TT&HĐ V - 44/n
Tạ Đức Nguồn gốc người Việt người Mường
Thời gian vừa qua, cuốn sách "Nguồn gốc người Việt người Mường" đã gây
một cuộc tranh cãi gay gắt trong giới học thuật. Trong cuốn sách này Nhà
nghiên cứu đã có một cuộc khảo sát các tư liệu khảo cổ, sử học, phong
tục tập quán, ngôn ngữ... để truy tìm về cội nguồn xa xưa của người Việt
và những bước thiên di của người Việt xa xưa.
Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã cung cấp cho người đọc các
kiến thức nền tảng về nguồn gốc và đặc trưng của nền văn hóa Phùng
Nguyên và lý giải tại sao dân cư thuộc nền văn hóa này lại di dân tới
Việt Nam. Sau đó ông lý giải tại sao lại hình thành tên gọi Việt, sự
hình thành nước Xích Qủy, nước Việt Thường, nước Văn Lang, nước Âu Lạc
và nền văn hóa Đông Sơn.
Các công trình của Nhà Nghiên cứu Tạ Đức:
- Tình yêu trai gái Việt xưa (NXB Thanh Niên, 1989, 1993)
- Nguồn gốc và sự phát triển của Kiến trúc - Biểu tượng và Ngôn ngữ Đông
Sơn (Hội Dân tộc học Việt Nam - Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á, 1999)
- Tìm hiểu văn hóa Katu (NXB Thuận Hóa, 2002)
- Nguồn gốc người Việt người Mường (NXB Tri thức, 2013)
Hà Nội, thứ 6 ngày 6 tháng 6 năm 2014
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG V (XXXXVI): CHIÊM BÁI
“Bằng
cách ở mỗi hiện tượng tự nhiên của cái riêng lẻ, cái qui ước và ngẫu
nhiên, chúng ta hướng mắt đến cái phổ quát, cái khách quan và tất yếu,
thì đó là chúng ta tìm cái độc lập đằng sau cái lệ thuộc, cái tuyệt đối
đằng sau cái tương đối, cái vĩnh cửu đằng sau cái vô thường. Và như tôi
nhìn thấy, cái khuynh hướng này biểu lộ không những trong vật lý học, mà
còn trong mỗi ngành khoa học, vâng, không chỉ trên lĩnh vực khoa học,
mà còn trên lĩnh vực của cái thiện và cái mỹ”.
“Cái
huyền diệu là trong tất cả các hiện tượng của tự nhiên, có một tính qui
luật phổ quát ngự trị mà ở mức độ nào đó, có thể nhận thức được đối với
chúng ta”.
Max Planck
Albert Einstein
Albert Einstein
(Tiếp theo)
Chúng
ta đều biết, quá trình dâng - hạ của biển không chỉ liên quan đến sự
tan chảy và tạo thành băng hà mà còn liên quan đến quá trình địa kiến
tạo. Cũng vì vậy mà biển tiến hay lùi phải là kết quả của nhiều yếu tố
tác động đồng thời tạo thành một nguyên nhân có tính tổng hợp và trong
đó nhất thiết phải kể đến sự trồi - sụt của lục địa. Như vậy, trong suốt
một thời kỳ biển dâng nào đó, có thể có nhiều quá trình biển tiến và
lùi kế tiếp nhau, và hơn nữa, ở những khu vực lục địa khác nhau, biểu
hiện tiến lùi của biển cũng có thể khác nhau, thậm chí là trái ngược
nhau.
Trên
cơ sở đó (kể ra cũng còn khá… vu vơ) và để phục vụ cho “khẩu vị” của
mình, chúng ta hình dung tóm tắt lại quá trình tiến - lùi của biển đối
với khu vực lục địa thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày nay.
Cách
nay hơn 12 ngàn năm, một cuộc tai biến lửa - nước cực kỳ vĩ đại đã xảy
ra làm tan vỡ Đại Lục Mẫu đồng thời gây nên một cuộc tạo sơn mạnh mẽ
dưới đáy các đại dương. Cuộc chuyển biến thiên nhiên vĩ đại và có tính
đột ngột đó không những gây ra những đợt sóng thần dữ dội đến mức khó
lòng hình dung ra được, làm biển dâng lên nhanh chóng do tốc độ băng tan
bị đẩy lên trong một thời gian ngắn, mà còn làm lún sụt ít ra là phần
lục địa Đông Nam Á. Phần vì bị lún sụt, phần vì nước biển dâng cao nên
một nửa diện tích Đông Nam Á bị ngập trong nước biển. Diện tích lãnh thổ
Việt Nam cũng chung số phận, bị “nuốt chửng” có thể là đến tận ranh
giới giữa trung du và thượng du. Vì đang trong thời kỳ lớn băng tan nên
dù có thể là chậm chạp thì nước biển vẫn tiếp tục dâng. Tuy nhiên, cùng
lúc với quá trình biển dâng là quá trình trồi lên của mảng lục địa Đông
Nam Á, trong đó có Việt Nam. Chính hai quá trình đồng thời và có tính
triệt tiêu nhau đó mà trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam nói riêng, mực
nước biển vẫn giữ nguyên trạng ở mức cao nói trên trong một thời gian
dài, hoặc nếu có biến động thì cũng chậm chạp và hơn nữa, không phải là
biển tiến mà là hiện tượng biển lùi.
Một
mặt là do hiện tượng trồi lên của lụa địa, một mặt là do quá trình hình
thành trầm tích biển mà có lẽ vào khoảng hơn 8 ngàn năm về trước, biển
lùi làm xuất hiện những miền duyên hải, gò nổi đan xen với chủ yếu là
đầm lầy, trũng nước ngập mặn. Đến khoảng hơn 7 ngàn năm cách nay, dải
duyên hải ngập mặn lùi xa hơn nữa về phía biển và cùng với sự bồi tụ ở
các cửa sông, đã tạo ra những vùng đồng bằng trước núi đan xen với đầm
hồ, sông ngòi nước ngọt, mở ra một triển vọng phát triển lớn lao cho nền
nông - ngư nghiệp nguyên thủy của người Hòa Bình - Bắc Sơn. Từ đây,
biển vẫn tiếp tục lùi và cùng với nó là quá trình lan tỏa dân cư từ
thượng du xuống trung du rồi đến đồng bằng và cả hải đảo.
Chính
quá trình rút lui của biển cả và quá trình lan tỏa dân cư đó đã phần
nào giải thích được sự xuất hiện lần lượt các trung tâm văn minh có tính
nối tiếp, kế thừa nhau và tiếp tục sáng tạo, gồm: văn minh Đa Bút, văn
minh Bàu Tró, văn minh Hoa Lộc, văn minh Hạ Long, văn minh Phùng Nguyên,
văn minh Đồng Đậu, văn minh Gò Mun, văn minh Đông Sơn, văn minh Sa
Huỳnh, văn minh Óc Eo, mà về mặt không gian và thời gian thì sự xuất
hiện các trung tâm đó có xu thế nói chung là tiến về đồng bằng, về phía
biển. Nếu biển không lùi thì không thể có hiện tượng đó được!
Vào
thời điểm nào đó trong khoảng hơn 4 ngàn năm về trước, quá trình biển
lùi ở lãnh thổ Việt Nam bỗng dưng chựng lại, thay vào đó là sự kiện biển
tiến đột biến (có lẽ nguyên do chính là sự lún sụt lục địa). Theo nhận
định của các nhà nghiên cứu địa chất Việt Nam, rút ra từ kết quả khảo
sát thực địa và xác định niên đại theo phương pháp C14, thì vào khoảng 411550
năm trước đây, xuất hiện một cuộc biển tiến đột biến, bao trùm trên
diện rộng, biên độ biến đổi lớn với tốc độ nhanh, làm mực nước biển
nhanh chóng dâng cao đến 3,5m (so với mực nước biển ngày nay là cao hơn
1,5m) và “nằm lỳ” ở đó suốt 101580 năm.
Nước biển dâng cao đã thu hẹp đồng bằng Bắc Bộ lại chỉ còn bằng một
phần tư trước đó (chỉ bằng một phần mười diện tích hiện nay và có như
thế này là vì đồng bằng Bắc Bộ hiện nay được mở rộng nhờ quá trình lắng
đọng trầm tích trong một thời gian dài). Đến năm 310080 cách
nay, biển lại lùi. Có thể chia quá trình lùi này (hay là sự trồi lên
của lục địa) ra làm hai giai đoạn: giai đoạn đầu có tính đột biến, trong
một khoảng thời gian rất ngắn, mực nước biển hạ xuống đến hơn 3m, giai
đoạn sau có tính từ từ làm mực nước biển tiếp tục hạ xuống đến hơn 4m so
với mực nước biển ngày nay trong suốt hơn 1 ngàn năm. Đến khoảng 2 ngàn
năm cách nay, quá trình biển lùi này kết thúc và bắt đầu một quá trình
biển tiến mới, từ từ và tương đối đều đặn cho đến ngày nay. Chúng ta cho
rằng lần biển tiến này cho đến nay chủ yếu là do biển dâng vì mảng lục
địa có lãnh thổ Việt Nam đang trong thời kỳ ổn định, không trồi - sụt.
Rất
có thể cuộc tiến - lùi đột biến nói trên đã khắc rất sâu vào tâm thức
cư dân Việt Nam thời kỳ nguyên thủy và được lưu truyền đến thời đại Hùng
Vương, để rồi được gán ghép thêm những biến cố xã hội đáng nhớ của thời
đại văn minh đó mà trở thành huyền thoại, truyền thuyết như Ông Đùng, Sơn Tinh - Thủy Tinh…
***
Thật
chẳng ra làm sao cả! Đang bàn bạc về vấn đề vong linh mà bỗng dưng
“chúi đầu” nói say sưa cứ như là “người trong cuộc” về những đề tài còn
trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu của các nhà chuyên môn thuộc các
lĩnh vực nhân học, khảo cổ học, địa chất - hải dương học thì quả là lạc
đề và cũng quá bạo gan!
Nhưng
đâu có phải chỉ có một lần lạc đề và bạo gan này. Thử “ngoảnh lại” mà
xem, trong quá khứ, biết bao nhiêu lần chúng ta đã từng như thế và lầm
lạc hơn thế? Không thể nói khác được, chúng ta đúng là một lũ quái lạ (nhưng không đến nỗi quái gở!).
Vì
sao lại nên nông nỗi đó? Có lẽ đó là do sự hoang tưởng quá độ đến bốc
đồng mà ra. Nếu có thế thì bớt hoang tưởng đi có được không? Không được!
Không đời nào chúng ta làm cái điều tự hại mình ấy! Không có hoang
tưởng cao độ, chúng ta sẽ không thể kể “Câu chuyện hoang đường về Tự
Nhiên Tồn Tại” cho lưu loát được. Đành phải chấp nhận nhiều lúc lạc đề
đến lê thê và nói năng bạt mạng kiểu “điếc không sợ súng” như một tật
nguyền không thể khắc phục được và chuẩn bị tinh thần chịu đựng sự phê
phán “té tát” của người đời còn hơn là từ bỏ niềm thích thú si mê cả đời
của mình…
Thôi,
chúng ta hãy quay lại câu hỏi: hiện tượng có những người có khả năng
đặc biệt, có thể chủ động phát hiện và giao tiếp với vong hồn người đã
khuất, xuất hiện lần đầu tiên vào thời đoạn nào trong lịch sử loài
người? Nếu chỉ xét trên lãnh thổ Việt Nam thì hiện tượng đó có thể là đã
xuất hiện lần đầu tiên trong thời văn minh Đa Bút. Lúc đó, dân số thế
giới nói chung và trên lãnh thổ Việt Nam đã trở nên đông đảo đến mức đã
tạo ra được một trường kích thích - cảm ứng thần kinh tương đối mạnh mẽ
để làm “nền” cho thần giao cách cảm hoạt động. Hơn nữa, vào thời kỳ văn
minh Đa Bút, dân cư Việt Nam đã lan tỏa ra hầu khắp những miền lãnh thổ
đã được mở rộng tự nhiên, đã chủ yếu sống ngoài trời, trên những vùng
đồng bằng thuận lợi cho trồng trọt - chăn nuôi hay đánh bắt hải sản, và
đi liền với sự lớn mạnh không ngừng của nền nông - ngư nghiệp mà tính xã
hội hóa của quần thể dân cư trên lãnh thổ Việt Nam lúc bấy giờ đã tỏ ra
rõ rệt, làm xuất hiện những cụm định cư tương đối đông đảo và gần nhau
theo hình thái xóm làng, có mối quan hệ về kinh tế và tinh thần tương
đối thường xuyên.
Tập
tục tùy táng của cải vật dụng theo người chết đã xuất hiện rất sớm
trong lịch trình người hóa. Ngay ở người Neanderthal đã có hiện tượng
chôn người chết kèm theo những vật tùy táng. Nếu cho rằng tập tục tùy
táng xuất hiện từ nguyên nhân do thấy được người chết trong chiêm mộng
lúc ngủ và hồi ức lại được thì hiện tượng đó phải xuất hiện sớm hơn nữa,
Vì thế chúng ta cho rằng nguyên nhân của hành động tùy táng là sự tự
phát thấy được ma hay vong.
Trên
lãnh thổ Việt Nam, các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều ngôi mộ của
người Hòa Bình mà người chết được chôn kèm theo một số dụng cụ sinh
hoạt, đồ trang sức, chứng tỏ họ đã có ý thức về “thế giới bên kia”, sự
tồn tại của linh hồn sau khi chết. Tài liệu khảo cổ về mộ táng của người
Đa Bút cho thấy họ chôn người chết theo những cách khác nhau: chôn theo
tư thế nằm thẳng, chôn từng bộ phận, nhưng chôn người chết ở tư thế
ngồi xổm gò bó là phổ biến nhất, và một số mộ còn chôn theo đồ tùy táng.
Phải chăng hiện tượng chôn cất người chết theo nhiều cách đó không
những là phản ánh tính xã hội hóa rõ rệt của nền văn minh Đa Bút, mà còn
phản ánh sự hoạt động tâm linh một cách có ý thức thường xuyên hơn
người Hòa Bình? Phải chăng chôn người chết theo tư thế ngồi xổm gò bó
xuất phát từ niềm tin ấy là nhờ hiện tượng thấy được ma hay vong một
cách tự phát và cả tự giác? Phải chăng vào thời văn minh Đa Bút, đã có
những cuộc tế lễ, cầu siêu và có những người có khả năng đặc biệt đóng
vai trò chủ đạo trong cúng lễ, cầu siêu?
Chắc
là đến thời Phùng Nguyên trở về sau, nhất là thời Hùng Vương dựng nước,
hiện tượng chủ động tiếp xúc, giao tiếp với vong hồn người chết đã trở
nên thường thấy và thậm chí là phổ biến hơn ngày nay nhiều. Vì sao vậy?
Vì rằng hồi đó tâm trí con người không bận bịu suy nghĩ "trăm thứ bà
dằn” vụn vặt về đời sống như bây giờ và hơn
nữa (môi) trường cảm ứng - kích thích thần kinh sinh học không bị nhiễu
loạn bởi một xã hội hoạt động sống nhộn nhịp đến cao độ với sự hỗ trợ
đắc lực bởi một nền công nghiệp đã phân bố rộng khắp, thực sự đồ sộ, có
một trình độ cơ khí hóa - điện khí hóa rất cao và đang được vận hành hết
công suất, nhất là bởi những trung tâm, những trạm trung gian, những
đầu mối thu - phát, truyền dẫn thông tin vô tuyến đã mọc ra nhiều không
đếm xuể, làm xuất hiện một môi trường sóng điện từ rối rắm và dày đặc
bao phủ và lũng đoạn toàn cầu. (Trên cơ sở nhận định này có thể giải
thích được vì sao người ta hiếm khi tự phát thấy và cả giao tiếp tâm
linh được với ma hay vong vào ban ngày, ở những nơi đông đúc, ồn ào,
sáng sủa mà thường là vào ban đêm (nhất là đêm khuya), ở những nơi thanh
vắng, yên ắng, u uẩn (nhất là trong phạm vi tập trung mồ mả ở những
miền quê quạnh quẽ, vào tiết trời lạnh). Ngoài ra, cũng có thể giải
thích những hiện tượng như: những vạch vẽ hình học (những hình tròn)
trên đồng lúa ở nước Anh, sự dị thường của vùng trời biển gọi là “Tam
giác quỉ Bécmura”, UFO (vật thể bay không xác định), …, là những thể
hiện của cái tạm gọi là “cộng hưởng tương tác”, xảy ra trong quá trình
vận động của môi trường cảm ứng điện từ bao quanh Trái Đất).
Nếu
thực sự hiện tượng có những người có khả năng tâm linh chủ động giao
tiếp được với vong hồn người đã khuất đã là thường thấy trong thời đại
Hùng Vương thì có thể đoán rằng cùng với tế lễ, cầu siêu (đã xuất hiện ở
thời văn minh Đa Bút), những hiện tượng như: nhập hồn, gọi hồn, thờ
phụng người chết, và quan niệm về sự tồn tại tiếp tục của linh hồn sau
khi chết, sự siêu thoát linh hồn ra khỏi thể xác, đã trở nên thịnh hành
trong thời đại đó.
Trước
đây đã khá lâu, trong những hoàn cảnh khác và với những mục đích khác,
chúng ta đã từng khảo sát mặt của trống đồng Ngọc Lũ và đoán định ý
nghĩa của những họa tiết - hoa văn cùng với sự bài trí của chúng trên
đó. Giờ đây, trong một hoàn cảnh mới, đầy huyền hoặc tâm linh và hình
như đang vang vọng về từ đâu đó rất xa vời lời thầm thì mách bảo của
dòng giống tổ tiên, chúng ta sực nhớ đến trống đồng Ngọc Lũ và lại khảo
sát bề mặt của nó để đưa ra thêm những đoán định mới.
Khi
mặt trống đồng Ngọc Lũ đã hiện lên rành mạch trước mắt thì rất nhanh,
như có sự hối thúc tâm linh, vành tròn có khắc họa hai đoàn người đang
đi làm chúng ta mường tượng ngay đến cảnh sinh hoạt của người xưa.
Trước
hết, chúng ta thấy có hai vạch liền chia đôi vành tròn ấy. Những người,
vật hoạt cảnh khắc họa trên hai nửa vành tròn ấy về chi tiết có một số
khác biệt, nhưng trên bình diện tổng thể là giống nhau và đối ứng nhau
từng đôi một qua tâm mặt trống. Nếu nhìn kỹ thì hai vạch liền ấy còn
đóng vai trò như hai cái cột trên có treo thứ gì đó như cái cờ. Nếu nhìn
kỹ hơn nữa thì có thể suy luận đó không phải là những cái cờ mà ở ở đầu
một cột chính là khắc họa mặt trời với những tia nắng và ở đầu cột kia
là khắc họa mặt trăng tỏa ra ánh sáng dịu hơn. Thế thì người xưa khắc
họa như vậy để hàm ý gì? Nếu người thời Hùng vương khi đúc trống đồng
Ngọc Lũ đã định ước rằng, “đi” hết một vòng tròn theo chiều đoàn người
đi trên vạch tròn, xét về mặt thời gian là vừa hết đúng một ngày thì hai
vạch liền đó đã cho chung ta biết có thể vào thời đó, trong sinh hoạt,
người ta đã chia ngày ra làm hai khoảng thời gian: bắt đầu từ giữa trưa
(mặt trời đứng bóng) đến nửa đêm (lúc trăng rằm), rồi từ nữa đêm đến
giữa trưa (nghĩa là một ngày mới bao giờ cũng bắt đầu từ giữa trưa chứ
không phải từ sáng sớm như ngày nay). Và nếu 14 cách sao của ngôi sao ở
trung tâm mặt trống được người xưa biểu thị là một ngày gồm 14 “tiếng”
thì nửa ngày gồm 7 “tiếng” (hay giờ).
(Cũng
có thể trước cả thời Hùng vương, cái quan niệm lưỡng phân - lưỡng hợp,
tương tác - tương thành là nguyên lý vận hành của Vũ Trụ đã trở
nên sâu sắc mà người xưa coi nửa ngày (theo định ước của họ, gồm sự hợp
thành của sáng và tối) là một cái gì đó hoàn chỉnh, trọn vẹn tương tự
như một thực thể độc lập, tự thân vận động. Từ đó mà họ gộp 7 ngày thành
một “tuần”, rồi 7 tuần thành một “tháng” và cuối cùng gộp 7 tháng thành
một “năm”. Nếu thế, số ngày trong tháng của người xưa là:
7 x 7 = 49 ngày ;
và một năm của họ chỉ có:
49 x 7 = 343 ngày.
Trên
mặt trống đồng ngọc Lũ, ở vành chim - hưu, tổng số của cả hai loài vật
ấy là 34 con. Nếu đem nhân số đó cho 10, chúng ta sẽ có số 340. Phải
chăng đó là biểu thị số ngày “thường nhật” trong một năm của người xưa,
nghĩa là đối với họ, một năm đúng là có 343 ngày, nhưng 3 ngày đầu năm
không phải là 3 ngày thường mà là 3 ngày thiêng, bắt đầu của một năm
mới, nên cũng gọi gộp chung lại là Tết Nguyên Đán (gọi gọn là Tết, xưa
kia, trong dân gian còn gọi là Tết Cả)? Phải chăng vào thời đó, ngày đầu
tiên của năm mới được tính bắt đầu từ 12 giờ trưa, và ba ngày đầu năm
là ba ngày phải cúng kiếng tổ tiên, tế lễ trời đất, thần linh? Ngày nay ở
một số vùng, người dân vẫn còn giữ tục lệ cứ vào giờ Ngọ (12 giờ trưa)
ngày 30 Tết thì trịnh trọng dâng mâm cỗ cúng lên, bày vào bàn thờ tổ
tiên và phải chăng tục lệ này đã có từ thời Hùng Vương?
Nếu
đúng là tác giả của trống đồng Ngọc Lũ đã định ước giờ, ngày, tuần,
tháng, năm như trên thì họ chưa biết đến âm lịch (lịch trăng).
Rõ
ràng định ước như thế là không phù hợp với sự biến chuyển theo chu kỳ
khí hậu (bốn mùa xuân, hạ, thu, đông lặp đi lặp lại, cũng có nghĩa là
không đúng với thời gian Trái Đất quay đúng một vòng quanh Mặt Trời), và
như thế, sẽ không thể dùng nó để hoạch định mùa màng được, sau vài ba
năm sử dụng mà không điều chỉnh bổ sung.
Trước
đây, chúng ta từng phán đoán, cây nêu ngày Tết chính là “di tích” lưu
lại hình bóng cây cột mà xưa kia, thời tiền sử (có thể là vào khoảng hơn
4 ngàn năm cách nay), tổ tiên chúng ta đã dùng để xác định giờ chính
trưa (12 giờ trưa), đồng thời để định khoảng thời gian gọi là “tiếng”
(khoảng cách về thời gian giữa hai lần vào ống tre chẳng hạn). Không
những thế, vào những giai đoạn sau đó, do phát hiện thấy bóng nắng ngắn
nhất trong một ngày (giữa trưa) của cột trên mặt đất là có sự biến đổi
theo thời gian một cách chu kỳ và chu kỳ đó cũng là chu kỳ của biến đổi
khí hậu (một năm).
Không
phải bỗng nhiên, kiểu “đùng một cái” mà tổ tiên chúng ta tạo ra được
kiệt tác trống đồng Ngọc Lũ. Đó chỉ có thể là thành quả hoạt động sáng
tạo không ngừng trên cơ sở kế thừa những thế hệ đi trước. Nếu không có
những kỹ năng đã thuần thục trong chế tác đồ gốm thì chắc chắn tổ tiên
chúng ta cũng không thể có kỹ năng điêu luyện trong chế tác đồ đồng như
vậy. Do đó, có thể rằng vào khoảng gần 4 ngàn năm cách nay (tức là vào
buổi đầu Hùng Vương dựng nước), khi mà nông nghiệp trồng lúa nước đã thể
hiện rõ rệt và trở nên đặc thù, tổ tiên chúng ta đã thành thục trong
việc xác định mùa màng trồng trọt bằng cách theo dõi bóng nắng của cây
cột chôn thẳng đứng trên mặt đất. Sau đó, có thể là sớm hơn rất nhiều so
với thời điểm xuất hiện trống đồng Ngọc Lũ, do nhu cầu trong sinh hoạt
đời sống, trong việc phân công lao động xã hội và trong việc lưu nhớ các
sự kiện theo thời gian, mà họ đã sáng tạo ra lịch trình tính thời gian
như đã nói ở trên.
Hình 7: Âm lịch Việt (trái) và bốn mùa (phải) trên trống đồng Ngọc Lũ (12)
Nhưng
trên cơ sở nào tổ tiên chúng ta lại chia nửa ngày ra thành 7 tiếng (một
ngày gồm 14 tiếng)? Rất có thể đơn giản chỉ vì thời gian của ngày và
của đêm ít khi bằng nhau mà thường là ngày dài hơn đêm (mùa hạ, mùa thu)
hoặc ngày ngắn hơn đêm (mùa đông, mùa xuân) và tổ tiên chúng ta đã xác
định được tỷ lệ thời gian ấy là 3:4, từ đó mà định ra nửa ngày gồm 7
tiếng. Ngày nay, với cách chia nửa ngày gồm 12 tiếng và tính theo tỷ lệ
ấy vào mùa hè (ngày dài hơn đêm) thì buổi sáng của nửa ngày bắt đầu từ
12 giờ trưa và kết thúc vào 6 giờ 52 phút chiều, buổi tối bắt đầu vào 6
giờ 52 phút chiều và kết thúc vào 12 giờ đêm, tương đối phù hợp với quan
sát thực tế.
Cách
tính niên lịch không phù hợp với chu kỳ thời gian chuyển biến mùa khí
hậu đó rõ ràng là phiền toái và dễ gây ngộ nhận, đòi hỏi một sự cải
tiến. Có thể rằng đến một lúc nào đó, qua việc theo dõi sự biến đổi của
bóng nắng cây cột, người xưa đã xác định được một chu kỳ thời gian
chuyển đổi khí hậu là 364 ngày, nghĩa là vừa đúng bằng một năm lịch (49
tuần hay 343 ngày) cộng thêm 3 tuần (hay 21 ngày) nữa. Số ngày của một
năm được xác định như thế là hầu như chính xác (theo đo đạc ngày nay,
một năm xuân phân (hay một chu kỳ bốn mùa) dài 365, 2422 ngày). Từ đó,
có thể người xưa đã điều chỉnh lại niên lịch như thế này: một năm có 364
ngày, hay gồm 52 tuần, được chia ra thành 4 quí, mỗi quí gồm 91 ngày
(hay 13 tuần) hay 3 tháng (trong đó có hai tháng 30 ngày, một tháng 31
ngày), tổng cộng là 12 tháng (trong đó có 8 tháng 30 ngày, 4 tháng 31
ngày).
Nếu
quả thật tổ tiên chúng ta đã điều chỉnh lịch theo cách đó thì họ đã tạo
ra được một niên lịch coi như phù hợp với sự chu chuyển của 4 mùa về
mặt thời gian trong thực tế và như vậy, đã đáp ứng được những đòi hỏi về
xác định thời gian trong đời sống xã hội, trong việc thực hiện thời vụ,
đánh bắt hải sản, trong việc dự báo khí hậu, thời tiết.
Chúng
ta cho rằng chính cái yêu cầu phải tăng cường trồng trọt - chăn nuôi
lên một trình độ ngày càng cao hơn, có qui mô ngày càng lớn hơn, đã buộc
con người phải chú trọng hơn đến vấn đề theo dõi và xác định thời gian
sao cho cụ thể và chính xác. Quá trình đó tất yếu làm xuất hiện niên
lịch vào giai đoạn đã phát triển ở mức độ nhất định trong nền nông
nghiệp nguyên thủy Việt Nam, nhất là khi lúa nước đã là cây trồng được
nhấn mạnh thành cây lương thực hàng đầu.
Từ
nhận định trên, chúng ta phỏng đoán: vào khoảng hơn 4500 năm cách nay,
cư dân tiền sử trên lãnh thổ thuộc Bắc Bộ - Việt Nam đã sử dụng niên
lịch một năm gồm 343 ngày dưới dạng sơ khai nào đó. Bởi vì lúc đó ở
trong giai đoạn cuối cùng của biển lùi trước khi biển tiến đột ngột, và
người dân tiền sử đã định cư thành nhiều cụm phân bố rải rác trên một
vùng rất rộng cùng với nền nông - ngư nghiệp nguyên thủy có trình độ cao
hơn nhiều so với thời kỳ đầu xuất hiện trung tâm văn minh Đa Bút. Có
thể đây là thời khoảng chuyển biến từ văn minh Đa Bút lên văn minh Hoa
Lộc.
(Đến
đây thì cái đầu hoang tưởng “ghê hồn” của chúng ta bật ra một suy nghĩ
độc đáo và dù có thể là rất mơ hồ (thậm chí là hoàn toàn hồ đồ), nhưng
chúng ta vẫn ngoan cố dùng nó như một căn cứ bổ sung để củng cố thêm cho
phán đoán trên của mình.Theo đó chúng ta cho rằng, trong truyền thuyết về lịch sử cổ đại Việt Nam
thì mở đầu thời tiền sử là thời đại Kinh Dương Vương, tiếp theo là thời
đại Âu - Lạc (Âu Cơ - Lạc Long Quân), và sau thời đại Âu - Lạc là thời
đại Hùng Vương. Nếu cho rằng sự xuất hiện những thời đại đó gắn liền với
thời khoảng xuất hiện các trung tâm văn minh thì thời đại Kinh Dương
Vương xuất hiện cùng với sự xuất hiện của văn minh Hoa Lộc, cách nay
4500 năm, thời đại Âu - Lạc xuất hiện cùng với thời khoảng xuất hiện văn
minh Phùng Nguyên, cách nay 4145 năm, thời Hùng Vương xuất hiện cùng
với thời khoảng xuất hiện văn minh Đồng Đậu, cách nay 3800 năm.
Nếu
gạt bỏ cái nội dung mang nét quá cụ thể đến mức hoàn toàn ngây ngô và
khoảng thời gian xảy ra các sự kiện “ngắn ngủn” đến khiên cưỡng không
thể tin được, có thể là do đã bị sự xuyên tạc cố ý làm méo mó lịch sử
của phong kiến phương Bắc lũng đoạn, tồn tại trong truyền thuyết, thì có
thể hình dung lại như sau:
Vào
khoảng 4700 năm cách nay, lãnh thổ Bắc Bộ - Việt Nam còn “đất rộng
người thưa” và đầy tiềm năng thuận lợi cho hoạt động mưu sinh của con
người, do đó mà xuất hiện một cuộc lan tỏa dân cư có phần sôi nổi từ
phía Nam - Trung Hoa xuống, sống hòa trộn với các cụm dân cư bản địa,
chủ yếu thuộc khu vực thượng du, trung du và một phần khu vực đồng bằng
Bắc Bộ. Sau một thời gian chung lưng đấu cật lao động sáng tạo cũng như
quá trình biến chuyển, phân hóa xã hội, thì xuất hiện một bộ lạc trở nên
hùng mạnh, có thể áp chế được các bộ lạc xung quanh mà thủ lĩnh là Kinh
Dương Vương. Đó cũng chính là khởi đầu của thời đại Kinh Dương Vương
với một nền văn minh hòa hợp, kế thừa có sáng tạo văn minh Đa Bút đồng
thời cũng tiếp thu những yếu tố văn minh ngoại lai, gọi là nền văn minh
Hoa Lộc. Đến thời khoảng 4145 năm cách nay thì trong lòng văn minh Hoa
Lộc xuất hiện một trung tâm văn minh khởi đầu cho sự hình thành nền văn
minh Phùng Nguyên. Thủ lĩnh của trung tâm văn minh đó chính là người kết
thúc thời đại Kinh Dương Vương, mở ra thời đại Âu - Lạc. Như vậy, thời
đại Kinh Dương Vương tồn tại trong khoảng 355 năm.
Vào
thời khoảng 4115 năm cách nay xuất hiện một cuộc biển tiến đột ngột làm
diện tích đồng bằng Bắc Bộ bị thu hẹp lại, chỉ còn bằng ¼ so với trước
đó. Cuộc biển tiến (Thủy Tinh) này buộc phần lớn dân định cư ở đồng bằng
thấp di tản lên sinh sống ở những vùng cao hơn và như vậy cũng làm dịch
chuyển trung tâm văn minh Âu - Lạc (Sơn Tinh) theo hướng ấy. Tuy nhiên,
nhờ có hiện tượng kiến tạo theo hướng trồi dần lên của đồng bằng châu
thổ Bắc Bộ, sự bồi tụ ở các cửa sông thời đó mà không bao lâu sau, có
thể là vào thời khoảng 4000 năm cách nay lại xuất hiện một quá trình di
cư ngược lại, về phía biển, lấn biển (nghĩa là Sơn Tinh bắt đầu ra tay
chế ngự Thủy Tinh!). Phải chăng chính hiện tượng di cư trở lại này đã là
nguồn cảm hứng cho truyền thuyết tuyệt đẹp về Con Rồng Cháu Tiên? (Theo
khảo cổ học thì các di tích thuộc văn minh Phùng Nguyên phân bố trong
một khu vực tương đối rộng ở vùng đồng bằng và Trung du Bắc Bộ, tập
trung nhất là ở vùng đất thuộc các tỉnh: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc
Ninh. Đặc biệt ở khu vực hợp lưu của các con sông lớn: sông Hồng, sông
Đà, sông Thao, sông Lô, các vị trí di tích Phùng Nguyên có mật độ tập
trung dày và có mối liên hệ với nhau. Mặt khác, dễ nhận thấy là các di
tích văn minh Phùng Nguyên thường phân bố ở vùng đồng bằng cao, dọc theo
các con sông, nhưng cá biệt cũng có những địa điểm nằm giữa đồng bằng
Bắc Bộ và miền ven biển. Cụm cư trú của người Phùng Nguyên tương đối
rộng, khoảng 10 ngàn m2, có nơi rộng hơn nữa, khoảng 20 ngàn m2, thậm chí là 30 ngàn m2).
Quá
trình liên tục mở rộng trở lại địa bàn sinh sống về phía biển của dân
cư tiền sử Việt Nam cùng với tinh thần lao động sáng tạo không mệt mỏi
của họ trước những trở ngại nảy sinh trong điều kiện, hoàn cảnh môi
trường sinh thái mới đã làm nảy sinh một trung tâm văn minh mới trong
lòng văn minh Phùng Nguyên, đóng vai trò khởi nguyên của nền văn minh
được đặt tên là “Đồng Đậu”. Sự kiện này xảy ra vào thời khoảng 3800 năm
cách nay, và đi liền với nó là sự thay thế thời đại Âu - Lạc bằng thời
đại Hùng Vương. Như vậy, thời gian tồn tại của thời đại Âu - Lạc là vào
khoảng 345 năm.
Nếu
cho rằng thời đại Kinh Dương Vương làm cho hiện tượng trao đổi sản phẩm
lao động giữa các bộ lạc với nhau trở nên tương đối rộng khắp, đa chiều
và định hình thành mối quan hệ không thể thiếu được trong cộng đồng xã
hội, còn thời đại Âu - Lạc là thời đại khẳng định tính hàng hóa của
những sản phẩm lao động đem đi trao đổi ấy, đồng thời làm xuất hiện một
nền tiểu thủ công nghiệp dưới dạng manh nha trong lòng nền sản xuất nông
- ngư nghiệp đã trở thành truyền thống và do đó mà làm cho các khu vực
lãnh thổ có mối quan hệ thông thương mật thiết hơn nữa, làm nảy sinh mối
quan hệ tương đối ràng buộc lẫn nhau, cần đến nhau về mặt kinh tế giữa
các bộ lạc và do đó mà cũng làm nảy sinh những mâu thuẫn nhất định giữa
các bộ lạc, dẫn đến đòi hỏi sự thống nhất xã hội trên một phạm vi lãnh
thổ nhất định, thì thời kỳ đầu của thời đại Hùng Vương là thời kỳ thống
nhất xã hội dưới hình thức liên minh có thủ lĩnh giữa các bộ lạc, định
hình và khẳng định chủ quyền lãnh thổ chung gọi là Tổ Quốc).
Có
thể bước vào thời đại Kinh Dương Vương, người Hoa Lộc đã sáng tạo ra
niên lịch 343 ngày. Niên lịch này có tính ước đoán chủ quan vì lúc đó họ
chưa biết đến cách xác định thời gian của một chu kỳ mùa màng bằng bóng
nắng của cây cột trồng thẳng đứng trên mặt đất bằng phẳng.
Trong
truyền thuyết về thời tiền sử của dân tộc Việt, hầu hết các tình tiết
nói về thời gian xảy ra các sự kiện đều mơ hồ, chung chung, duy chỉ có
thời điểm Kinh Dương Vương lên làm vua là được ấn định rõ: vào năm 4879
cách nay, hay chính xác hơn là vào năm 2879 TCN. Con số đó được viết ra
một cách hú họa hay có cơ sở và tại sao năm Kinh Dương Vương lên làm vua
lại được xác định cụ thể đến như vậy? Chúng ta cho rằng vào đầu thời
Kinh Dương Vương đã phải có niên lịch và chỉ có như thế mới có thể lưu
truyền được đến các thời đại sau cái con số trông rất đỗi bình thường và
vô tình đó.
Niên
lịch một năm có 343 ngày được điều chỉnh thành niên lịch một năm có 364
ngày vào thời khoảng nào trong lịch sử? Có khả năng là vào lúc xuất
hiện thời đại Âu - Lạc, tức là vào khoảng 4145 năm cách nay, cách năm
Kinh Dương Vương lên ngôi là 355 năm. Bởi vì nếu lấy một năm gồm
365,2422 ngày thì cho 355 năm ấy thì khi đổi sang năm gồm 343 ngày sẽ
là:
và
lấy số năm ấy cộng với số 4500 (là năm bắt đầu thời đại Kinh Dương
Vương) thì được 4878 năm, hay 2878 năm TCN (đây là số năm gần như trùng
với số năm Kinh Dương Vương lên làm vua được xác định trong truyền
thuyết). Đây chỉ là một sự trùng hợp lạ lùng hay chính là sự thật?
Cũng
có khả năng niên lịch đã được điều chỉnh nói ở phía trên, ra đời vào
khoảng cuối thời Âu - Lạc hoặc đầu thời Hùng Vương, khi mà địa bàn cư
trú của con người ngày càng được mở rộng về phía vùng đồng bằng thấp hơn
của châu thổ sông Hồng. Trong một số di tích có lẽ là của khoảng thời
kỳ này, với diện tích tương đối lớn được khai quật, các nhà khảo cổ đã
phát hiện thấy đường nét của những hố đất đen tròn, có kích thước tương
tự nhau, ăn sâu xuống tầng sinh thổ. Phải chăng đó là những chiếc hố
trồng những cây cột dùng vào việc theo dõi thời gian?
Nếu
thế, vì trống đồng Ngọc Lũ chỉ có thể ra đời vào thời khoảng muộn hơn
nhiều nên phải suy diễn hàm ý ẩn chứa trên vành tròn khắc họa chim -
hươu theo hướng khác.
Người
xưa bài trí theo lối tương phản đối ứng qua tâm vành tròn 10 hươu với
10 hươu, 8 chim với 6 chim nhằm dụng ý gì? Nếu vẫn cho rằng vành tròn đó
là biểu tượng một năm của người xưa thì có thể sự phân bố chim - hươu
nói lên một năm gồm 4 mùa mà số lượng con vật của mỗi mùa cũng là đại
diễn tổng số ngày của mùa đó, và trong 4 mùa đó có 2 mùa (nằm đối ứng)
có số lượng ngày bằng nhau và 2 mùa còn lại có số ngày khác nhau. Vậy
đại diễn của tổng số ngày của một năm là 34.
Có
thể người xưa cho rằng mùa hè và mùa đông có số ngày giống nhau và đều
bằng 107 ngày, còn mùa thu có 86 ngày và mùa xuân có 64 ngày. Tổng số
ngày của 4 mùa đúng bằng số ngày của một năm, là:
107 + 107 + 86 + 64 = 364 ngày
Vì
không thể khắc họa được số lượng chim - hươu nhiều như thế trên vành
tròn nên người xưa lược bỏ con số cuối cùng của mỗi số đi và còn lại chỉ
cần khắc họa: 10 hươu - 8 chim - 10 hươu - 6 chim.
Chúng ta đoán như vậy là vì có sự trùng hợp với hiện tượng sau đây:
Làm tròn các số ở kết quả sẽ thu được: 107 - 86 - 107 - 64.
Dù
khó mà khẳng định dứt khoát điều gì thì chúng ta cũng không thể từ bỏ
được ý nghĩ: tổ tiên của chúng ta đã sáng tạo một kiểu dương lịch và sử
dụng nó từ rất sớm trước khi biết đến âm lịch.
Cỗ kiệu rước bàn thờ thánh ở Bắc Kỳ vào cuối thế kỷ 19, một tập tục tín ngưỡng của người Việt
Cỗ kiệu rước bàn thờ thánh ở Bắc Kỳ vào cuối thế kỷ 19, một tập tục tín ngưỡng của người Việt
Vậy thì tổ tiên chúng ta chuyển sang sử dụng âm lịch lần đầu tiên vào khi nào?
Chắc
là từ rất sớm nhưng phải sau khi phát hiện cách làm ra lửa và sử dụng lửa ở đâu
đó trong tít tắp mịt mùng hồng hoang tối cổ, vào những lúc bức bách kiếm
cho được cái ăn, con người đã phải hoạt động cả vào những đêm trăng
sáng. Có lẽ trong suốt thời kỳ kiếm ăn chỉ bằng cách săn bắt - hái lượm
thôi, vì chưa thật cần thiết đến việc phải theo dõi đến sự mọc lặn của
trăng nên con người cũng chỉ chú ý đến hiện tượng ấy một cách thụ động,
chủ yếu là “chờ đợi” trăng lên một cách mù quáng, hoặc về sau nếu có
xuất hiện sự phán đoán, suy đoán thì cũng ở chừng mực hời hợt, không
chắc chắn, kiểu “đoán già đoán non”. Chỉ khi xuất hiện sự trồng trọt -
chăn nuôi và trong quá trình phát triển cả về trình độ lẫn qui mô của
phương thức kiếm sống ấy, con người mới ngày càng chú ý hơn tới chu kỳ mọc -
lặn của trăng.
Đến
khi trồng trọt - chăn nuôi đã trở thành trọng yếu, phổ biến một cách
nổi trội hẳn trong xã hội, số đông con người đã chuyển sang lối sống
định cư lâu dài trong những khu vực lãnh thổ nhất định, thì chu kỳ mọc
lặn của trăng càng được đi sâu tìm hiểu hơn nữa. Tuy nhiên, chúng ta cho
rằng, trong quá trình hình thành nền nông nghiệp nguyên thủy (từ manh
nha, sơ phác cho đến khi thực sự định dạng), sự đòi hỏi trong lao động
kiếm sống của con người về việc xác định thời gian xảy ra mùa màng và
quá trình chu chuyển của khí hậu cũng như thời tiết là có tầm quan trọng
đặc biệt, cho nên nó cũng được ưu tiên giải quyết hơn hẳn so với việc
tìm hiểu chu kỳ vận động của trăng. Chính vì vậy mà chúng ta cũng đi tới
nhận định: trong tiền - sơ sử Việt Nam, dương lịch phải được sáng tạo
ra và được sử dụng trước, sớm hơn nhiều so với âm lịch (lịch trăng).
Chỉ
đến khi nông ngư nghiệp nguyên thủy đã phát triển đến một qui mô nhất
định, hiện tượng trao đổi sản phẩm lao động giữa các bộ phận, các cụm
dân cư đã trở nên thường xuyên không thể thiếu được, với cự ly vận
chuyển, lưu thông ngày càng xa, thì việc xác định chính xác chu kỳ thời
gian vận động của trăng mới trở nên thực sự cần thiết.
Vào
khoảng 3100 năm cách nay, biển lùi nhanh và đó cũng là thời khoảng văn
minh Đồng Đậu biến đổi thành văn minh Gò Mun. Thời văn minh Gò Mun là
thời công cụ và đồ dùng bằng đồng đã trở nên rất thông dụng và kỹ năng
đúc đồng đã đạt được trình độ cao nhất định, dần tiến đến hoàn thiện,
tạo tiền đề cho khả năng đúc được trống đồng Ngọc Lũ vào khoảng đầu kỳ xuất
hiện văn minh Đông Sơn (trong khoảng 2800 - 2600 năm cách nay).
Trên
thân trống đồng Ngọc Lũ, có khắc họa những con thuyền có vẻ vạm vỡ,
chắc chắn chứng tỏ vào thời đó, nghề chài lưới, đánh bắt hải sản đã phát
triển, có thể ngư nghiệp đã trở thành một lĩnh vực làm ăn tương đối độc
lập, và bên cạnh đó, lưu thông, vận chuyển bằng đường thủy cũng đã rất
thịnh hành, thậm chí là hình thức chủ yếu.
Có
lẽ đến cuối thời Gò Mun, đầu thời Đông Sơn, giao thông hàng hóa đã trở
nên nhộn nhịp, thành một ngành chuyên môn hóa, không thể thiếu được
trong đời sống xã hội, và nhiều khi phải hoạt động cả vào ban đêm.
Như
vậy, vào thời khoảng nói trên, tổ tiên chúng ta chắc là đã xác định
được tương đối tường tận qui luật vận động của trăng về mặt thời gian và
thậm chí bằng cách nào đó đã thể hiện được những thời điểm trăng rằm
trên dương lịch một năm có 364 ngày.
Ít
ra thì đến tận khi trống đồng Ngọc Lũ ra đời, tổ tiên ta vẫn còn sử
dụng lịch đó. Về sau nó mới được cải tiến dần và cuối cùng thì định hình
dưới dạng một âm - dương lịch nào đó tương tự như dạng mà trước đây, có
lần chúng ta đã thử hình dung (ngày có 24 tiếng, tuần có 7 ngày, năm có
364 ngày phân thành 12 tháng: với 3 tháng hợp thành một quí). Nếu thế
thì rất có thể âm lịch thuần túy chỉ bắt đầu được sử dụng trên lãnh thổ
nước ta vào thời bị phong kiến phương Bắc xâm lược, đô hộ và là sản phẩm
du nhập từ bên ngoài vào)…
Chán quá, lại cứ huyên thuyên lạc đề!
Thôi, chúng ta hãy quay lại với vành tròn khắc họa hai đoàn người trên trống đồng Ngọc Lũ!
Trên
vành tròn đó thể hiện hai khắc họa hình hao hao giống người nhưng cũng
khác người và bên trên là hình hao hao giống chim nhưng không hẳn là
chim. Bên cạnh hai hình khắc họa ấy là hình khắc họa hai người (một nam
một nữ) đang giã chày vào cối. Thời đó khi có người chết thì người ta
giã chày vào cối để báo cho mọi người biết. Vậy, có thể nghĩ rằng vào
thời Hùng Vương, tổ tiên ta đã quan niệm khi con người chết đi thì hồn
(hình chim không hẳn là chim) lìa khỏi xác (hình nhân không hẳn là nhân)
và bay đi, tiếp tục tồn tại.
Cũng
trên vành tròn đó có khắc họa hai hình như hai nhà có mái cong vút như
mái chùa, bên trong mỗi nhà có hai, ba người gì đó và bên trên mỗi mái
có lần lượt một con chim và hai con trống mái rất giống gà. Quan sát kỹ
tư thế của những người trong hai nhà đó và cho rằng chim (hay gà) là
biểu diễn của linh hồn thì dễ dàng liên tưởng đến hiện tượng cầu hồn,
gọi hồn...
“Công
cuộc” tưởng tượng của chúng ta về hồn, vía, ma, vong đến đây là kết
thúc. Dù tất cả có thể chỉ là sự mê sảng thực sự không hơn không kém thì
chúng ta vẫn tin rằng nó không vô ích, thậm chí còn như một ý kiến gợi ý
mở đường cho những nghiên cứu trong tương lai.
Hiện
tượng ma, vong, không còn bàn cãi gì nữa, cũng là một tồn tại và tồn
tại mãi một khi loài người chưa bị tiêu vong. Khoa học rồi đây sẽ giải
thích được tường tận bản chất của sự tồn tại ấy.
Trong
cuộc đời mình, chúng ta đã từng có những giấc chiêm bao linh ứng, gặp
những hiện tượng linh cảm, thấy những bóng hình u uẩn giữa khuya lung mà
không sao giải thích được.
Trong
lịch sử loài người, vào thời khoảng chưa hề có những suy tư triết lý
giải thích nhằm giải thích những hiện tượng thiên nhiên, đã xuất hiện
tục thờ cúng người chết, quan niệm về sự tồn tại của linh hồn ngoài thể
xác. Nguyên nhân có thể là do vào thời đó con người đã hồi ức lại được
những chiêm mộng, nhưng nhiều khả năng hơn là do nhiều người đã ngẫu
nhiên, trong lúc tỉnh thức, đã thấy được, thậm chí là giao tiếp được
những người máu mủ, thân thuộc đã khuất của mình. Đặc biệt dân tộc Việt,
ngay từ thời Hùng Vương đã có tập quán thờ phụng tổ tiên, ông bà, cha
mẹ đã khuất. Tập quán đó đã được lưu truyền đậm nét đến tận ngày nay và
là một truyền thống cực kỳ nhân văn, cực kỳ quí báu của dân tộc Việt,
hầu như không có ở các dân tộc khác. Người Việt Nam có tập tục không
tưởng niệm người thân đã khuất vào ngày sinh mà vào ngày mất của họ. Vào
những ngày đó, người ta làm tiệc mời bà con quyến thuộc về dự. Đầu tiên
là bày thức ăn lên bàn thờ cúng, thắp hương khấn vái mời người đã khuất
về. Sau khi tàn hương mọi người mới quây quần ăn uống hàn huyên, vui vẻ
(gọi là ăn cỗ hay ăn giỗ).
Thờ cúng tổ tiên, nét văn hóa tâm linh truyền thống của người Việt(ảnh minh họa) |
Cầu cơ là một trò chơi dân gian được lưu truyền ở nhiều nước châu Á và
được cho là cách để nói chuyện với linh hồn người đã khuất. Theo đó,
người chơi cần có một tờ giấy ghi đủ bảng chữ cái và một phía ghi các từ
“đúng”, “sai”, “có”, “không”, phía trên ghi “thánh”, “thần”, “ma”,
“quỷ”. Người chơi cần có một vật dụng để làm “cơ” là cái chén, ly, nút
chai, mảnh gỗ,…
Khi bắt đầu chơi, những người tham gia sẽ cùng đặt một ngón tay lên
“cơ” và khấn vái hay đọc thần chú để “gọi hồn” một người đã chết. Người
chơi sẽ đặt những câu hỏi và người chết trả lời thông qua cách tự di
chuyển “cơ” đến những chữ cái để ghép thành từ, câu có nghĩa.
Phong
tục cổ truyền Việt Nam trong nghi lễ tang ma, nhiều hình thức hoạt động
tâm linh nói lên niềm tin của người Việt về sự tồn tại của vong hồn mà
có lẽ niềm tin này đã xuất hiện từ rất xa xưa. Chẳng hạn như tục “phục
hồn”: lấy áo của người chết, trèo lên nóc nhà từ phía trước, hướng về
phương Bắc vẫy gọi liên tục người chết ba lần, sau đó trèo xuống nóc nhà
theo lối phía sau, đem áo ấy vào đắp lên bụng người chết để hồn người
chết trở về. Hay tục gọi là “phạn hàm”: tang chủ lấy đũa cạy răng người
chết bỏ gạo nếp và đồng tiền vào miệng ba lần, mỗi lần ba hạt gạo nếp và
một đồng tiền, làm thế để người chết có cái ăn và có tiền đi đò về cõi
âm. Ba ngày sau khi an táng thì có lễ “mở cửa mã”: mang đồ cúng đến cúng
bái trước mộ. Người xưa quan niệm rằng người mới chết vẫn chưa biết
mình chết, linh hồn chưa rời khỏi xác (như một người ngủ thiếp đi?),
phải 3 ngày sau khi an táng mới nhận ra là mình không còn sống nữa, đã
trở thành vong hồn. Do đó, cúng “mở cửa mã” là nhằm giúp cho vong hồn
người chết thoát ra. Vì còn luyến tiếc, vấn vương cõi dương gian nên
vong hồn lần tìm về nhà theo con đường đã được làm dấu nhờ những tờ tiền
giấy (tiền vàng mã) đã được rải ra trước đó suốt quá trình đưa linh cữu
từ nhà đến nơi an táng của những người thân.
(Chúng
ta tự hỏi: dựa vào đâu mà người xưa cho rằng người chết đến năm, bảy
ngày sau mới biết mình chết? Hay đó là hiện tượng mà không ít người đã
thực sự “thấy” được trong hiện thực?).
Tính
từ ngày chết, cứ 7 ngày là làm một lễ cúng cơm, gọi là “cúng thất” và
cúng như vậy 7 lần. Lần cuối cùng là quan trọng nhất, có tế lễ, gọi là
cúng “chung thất” hay “cúng 49 ngày”. Đợt cúng này có mục đích an ủi,
làm nguôi ngoai vong hồn người đã khuất và đến ngày thứ 49 thì vong hồn
đã thực sự thanh thản ở cõi âm ty, đã siêu thoát.
(Nhưng
tại sao lại phải 7 ngày và 49 ngày? Điều này có liên quan gì đến điều
chúng ta đã đoán là thuở xa xưa tổ tiên ta đã qui định tuần có 7 ngày và
một tháng gồm 7 tuần hay 49 ngày không?)
***
Khi
thân xác chết đi thì linh hồn lìa khỏi thân xác, và được gọi là vong
linh hay vong hồn. Vong hồn tiếp tục tồn tại dưới dạng tạm gọi là “vừa
sống vừa chết” hay “không sống không chết”, khi được kích thích phù hợp
thì sống, khi không được “đoái hoài” thì chết. Phụ thuộc vào nhiều yếu
tố mà đến nay chưa ai biết cụ thể được, thời gian tồn tại của vong hồn
có thể lâu dài hay ngắn ngủi, thậm chí là có thể “đầu thai” lại với ít
nhiều biến đổi. Tất cả đều phụ thuộc vào cường độ hoạt động thần kinh
của những người thân thích còn đang sống.
Mặc mọi người hoài nghi, còn chúng ta cứ khẳng định: chắc chắn vong hồn có thực, là một tồn tại thực như bao tồn tại thực khác!
Vừa khẳng định như thế xong thì chúng ta cũng đột ngột vỡ lẽ ra tình trạng hiện nay của mình.
Thì ra, chúng ta đang bay với tốc độ cực đại trong Vũ Trụ ().
Con người, khi bay ở tốc độ đó thì thân xác sẽ phải phân rã thành một
luồng bức xạ hay luồng hạt KG kích thích chỉ còn mối liên kết tối thiểu với nhau (?). Do đó,
lúc này, chúng ta chỉ như những vong hồn, cảm được, nghĩ được, quan
chiêm trong tâm tưởng được là nhờ sự kích thích thần giao cách cảm của
anh chàng Hiện thực đang “mài đũng quần” trong xó nhà dưới Trần Gian…
Đến
bây giờ chúng ta mới nhìn ra xung quanh. Nhớ lại lời Tạo Hóa, chúng ta
biết rằng chúng ta không còn trong miền Không Gian ảo nữa, đã vượt qua
ranh giới ảo - thực và đang ở miền Không Gian thực, đâu đó ở bên này rìa
Vũ Trụ. Quang cảnh thật quen thuộc. Vũ Trụ bao la và chi chít sao lấp
lánh. Thi thoảng đây đó lại có một vụ nổ bừng lên, chói sáng hoặc tung
tóe ánh sáng ra như pháo hoa. Lác đác là những thiên hà trông như những
đụn mây trắng hững hờ trong những đêm trăng mờ ở Trái Đất. Phía trước là
một thiên hà có vẻ to nhất, sáng nhất. Đó đích thị là Ngân Hà và lúc
này trông như một vầng trăng khuyết, không, có lẽ đúng hơn là trông như một dòng sông đầy cá. Bất giác, chúng ta có cảm nghĩ đang
đi thuyền trên một con sông quê êm đềm nào đó trong một đêm trăng thanh
gió mát. Hai bên bờ sông, phía xa xa, ai đó lâu lâu lại bắn lên một
pháo hoa, bung ra nhiều ánh sắc. Đằng trước là một vầng sáng ắt hẳn là
do đèn điện của một thành phố hắt lên. Con thuyền đang lướt băng băng về
đó. Nôn nao quá chừng!
Chúng
ta bay nhanh thật! Chẳng mấy chốc mà vầng sáng kia đã rõ nét, trông như
một đĩa sứ tráng men trắng láng, xoay chầm chậm. Ôi, Ngân Hà, miền xứ
sở của quê hướng chúng ta đó, sao mà đẹp thế, đẹp tuyệt trần! Và chúng
ta đang “băng băng” về nơi chốn ấy, nơi chốn đang bao dung Trái Đất -
cõi trần gian mà chúng ta khắc khoải nhớ thương vì đã xa cách quá lâu…
Ô
hay, trong Vũ Trụ có biết bao nhiêu là thiên hà mà sao cứ chăm chăm bay
về Ngân Hà nhỉ, dù chúng ta rất muốn nhưng rõ ràng là không có một hành
động tích cực, chủ đích nào? Đúng là Tạo Hóa đã vạch đường mở lối,
“hích” chúng ta bay vùn vụt với tốc độ cực đại trong Vũ Trụ, về phía
Ngân Hà. Song chuyển động đều với vận tốc ấy trong một môi trường tứ bề
hấp dẫn thì thật là khó hiểu. Tại sao chúng ta không có bất cứ một nỗ
lực nào, không cảm thấy phải chịu bất cứ một ràng buộc hấp dẫn nào? Dù
chúng ta đang bay về Ngân Hà thì Ngân Hà cũng chẳng hút chúng ta một mảy
may. Vì nếu có như thế, chúng ta sẽ phải chuyển động nhanh dần đều và
tốc độ bay của chúng ta đã vượt tốc độ ánh sáng từ lâu rồi. Đó là điều
mà Tạo Hóa tuyệt đối cấm kỵ! Lạ lùng thay và chỉ còn có nước phải cho
rằng giữa chúng ta và Ngân Hà không có một tương tác hấp dẫn nào cả!
Nghĩa là phải đi đến quan niệm: định luật vạn vật hấp dẫn của Niutơn
không áp dụng được trong trường hợp hai thực thể mà ít ra có một thực
thể là luồng sáng. Muốn thế, luồng sáng dù có to đến cỡ nào thì khối
lượng của nó cũng phải bằng 0. Vật lý học đã phải đi đến kết luận như
vậy. Còn nếu theo quan niệm của chúng ta (hạt ánh sáng có khối lượng)
thì kết luận đó là một kỳ dị. Ai đúng ai sai đây? Một nỗi khiếp sợ khủng
khiếp xuất hiện trong suy nghĩ của chúng ta: khó lòng mà cãi lại được
“gã” khổng lồ vật lý thực chứng, và nếu không cãi lại được thì toàn bộ
quan niệm của chúng ta về Không Gian từ trước đến nay phải bị gạt bỏ.
Làm sao bây giờ? Bây giờ thì không làm gì được rồi vì vấn đề đến đột
ngột quá và cũng quá to tát. Nhưng nhất quyết sẽ có lúc chúng ta quay
lại vấn đề này cùng với Thầy Cãi để cãi lấy được, quyết giành bằng được
thắng lợi trước “gã” khổng lồ kia một phen. Anh Hiện Thực ơi, hãy ghi nhớ điều đó nhé!
Chúng
ta vừa vấp phải vấn nạn quá lớn lao. Dù chưa thể giải quyết một sớm một
chiều được thì ngay lúc này chúng ta cũng thấy không phải vật lý học
không gặp vấn nạn và vấn nạn đó không phải là nhỏ. Giả sử rằng trong Vũ
Trụ có hai thực thể không phải là luồng sáng tương tác hấp dẫn với nhau
(chẳng hạn một thiên thể rất to và một thiên thạch nhỏ). Thiên thạch sẽ
phải bay đến thiên thể với vận tốc tăng dần. Lúc đầu khoảng cách giữa
hai thực thể ấy đủ xa, sao cho thiên thạch còn cách thiên thể một quãng
đường nữa thì đã đạt đến vận tốc cực đại c của Vũ Trụ. Câu hỏi đặt ra là khi thiên thạch đạt đến vận tốc c rồi
thì giữa nó và thiên thể có tồn tại tương tác hấp dẫn nữa không? Nếu
cho rằng có thì điều mà Tạo Hóa nghiêm cấm bị vi phạm. Nếu cho rằng
không thì vì thiên thạch có khối lượng nên định luật vạn vật hấp dẫn bị
vi phạm. Vậy thì vật lý học trả lời ra sao về trường hợp này? Để không
bị mâu thuẫn nội tại, vật lý học buộc phải thỏa hiệp: vận tốc của thiên
thạch càng tăng thì khối lượng của nó càng giảm (nghĩa là ngược với quan
niệm của Anhxtanh) và khi nó đạt đến vận tốc c thì
khối lượng của nó bằng 0 (nghĩa là lúc này, thiên thạch không còn là
thiên thạch nữa mà là một luồng hạt phôtôn). Thỏa hiệp như thế sẽ phải
đi đến kết luận: bất kỳ thực thể nào trong Vũ Trụ, khi chuyển động đạt
đến vận tốc bằng c đều
phải biến thành một đoàn sóng ánh sáng. Thật là ly kỳ và trong hiện
thực hình như các nhà thiên văn chưa hề quan sát thấy hiện tượng biến
mất của khối lượng!
Vấn nạn của vật lý học đã làm cho chúng ta bớt lo lắng đi rất nhiều và cảm thấy tạm yên lòng.
Rõ
ràng là chúng ta đang bay rất đều đặn, cân bằng và hoàn toàn tự do,
không bị tương tác với bất cứ vật nào trong cõi vĩ mô để trở về Ngân Hà.
Vì Ngân Hà luôn ở phía trước, chính diện chúng ta nên bay như thế, theo
cơ học Niutơn, chỉ có thể là chuyển động thẳng đều. Nhưng thực sự chúng
ta có đang bay thẳng đều hướng tới Ngân Hà không? Câu hỏi bật ra làm
chúng ta sững sờ! Ừ nhỉ, vạn vật trong Vũ Trụ, trừ các hạt KG thông
thường, đều chuyển động. Vậy thì Ngân Hà đang chuyển động và hơn nữa là
đang chuyển động theo một quĩ đạo nào đó không thẳng. Như thế, nếu chúng
ta bay thẳng đều thì làm sao mà trở về Ngân Hà được? Chúng ta phải bay
theo một quĩ đạo cong kiểu gì đó và tất nhiên là phải chịu ít ra là một
tác động lực! Nhưng tại sao chúng ta không hề cảm nhận được điều đó? Có
thể rằng chúng ta đã cảm nhận sai lầm. Còn nếu không, động lực học và
nhất là nguyên lý truyền thẳng của ánh sáng có vấn đề, có thể chúng chỉ
đúng trong một phạm vi hẹp mà thôi. Hơn nữa, nếu chúng ta bay theo quĩ
đạo cong nào đó luôn hướng tới Ngân Hà thì, hoặc là Ngân Hà “tha thiết
kêu gọi” chúng ta về, hoặc chúng ta phải có một nỗ lực nhất định hướng
tới chủ đích, và dù là thế này hay thế kia, chúng ta đều phải tương tác
với môi trường một cách liên tục.
Sự
thể đó tưởng chừng như rất nan giải và gây hoang mang cho chúng ta,
nhưng không, chẳng có gì mà ầm ĩ cả. Nên nhớ rằng chúng ta đang bay
trong “thực tại hoang tưởng” và Tạo Hóa đã “ưu ái” mở ra cho chúng ta
một quĩ đạo cong mà cũng thẳng, là cả hai mà cũng không phải cả hai, để
về lại với quê hương yêu dấu một cách nhanh nhất và an toàn nhất.
Đoàn
hạt KG kích thích hi hữu (có liên kết và hoạt động nội tại như là những
vong hồn, tiếp tục lan truyền vun vút mà êm đềm hướng tới Ngân Hà.
Chúng ta cảm thức (chứ không thấy được vì có mắt đâu mà thấy!) Ngân Hà
ngày một lớn và sáng hơn. Với độ lớn và độ sáng đó, chắc chẳng mấy chốc
nữa là chúng ta về đến nhà.
Kể
ra thì cũng lại là một chuyện lạ nữa: khi chúng ta “đối đầu” với Ngân
Hà và cảm thức được ánh sáng của nó thì cũng có nghĩa chúng ta đang
“tắm” trong một cơn mưa phôtôn ào ạt như trút, ấy vậy mà chúng ta, đang
có một trạng thái cơ thể phải nói là quá “rệu rã” và “yếu ớt” thực sự,
tưởng sẽ phải “tan thây nát thịt”, vẫn nguyên vẹn, không hề hấn gì, thậm
chí không bị “ướt” một mảy may. Phải chăng hạt phôtôn (khi lan truyền
thì biểu hiện ra như một sóng) vẫn là một thực thể khổng lồ và “loãng”,
“mềm xèo” so với hạt KG, do đó dù chúng ta đang đi ngược giữa đoàn quân
phôtôn rầm rầm rộ rộ thì cũng như “đi vào chỗ không người”? Có lẽ,
trường hợp này cũng như trường hợp hạt nơtrinô, theo các nhà vật lý thì
nó bay xuyên qua Trái Đất một cách dễ dàng. Nếu không phải thế thì chỉ
còn cách nhớ ngay đến Tạo Hóa. Chính Ngài đã ra tay “cứu nhân độ thế”!
Vào
thời Hy Lạp cổ đại, Đêmôcrit, nhà triết học và toán học thời đó, đã cho
rằng Ngân Hà là một dải tập hợp vô số các sao. Năm 1610, Galilê, sau
khi quan sát Ngân Hà qua kính thiên văn, đã xác nhận điều này. Cuối thế
kỷ XVIII, Hecxen đã tính mật độ các sao theo các hướng của bầu trời và
thấy rằng: mật độ sao tăng nhanh khi tiến vào khu vực Ngân Hà. Kết quả
ngày nay cho thấy dải Ngân Hà là bộ phận cơ bản của một hệ sao gồm trên
100 tỷ sao. Thái Dương Hệ thuộc Ngân Hà và nằm đâu đó ở gần rìa của nó.
Đường kính Ngân Hà bằng 100.000 năm ánh sáng và Mặt Trời nằm cách tâm
Ngân Hà khoảng bằng 2/3 bán kính của nó.
Nhìn
từ Trái Đất, Ngân Hà là một dải phồng lên cả hai phía ở vùng trung tâm
và xẹp dần theo hướng ra hai rìa của nó. Còn từ đây và vào lúc này,
chúng ta lại (cảm thức) thấy Ngân Hà không phải là một dải sáng mờ mà
(đúng như các nhà vật lý thiên văn quan niệm!) có hình xoắn ốc với một
nhân tròn. Điều đó cho thấy, nếu nhìn từ Trái Đất thì lúc này, chúng ta
đang “lơ lửng” ở trên hay ở dưới dải Ngân Hà. Phải chăng chúng ta đang
bay vuông góc với dải Ngân Hà về thẳng Trái Đất?
Nhờ
cảm thức mà chúng ta đã thấy được quang cảnh hiện thực ở tầng vĩ mô như
đã mô tả ở trên. Nhờ hoang tưởng (có thể định nghĩa hoang tưởng là sự
tưởng tượng “hoang đàng chi địa”!) mà chúng ta, biết đâu, còn cảm thức
thấy được quang cảnh Vũ Trụ ở tầng vi mô nữa? Vậy thì bây giờ, ở khoảng
tận cùng của tầng vi mô, chúng ta thấy gì? Hóa ra ở tầng này, không còn
ánh sáng nữa, Vũ Trụ đang tối đen như mực. Chúng ta đã “mù tịt” hoàn
toàn, không còn thấy ngôi sao nào và cả Ngân Hà cũng “lặn” mất tăm. Dù
không thấy được quang cảnh Vũ Trụ nữa, nhưng chúng ta lại cảm thức được
trong nội tại mình những vận động nào đó như căng ra - chùng lại, kéo
tới - dồn lui. Có lẽ đó là sự thể hiện chuyển hóa Không Gian ở tầng rất
sâu của Vũ Trụ vi mô, mà nếu là hạt KG, chúng ta sẽ cảm thức được sự thể
hiện đó dưới dạng cảm ứng kích thích và hút - đẩy.
Ở
những tầng nấc cuối cùng của Vũ Trụ vi mô, Tự Nhiên Tồn Tại không là
gì khác ngoài các hạt KG vận động, biểu hiện ra là sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các hạt KG, và sự lan truyền các hạt KG kích thích.
Từ
hình thức vận động nền tảng ấy và vì tính bảo toàn tuyệt đối của lực
lượng Không Gian cũng như bản tính nước đôi về giới hạn của Vũ Trụ, mà
xuất hiện ra hàng loạt các loại hạt cơ bản có lực lượng hạt KG trong nội
tại khác nhau và mang bản chất tương đối khác nhau.
Đến lượt sự vận động và tương tác lẫn nhau của các loại hạt cơ bản này
làm xuất hiện các thực thể (tạm gọi là) “cơ sở” có qui mô lực lượng hạt
cơ bản và bản chất tương đối khác nhau. Cứ thế tiếp tục mà hình thành
nên thực thể, vạn vật - hiện tượng trong Vũ Trụ ở tầng vĩ mô như loài
người đã thấy trong hiện thực của mình.
Theo
chúng ta đã quan niệm thì vạn vật chỉ có thể tồn tại, hiện hữu được một
cách chúng vẫn là chúng khi ở trong môi trường đặc thù sinh ra chúng,
ràng buộc chúng và chứa chúng. Khi bị ra ngoài môi trường ấy (hoặc môi
trường ấy bị biến đổi) do một nguyên nhân nào đó, chúng không còn là
chúng nữa. (Tất nhiên, nói như thế chỉ là tương đối và ở những trường
hợp cụ thể thì phải đặt trong qui ước, vì một trong những đặc tính cơ
bản của Vũ Trụ là vừa thường biến vừa bất biến, là cả hai mà cũng không
phải cả hai!).
Một
thực thể (ở đây, tạm qui ước thực thể khác môi trường, chứ về mặt khái
niệm, thực thể là tên gọi chung cho: vật thể, môi trường, hệ thống…)
luôn phải tương tác với môi trường chứa nó. Tương tác với môi trường là
phương thức quyết định nhằm thể hiện và đồng thời duy trì sự tồn tại bản
thân của vạn vật. Vì thế, khi môi trường chuyển hóa, biến đổi thì vạn
vật trong đó cũng chuyển hóa, biến đổi theo một cách phù hợp với tự
nhiên. Nói chung, có nhiều hình thức tương tác, nhưng hình thức tương
tác cơ bản nhất, cốt lõi nhất, đóng vai trò nguồn cội của mọi tương tác,
chính là cảm ứng kích thích, chuyển hóa nhau giữa hai hạt KG.
Một
thực thể, nhìn ở góc độ nào đó sẽ được thấy như môi trường. Trái lại,
một môi trường, nhìn ở góc độ nào đó, lại sẽ thấy như thực thể. Môi
trường tuyệt đối, môi trường của mọi môi trường, chứa mọi môi trường,
mọi thực thể, chính là Không Gian Vũ Trụ. Có thể nói Vũ Trụ vừa là thực
thể vĩ đại tuyệt đối, vừa là môi trường bao trùm tuyệt đối. Chất liệu cơ
bản và duy nhất làm nên Vũ Trụ là Không Gian. Không Gian được hợp thành
từ vô vàn hạt KG (bình thường lẫn kích thích) - đơn vị nhỏ nhất tuyệt
đối của Không Gian.. Hạt KG kích thích cũng chính là đơn vị nhỏ nhất
tuyệt đối tạo thành nên mọi thực thể, mọi môi trường.
Như
vậy, ở khoảng tận cùng của tầng nấc vi mô, Vũ Trụ thể hiện ra như một
đại dương hạt KG thông thường, trong đó “trôi nổi” đủ mọi loại, đủ mọi
kích cỡ các đám, các cụm tập trung với những mật độ cao, thấp khác nhau
các hạt KG kích thích. Các đám và cụm ấy thường biến tuyệt đối trong bất
biến tương đối, tương tác với môi trường (gồm Không Gian, các đám và
cụm khác, các hạt KG kích thích “tự do”) theo phương thức cơ bản và chủ
yếu là thu, phát đồng thời các hạt KG kích thích. Tùy thuộc vào điều
kiện, hoàn cảnh môi trường Không Gian, mà một quá trình đồng thời phát
tán và tích tụ được điều chỉnh phù hợp. Tùy thuộc vào mối tương quan về
lượng hạt KG kích thích giữa hai quá trình đồng thời thu và phát mà một
đám, cụm tồn tại đang trong thời kỳ tương đối bất biến, đang trong thời
kỳ phát triển hay suy tàn (một cách từ từ hay đột biến). Sự vận động của
các đám, cụm làm xuất hiện các hiện tượng như: tan rã và hợp thành,
phân chia và kết hợp, cũng như sự nảy sinh những đám, cụm mới và sự tiêu
vong những đám, cụm cũ.
Trên
cơ sở thu, phát hạt KG kích thích mà hình thành nên hiện tượng tạm gọi
là thu và phát bức xạ trong Vũ Trụ ở tầng vĩ mô. Bức xạ là hiện tượng
một vật thể, do bị kích thích mà phát ra thứ gọi là năng lượng hay vật
chất. Tùy từng trường hợp cụ thể và cũng tùy thuộc vào qui ước mà có thể
có: bức xạ điện từ, bức xạ ánh sáng, bức xạ nhiệt, bức xạ hạt cơ bản.
Trong hiện thực vĩ mô, thu và phát bức xạ thường được thấy như là hai
quá trình xảy ra tương đối độc lập nhau. Một tờ giấy, khi bị đốt cháy
thành ngọn lửa thì sẽ phát ra bức xạ nhiệt và bức xạ ánh sáng. Một vật
để trong môi trường nóng hơn nó thì sẽ hấp thụ nhiệt bằng con đường gọi
là lan truyền nhiệt, nhưng nếu quan sát được ở tầng sâu vi mô nào đó,
theo ý chúng ta, cũng là hiện tượng hấp thụ bức xạ nhiệt. Tuy nhiên, nên
coi sự tồn tại độc lập của một trong hai quá trình thu và phát bức xạ
chỉ mang tính tương đối và hơn nữa, nên coi quá trình thu hay phát bức
xạ xảy ra đơn phương ở một vật chỉ là trường hợp đặc biệt của hiện tượng
có tính phổ quát: một vật đồng thời thu và phát bức xạ. Chẳng hạn một
vật lạnh bị chiếu nắng trực tiếp. Vật sẽ nóng dần lên nhờ hấp thụ bức xạ
nhiệt. Sự nóng dần lên ấy làm cho đến một lúc nào đó sẽ xuất hiện quá
trình phát xạ nhiệt từ những bề mặt không bị chiếu nắng của vật. Nếu
không có quá trình này thì sẽ không thể giải thích rốt ráo được vì sao
vật bị chiếu nắng chỉ nóng đến một nhiệt độ hạn định nào đó thì dừng lại
cho dù vẫn tiếp tục bị chiếu nắng. Sẽ thấy rõ hiện tượng hơn nếu đặt
vật ở bên ngoài bầu khí quyển Trái Đất. Có thể mở rộng sự đồng thời thu,
phát bức xạ ra thành sự đồng thời thu, phát năng lượng nói chung và từ
đó nâng lên thành một nguyên lý tổng quát của tự nhiên. Trong động lực
học, có định luật tác dụng tương hỗ: khi một vật phát lực tác dụng vào
một vật khác, thì nó cũng đồng thời thu được một lực đúng bằng như thế
(nhưng ngược chiều). Nói cách khác: khi vật đó phát đi một năng lượng
(động năng) thì nó đồng thời cũng thu lại một năng lượng đúng bằng từng
đó (nội năng), và có thể coi định luật này là một trường hợp riêng của
nguyên lý đồng thời thu, phát năng lượng.
Dựa
vào những nhận định “thuần” suy diễn ở trên, chúng ta đi đến kết luận
“hùng hổ” rằng: trong Vũ Trụ vĩ mô, mọi thiên thể đều phải liên tục
tương tác, trao đổi năng lượng với môi trường Không Gian, theo phương
thức đồng thời thu, phát bức xạ, trong đó, sự đồng thời thu, phát đơn
thuần hạt KG kích thích đóng vai trò nòng cốt, quyết định, để tồn tại và
“cố gắng” duy trì tồn tại sao cho chúng vẫn là chúng một cách tương
đối.
Hạt
KG kích thích là tột cùng nhỏ cho nên trong hiện thực Vũ Trụ tầng vĩ
mô, không thể quan sát được hiện tượng thu, phát hạt KG kích thích. Tuy
nhiên, chúng ta cho rằng tất cả những hiện tượng tương tác gián tiếp qua
chân không như: vạn vật hấp dẫn, cảm ứng điện từ, hút đẩy nam châm, sự
tồn tại của dòng điện dịch (tồn tại nhưng không hiện hữu, do Mắcxoen
phát hiện và trở thành một mắt xích quan trọng trong thuyết của ông),
thần giao cách cảm, thôi miên, thậm chí là cả giao cảm với vong hồn, nếu
không là hệ quả trực tiếp của hiện tượng đồng thời thu, phát hạt KG
kích thích thì cũng là chỉ thị có liên quan đến sự tồn tại của nó.
Thế
thì có cách nào hình dung ra được cách thức đồng thời thu, phát hạt KG
kích thích của một thiên thể, hay cụ thể hơn là của Ngân Hà được không?
Dựa vào khả năng hoang tưởng vô hạn độ của mình, chúng ta dõng dạc nói
lớn: “Được! Nhưng… phải liều mạng!”, rồi hạ giọng nói lắp thầm thì: “Vì
cái… cái… hình dung ấy là… là… phản khoa học”.
Vị trí Mặt Trời trong Dải Ngân Hà
Đầu
tiên, lúc chưa có Ngân Hà, quá trình tương tác và chuyển hóa KG trong
Vũ Trụ trước đó làm nảy sinh một vùng không gian (không viết hoa để hiểu
theo quan niệm hiện nay: môi trường chân không) có thế năng cực tiểu so
với xung quanh (mật độ KG kích thích thấp nhất hoặc bằng 0). Vùng này “thu hút”
các hạt KG âm, dương, trung tính (nhớ lại ký hiệu của các hạt đó lần
lượt là: , , ),
và có thể là cả các hạt tương đối lớn hơn nữa từ các khu vực có thế
năng cao hơn (mật độ KG kích thích lớn hơn) lan truyền về đó, hợp thành một khối KG kích thích
tương đối nhỏ, xoáy “dữ dội”. Lúc đầu, về mặt phương chiều, sự xoáy ấy
tương đối bất ổn, nhưng nhờ hiệu thế năng ở các hướng giữa khối cầu KG
kích thích và những khu vực có thế năng cao hơn không đồng đều mà trở nên ổn định
(trục xoáy không còn “lắc lư” nữa!). Sự xoáy ổn định và vì các hạt KG kích thích là
có khối lượng nên gây ra hiện tượng khối KG kích thích phình ra theo phương vuông
góc với trục xoáy và càng gần mặt phẳng xích đạo càng nhanh khiến khối
KG kích thích biến dạng thành khối cầu dẹp ở hai cực. Sự xoáy mạnh và ổn định cũng
tạo nên hiện tượng bức xạ các hạt KG kích thích trong khối KG kích thích ra môi trường không gian theo
phương vuông góc với trục xoáy, có cường độ cực đại ở vùng xích đạo và
cực tiểu (có thể bằng 0) ở hai vùng cực (thực ra là lan truyền kích thích như sóng nước lan truyền năng lượng!). Điều quan trọng hơn cả là chính
sự xoáy và bức xạ ấy đã làm hình thành nên một vùng trung tâm “hụt
hẫng” thế năng gần như theo chu kỳ và đó cũng là “nhà máy” “sản xuất” ra
những hạt KG kích thích “nặng” hơn , , ,
cung cấp cho quá trình bức xạ, đồng thời tạo điều kiện cho các luồng
hạt KG kích thích xâm nhập theo lối hai vùng cực vào khối KG kích thích. Đến đây, khối KG kích thích đã
định hình sự vận động đồng thời thu phát KG kích thích (gọi chung là thu phát bức xạ) của nó. Trong tưởng tượng
của chúng ta, hình bóng của khối KG kích thích lúc này trông như minh họa ở hình 1.
Hình 1: Cách thức đồng thời thu, phát KG
Theo
quan niệm của chúng ta, phải tồn tại các hạt KG kích thích. Đặc tính cơ
bản nhất của hạt KG kích thích là phải vận động đến hết khả năng của
nó, nghĩa là nó luôn phải lan truyền với vận tốc cực đại c trong
Vũ Trụ và luôn “tìm cách” tác hợp với hạt KG kích thích có dấu tương
phản với nó để trở về trạng thái thông thường hoặc hợp thành hạt . Vì vậy mà hạt cũng lan truyền với vận tốc c và khi “đứng” một chỗ xoáy” thì vận tốc chu vi cũng phải bằng c. Có thể, mường tượng hạt đứng
xoáy trông như đèn nhấp nháy xanh đỏ của xe cảnh sát. Tuy nhiên, đối
với những thực thể lớn hơn nó (có chu kỳ vận động nội tại - đơn vị thời
gian riêng - dài lâu hơn tương đối nhiều so với của nó), sẽ không thể
“thấy” được như vậy mà chỉ “thấy” như một “khối” đồng nhất (tương tự như
khi quạt quay nhanh sẽ không phân biệt được cánh). Tình hình cũng như
vậy khi bức xạ (lan truyền như một sóng đơn vị) trong không gian. Vì những lẽ đó mà có thể coi là một hạt trung tính, là đơn vị nhỏ nhất của mọi hạt cơ bản, của mọi sóng điện từ mà vật lý học đã phát hiện ra.
Đặc tính cơ bản ấy của hạt KG kích thích và hạt đã
là yếu tố quyết định đến đặc tính xoáy của khối KG kích thích (gọi gọn là khối KG) lúc mới hình thành
và vùng trung tâm (hay còn gọi là vùng lõi) của nó khi qui mô của nó đã
đạt đến độ lớn nhất định: luôn xoáy hết khả năng, xoáy với tốc độ trung
bình cực đại có thể có gọi là Vmax (Vmax ).
Khi
sự xoáy mạnh mẽ ấy đã ổn định phương chiều, đồng thời vẫn được liên tục
cung cấp các hạt KG kích thích (gọi gọn là hạt KG) từ hai vùng cực và vì hạt KG có khối lượng nên khối
KG phình dần ra như đã nói, làm cho vùng lõi cũng to dần ra theo.
Khi
mật độ của khối KG còn thấp hơn (nghĩa là thế năng cũng thấp hơn) so
với những khối KG ở không gian xung quanh thì sự phình của nó không
những bị cản trở bởi thế lực của các khối KG đó nên phát triển chậm chạp
mà còn bị lũng đoạn bởi một bộ phận lực lượng KG của các thế lực đó xâm
nhập làm mật độ của khối KG phía ngoài vùng lõi tăng lên nhanh chóng.
Mật độ càng cao thì càng tạo cho khối KG tăng cường phát xạ, đồng thời
cũng làm cho sự lan truyền của các hạt KG , trong
nội bộ khối KG ở gần ngoài vùng lõi có nguy cơ bị hạn chế tốc độ. Nhưng
điều đó là không thể xảy ra được cho nên hướng giải quyết tất yếu là
làm xuất hiện các hạt cơ bản bằng cách kết hợp những hạt KG đó lại với
nhau theo những số lượng do điều kiện, hoàn cảnh xác định.
Mọi hạt cơ bản, trừ hạt , đều có tốc độ lan truyền cực đại, hoặc tốc độ chu vi cực đại khi xoáy nhỏ hơn c, tuân theo biểu thức:
với M là tổng khối lượng của các hạt KG cấu thành.
Moc2 là năng lượng tối thiểu để duy trì liên kết nội tại.
Sự
hấp thụ KG sẽ làm cho khối KG tiếp tục phình ra và tiếp tục tăng cao
mật độ. (Lúc này nguyên nhân chủ yếu không phải là do bị áp lực từ bên
ngoài mà lại do “bề dày” của phần phình ra cản trở làm giảm cường độ
phát xạ, gây “dồn ứ” lực lượng KG trong khối KG). Tình hình tương tự lại
xảy ra: các hạt KG và các hạt cơ bản có nguy cơ bị hạn chế tốc độ lan
truyền (hay xoáy) trong nội bộ khối KG. Và hướng giải quyết cũng tương
tự: các hạt cơ bản có khối lượng lớn hơn nữa xuất hiện, một phần bị phát
xạ ra không gian để “giải cứu” cho phần ở lại.
Nếu
nguồn KG hấp thụ còn dồi dào thì khối KG tiếp diễn sự tăng trưởng về
qui mô lực lượng và mật độ và từ đó mà trong nội tại nó ở phần ngoài
vùng lõi sẽ xuất hiện những hạt cơ bản lớn hơn nữa, chẳng hạn là điện
tử, prôtôn, nơtrôn… và các hạt nhân nhệ, trước hết là của H (Hydrô) rồi
sau đó lần lượt là mọt số các hạt nhân ngày càng nặng hơn. Thế rồi sự
phát triển của khối KG sẽ tất yếu dẫn đến những phản ứng tổng hợp hạt
nhân He (Hêli) từ những hạt nhân H (phản ứng nhiệt hạch) có tính bùng nổ
và bức xạ dữ dội.
Nếu
qui ước lúc xảy ra những phản ứng nhiệt hạch đầu tiên trong lòng khối
KG cũng là lúc nó chuyển biến thành một vì sao thì thời điểm đó coi như
đánh dấu sự ra đời của một vì sao trong Vũ Trụ và nếu trong “tầm mắt”
của chúng ta, chúng ta có thể quan sát thấy nó. Tuy nhiên, không phải
đến lúc đó, khối KG mới phát sáng. Cần phải quan niệm rằng bên cạnh sự
xuất hiện các loại hạt cơ bản, còn xuất hiện các loại giả hạt nữa. Trong
số các loại giả hạt đó, có một loại giả hạt mang tên chung là phôtôn
(hạt sáng). Hạt phôtôn chắc chắn phải xuất hiện trong khối KG và được
bức xạ ra không gian sớm hơn nhiều so với thời điểm xuất hiện hạt điện
tử. Như vậy, khi bức xạ ra các luồng phôtôn thì khối KG đã phát sáng, dù
có thể còn mở đục, chứ không cứ gì phải đợi đến khi xảy ra phản ứng
nhiệt hạch!
Hình ảnh của dải ngân hà hình xoắn ốc NGC 1365 trong chòm Fornax, cách Trái đất khoảng 60 triệu năm ánh sáng được chụp bởi máy ảnh năng lượng tối vào tháng 9/2012. (Ảnh: Dark Energy Survey Collaboration) |
Một
vì sao tồn tại lâu hay mau, đang phát triển hay lụy tàn là tùy thuộc
vào mối tương quan về lực lượng KG giữa hai quá trình đồng thời thu và
phát của nó. Và vì tương quan lực lượng giữa hai quá trình đồng thời thu
và phát này lại tùy thuộc vào sự chuyển hóa của môi trường không gian
chứa nó cho nên số phận của vì sao cũng bị định đoạt bởi môi trường này.
Trong điều kiện hoàn toàn thuận lợi, nguồn “thức ăn” thực sự dồi dào,
vì sao phát triển mạnh mẽ không ngừng về lực lượng, “nhồm nhoàm nhai
nuốt và thải vật chất vung vãi”, dần dần chuyển biến thành gã khổng lồ
thiên hà, mà trong trường hợp cụ thể ở đây, là Ngân Hà - xứ sở yêu
thương của chúng ta.
Vì
có khởi thủy là khối KG xoáy đến tận cùng khả năng nên có lẽ không có
vì sao nào, không có thiên hà nào lại không quay mà tồn tại được trong
thời kỳ chưa suy tàn của chúng. (Cũng có thể khi bước vào thời kỳ suy
tàn, sao hay thiên hà vẫn quay, chỉ có điều sự đồng thời thu - phát bị
đảo chiều: thu lại hầu hết vật chất mà chúng đã “thải” ra , chưa phát tán vào Vũ
Trụ bao la, và “nhả ra” các hạt KG từ hai miệng phễu của chúng).
Có
một hiện tượng tương đối phổ biến là có nhiều thiên hà có cánh tay xoắn
ốc (một, hai và cũng có khi nhiều cánh). Tại sao vậy? Tại vì sự xoáy
mãnh liệt đến tận cùng khả năng, trong sự khống chế vận tốc chu vi không
được vượt quá vận tốc cực đại c,
còn có một đặc tính nữa là, giá trị vận tốc góc của sự xoáy ấy, theo
phương vuông góc với trục xoáy, phải giảm dần từ tâm ra ngoài, và hơn
nữa cũng một phần vì khối lượng thực thể càng lớn thì vận tốc cực đại có
thể đạt được cùa nó càng nhỏ. Đó là hai hiện tượng hợp thành nguyên
nhân chủ yếu tạo ra cánh tay xoắn ốc của thiên hà.
Hình 2 là minh họa mô tả tóm tắt quá trình làm xuất hiện Ngân Hà.
a- khu trung tâm vùng không gian có thế năng thấp nhất
b- khối KG xoáy đã ổn định phương chiều
c- Sao quay rất nhanh
d- Ngân Hà
Hình 2: Sự ra đời của sao và Ngân Hà.
Thế
là chúng ta đã hình dung xong cách thức đồng thời thu phát KG của các
sao và thiên hà trong Vũ Trụ. Lúc đầu tưởng sẽ gặp khó khăn ghê gớm, ai
dè cũng dễ! Điều tuyệt cú mèo nhất là kèm theo đó, chúng ta còn nhân
tiện xây dựng nên được một “lý thuyết… suông” nghe cũng rất “êm tai” về
sự hình thành của các sao và thiên hà trong Vũ Trụ. Dù chưa một nhà
thiên văn nào quan sát được mảy may hiện tượng mà “lý thuyết… suông” đã
dựa vào đó để… dựng chuyện, thì ngay lúc này đây, chúng ta vẫn thấy sảng
khoái, hả hê quá chừng, cứ như trong tiết trời nóng bức và đang bị cơn
khát hành hạ, được uống một lèo đến cạn đáy vại bia đầy, mát lạnh, rồi
khà một tiếng, lấy tay áo quệt ngang, chùi bọt bia còn dính quanh mép.
Mặt
Trời cũng là một ngôi sao và là ngôi sao rất gần Trái Đất . Nếu thực sự
tồn tại quá trình đồng thời thu, phát thì chắc chắn Mặt Trời là đối
tượng dễ khảo sát nhất, nhất là lúc xảy ra nhật thực toàn phần. Ấy vậy
mà chẳng hề thấy gì! Có lẽ vầng nhật hoa (tỏa ánh sáng đến Trái Đất sáng
như ánh trăng rằm) đã che dấu tất cả. Chắc là phải đợi đến khi phóng
được một tên lửa đến đâu đó phía trên (hay phía dưới?) Thái Dương Hệ,
tại vị trí trục xoay của nó đi qua đó để quan sát và đo đạc, may ra vấn
đề mới ngã ngũ.
Nhưng
không sao, có một khẳng định được rút ra từ tính toán lý thuyết trong
vật lý học và các nhà thiên văn cũng đã quan sát thấy trong hiện thực Vũ
Trụ làm cho chúng ta vô cùng hy vọng, đó là sự tồn tại của cái gọi là
“Lỗ đen” ở tâm các thiên hà. Theo các nhà vật lý học thì lỗ đen có sức
hút vô cùng mạnh mẽ. Mạnh đến nỗi hút cả ánh sáng “lảng vảng” đến gần
nó. Lúc đầu, người ta không hiểu được lượng vật chất khổng lồ mà lỗ đen
“nuốt chửng” rồi… đi đâu, vì hình như nó không bao giờ biết no và thậm
chí luôn đói khát. Các nhà vật lý cũng là những người chúa hay tưởng
tượng viển vông (chẳng kém gì các nhà toán học hay các nhà thơ, dù so
với chúng ta họ còn kém rất xa!), đã nghĩ ra đủ kiểu giải thích, để cho
định luật bảo toàn vật chất được… bảo toàn. Thú thực là không có giải
thích nào làm bùi tai chúng ta cả. Mãi về sau, để giải quyết một vấn đề
khác có liên quan đến nhiệt động học, nhà vật lý nổi tiếng thế giới là
S. Hawking, người Anh, mới chứng minh được: lỗ đen cũng bức xạ. Dù quan
niệm về lỗ đen của vật lý học hiện nay khác hẳn quan niệm của chúng ta
về miệng phễu thu KG của các thiên hà thì chúng ta cũng cứ “lạc quan
tếu” và “hy vọng hão” vì biết đâu chừng lỗ đen và phễu thu chỉ là một, và
quan niệm của vật lý học là… sai, còn quan niệm của chúng ta là… hơi bị
đúng!
Các
hành tinh, loại thiên thể không chủ động phát sáng, có quá trình đồng
thời thu phát KG giống như của các sao và thiên hà như chúng ta đã hình
dung ở trên không? Thật khó lòng mà biết được, nhưng nhiều khả năng là
không. Nếu Trái Đất có miệng phễu thu KG thì coi như nó ở ngay “trước
mũi”các nhà vật lý học và họ đã phải phát hiện ra từ lâu rồi. Tuy nhiên,
theo chúng ta đã quan niệm, không có thực thể nào tồn tại được mà không
tương tác, trao đổi vật chất với môi trường chứa nó và đóng vai trò cốt
lõi, không thề thiếu được trong sự tương tác, trao đổi ấy là thu phát
KG. Vì thế, chúng ta cho rằng các hành tinh đều phải liên tục đồng thời
thu phát KG, song theo một cơ chế khác với của các sao, thiên hà, và nếu
xét về mức độ thì… yếu xìu. Mới đây, (năm 2001), giới thiên văn phát
hiện được một hành tinh đen hơn cả than, chỉ phản chiếu không tới 1% ánh
sáng nhận được từ ngôi sao trung tâm. Hành tinh kỳ lạ đó được đặt tên:
TrES-2b, là một khối khí khổng lồ với kích cỡ như sao Mộc. Nó ở cách
Thái Dương Hệ 750 năm ánh sáng về hướng chòm sao Con Rồng (Draco the
Dragon). Trung tâm vật lý học thiên thể cho hay, do quỹ đạo quá gần sao
trung tâm, khoảng 5 triệu km (khỏang cách giữa Trái Đất và Mặt Trời là
150 triệu km), nên hành tinh đó phải chịu đựng một nhiệt độ rất cao, với
bề mặt luôn nóng hơn 1000oC. Nó cũng ở tình trạng giống như
Mặt Trăng của Trái Đất, là một bề mặt của nó luôn đối diện với sao trung
tâm. Tuy nhiên, điều này vẫn không giải thích được sự tăm tối trên hành
tinh đó.
Vậy
thì có thể dựa vào quan niệm về sự đồng thời thu phát KG của các thiên
thể mà cho rằng ngôi sao trung tâm nói trên đang bước vào thời kỳ suy
tàn của nó, sự đồng thời thu phát KG đã bắt đầu đảo chiều: “ăn” lại cái
mà nó đã “thải ra” trước kia, và do đó, hành tinh TrES-2b đã bị hút hết
“hồn vía”, chỉ còn lại cái xác đang trong thời kỳ bị tiêu hủy nốt?
Trong
hiện thực khách quan có rất nhiều trường hợp hai hiện tượng xảy ra theo
cách hoàn toàn tương tự như nhau, dù khác nhau về bản chất. Ví dụ như
sự phản xạ ánh sáng khi đập vào mặt gương và phản chuyển động của viên
bi-a khi nó đập vào thành bàn, hay con mực khổng lồ bơi nhịp nhàng trong
đại dương và con cò “bay lả bay la” trong bầu trời. Vật lý học đã chỉ
ra nhiều sự tương tự rất đáng suy ngẫm, chẳng hạn: sự tương tự điện - cơ
trong dao động, sự tương tự giữa giao thoa sóng ánh sáng và giao thoa
sóng nước…, hơn nữa, trong nhiều trường hợp, có thể dựa vào những kết
quả nghiên cứu của một hiện tượng đơn giản hơn, trực quan hơn để giải
thích hiện tượng tương tự với nó nhưng có bản chất khác, phức tạp hơn,
khó nắm bắt hơn, mà cũng tương đối thỏa đáng.
Chính
vì sự tương tự xảy ra ở khắp nơi nên có thể nói nó có tính phổ biến
trong Vũ Trụ. Tính phổ biến của sự tương tự dẫn chúng ta đến ý nghĩ: đó
phải là kết quả của một nguyên nhân tất yếu (?). Từ đó mà chúng ta rút ra
nhận định: đa dạng vật chất đều phải có chung một nguồn gốc, đa dạng vận
động đều có chung một nguyên lý khởi thủy, dù là chúng có những nét đặc
thù, khác biệt nhau “một trời một vựa” đi chăng nữa thì chúng vẫn có
những nét chung, nét giống nhau, và một trong những biểu lộ về điều đó là sự
tương tự.
Bây
giờ, chúng ta tưởng tượng có một vùng môi trường không gian không có gì
hiện hữu ngoài lúc nhúc hạt KG chuyển động hỗn loạn trong đó, làm xuất hiện một cách ngẫu nhiên những khu vực mật độ hạt KG thấp (hoặc cao),
nghĩa là những khu vực có thế năng thấp (hoặc cao), tạo nên hiệu ứng thu
hút các hạt KG từ nơi có thế năng cao hơn đến nơi có thế năng thấp hơn
và làm xuất hiện xoáy ở đó. Trong những trường hợp thuận lợi, xoáy sẽ
phát triển lên thành sao và thiên hà.
Sự
tưởng tượng đơn thuần đó thực sự khó tin và hơn nữa, khó lòng mà hình
dung cụ thể hơn nữa những diễn biến trong vùng môi trường không gian đó,
vì trong hiện thực Vũ Trụ, không hề thấy bất cứ sự biểu hiện sống động
nào về kiểu vận động ấy mà chỉ thấy các thiên thể hình thành một cách
đơn điệu là tích tụ vật chất nhờ lực hấp dẫn rồi sau đó vận động nội tại
tạo ra các phản ứng phân hạch, nhiệt hạch… để rồi lại phát tác vậy chất
ra xung quanh cho đến tàn lụi, tiêu vong.
Tuy
nhiên, chúng ta có thể tiếp tục hình dung cụ thể hơn nữa diễn biến
trong nội tại vùng môi trường không gian đó nếu cho rằng ở mức độ nhất
định, nó tương tự như diễn biến trong vận động nội tại của bầu khí quyển
Trái Đất (trong đó “lúc nhúc” các phân tử Oxy, Hidrô, Nitơ… các ion…)
Vận
động nội tại của bầu khí quyển cũng liên tục tạo thành những vùng mật
độ không khí cao thấp khác nhau, nghĩa là cũng tạo ra những vùng thế
năng cao, thấp khác nhau và tương đối được gọi là “khí áp” cao, “khí áp”
thấp. Do có sự chênh lệch khí áp mà xuất hiện những dòng không khí
(gió) chảy (thổi) từ vùng áp cao đến vùng áp thấp, dễ dàng tạo xoáy ở
đó. Trong những điều kiện thuận lợi, xoáy sẽ phát triển lên thành bão,
lốc xoáy khổng lồ (mà dân gian thường gọi là “vòi rồng”). Nếu xem những
bức ảnh chụp những cơn bão từ vệ tinh, chúng ta sẽ phải liên tưởng đến
những bức ảnh chụp các thiên hà trong Vũ Trụ vì chúng có nét tương đồng
hết sức sâu sắc: thường cũng có mắt (lỗ đen), cũng có hình xoắn ốc và
cũng thường có những cánh tay xoắn ốc. Khi quan sát một vòi rồng, chúng
ta thấy đó là một khối khí bụi xoáy rất mạnh trong khi di chuyển, hai
đầu trên dưới đóng vai trò như hai miệng phễu hút rất mạnh không khí và
cả những đồ vật nặng như ô tô, cần cẩu, trâu, bò… vào vùng trung tâm của
nó và phát tán ra theo hướng vuông góc với trục xoáy của nó. Có lẽ
không có sự phô diễn nào rõ ràng và ấn tượng hơn vòi rồng về một thực
thể tồn tại và duy trì tồn tại bằng cách thức đồng thời thu - phát vật
chất…
Trong
lịch sử phát triển khoa học của nhân loại, không hiếm những trường hợp
một luận thuyết, một suy lý khi được công bố ra, ngay lập tức bị bài
bác, bị cho là phi lý đến không thể tin nổi, do đó mà bị gán cho nhãn
mác “phản khoa học”. Nhưng thực ra lại hoàn toàn phù hợp với thực tại
khách quan, và ngược lại, cũng có những luận thuyết, suy lý khi đưa ra
được đông đảo mọi người lập tức thừa nhận là có tính khoa học cao độ, là
một đóng góp khoa học thực sự xuất sắc, nhưng rốt cuộc, hóa ra nó chỉ
phù hợp với hiện thực chủ quan đầy cảm tính của con người và hoàn toàn
không đúng đối với thực tại khách quan.
Nhận
định trên đây của chúng ta cũng là một chỗ dựa nữa, một sự an ủi nữa để
không phải chỉ có hy vọng mà còn tin tưởng rằng, sự hoang tưởng “lồng
lộng” của mình về một Vũ Trụ thực sự sinh động và náo nhiệt hơn cái hiện
thực đang thấy rất nhiều, có hàm chứa trong nó không nhiều thì ít tính
xác đáng, mà cơ bản là đã đúng đắn về “đường lối”. Trong Vũ Trụ ấy, các
thiên thể cũng “sống”, “ăn uống”, sinh sôi nảy nở rồi “chết”, cũng hợp
thành bầy đàn, quần cư, di cư, định cư, lan tỏa dân cư, cũng đấu tranh
sinh tồn, cũng tiến hóa thích nghi, hợp thành một thế giới tương tự như
thế giới sinh vật ở Trái Đất.
Thế mới thấy, năng lực quan sát Vũ Trụ của loài người hiện nay vẫn còn kém cỏi làm sao!...
Hoang
tưởng là một con ngựa tuyệt hay nhưng rất chứng mà khi đã thúc nó phi
thì nó sẽ phi càng lúc càng thục mạng và nếu không kịp thời kìm cương
được thì nó sẽ lồng lộn điên cuồng… không coi ai ra gì. Chúng ta biết
tỏng điều đó vì đã nhiều phen suýt bị sự hoang tưởng hất văng ra khỏi
cuộc hành trình huyền thoại. Cho nên ở đây, khi vừa bật ra ý nghĩ chê
bai loài người kém cỏi, chúng ta biết rằng đã đến lúc… đừng có tiếp tục
mà hoang tưởng nữa. Và thế là chúng ta bừng tỉnh lại...
Dù sao thì cũng đã mãn nguyện rồi!
Dù sao thì cũng đã mãn nguyện rồi!
Chúng
ta vẫn đang vi vu đâu đó phía trên (mà cũng có thể là phía dưới!) dải
Ngân Hà. Ngân Hà lúc này đã to hơn nhiều, tưởng phải sáng hơn nhưng lại
mờ hơn. Chẳng có gì lạ: chúng ta đang bay trong vùng thu bức xạ của Ngân
Hà, ở khoảng cách mà ánh sáng đã bị hạn chế xâm nhập. Ngân Hà bây giờ
không còn mang hình xoắn ốc nữa mà trông giống như một con bạch tuộc
khổng lồ với hai xúc tu ôm hờ thân mà cũng là đầu của nó. Giữa cái đầu
ấy là một chấm tròn rất đen, lâu lâu lại chớp một cái, y hệt như mắt con
bạch tuộc, thỉnh thoảng liếc ngang liếc dọc có vẻ gian xảo. Cái chấm
tròn đen ấy đích thị là lỗ đen của Ngân Hà theo quan niệm của các nhà
vật lý, hay là miệng phễu thu KG theo quan niệm của chúng ta.
Sự
hiện hữu của lỗ đen ở tâm Ngân Hà trước chúng ta đã đột nhiên làm sáng
tỏ tất cả: từ đây, chúng ta không thể bay thẳng trực tiếp về Trái Đất
được, mà phải bay vào lỗ đen Ngân Hà. Như vậy, cuộc hành trình trở về
nhà của chúng ta từ sau khi gặp Tạo Hóa đã và sẽ theo “lộ trình” này: từ
rìa bên kia của Vũ Trụ thực tại, vượt ranh giới thực - ảo để vào Vũ Trụ
ảo, băng ngang qua Vũ Trụ ảo trong một khoảng thời gian ảo “thiên thu”
(vì vậy mà so với thực chỉ là một “tích tắc”), vượt qua ranh giới ảo -
thực để trở lại Vũ Trụ thực tại, ở rìa bên này của nó, và vì Ngân Hà
cũng ở rìa bên này cho nên chúng ta lập tức cũng lọt vào vùng thu KG của
nó (cảm ơn Tạo Hóa!), “trôi như bay” trong “dòng sông KG” chảy rất xiết
nhưng rất êm đềm để chui tọt vào lỗ đen Ngân Hà đến “trung tâm tái kết
hợp”, chuyển biến thành một luồng hạt KG có qui mô lực lượng lớn hơn,
bức xạ ra, tiếp tục bay theo quĩ đạo cong đã được “an bài” (lại xin cảm
ơn Tạo Hóa!) để chui tọt vào miệng phễu thu của Mặt Trời; trong vùng lõi
Mặt Trời, chúng ta được “hun đúc” thành ánh sáng rồi được bức xạ ra
thành một luồng ánh sáng có vong hồn, bay cùng với vô vàn luồng ánh sáng
không có vong hồn khác, trực chỉ về Trái Đất.
Nhưng
chúng ta sẽ “hạ cánh” xuống địa điểm nào trên Trái Đất, và… có bị đau
không? Tạo Hóa đã có tình ý giúp đỡ chúng ta ngay từ đầu thì chắc Ngài
cũng giúp nốt khâu cuối cùng này. Chắc là Ngài đã “canh me” thời gian để
cho chúng ta “tỏa xuống” tán cây long nhãn và cây hoa sứ trong sân nhà
của chúng ta để rồi vì còn vong hồn nên không bị lá cây quang hợp như
những luồng ánh sáng khác mà lại chuyển biến kết tụ lại thành một khối…
vong hồn, lượn lờ đâu đó trong nhà mình, chờ… hoàn hồn trở lại.
Sự
“hạ cánh” như vậy chắc chẳng đau đớn gì. Theo định luật tác dụng tương
hỗ, nếu hạt ánh sáng đập vào lá cây mà cảm thấy đau thì vì cùng một lúc
bị muôn vàn hạt ánh sáng đập vào, lá cây phải đau lắm. Đàng này, kinh
nghiệm cho thấy cái lá chẳng hề hấn gì mà còn có vẻ rất dễ chịu. Do đó,
chúng ta cho rằng sự va đập ấy, quá lắm, chỉ có thể gây ra sự rát nhẹ mà
thôi. Đối với lá cây, có lẽ cái rát ấy lại là một thích thú, tương tự
một món ăn có ớt cay, ứa nước mắt nhưng khoái khẩu. Lá cây mà rát nhẹ
thì hạt ánh sáng cũng rát nhẹ. Nhưng mặc kệ nó! Vong hồn chẳng đau mà
cũng chẳng rát gì!(Hết chương XXXXIV)
-----------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét