuật và được biết
đến với cái tên giả kim thuật (alchemy). Đây là thời mà những hiểu biết
của con người về nền hóa học xung quanh rất mông muội, ấu trĩ.
Dựa trên các văn bản cổ đại thì con người thời kì này mới chỉ biết đến
chín nguyên tố hoá học (vàng, bạc, đồng, chì, thiếc, sắt, thuỷ ngân,
lưu huỳnh, cacbon). Mãi đến đầu thế kỉ 18, mới xuất hiện thêm một số
nguyên tố mới là photpho, asen, antimon, bitmut và kẽm. Thuật giả kim
bắt đầu từ thế kỷ 4 đến đầu thế kỷ 16, thịnh hành ở hầu hết khắp các
nước phương Tây và phương Đông. Mục đích kiếm tìm của các nhà giả kim
thuật hai phương này cũng khác nhau.
Trong khi các nhà giả kim phương Tây tìm kiếm sự giàu sang thông qua
các thuật biến bất cứ kim loại bình thường nào thành vàng, thì những
đồng nghiệp của họ ở các triều đại phong kiến cổ đại phương Đông lại lao
đầu vào điều chế những phương thuốc trường sinh bất tử.
Các nhà giả kim châu Âu Trung cổ được khuyến khích bởi học giả Hy Lạp
lỗi lạc - nhà bác học, triết gia cổ đại Aristot. Ông đề cao quan điểm
cho rằng có thể chuyển hóa được chất này thành chất khác, kim loại này
thành kim loại khác. Và đặc biệt, có thể biến tất cả các kim loại thông
thường thành vàng, nếu biết cách. Một cuộc tìm kiếm vô vọng kéo dài
nhiều thế kỷ, lôi kéo cả những con người thông thái nhất.
Ngày cũng như đêm, trong những căn hầm tối tăm của các lâu đài bằng
đá, ngọn lửa trong lò của các nhà giả kim thuật tỏa sáng, các chất lỏng
huyền bí trong các bình cổ cong sôi lên sùng sục trên ngọn lửa và toả ra
đủ mọi màu sắc cầu vồng, khói ngột ngạt bốc lên từ các nồi nung. Họ
mong muốn tìm ra hòn đá mầu nhiệm để biến các kim loại khác thành vàng,
một ước mơ viển vông nhưng cũng đầy hấp dẫn.
Hoạt động của các nhà giả kim thuật thường có tính bí mật. Bên cạnh
những phương pháp mò mẫm, thử nghiệm với tinh thần phát kiến ra cái mới,
rất đáng trân trọng thì cũng có một số trường phái giả kim theo đuổi xu
hướng tà thuật, hoàn toàn không biết gì đến những nguyên tắc hoá học cơ
bản nhất. Để lưu trữ lại, đồng thời giữ bí mật các công trình nghiên
cứu của mình với những người ngoại đạo, các nhà giả kim đã sử dụng một
hệ thống kí hiệu đặc biệt được thống nhất và quy ước với nhau.
Chỉ những nhà giả kim mới hiểu nổi mớ ký hiệu rối rắm này. Cho đến tận
thế kỉ 18, những ký hiệu này vẫn còn được sử dụng trong các văn bản,
tài liệu về hoá học. Phải đến khi bảng Hệ thống tuần hoàn các nguyên tố
hóa học của nhà bác học Nga Mendeleev ra đời, hóa học mới có một ngôn
ngữ chung thay cho những ký hiệu thần bí đó.
Những nhà giả kim có một vị trí khá cao trong xã hội châu Âu thời Trung cổ.
Trong lịch sử, nhiều nhà khoa học lỗi lạc từng khẳng định đã thực hiện
hoặc chứng kiến việc biến kim loại thành vàng. Nhà hoá học Jan Baptist
Van Helmont viết: "Tôi đã tận mắt chiêm ngưỡng loại đá tạo ra vàng và đã
cầm nó trong tay nhiều lần. Nó nặng, có màu vàng nghệ và phản chiếu ánh
sáng lấp lánh như bột thuỷ tinh. Ông thậm chí cũng không che dấu bí
quyết thuật giả kim của mình: Hoà 16 miligam loại đá tạo vàng đó vào
230gam thuỷ ngân rồi nung lên. Thuỷ ngân sôi sùng sục rồi đông đặc lại
ngay, có màu hơi vàng. Sau khi được lấy ra khỏi đĩa và làm nguội, khối
đông đặc đó chính là vàng nguyên chất.
Cùng thời với Van Helmont, nhà vật lý và hoá học nổi tiếng người Đức là Johann Rudolf Glauber cũng loan báo
rằng ông đã khám phá ra loại đá tạo vàng trong một vùng suối khoáng.
Thực chất, thứ mà ông phân lập được (mang tên ông muối Glauber) thật ra
chỉ là sulfat natri, có đặc tính nhuận tràng chứ hoàn toàn không thể
biến kim loại thành vàng. Danh sách các nhà bác học tin
rằng việc biến kim loại thành vàng là có thể thực hiện được còn có cả
Isaac Newton, Descartes và Leibniz. Một số lời trong Kinh thánh cũng
nhắc đến việc một số tác giả Kinh thánh cũng từng là nhà giả kim, chẳng
hạn như Joan - tác giả kinh Phúc âm.
Giả kim thuật của người Trung Hoa cổ đại khác hẳn với giả kim thuật
của người châu Âu. Trong khi người châu Âu cố biến kim loại thông thường
thành vàng thì người Trung Quốc lại tìm kiếm thuốc trường sinh bất lão.
Vì thế, giả kim thuật Trung Quốc còn có tên riêng, gọi là thuật luyện
đan, dựa trên những học thuyết thần tiên. Các nhà giả kim dùng lửa luyện
các khoáng chất như chì, thủy ngân trong các lò đặc biệt biến chúng
thành đan dược, nuốt vào có thể thành tiên hay trường sinh bất lão.
Thứ được các nhà giả kim thuật Trung Quốc ưa chuộng nhất là đan sa,
một hợp chất của chì với thủy ngân. Do có màu vàng đỏ rất đẹp mắt sau
khi tinh luyện được trong lò nên các đạo sĩ tin rằng đan sa chính là thứ
thuốc tiên cao quý mà họ cất công kiếm tìm bất lâu nay, con người khi
uống thứ này vào có khả năng chữa khỏi bách bệnh. Chính vì thế mà đan sa
được xem là tiên dược để luyện thuốc trường sinh. Họ không biết rằng cả
thủy ngân và chì đều là những kim loại độc chết người. Nhiều người đã
chết khi sử dụng nó.
Những đóng góp cho ngành khoa học hóa học hiện đại
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật bùng nổ trong thế kỷ 19 đã đặt dấu
chấm hết cho thuật giả kim ở cả phương Đông và phương Tây. Chúng nhanh
chóng bị coi là những trò ảo tưởng, phi khoa học, thậm chí lừa bịp.
Nhưng giả kim thuật không hẳn vô tích sự như vậy. Nó cũng đóng góp cho
hóa học hiện đại một số thành tựu nhất định. Việc các nhà giả kim dùng
thủy ngân trong các thuật giả kim của mình đã gợi ý cho các nhà khoa học
nghĩ đến việc dùng thủy ngân để tách vàng nguyên chất trong đá sa
khoáng
chứa vàng.
Phương pháp này vẫn được áp dụng phổ biến cho đến tận ngày nay. Một số
dụng cụ của thuật giả kim xưa như nồi hấp, lò nung, bình cổ cong ngày
nay là những thiết bị không thể thiếu trong bất kỳ phòng thí nghiệm hóa
học nào, dù hiện đại cỡ mấy.
Các nhà giả kim thuật cũng đã góp phần tìm ra nhiều hợp chất mới: Kim
loại (Bitum, Kẽm), muối (muối thủy ngân, muối nitơrit), các axit vô cơ
quan trọng như axit Sulphuric, axit CloHidric, axit Nitơrat, nước cường
thủy,... Nhiều kĩ thuật thí nghiệm hóa học quan trọng cũng được họ hoàn
thiện như: Nung, chưng cất, hòa tan, lọc, bay hơi, kết tinh, thăng
hoa,... Đặc biệt, các nhà giả kim thuật Ả Rập không chỉ tìm cách điều
chế vàng mà còn nghiên cứu các chất khác và tìm phương pháp điều chế ra
các
chất đó. Từ đó, nhiều loại axít, bazơ, khoáng chất đã được phát hiện.
Đó là sự đóng góp vô cùng to lớn của các nhà giả kim thuật Ả Rập cho sự
phát triển của hóa học.
Những nhà giả kim Trung Hoa với thuật luyện đan của mình cũng đã đặt
những nền tảng ban đầu cho ngành luyện kim. Thực tế cho thấy, kỹ thuật
luyện kim của Trung Hoa cổ đại khá phát triển, trùng hợp với thời hoàng
kim của thuật giả kim nước này. Có lẽ, nhiều nhà giả kim thuật đã thực
tế hơn khi chuyển sang những mục tiêu gần gũi với đời thường, thay vì
nhắm mắt theo những ảo tưởng về một cuộc sống bất tử.
Không phải ai cũng có thể trở thành nhà giả kim. Các triều
đại phong kiến châu Âu coi vàng là một thứ đảm bảo tuyệt đối cho quyền
lực của mình, nên chỉ có giới giáo sĩ mới được tiến hành các thuật giả
kim. Do đó, các nhà giả kim thời Trung cổ có một địa vị khá cao trong xã
hội. Họ thường nhận được tài trợ của các vị vua chúa, đổi lại, toàn bộ
vàng thu được sẽ phải nộp cho nhà vua. Không biết bao nhiêu của cải đã
bị tiêu tan vào các thí nghiệm giả kim vô căn cứ này, còn những vị vua
chỉ nhận được những thứ giống như vàng. Thứ mà các nhà giả kim
khẳng định là vàng, thực chất chỉ là Oxit chì một chất chưa từng được
biết đến vào thời kỳ đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét