TT&HĐ V - 43/t


 
[Triết học Mác - Lênin] Khái quát về Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

PHẦN V:     THỐNG NHẤT 

"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
                                                                                                                               Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
                                                                                                                                       Upanishad       

CHƯƠNG IV (XXXXIII): ÊTE


“Một con người có thể thành công trong bất cứ việc gì nếu anh ta đổ vào đó một lòng nhiệt thành vô hạn”.
Charles Schwab

“Nếu toán học quắc thước, ngạo nghễ và hùng vĩ như những kim tự tháp Ai Cập thì vật lý học uyển chuyển, lúc điềm tĩnh lúc cuồn cuộn dâng trào như dòng sông Nin và chúng hợp thành một quang cảnh hiện thực khách quan vô cùng sinh động, vừa sáng lạn, vừa kỳ bí, được tạo dựng bởi thiên nhiên hoang dã và sự cộng tác sáng tạo của lý trí loài người”.
Thầy Cãi

“Đôi lúc cuộc sống thật khắc nghiệt, rắn như thép đã tôi. Nó có những lúc ảm đạm và đau đớn. Như bất cứ một dòng chảy nào của một con sông, cuộc sống có những lúc khô cạn và những khi triều cường. Cũng như sự thay đổi theo chu kỳ từ trước đến nay của các mùa, cuộc sống có cái ấm áp dễ chịu của những mùa hè và cái rét buốt của những mùa đông…Nhưng chúng ta có thể tự nâng mình lên khỏi nỗi chán chường và tuyệt vọng, vươn đến sự vui vẻ của hy vọng và biến đổi các thung lũng hoang vắng, tăm tối thành những lối đi chan hoà ánh nắng của sự thanh bình sâu lắng”.
 MARTIN LUTHER KING 

"Sai lầm lớn nhất của Anhxtanh là tin theo quan niệm coi thời gian như vật chất, có thể co giãn được và hòa quyện vào không gian được. Do đó nếu ngày nay học thuyết tương đối trở thành cơ sở chủ yếu cho nhận thức vật lý học về Vũ Trụ, thì tương lai nó chỉ còn là một huyền thoại của một thời ảo mộng. Có thể coi không gian và thời gian quan hệ khăng khít như hình với bóng, như thể xác với linh hồn, nhưng phải được phân biệt dứt khoát với điều kiện tiên quyết: không có hình thì không có bóng, không có thể xác thì tuyệt đối không có linh hồn".
NTT

"Tất cả mọi điều trên thế giới này đều được hy vọng làm nên".  
MARTIN LUTHER KING
(Tiếp theo)


                                                  *** 
    Nhắc đến triết học Mác - Ăngghen mà không đề cập đến ba qui luật của nó là một thiếu sót lớn. Đó là ba qui luật được cho là cơ bản, tổng quát nhất về tự nhiên mà Mác đã khám phá ra. Chúng ta ngờ rằng đó không phải là ba qui luật cơ bản vì chúng rất ít, thậm chí không hề thể hiện vai trò quan trọng của chúng trong các ngành khoa học như vật lý học, hóa học...Có lẽ Mác đã ngộ nhận ba hiện tượng nổi trội trong hiện thực là ba qui lật có tính phổ biến (!) đó. Nói đến đây chúng ta chợt nhớ đến một câu chuyện nhỏ và chúng ta xin kể ra đây, góp vào câu chuyện lớn:
    Cách đây hơn 10 năm, ông A quen T, cô gái sống bằng "nghề ngồi bàn" kiếm tiền "bo" của khách nhậu ở quán X. Ngày xưa chắc T xinh lắm, vì hiện nay, dù đã hơn 40 tuổi rồi mà vóc dáng vẫn tròn trịa, săn chắc, khuôn mặt vẫn đầy nét xuân xanh. Từ ngày về hưu, hết mục đích cuộc đời, ông A chỉ còn gầy nhậu ở nhà, hay rủ T đến nói chuyện "Nam Tào, Bắc Đẩu", chuyện "thanh thanh, tục tục" cho vui. Thế mà vợ ông A chả hứ hé gì, thật lạ! Có lần ông A nói như phân bua với bạn nhậu: "Tính cũng nhu mỳ, Nhan Sắc có, mà chưa chồng con gì, chắc ở vậy quá! Kiếm tiền hơn ăn xin một chút...Kể cũng tội, đáng thương thật...Coi như em gái vậy mà!" Chắc T cũng mến ông A thực lòng, vì ai hỏi: "Là gì của ông A?", đều nói: "Là em...kết nghĩa!". 
    Hôm nay T đến, dù hơi muộn, cuộc nhậu có lẽ đã đi được nửa đường. Nghe rục rịch, tiếng chó sực ngoài cổng, ông A phán:
-Chắc T nó đến đấy! - Rồi quay sang chúng ta - Mày ra mở cổng cho nó vào cái!...
  Đúng là cô nàng thật! Vừa mở cổng, đã nghe T nói:
-Quán ế khách, ngồi buồn quá! Về đây nhậu với mấy anh cho vui.Có thể nêu thành qui luật: bất cứ cuộc "rượu" đang ỉu xìu nào, đội nhiên có sự xuất hiện của "sắc", thì cũng "bừng tỉnh", ồn ã trở lại. trong khi T sửa soạn chỗ ngồi thì ông A đi lấy chén đũa mới, ông B rót rượu, còn chúng ta thì lấy đũa tém lại các đĩa "mồi" cho tươm tất lại, dễ coi một chút.Sau khi T đã làm đúng thủ tục "vào ba ra bảy" của giới nhậu, thì ông A lên tiếng:
-Đang buồn... Cái T đến đúng lúc quá!...Đúng là ông Trời có mắt!...-Sống đến ngần này tuổi rồi mà thú thực tôi vẫn chưa biết có định mệnh không nữa? -Ông B (là bạn ông A) nói.
-Theo duy vật là không có! -Ông C (cũng là bạn ông A) trả lời.-Sao tôi cứ ngờ ngợ. Nếu tổng kết các sự kiện xảy ra trong đời thì thấy có vẻ như đều chỉ thị đến sự sắp bày huyền linh nào đó. -Ông B lại lên tiếng.
     T cũng bắt đầu tham gia câu chuyện: 
-Định mệnh là có thật đấy các anh ạ! Mẹ em bảo...
     Chúng ta cắt ngang: 
-Chả biết thế nào!...Lúc thì như có, lúc lại như không, không thể trả lời dứt khoát được. Có ai trả lời dứt khoát được không? 
    Ông C vừa tháo kính ra lau, vừa nói:
-Tôi tin theo cách giải thích duy vật. Tôi không tin có định mệnh. Đời người phải diễn tiến theo ba quy luật tự nhiên của Mác, không thể khác được! 
    Ông A nãy giờ ngồi rít thuốc, nhả khói mịt mùng, nét mặt tỏ vẻ đăm chiêu, lúc này mới từ từ nói: 
-Nếu coi định mệnh như một chương trình vạch sẵn, không còn điều chỉnh, sửa đổi được của mỗi đời người thì không có định mệnh, nhưng nếu coi định mệnh như là một chương trình tuân theo luật nhân quả, có thể điều chỉnh, thay đổi được một cách ngẫu nhiên hoặc bằng ý chí thì là có. Tin cực đoan theo duy vật biện chứng cũng chưa chắc đúng, vì bản thân nó quan niệm nhiều cái còn chưa sáng tỏ.
    Ông C dãy nảy như bị chọc tiết:
-Không đúng là thế nào? Triết học Mác-Lê đã dược thừa nhận là có tính khoa học cao độ, là đỉnh cao của trí tuệ loài người, là... 
    Ông C định..."thuyết trình" , nhưng ông A đã chặn ngang: 
-Là vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Ví dụ điển hình: khoa học vật lý thời Niutơn tưởng đã là chân lý tuyệt đối, nhưng đến nay, có thể cho rằng nó đã sai, và sự nhìn nhận thế giới theo thuyết tương đối (hẹp lẫn rộng) của Anhxtanh mà loài người đang ngưỡng mộ có giấu hiệu cũng sai nốt, chỉ gần đúng thôi. 
-Nói thế, anh cho rằng ba quy luật cơ bản về tự nhiên của chủ nghĩa Mác là sai à? -Ông C hỏi lại ông A.
     Đến lượt ông B lên tiếng, chĩa vào ông A: 
-Đừng phán lung tung! Trên thế giới, các nhà triết học uyên bác còn chưa giám xác định đúng-sai, ngồi đây mà dóc tướng...
-Biết đâu đấy!...Sở dĩ nhận thức của loài người tiến lên được là nhờ sự hoài nghi. Phải chăng Mác chưa phải là người cuối cùng thấy được chân lý? -Ông A cười.-Triết học duy vật biện chứng lập luận phải nói là rất lôgic. Vì thế mà tôi tin là nó đúng. Còn anh A không tin, vẫn hoài nghi, thì phải đặt ra những câu hỏi phản bác đi! -Ông C đã hơi gay gắt. 
    T hình như chẳng quan tâm đến câu chuyện. Vào sau, có lẽ đói bụng, cô nàng ngồi ăn "mồi" tỳ tỳ. Ông A rót rượu cho cả bàn xong, uống cạn ly của mình, "khà" một tiếng rồi mới chậm rãi nói: 
-Ừ thì đúng là lôgic. Nhưng biết đâu chừng nó sai, hoặc chưa triệt để ngay từ lúc đặt vấn đề  thì sao? Đây này, triết học Mác cũng thừa nhận sự tốn tại của thế giới khách quan và cho rằng, bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Quan niệm như vậy đã đúng, đã triệt để chưa? Và tồn tại là gì, vật chất là gì? Thật khó! Không dễ dàng gì trả lời? Nếu trả lời xác đáng được các câu hỏi này, có lẽ phải xem xét lại ba quy luật về tự nhiên của triết học Mác. Các nhà theo triết học duy vật biện chứng chúa là bao biện. Để "chạy làng" những bế tắc mà người đời dồn ép, các vị lại đổ thừa cho thiên hạ là không biện chứng, chỉ các vị mới biết biện chứng thôi... 
-Nội dung ba quy luật đó là như thế nào nhỉ? -Ông C vừa hỏi vừa dò trong laptop. 
-Cái T phá mồi quá xá! -Chúng ta nói ghẹo, làm dịu cuộc nói chuyện đã có phần khô cứng.
    T che miệng cười "hi hi":
-Thì không làm được "chiết ra", nên đành phải "chiết vô" thôi! Bỗng ông C reo lên làm cho tôi hơi giật mình: 
 -Đây rồi! Wikipedia nói thế này:
   "Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin là các quy luật cơ bản trong phương pháp luận của triết học Mác - Lênin và được áp dụng để giải thích về sự phát triển của sự vật, hiện tượng, ba quy luật này hợp thành nguyên lý về sự phát triển. Ba quy luật cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin, nó là một trong những nền tảng, cơ bản cấu thành phép biện chứng duy vật cũng nhưng một trong những nội dung quan trọng của toàn bộ triết học Mác-Lenin.

   Nội dung đó là:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng bao gồm hai nguyên lý cơ bản là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thể hiện qua sáu cặp phạm trù được sử dụng là Cái chung và cái riêng, Bản chất và hiện tượng, Nội dung và hình thức, Tất nhiên và ngẫu nhiên, Nguyên nhân và kết quả, Khả năng và hiện thực.
Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất và quy luật phủ định. Trong đó:

Ba quy luật cơ bản này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động. Những kết luận về mặt phương pháp luận của nó luôn được coi là "kim chỉ nam" cho hoạt động cách mạng của những người cộng sản.
 (...)

  Và ý nghĩa:

Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật chỉ ra hình thức chung nhất của sự vận động, phát triển của thế giới vật chất và nhận thức của con người về thế giới đó, đồng thời các quy luật này cũng tạo cơ sở cho phương pháp chung nhất của tư duy biện chứng.
Trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ ra nguyên nhân và động lực bên trong của sự vận động, quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức và tính chất của sự phát triển thì quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng, hình thức và kết quả của sự phát triển đó.
Các quy luật này định hướng cho việc nghiên cứu của những quy luật đặc thù và đến lượt mình, những quy luật cơ bản về sự phát triển của thế giới, của nhận thức và những hình thức cụ thể của chúng chỉ có tác dụng trên cơ sở và trong sự gắn bó với những quy luật đặc thù.
Theo triết học Mác-Lênin thì mối quan hệ qua lại giữa các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật với các quy luật đặc thù của các khoa học chuyên ngành tạo nên cơ sở khách quan của mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với các khoa học chuyên ngành..."
    Đọc xong, ông B (cũng là bạn ông A) với bộ mặt chưa thỏa mãn, nói:
-Tìm khắp vẫn không thấy định nghĩa rõ ràng về khái niệm "tồn tại". Trong ba quy luật thì quy luật thứ ba, quy luật phủ định, có vẻ dễ hiểu nhất, còn hai quy luật kia có vẻ khó hiểu quá xá!..
-Nếu sự vật phát triển không tuân theo ba quy luật đó, -Ông A nói xen - thì đương nhiên ba quy luật đó sai và phải xem xét lại triết học Mác. Đúng không nào? Đối với khái niệm "vật chất", thì theo Lênin: " vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", và Theo Ăng-ghen thì: Cần phân biệt các dạng tồn tại khách quan của vật chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có tồn tại cảm tính. Khác với các đối tượng vật chất cụ thể, "Những từ như vật chất và vận động chỉ là sự tóm tắt trong đó chúng ta tập hợp theo những thuộc tính của chúng, rất nhiều sự vật khác nhau có thể cảm biết được bằng giác quan" . Engels nhấn mạnh rằng cần phân biệt các dạng tồn tại khách quan của vật chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có tồn tại cảm tính, trong đó Ph.Ăng-ghen đặc biệt nhấn mạnh phê phán quan điểm đem quy vật chất về nguyên tử, về những hạt nhỏ đồng nhất hoàn toàn giống nhau về chất, chỉ khác nhau về lượng, ông coi đó là siêu hình, mang tính cơ giới, qua đó ông nêu lên tính vô hạn và vô tận, tính không thể sáng tạo và không thể tiêu diệt được của vật chất và các hình thức tồn tại của nó là không gian và thời gian. Như vậy, theo tôi, quan niệm của Mác về vật chất chưa thỏa đáng! Quan niệm như thế dễ lầm tưởng rằng năng lượng toàn phần của một vật cũng là vật chất, thời gian và không gian cũng là vật chất. Nhưng theo quan niệm của triết học duy tồn thì chỉ có không gian là vật chất "đích thực" mà thôi, còn hai thứ kia là phản ánh vận động của vật chất. Phải chăng, vật chất chính là tồn tại được nhìn thấy "ngoài" thời gian? Còn khái niệm "tồn tại", theo tôi hiểu, có ngoại diên rộng lớn hơn vật chất và là sự "hiện diện" của vật chất cũng như sự phản ánh vận động của vật chất, dù con người có cảm giác được hay không. Vậy thì câu hỏi đầu tiên của triết học là "Tốn tại hay không tồn tại?" chứ không phải "vật chất và ý thức, cái nào có trước?", vì hiển nhiên ý thức, là một dạng phản ánh của vật chất, phải có sau. Có lẽ cả Duyring và Ăngghen đều đúng "một nửa" khi Duyrinh cho rằng thế giới thống nhất vì nó tồn tại, còn Ăngghen thì nói: "Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của sự thống nhất của nó, vì khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã". Rốt cuộc, phải cho rằng tồn tại vốn dĩ vừa thống nhất vừa không thống nhất. Một đặc tính cơ bản của tồn tại là "cố gắng tồn tại". Thế giới tồn tại là tuyệt đối, vừa thống nhất, vừa không thống nhất. Tồn tại không ở dạng này thì ở dạng khác, chứ không thể có cái không tồn tại tuyệt đối (Hư Vô)! Nếu xét ở phương diện thực thể, thì mọi thực thể đều cố gắng tồn tại, đều "đấu tranh", đều "thỏa thuận" để tồn tại. Chính vì thế, Vũ Trụ hay thế giới chỉ phải tuân theo duy nhất một nguyên lý về tồn tại mà triết học duy tồn đã gọi là "Nguyên lý Tự Nhiên" - nguyên lý đầu tiên và duy nhất,có nội dung ngắn gọn là "vật chất phải vận động nhằm đảm bảo tồn tại", và có vai trò là nguồn gốc xuất phát  của mọi nguyên lý, quy luật của vận động!...
Ông A nói một lèo thật là "điếc con ráy". Nếu ông C không chặn ngang thì có lẽ ông A còn nói nữa:
-Thôi, mệt đầu quá! Mình nói sang chuyện khác cho vui chút rồi về ngủ. Có gì mai nói tiếp. T, em có đồng ý thế không?
Khỏi phải nói, T gật đầu lia lịa:
-Hoan hô anh C! Anh A nói toàn chuyện trên Trời, chẳng vui tý nào!
Ông B gật gù:
-Cũng hay, cũng hấp dẫn! Biết đâu chừng anh A nói đúng. Nhưng thôi, để mai tiếp đi anh A. Có cái T ở đây, nói chuyện triết học, e không hợp. 
Hôm sau, khi đã có mặt đông đủ nhưng ông A chưa kịp bày rượu ra, ông B đã hối: 
 -Tiếp chuyện hôm qua đi anh A. Những điều anh nói chưa chắc đã đúng, nhưng mới toanh, rất đáng để nghe. Theo anh, không gian là "đích thực" vật chất. Anh có thể nói rõ hơn không? 
Ông C lại soạn laptop. tôi thì vừa bày ly, rót rượu, vừa nói: 
 -Ừ! Bác B nói phải lắm. Em cũng thích nghe, dù không hiểu gì mấy. Nói tiếp đi bác A. 
Ông A cười "khà, khà" nhìn ông C: 
-Anh C chịu tôi nói tiếp không? 
-Thì nói đi! -Ông C sẵng giọng. 
Thế là ông A bắt đầu nói: 
-Từ cảm giác mà chúng ta nhận thức thế giới. Đúng không nào, quí vị? Điều đầu tiên chúng ta nhận biết được thế giới nhờ cảm giác, là gì? Là không gian, là bề dài, bề rộng, bề sâu. Vì không gian tồn tại như một mặc định, nên chúng ta thường quên cảm giác này như chúng ta thường quên không khí vậy. Nhìn đâu cũng thấy không gian. Mở mắt ra là thấy không gian! Khi không có gì trong một khỏang không, chúng ta nói: "Không thấy gì!", nhưng thực ra chúng ta vẫn thấy không gian hay khoảng không gian, một bộ phận của nó. Vậy không gian phải là "thực tại", là thực sự tồn tại. Nghĩa là khi nói đến tồn tại là nói đến không gian. Nhưng không gian là thể hiện của vật chất và vận động vật chất, mà vật chất lại là cái có trước, nên không thể nào không thừa nhận không gian trước hết phải là vật chất theo đúng nghĩa vật lý là tồn tại thực, có thể tích, có lực lượng. Vì không gian, như ta cảm giác, có thể tích vô cùng to lớn, nên nó phải là sự hợp thành của những đơn vị nào đó có bản chất thể tích ở phía vô cùng nhỏ, nhưng phải hữu hạn, vì không thể tưởng tượng được một khối thể tích vô cùng lớn lại có thể hình thành được từ những cái nhỏ vô hạn độ (coi như bằng 0). Vậy, phải nhận thức không gian là vật chất, chất không gian là nguồn cội của tất cả các chất khác có trong tự nhiên. Nói cách khác, mọi chất trong Vũ Trụ đều là sự "nhào nặn ra" từ chất không gian... 
-Rồi, cứ giả sử không gian là vật chất đi, rồi sao nữa? Nói về các quy luật đi anh! -Ông B nâng ly lên tính cụng và nói có vẻ sốt ruột.
 -Ừ thì nói! Trước hết, ta nói về quy luật lượng-chất, quy luật chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển. Theo triết học Mác định nghĩa thì:
               +Lượng là phạm trù triêt học dùng để chỉ tính qui định vốn có của sự vật về mặt số lượng, qui mô, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
               +Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
               +Độ là phạm trò triết học dùng để chỉ khoảnh giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
               +Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
               +Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Vậy bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.                    
               + Nội dung quy luật: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi. 
 -Đó là toàn bộ quy luật lượng-chất - ông A nói tiếp - Nó đúng không? Tôi cho rằng nó sai hoàn toàn! Thứ nhất, không có một vật nào tự thân chuyển hóa lượng-chất. Thứ hai, khi có tác động của môi trường, lượng và chất có thể biến đổi, nhưng phải có giới hạn. Chẳng hạn, không thể biến nước thành vàng được, hoặc bằng cách nào đó biến một kẻ ngu xuẩn thành thiên tài được. Hay khi ta dùng đèn khò nung một thỏi vàng, nung cỡ nào thì vàng vẫn là vàng. Có thể dùng quy luật lượng-chất giải thích hiện tượng và tưởng rằng đúng. Tuy vậy, không thể dùng quy luật ấy giải thích được hiện tượng: khi nấu gạo với nước (biến đổi lượng), sẽ thành cơm, nhưng khi cho cơm nguội và khô đi (cũng biến đổi lượng, nhưng ngược chiều ban đầu), cơm không thể biến lại thành gạo! Thứ ba, chất của một vật, dù có biến đổi cỡ nào, nếu không có sự tương tác với môi trường (chứa nó), thì cũng không làm biến đổi (khối) lượng của nó. Thứ tư, cục thịt bò vẫn là cục thịt bò (chất không đổi) nếu tăng khối lượng (thêm lượng vào!) cho nó. -Ông A ngừng "diễn thuyết", tự tay rót tràn ly rượu rồi uống cạn như tự thưởng và thỏa mãn ra mặt. -Tôi nói cũng chí lý đấy chứ, anh C? Hay nói như vậy là không biện chứng? 
    Ông C bĩu môi chưa kịp nói thì ông B đã lên tiếng: 
-Kể ra cũng có lý đấy. Cũng đáng nghe lắm! Nói sang quy luật khác đi, anh A!
-Cũng có thể quy luật lượng-chất vẫn đúng nhưng chỉ đúng trong phạm vi hạn hẹp nào đó, và như vậy, dứt khoát nó không phải là quy luật tự nhiên phổ biến, như triết học Mác đã chỉ ra. -Ông A nói như được động viên, an ủi ông C, nhưng sau đó lại tiếp tục "lên đồng". - Bây giờ tôi nói đến quy luật mâu thuẫn, là quy luật chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển. Theo triết học Mác quan niệm thì tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chức đựng những mặt trái ngược nhau. Sau đây ta tìm hiểu khái niệm và nội dung quy luật:
              +Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những  thuộc tính, những qui định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau.
             + Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tốn tại của mặt kia làm tiền đề.
             +Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là "sự đồng nhất".                                     
             + Nội dung quy luật: Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời thay thế.Có lẽ dùng từ "mâu thuẫn" chưa thật chuẩn, phải dùng từ "tương phản" xác đáng hơn. Theo triết học duy tồn, muốn tồn tại thì phải thể hiện, đặc tính "sống còn"của tồn tại là phải thể hiện. Vì mọi tồn tại đều cố gắng thể hiện để tồn tại, nên gây ra hiện tượng tương phản cân bằng nhau, từ đó mà làm hình thành nên hai lực lượng tương phản cân bằng nhau trong một thực thể, làm thực thể tồn tại được trong thế cân bằng động. Sự cân bằng động của một thực thể luôn thay đổi trạng thái trong sự tác động thường xuyên của môi trường chứa nó. Lấy thí dụ: một vật chuyển động với vận tốc đều \mathbf {v} _{AB}  trên một đường thẳng. Có thể phân tích vận tốc \mathbf {v} _{AB} thành hai thành phần \mathbf {v} _{AB}\mathbf {v} _{CB}, khác phương chiều của \mathbf {v} _{AB}, sao cho \mathbf {v} _{AB}=\mathbf {v} _{AC}+\mathbf {v} _{CB}. Rõ ràng vật đó đang tồn tại trong một trạng thái cân bằng động theo môi trường với hai vận tốc tương phản nhau là \mathbf {v} _{AB}\mathbf {v} _{CB}. Từ tương phản, bản thân nó đã hàm chứa nghĩa "mâu thuẫn" và "đồng nhất". Hai vận tốc \mathbf {v} _{AB}\mathbf {v} _{CB} là đồng nhất khi chúng cùng phương chiều và cùng gốc tọa độ (trọng tâm vật), và mâu thuẫn khi chúng đồng phương, ngược chiều, cùng gốc tọa độ. Nếu giữ nguyên trạng thái cân bằng động đó thì vật chuyển động đều vĩnh viễn (không phát triển, dù mâu thuẫn vẫn có trong nội tại nó!!!). Muốn cho vật thay đổi trạng thái chuyển động (nghĩa là phát triển!) thì phải có tác động từ biên ngoài (của môi trường). Nếu tác động của môi trường làm cho sự tương phản của hai vận tốc đạt đến mâu thuẫn đối kháng (triệt tiêu sự đồng nhất!) thì nếu theo qui ước vật không tồn tại khi vận tốc bằng 0, thì có thể vật ngừng phát triển, chấm dứt tồn tại (Thực ra vật vẫn tồn tại ở dạng khác).Vậy, vật không thể tự thân vận động nhờ mâu thuẫn nội tại mà phải có sự tham gia của môi trường phù hợp với nguyên lý ngân-quả, suy ra quy luật mâu thuẫn phải sai.
     Bàn nhậu im phăng phắc. Ông C tỏ vẻ như đang đọc laptop nhưng chắc chắn là đang lắng nghe, vì lúc này có quái gì trong đó hấp dẫn hơn để đọc đâu? Ông B cứ hít hà như ăn phải ớt. Còn chúng ta thì há mồm ra nghe. Ông A ghê thật, dám đương đầu với Mác!
-Còn quy luật cuối cùng, "làm thịt" nốt đi bác! -Chúng ta thúc ông A.
 -Ừ thì nốt! -Ông A vừa nói vừa bật "quẹt" mồi thuốc, rồi rít một hơi thật dài, nhả ra mù mịt khói đầy mãn nguyện. - Nhưng trước mắt hãy nghe laptop (tức Wikipedia) của anh C nói: "Quy luật phủ định hay quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển, theo đó sự phát triển của sự vật, hiện tượng có xu hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ cao hơn, phát triển theo hình xoắn trôn ốc.
Triết học Mác - Lênin cho rằng  bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không như vậy sự vật không phát triển được. Sự thay thế đó được triết học gọi là sự phủ định.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Tuy nhiên có sự phủ định chỉ là phá hủy cái cũ, không tạo tiền đề cho sự tiến lên và lực lượng phủ định được đưa từ ngoài vào kết cấu của sự vật, tức là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay cái cũ.
 
Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.


  • Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn luôn phát triển. Mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.


  • Kế thừa: vì phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ. Cái mới ra đời không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, nó chỉ gạt bỏ ở cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự phát triển. Do vậy, phủ định biện chứng đồng thời cũng là khẳng định.
Cái mới trong phủ định biện chứng là cái biểu hiện sự phát triển phù hợp quy luật của sự vật, hiện tượng, là biểu hiện sự chuyển hóa từ giai đoạn thấp đến giai đoạn cao trong quá trình phát triển.

Nội dung quy luật:  Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác.Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực, thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển. 


Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu, một nấc thang trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là cái phủ định (lần thứ 1), cái mới cũng chứa đựng trong mình xu hướng dẫn tới sự phủ định lần thứ 2 (phủ định của phủ định).

Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những lần phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường "xoáy ốc" hay "vòng xoáy trôn ốc". Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự phát triển theo đường "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường "xoáy ốc" dường như thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với cái khẳng định ban đầu. Sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới với tư cách là cái phủ định của phủ định đối lập với cái phủ định và dường như trở lại cái ban đầu nhưng không giống nguyên như cũ mà trên cơ sở cao hơn.
Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và phủ định, là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn trước đó. Cái tổng hợp này là sự lọc bỏ những giai đoạn đã qua, vì vậy, nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn. Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin thì quy luật phủ định của phủ định là quy luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy...".
Trong thí dụ đã nêu ở phía trên, chẳng thấy ảnh hưởng của quy luật phủ định ở đâu cả. Vật không thể tự thân vận động theo quy luật phủ định để có vận tốc lớn hơn được(!). Hay lấy ngay ví dụ "hạt lúa-cây lúa" của Mác để phản bác. Khi hạt lúa mới nảy mầm, đã có cây lúa đâu mà phủ định hạt lúa, và khi đã hình thành cây lúa rồi thì còn đâu hạt lúa nữa để mà phủ định? Hạt lúa không tự thân phát triển được mà phải nhờ môi trường, tùy môi trường định đoại số phận(có thể không nảy mầm thành cây lúa mà cháy thành than!). Trong điều kiện bình thường, hạt lúa sẽ phát triển thành cây lúa nhưng dứt khoát không phải vì nguyên nhân là cây lúa đã phủ định nó. Hơn nữa, hạt lúa chỉ phát  triển hoặc không phát triển thành cây lúa được thôi chứ không thể thành cây khác được là do nội tại nó đã quy định sẵn cho nó từ trước rồi, từ khi chưa có cây lúa...
Theo như đã trình bày thì đối với tôi, cả ba quy luật cơ bản về thế giới tự nhiên khách quan của Mác - Ăngghen đều sai. Các "ngài" có đồng tình với tôi không?
     Đó là toàn bộ câu chuyện nhỏ mà chúng ta định kể và...đã kể. Nghe có "oải" lắm không?
(Còn tiếp).
------------------------------------------------------------------


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH