TT&HĐ V - 43/x
Những Thiên hà bí ẩn bậc nhất trong vũ trụ | Khoa học vũ trụ - Top thú vị
PHẦN V: THỐNG NHẤT
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG IV (XXXXIII): ÊTE
“Một con người có thể thành công trong bất cứ việc gì nếu anh ta đổ vào đó một lòng nhiệt thành vô hạn”.
Charles Schwab
“Nếu
toán học quắc thước, ngạo nghễ và hùng vĩ như những kim tự tháp Ai Cập
thì vật lý học uyển chuyển, lúc điềm tĩnh lúc cuồn cuộn dâng trào như
dòng sông Nin và chúng hợp thành một quang cảnh hiện thực khách quan vô
cùng sinh động, vừa sáng lạn, vừa kỳ bí, được tạo dựng bởi thiên nhiên
hoang dã và sự cộng tác sáng tạo của lý trí loài người”.
Thầy Cãi
“Đôi lúc cuộc sống thật khắc nghiệt, rắn như thép đã tôi. Nó có những lúc ảm đạm và đau đớn. Như bất cứ một dòng chảy nào của một con sông, cuộc sống có những lúc khô cạn và những khi triều cường. Cũng như sự thay đổi theo chu kỳ từ trước đến nay của các mùa, cuộc sống có cái ấm áp dễ chịu của những mùa hè và cái rét buốt của những mùa đông…Nhưng chúng ta có thể tự nâng mình lên khỏi nỗi chán chường và tuyệt vọng, vươn đến sự vui vẻ của hy vọng và biến đổi các thung lũng hoang vắng, tăm tối thành những lối đi chan hoà ánh nắng của sự thanh bình sâu lắng”.
MARTIN LUTHER KING
"Sai lầm lớn nhất của Anhxtanh là tin theo quan niệm coi thời gian như vật chất, có thể co giãn được và hòa quyện vào không gian được. Do đó nếu ngày nay học thuyết tương đối trở thành cơ sở chủ yếu cho nhận thức vật lý học về Vũ Trụ, thì tương lai nó chỉ còn là một huyền thoại của một thời ảo mộng. Có thể coi không gian và thời gian quan hệ khăng khít như hình với bóng, như thể xác với linh hồn, nhưng phải được phân biệt dứt khoát với điều kiện tiên quyết: không có hình thì không có bóng, không có thể xác thì tuyệt đối không có linh hồn".
NTT
"Tất cả mọi điều trên thế giới này đều được hy vọng làm nên".
(Tiếp theo)
Khi hạt đang đứng yên, bị môi
trường tác động và chuyển sang trạng thái chuyển động, thì tốc độ của chuyển động
ấy là bao nhiêu? Thực ra, khi nói hạt chuyển động di dời thì
có nghĩa là hai hạt trái dấu di dời. Nhưng
vì chúng đang quay quanh trục tâm của với vận tốc chu vi bằng C (có thể không bằng C mà bằng π = 3,125.10^10 cm/s!) - là vận tốc cực đại tuyệt
đối trong Vũ Trụ rồi, nên không thể có thêm một giá trị vận tốc nào khác nữa mà
phải chuyển biến chuyển động quay ấy thành chuyển động “tịnh tiến” với vận tốc
bằng C. Điều này dẫn đến phải hình dung hạt khi đứng yên thì có dạng
cầu bị dẹt theo phương trục tâm của nó và xoáy tít, khi chuyển động thì “duỗi
ra” thành dạng sợi dây gồm ba hạt KG mà hai đầu mút là hai hạt trái dấu, ở giữa hai hạt
ấy là hạt KG thông thường. Trong không gian ơclít có thể biểu diễn sợi dây ấy
như một đoạn thẳng véctơ. Nhưng do tính nổi trội về cấu trúc mạng khối (phi ơclít) của môi
trường không gian ở tầng nấc “đáy cùng” của Vũ Trụ vi mô mà “sợi dây” không thể thẳng được,
nghĩa là chuyển động của nó làm cho nó có dạng uốn lượn, hay có thể gọi là dạng
sóng. Như thế, phải cho rằng hạt chỉ có nội tại khi đứng
yên, còn khi nó chuyển động thì vì nội tại của nó đã “dàn trải” ra hết “bên ngoài”
nên coi như không còn nội tại nữa.
Nếu đã có “sợi
dây” dạng sóng gồm ba hạt KG như trên thì cũng có thể có những “sợi dây” như vậy
nhưng gồm nhiều hạt hơn nữa và có thể phân
chúng làm hai loại. Loại thứ nhất gồm những dây có hai đầu mút là hai hạt trái dấu và gọi là dây
trung tính. Loại thứ hai gồm những dây có hai đâu mút là hai hạt đồng
dấu và gọi là dây
diện tích. Khi những dây này đứng yên thì chúng cuộn lại, trở thành một
hạt xoáy
nội tại. Các dây hay hạt nào, do qui định nào đó của tự nhiên mà tương
đối bền hơn hay tương đối kém bền hơn. Nói chung và có tính phổ biến,
dây càng dài hay
hạt càng lớn thì càng kém bền. Chúng ta cho rằng có những dây hay hạt
thực sự
không bền. Loại này khi bị biến đổi trạng thái từ chuyển động sang đứng
yên
(hay từ đứng yên sang chuyển động) sẽ trở thành hơn một hạt (hoặc hơn
một dây)
và chúng ta gọi chúng là giả dây (hay giả hạt). Ngược lại, dây (hay hạt)
nào
khi bị biến đổi từ chuyển động sang đứng yên (hay từ đứng yên sang
chuyển động),
trở thành duy nhất một hạt (hay một dây), thì chúng ta gọi là dây (hay
hạt) cơ
bản.
Trong môi trường
không gian đầy biến động, trên cơ sở hút đẩy âm - dương, các dây - hạt nói trên
mà nòng cốt là những dây - hạt cơ bản, tương tác với nhau, liên kết với nhau dưới
nhiều hình thức nào đó, tạo nên những tổ hợp đa dạng tạm gọi là những đơn vị vật
chất hỗn hợp. Những đơn vị hỗn hợp này lại liên kết với nhau tạo thành những đơn
vị phức tạp hơn. Cứ thế tiếp diễn mà đa tạp thực thể, vạn vật xuất hiện, tồn tại
và biến hóa vô tiền khoáng hậu trong Vũ Trụ thực tại. Nếu những dây - hạt lan
truyền với vận tốc cực đại thì những thực thể còn
lại, loại không phải là những dây - hạt ấy, đều chuyển động trong không gian với
vận tốc nhỏ hơn C và luôn có một nội tại
bất biến về lực lượng một khi chúng còn là chúng.
Vạn lần xin Trời
- Phật - Chúa - Thánh rủ lòng thương cho những hoang tưởng bạt mạng trên đây của
chúng ta trở thành sự thực không ai “bĩu môi” được! Trong khi chờ đợi sự phán xét
của các chư vị ấy, chúng ta tiếp tục… điên rồ!
Nói
chung, những hạt có số lượng hạt chẵn đều là hạt trung
tính (trung hòa về tính âm - dương). Do cấu trúc mạng khối đặc thù của môi trường không
gian mà không phải với bất kỳ số lượng hạt nào cũng hợp thành được
hạt cơ bản, cũng như không phải với bất cứ hạt chẵn nào đều hợp thành
được hạt trung tính cơ bản. Nếu quan sát các mô hình khối đa diện được hợp thành
từ các khối tứ diện tam giác đều, chúng ta sẽ thấy có một khối cân xứng thứ hai
sau . Khối này gồm 10 khối tứ diện tam giác đều hợp thành và có
thể sắp xếp vừa vặn một cách hợp lý bốn hạt trong đó. Chúng ta gọi
tên nó là và biểu diễn hình chiếu
tượng trưng trên mặt phẳng của nó ở hình 12.
Hình
12: Hạt
Chúng ta cho rằng
hạt tương đối không bền. Khi chuyển động, nó phân thành hai dây . Có thể, trong không gian tồn tại những tập hợp dây chuyển động
kề bên nhau nhưng rời rạc, không có bất cứ ràng buộc nào đối với nhau. Chúng ta
gọi đó là những đoàn dây hay đoàn sóng. Còn những tập hợp dây nào có mối quan hệ
liên kết nào đó giữa các dây với nhau thì chúng ta gọi là những bó dây hay theo
cách gọi của vật lý là bó sóng).
Điều thực sự lý
thú là với một khối đa diện và hai khối đa diện , chúng ta có thể chồng khít chúng với nhau để làm xuất hiện
khối đa diện lồi có 20 mặt tam giác đều. Về hình thể, khối này trông thật hoàn
hảo, có thể đặt khít khao trong khối cầu lý tưởng ngoại tiếp nó. Vì vậy, chúng
ta cho rằng đây cũng là một trong những hạt cơ bản bền nhất mà Vũ Trụ có. Ở trạng
thái chuyển động, nó là một dây cơ bản, trung tính, gồm 8 hạt . Chúng ta đặt tên cho hạt cơ bản này là .
Vậy thì có hạt (gồm 12 hạt ) không? Chúng ta cho rằng nếu có thì hạt đó không bền và là
một giả hạt. Trong vật lý hạt nhân người ta phát hiện ra rằng những hạt nhân có
số lượng nuclon (gồm proton và nơtron) là một trong các số: 2, 8, 20, 25, 82 và
126 đều đặc biệt bền vững về mặt phân rã phóng xạ. Những hạt nhân như vậy tồn tại
rất phổ biến trong Vũ Trụ. Trong số chúng, đặc biệt bền vững hơn nữa là những hạt
nhân có số lượng proton hay nơtron cũng thuộc dãy số đó và bền vững hơn cả là
những hạt nhân có số lượng proton và số lượng nơtron đều thuộc dãy số đó. Vì vậy,
các nhà vật lý đã gọi tập hợp số nêu ra ở trên là dãy “thần kỳ” (dãy Magic). Phải
chăng sự hình thành các hạt bền vững mà chúng ta hình dung ở đây cũng tuân thủ
qui luật ấy, thậm chí cũng chính là nguồn gốc sâu xa của qui luật ấy đối với sự
hình thành và tồn tại hạt nhân nguyên tử?
Có thể rằng chúng
ta hoàn toàn điên rồ! Song, nếu không có sự điên rồ thì chúng ta chắc sẽ không
bao giờ trả lời được câu hỏi “khó chịu” đến cùng cực này: thế giới vạn vật - hiện
tượng được sinh ra từ đâu và vì sao được sinh ra? Ngày nay, đa số vẫn cho rằng
thuộc tính của vật chất là không gian và thời gian. Chúng ta quan niệm khác: cả
vật chất lẫn thời gian mới là thuộc tính của không gian, được tư duy phát hiện
theo nhãn quan của bản thân nó, rồi “nhào nặn” theo cách thức có thể để cố gắng
nhận thức, tìm hiểu cho thỏa sự “tò mò tọc mạch” cũng của bản thân nó. Dù là còn rất sơ sài và không
thiếu những vạch vẽ bị lỗi, nhưng chúng ta nghĩ rằng phác họa nền của bức tranh
phong cảnh, “đời sống” về Vũ Trụ mà chúng ta đang thực hiện đã rõ ràng hơn rất
nhiều. Và chúng ta rất chi là hài lòng về điều đó.
Với những hình
dung trên đây về hạt KG và quá trình hình thành các thực thể đa dạng từ lực lượng
KG, chúng ta cho rằng đã đủ thỏa mãn để phục vụ cho những suy tư đơn thuần triết
học nào về tự nhiên, nếu muốn đứng vững được trên bàn tròn tranh luận, đều phải
đưa được vào những bằng chứng vật lý xác đáng. Do đó, về mặt vật lý sự hình
dung của chúng ta về hạt KG rõ ràng là chưa xong mà phải giải quyết khâu cuối cùng
cực kỳ trọng yếu là chỉ ra được kích cỡ thực sự của nó, nghĩa là phải xác định được
số mũ lũy thừa k trong biểu diễn đơn vị
khoảng cách nhỏ tuyệt đối của Vũ Trụ thực tại (dh)
Vì đã có:
l-k=10
Cho nên nếu xác
định được k thì l cũng đương nhiên được
xác định đây chính là phương trình bậc nhất hai ẩn số. Chỉ có một mình nó thôi
thì chúng ta hoàn toàn bó tay, không thể nào giải ra đáp số được. Cần phải có một
phương trình nữa đi cặp với nó để hợp thành một hệ phương trình bậc nhất hai ẩn.
Nhưng tìm đâu ra? Chắc chắn là không thể tìm ra được từ suy lý thuần túy triết
học hay toán học mà nếu có thể và cũng phải may mắn lắm, thì chỉ có thể tìm thấy
nó ở các kết quả rút ra (suy ra) trên cơ sở thực nghiệm vật lý, nhưng phải là lĩnh vực vật
lý vi mô.
Dù sai lầm
trong quan niệm nhưng nhà vật lý Nguyễn Chung Tú đã có một so sánh cũng hay, đại
ý là, sau Vụ Nổ Lớn (Big Bang) khoảng một giây, hạt điện tử đã xuất hiện, ấy vậy
mà mãi đến đầu thế kỷ XIX, người ta mới bắt đầu có khái niệm về nó. Như chúng ta đã
biết thì đơn vị qui ước để đo điện tích là c (đọc là Culông) hay Fr (đọc là Franklin) và mối quan hệ
giữa chúng là:
Như đã kể thì
thuyết nguyên tử về cấu tạo vật chất được nhà triết học Hi Lạp cổ đại Lơxíp nêu
ra lần đầu tiên vào khoảng 5000 năm TCN. Sau đó được học trò của ông là Dêmocrít
phát triển. Theo hai ông, vật chất được cấu thành bởi các hạt vô cùng nhỏ bé và
không thể phân chia được nữa. Hạt đó được gọi là “nguyên tử” (chữ Hi lạp là
atomos, nghĩa là không thể chia cắt). Tuy nhiên thuyết này sau đó bị phủ nhận và
đi vào quên lãng do uy tín quá lớn của Arixtốt. Arixtốt lập luận rằng vật chất
có cấu trúc liên tục cho nên có thể phân chia đến vô tận. Mãi đến thế kỷ XVII,
nhờ có Galilê, Đềcác và Niutơn mà thuyết nguyên tử hồi sinh.
M. V. Lômônôxốp
(1711 - 1765) là nhà khoa học thiên tài người Nga. Ông đã có nhiều quan niệm đúng
đắn vượt trước thời đại mình khá xa, là người đầu tiên nêu ra định luật bảo toàn
vật chất trong các phản ứng hóa học, cũng là người đầu tiên (trên cơ sở nguyên
lý bảo toàn chuyển động do chính ông phát biểu) cho rằng bản chất nhiệt là ở
chuyển động quay nội tại của vật chất, là kết quả có nguồn gốc từ sự chuyển động
của các phần tử cấu tạo nên vật chất, đặt nền móng cho lý thuyết cơ học về nhiệt
sau này…
Leucippus (500 TCN-440 TCN)
Democritus, by Hendrick ter Brugghen, 1628.
Leucippus (500 TCN-440 TCN)
Thời đại | Thời kỳ Tiền Socrates |
---|---|
Lĩnh vực | Triết gia phương Tây |
Trường phái | Trường phái nguyên tử |
Sở thích | Siêu hình học |
Democritus, by Hendrick ter Brugghen, 1628.
Thời đại | Trước thời Socrates | ||
---|---|---|---|
Lĩnh vực | Triết học phương Tây | ||
Trường phái | Thời kỳ trước Socrates | ||
Sở thích | Siêu hình học / Vật lý | ||
Ý tưởng nổi trội | Thuyết nguyên tử, Thuyết Viễn Tinh |
Giáo sư Nguyễn Chung Tú
Năm 1740, Lômônôxốp
xây dựng thuyết hạt về cấu tạo các chất. Theo thuyết này, mọi chất đều được cấu
thành nên từ những thứ gọi là “hạt” và “hạt” là thứ do các “nguyên tố” hợp thành.
Lômônôxốp định nghĩa: “Nguyên tố là phần vật thể có cấu tạo không từ bất cứ vật
thể nào khác với nó… Hạt là tập hợp của nguyên tố tạo thành một khối nhỏ”. Năm
1748, ông đã thay thuật ngữ “nguyên tố” thành “nguyên tử” và thay “hạt”
(particula) bằng “phân tử” (monecula).
Năm 1800, nhà hóa
học Pháp tên là I. L. Proust đã nêu ra “định luật về các tỷ lệ xác định”. Theo định
luật này, các phần tỷ lệ (về khối lượng) của các nguyên tố trong một hợp chất hóa
học là không đổi.
Chịu ảnh hưởng
của định luật đó, và thuyết nguyên tử của Đêmôrít, nhà hóa học Đantơn, (Fohn Dalton, 1766 - 1844), người Anh đã đề xướng ra lý thuyết nguyên tử định lượng
về hóa học. Theo thuyết này, các phản ứng hóa học chỉ tách ly hay liên kết các
nguyên tử và mỗi khi các nguyên tử khác nhau hóa hợp lại để tạo ra một hợp chất
riêng biệt thì hợp chất đó luôn luôn chứa cùng một số tương đối các nguyên tử.
Ngay sau khi
Dantơn công bố lý thuyết của mình thì Gay - Luýtxắc (J. L. Gay - Lussac) cũng
phát hiện ra một hiện tượng có tính qui luật và được phát biểu như sau: Các chất
khí liên kết với nhau theo những phần tỷ lệ xác định và đơn giản về thể tích.
Định luật các
phần tỷ lệ xác định, lý thuyết nguyên tử của Đantơn, định luật về thể tích được
nhà vật lý người Ý tên là Avôgađrô (Amades Avogadro, 1776 - 1856) hợp nhất lại
và bổ sung thêm. Theo ông, phân tử là những tiểu phân nhỏ nhất của chất có khả
năng tồn tại độc lập. Năm 1811, ông đưa ra giả thuyết quan trọng: những thể tích
bằng nhau của các chất khí khác nhau ở cùng một điều kiện áp suất và nhiệt độ
thì đều chứa cùng một số lượng các phân tử như nhau. Đáng tiếc là giả thiết này
không được đương thời công nhật dù vài sự kiện thực tiễn lúc đó đã có thể xác
minh nó. Ngày nay nó được gọi với cái tên: “Định luật Avôgađrô”. Trong hóa học
có khái niệm “mol”: “mol” là lượng chất có chứa số phân tử, hoặc số nguyên tử,…
hoặc nói chung là số đơn vị cấu trúc hạt vi mô, bằng số nguyên tử có trong 12
gam đồng vị các bon C12, tức là bằng số No, với:
No=6,022.1023
Vì nguyên tử vô cùng nhỏ bé nên việc xác định số No là vô cùng khó khăn và
vì tầm quan trọng của nó mà cùng một thời đã là vấn đề trung tâm của lý thuyết
nguyên tử cũng như lý thuyết về các phản ứng hóa học.
Chúng ta biết rằng
có thể phân tách các hợp chất hóa học thành các phân tử cấu thành khi cho một dòng
điện chạy qua theo cách nhất định. Quá trình đó được gọi là sự điện phân.
John Dalton
Mikhail Vasilyevich Lomonosov (1711 - 1765)
John Dalton
Mikhail Vasilyevich Lomonosov (1711 - 1765)
Amedeo Avogadro | |
---|---|
|
|
Sinh | 9 tháng 8, 1776 Turin, Ý |
Mất | 9 tháng 7, 1856 (79 tuổi) Turin, Ý |
Ngành | Vật lý |
Nơi công tác | Đại học Turin |
Nổi tiếng vì | Avogadro's law Avogadro constant |
Johann Wilhelm Hittorf | |
---|---|
Johann Wilhelm Hittorf
|
|
Sinh | 27 tháng 3 năm 1824 Bonn |
Mất | 28 tháng 11 năm 1914 Münster |
Ngành | Nhà vật lý học |
Sir Joseph John Thomson | |
---|---|
|
|
Sinh | 18 tháng 12 năm 1856 Đồi Cheetham, Manchester, Anh Quốc |
Mất | 30 tháng 8, 1940 (83 tuổi) Cambridge, Anh |
Nơi cư trú | Anh |
Tôn giáo | Anglican |
Ngành | Vật lý học |
Alma mater | Đại học Manchester Đại học Cambridge |
Nổi tiếng vì | Plum pudding model Phát hiện ra electron Phát hiện chất đồng vị Phát minh phương pháp phổ khối lượng |
Giải thưởng | Giải thưởng Nobel vật lý (1906) |
Ghi chú
Thomson is the father of Nobel laureate George Paget Thomson. |
Jean Baptiste Perrin | |
---|---|
Sinh | 30 tháng 9, 1870 Lille, Pháp |
Mất | 17 tháng 4, 1942 New York, Hoa Kỳ |
Nơi an nghỉ | Điện Panthéon |
Quốc gia | Pháp |
Nghề nghiệp | Nhà vật lý, hóa học |
Khoảng năm
1833, trong khi thực hành thí nghiệm., Farađây đã nhận thấy rằng, khối lượng vật
chất được giải phóng hay kết tủa ở các điện cực tỉ lệ với lượng điện tích chạy
qua trong bình điện giải. Sự tương quan này dẫn đến quan niệm điện tích tồn tại
từng lượng gián đoạn (hay sau này gọi là sự lượng tử hóa điện tích) và người ta
ký hiệu điện tích nguyên tố là “qe”. Farađây đã đo rất cẩn thận số điện tích tổng cộng cần thiết
để làm kết tủa một lượng chất có hóa trị một, có khối lượng đúng bằng một mol
gam. Số đo lượng điện tích này được gọi là “số Farađây”, ký hiệu là F và ngày
nay được xác định là bằng 96.485 c. Theo giả thiết của Avôgadrô thì một mol chất phải chứa No nguyên tử. Do vậy mà số F được biểu diễn:
F = No.qe = hằng số
Farađây đã nhận
thức rất rõ tầm quan trọng của biểu diễn trên nhưng ông chưa có cách nào để xác
định được e hoặc No một cách riêng rẽ. Dù ông
cũng chưa chứng minh được sự tồn tại của nguyên tử thì những nhận định rút ra từ
thực nghiệm của ông đã làm tăng thêm niềm tin trong giới khoa học về sự tồn tại
thực sự của nguyên tử và hơn nữa là nguyên tử cũng có cấu tạo phức tạp.
Năm 1886,
Hittorff phát hiện ra tia âm cực (là tia phát ra từ catod đến anod khi giữa hai
điện cực ấy có một hiệu điện thế cao nhất định và được đặt trong chân không). Năm
1895, nhà vật lý Jean Perrin, trong luận án tiến sĩ của ông, đã chứng minh rằng,
tia âm cực là dòng hạt mang điện âm. Chính Perrin cũng là người vào năm 1908,
thông qua thực nghiệm, xác định được số No và khẳng định sự tồn tại
của phân tử, nguyên tử.
Hai năm sau công
bố của Perrin về tia âm cực, tức là vào năm 1897, J. J. Thomson lặp lại thí
nghiệm của Perrin và xác nhận kết quả do Perrin thu được. Sau đó, Thomson còn
tiếp tục thực hiện thí nghiệm để kiểm tra lại xem tia âm cực có bị điện trừơng làm
lệch phương truyền hay không và qua đó đã đi đến một kết luận quan trọng là các
hạt trong tia âm cực đều có cùng điện tích, cùng khối lượng và là một phần cấu
thành của mọi nguyên tử. ông gọi các hạt đó là “vi hạt”, sau đổi thành “electrôn”
(điện tử). Hơn nữa, ông cũng đã xác lập được mối quan hệ tỷ lệ giữa điện tích và
khối lượng của một hạt là:
Khi đã có số F và số No, người ta tính được ra điện tích và khối lượng của hạt điện
tử.
Đến năm 1909,
nhà vật lý người Mỹ tên là R.A. Millikan (1865 - 1953) thực hiện nhiều lần thí
nghiệm nổi tiếng với cái tên “giọt dầu” và xác định được trị số qe chính xác hơn nữa. Từ đó
cũng tính ra được khối lượng điện tử chính xác hơn. Ngày nay chúng được thừa nhận
là:
và:
(Trong vật lý học
có hiện tượng rất lạ là hầu hết nếu không muốn nói là tất cả các hằng số tự nhiên
được phát hiện ra đều là số vô tỉ. Chúng ta tin rằng không gian thực tại là sự
hợp thành của một số lượng các hạt KG và số lượng đó, dù có vĩ đại đến cỡ nào
thì cũng có tính hữu hạn. Vì hạt KG đóng vai trò là đơn vị lực lượng vật chất
tuyệt đối nên số lượng ấy phải là số nguyên tự nhiên. Có thể thấy mọi qui luật
về vận động, tương tác, chuyển hóa của vạn vật hiện tượng trong Vũ Trụ, đều dẫn
đến kết quả mà xét cho cùng tận thì chỉ là sự làm biến đổi các lực lượng vật chất
một cách “nguyên vẹn”, “chắc chắn”. Do đó phải quan niệm rằng sự vô tỷ của các
hằng số là do sự lũng đoạn có tính chủ quan có thể khắc phục được và cả không
thể khắc phục được của chủ thể quan sát, tư duy gây ra, nghĩa là sự vô tỷ ấy cũng
như những phép toán đưa đến kết quả gần đúng chỉ tồn tại trong vũ trụ ảo tương đối.
Vì chúng ta rất “khoái” số 0,96 cho nên đi đến tưởng tượng rằng có thể trong thực
tại khách quan, số F chỉ là 96.000 c và số No chỉ là 6.10-23 và nếu thế, giá trị điện
tích nguyên tố đúng bằng:
Theo chúng ta
quan niệm về bản chất vật chất thì lực lượng vật chất (hay năng lượng toàn phần)
của mọi thực thể đều có thể qui về cái gốc cuối cùng là lực lượng KG mà cụ thể
là tổng số lực lượng các hạt hợp thành nên chúng. Nếu
quan niệm đó đúng thì hạt điện tử cũng phải thỏa mãn nó, nghĩa là có thể biểu
diễn năng lượng toàn phần của hạt điện tử theo biểu diễn năng lượng toàn phần của
hạt . Nếu gọi năng lượng toàn phần của điện tử là “e” và số hạt hợp thành nó là N thì có thể viết:
Nghĩa là:
Với: là khối lượng của hạt
Vì chỉ biết N là một số tự nhiên mà
chưa biết qui mô của nó cỡ như thế nào nên có thể phân tích nó như sau:
N=n.10x
với: n là số dương (hay có thể
nói là không âm không dương)
là một số nguyên
Như vậy,có thể
viết tiếp:
me=n.0,1024.10(-k+x)
Vì đã biết me nên:
Kết quả trên chẳng
giúp ích được gì cho chúng ta cả nên đành tìm cách khác và đúng là còn một cách
nữa.
Có thể viết năng
lượng toàn phần của điện tử như sau:
Với De là đơn vị độ dài trong
nội tại hạt điện tử hay là đường kính của điện tử khi năng lượng toàn phần của
nó đúng bằng thể tích toàn phần của nó.
Te là chu kỳ xoáy nội tại
cực tiểu của hạt điện tử.
Vì vật lý học đã
xác định được năng lượng toàn phần của một hạt điện tử là khoảng 0,511 MeV hay khoảng , và viết gọn lại:
cho nên chắc chắn
phải được:
82 =
n.0,9216
Vậy: 10-8=10(-3k+2l+x)
Hay: -8=-3k+2l+x
Chúng ta đã có: l-k=10, cho nên sẽ thiết lập được hệ phương trình hai ẩn số là l và k, nếu x đã biết, là:
Giải ra thì được: x-k = -28
Hay: k = x+28
Và suy ra: l = x+38
Điện tử là một
thực thể vô cùng nhỏ bé, cho nên có thể nghĩ rằng nó ở tầng nấc vi mô đã “rất gần”
với tầng nấc mà hạt “trú ngụ”. Nhưng cụ thể
thì gần đến cỡ nào? Một cách chắc chắn thì chúng ta không đủ khả năng trả lời câu
hỏi này và phải “nhường lại” vấn đề đó cho các thế hệ tương lai. Dù sao thì một
cách tương đối, chúng ta có thể phán đoán được phần nào.
Theo thuyết Vụ
Nổ Lớn, trước thời điểm bùng nổ để rồi giãn nỡ liên tục cho đến tận ngày nay vẫn
chưa dừng lại thì Vũ Trụ chỉ là một điểm. Trạng thái của điểm này như thế nào là
không thể xác định được vì việc áp dụng những định luật toán – lý trở nên vô hiệu,
các biểu thức toán phân kỳ ra vô tận. Vì vậy các nhà vật lý đã đặt tên cho Vũ
Trụ trước thời điểm bùng nổ là “điểm kỳ dị”. Vật lý hiện đại dựa vào lý thuyết
vật lý hạt cũng chỉ đoán được những sự kiện xảy ra bắt đầu từ thời điểm Plank
(vì được xác định trên cơ sở hằng số Plank) và kích thước Vũ Trụ lúc đó là 10-23cm (gọi là độ dài Plank). Sự bất lực trong việc tưởng tượng
ra Vũ Trụ và trạng thái của Nó trước thời điểm Plank của vật lý học đã là “niềm
hân hoan”, dù ở hai góc độ quan niệm không giống nhau, của cả Phật Giáo lẫn Thiên
Chúa Giáo. Theo Phật Giáo, có như thế rõ ràng là vì không thể nhận thức được
trong phạm vi những khái niệm mà phải vượt thoát phạm vi ấy mới “thấy” được Vũ
Trụ, nghĩa là chỉ có thể giác ngộ được Nó bằng con đường tâm linh. Còn theo Thiên
Chúa Giáo thì như một Giáo hoàng đã phát biểu trước các nhà vật lý thiên văn
trong một buổi yến kiết tại Tòa thánh Vaticăng: “Nghiên cứu quá trình tiến triển
của Vũ Trụ là công việc tốt đẹp, nhưng nên tránh tìm hiểu đúng thời điểm Vũ Trụ
nổ, vì đó là công trình của Thượng Đế”…
Ai tin thì cứ
tin nhưng chúng ta nhất quyết không tin vào thuyết Vụ Nổ Lớn! Vì đã quan niệm tuyệt đối không có Hư Vô rồi nên chúng ta không thể quan niệm được bên ngoài Điểm kỳ dị, trước khi có vụ nổ Big Bang, là cái gì. Tuy nhiên chúng
ta có liên tưởng rằng Điểm kỳ dị của các nhà vật lý rất giống với hạt KG mà chúng
ta quan niệm. Có thể là do phạm sai lầm trong nhận thức toán học ở một khâu nào đó trước
những biểu hiện biến hóa của toán - lý mà các nhà vật lý, đáng lý ra phải quan
niệm hướng về sự tồn tại của hạt KG, lại hướng đến với điểm kỳ dị chăng? Nếu đúng như
vậy thì phải chăng hạt KG có đường kính là 0,96.10-33
cm và chu kỳ vận động nội
tại của nó là 10-42
s?
Chúng ta đã giả
định hạt điện tử gồm n.10x hạt hợp thành. Số n cũng được chung ta tính
ra bằng khoảng 88,959. Vì điện tử là vô cùng bé nhỏ nên có thể nghĩ rằng số n chính là số hạt hợp thành hạt điện tử
và vì số lượng hạt đồng nhất là không thể “sứt mẻ” được nên chính xác là phải bằng
đúng 89 hạt, và x bằng 0.
Hơn nữa, vì hạt
điện tử có điện tích nguyên tố âm (và cả hạt tương phản với nó - hạt
poziton có
điện tích nguyên tố dương), cho nên 89 hạt hợp thành điện tử (hay phản
hạt Poziton) phải là những hạt điện tích nguyên tố (chúng ta
quan niệm rằng, hạt cũng là hạt điện tích
nguyên tố!). Vì từng cặp điện tích trái dấu trung hòa nhau và số n lẻ nên điện tử (hay
poziton) cũng mang điện đúng bằng điện tích nguyên tố.
Nhiều sự kiện
trong nghiên cứu vật lý buộc chúng ta phải đi đến suy đoán rằng hạt chưa phải là hạt tận cùng,
nhỏ nhất tuyệt đối của Vũ Trụ thực tại. Thực nghiệm vật lý cho biết ở tầng nấc
qui mô điện tử dù đã có nhiều biểu hiện về sự phi tuyến tính của môi trường không
gian, thì không vì thế mà tuyến tính của nó mất đi (hay có thể nói nhiều đặc tính
của không gian hình học Ơclít vẫn còn tồn tại). Nếu thực chất không gian có cấu
trúc mạng khối như chúng ta hình dung thì càng đi sâu về phía vô cùng nhỏ sự
phi tuyến tính của không gian càng nổi trội và khi đạt đến những tầng nấc cuối
cùng trong cõi vi mô của Vũ Trụ thực tại thì môi trường không gian hoàn toàn mất
đi sự tuyến tính của nó. Vì vậy, phải cho rằng, hạt chưa phải là mà gồm một số lượng nào
đó hạt và hạt hợp thành.
Các nhà vật lý đã
quan sát thấy trong máy gia tốc hạt xincrôtrôn dùng trong ngành vật lý hạt nhân,
điện tử đạt đến tốc độ bằng 99,9999875 phần trăm vận tốc ánh sáng và theo họ nhận
định thí lúc đó khối lượng điện tử tăng lên gấp khoảng 2000 lần so với khối lượng
nghỉ của nó. Chúng ta không đồng thuận với nhận định khối lượng của một vật tăng
khi vận tốc chuyển động của nó tăng, do đó nghĩ rằng sự chênh lệch khối lượng nói
trên là một minh chứng hùng hồn cho biểu diễn nhưng đã bị hiểu
sai đi. Nếu ký hiệu khối lượng (tạm gọi là) nội tại của hạt điện tử là thì theo biểu diễn , có thể viết:
,
và trong trường
hợp ở đây (khi v xấp xỉ bằng c) thì:
Từ đây, một cách
hình thức có thể coi là lực lượng toàn phần
của một thực thể bé nhỏ hơn cả , và vì:
nên có thể cho
rằng hạt gồm 11 hạt đó hợp thành.
Nếu gọi hạt đó là thì có thể tưởng tượng
rằng, khi hạt điện tử đứng yên, nội tại của nó gồm 89 hạt đóng vai trò đơn vị nhỏ
nhất, không phân chia được nữa hợp thành, khi hạt điện tử chuyển động với vận tốc
xấp xỉ vận tốc c nào đó, nó mang hình
thái là một bó gồm 89 sóng mà thành phần mỗi sóng gồm 11 hạt , và ở một góc độ quan sát khác có thể thấy tựa như một sợi cáp
chuyển động, có “lõi” (nội tại) đúng bằng .
Sự hình dung đó
có đúng với thực tại, hay hỏi khác đi, hạt có thực sự tồn tại không?
Sau khi có mẫu
hạt nhân do Ivanencô – Hâyxenbéc đề xướng thì người ta cho rằng hiện tượng phân
rã chính là quá trình biến
đổi của nơtrôn (hay prôtôn) thành prôtôn (hay nơtrôn) đồng thời giải phóng ra điện
tử (hay pôzitrôn). Giả thuyết này không phù hợp với kết quả thực nghiệm, vi phạm
đến định luật bảo toàn năng lượng và định luật bảo toàn Spin. Để giải quyết mâu
thuẫn, năm 1931, Pauli
đưa ra giả thuyết là trong quá trình phân rã , ngoài hạt điện tử (hay pozitrôn), còn có một loại hạt nữa
(hay phản hạt của nó) được giải phóng ra. Hạt này không mang điện, được Fécmi đặt
tên là “nơtrôn tí hon” (phiên âm theo tiếng Ý là “nơtrinô”). Đến năm 1956 thì ý
kiến của Pauli
về sự tồn tại hạt nơtrinô được xác nhận bằng thực nghiệm bởi Râynét và Côoen.
Lúc đầu người ta
cho rằng nơtrinô không có khối lượng nhưng những thực nghiệm sau đó chứng tỏ rằng
nó có thể có khối lượng cho dù rất nhỏ. Vì nhỏ như vậy lại không mang điện, tương
tác yếu với các hạt nên nó dễ dàng đi xuyên qua Trái Đất mà không gây ra một sự
biến đổi nào và là loại hạt khó phát hiện nhất trong thực nghiệm vật lý. Ngày
nay, các nhà vật lý thừa nhận có ba loại hạt nơtrinô là nơtrinô điện tử (ký hiệu: ), nơtrinô muy (ký hiệu: ) và nơtrinô tau (ký hiệu: ), trong đó nơtrinô điện tự - hạt được sinh ra cùng với điện
tử trong phân rã - có khối lượng nhỏ nhất.
Năm 1979, Râynét
đưa ra nhận định là khối lượng của hạt nhỏ hơn khối lượng điện
tử chừng 13.000 lần, nghĩa là vào khoảng 7.10-32 g. Nếu vậy khối lượng của nó nhỏ hơn khối lượng của hạt mà chúng ta tưởng tượng
ở trên khoảng 13 lần (nhỏ hơn của khoảng 146 lần).
Theo một kết quả
thực nghiệm khác, cho phép xác định giới hạn trên của khối lượng hạt phải nhỏ hơn 7,2 eV (một thứ nguyên năng lượng khác, đọc là “electron-vôn”),
qui ra bằng khối lượng của có giới hạn trên nhỏ hơn 1,28.10-32 g, nghĩa là nó phải nhỏ hơn 70.000 lần hạt điện tử. Thật là
ghê gớm! Tuy nhiên, do tính chất cực kỳ phức tạp của các phép đo và xử lý số đo
nên kết quả trên chưa được khẳng định ở nhiều thí nghiệm khác.
Phải chăng nơtrinô
điện tử chính là ? Nếu thế, nó cũng phải đóng luôn vai trò là đơn vị nhỏ nhất
làm nên sóng ánh sáng nói riêng và trường điện từ nói chung. Điều này quả là rất
khó tin đối với nghiên cứu thực nghiệm vật lý. Vậy thì phải tin rằng “dưới” còn có những hạt nhỏ hơn
nữa và (nếu không kể ) là hạt nhỏ nhất, ở tầng sâu nhất. Tầng sâu nhất ấy của Vũ
Trụ thực tại có thể là tầng có độ dài đơn vị là độ dài Plank và khoảng thời
gian đơn vị là thời gian Plank, thậm chí là sâu hơn nữa, mà ít ra, phải có độ dài
đơn vị cỡ 10-35 cm và đơn vị thời gian cỡ 10-45 s?
Có thể quan niệm
rằng hạt đã ở rất gần với tầng
vi mô sâu nhất của Vũ Trụ thực tại và vì thế nó tồn tại trong các nuclon như một
thứ tiền vật chất nào đó chứ không phải đóng vai trò là đơn vị nhỏ nhất của
nuclon. Nếu cho rằng đơn vị nhỏ nhất hợp thành nội tại hạt nhân nguyên tử, đóng
vai trò tạo nên đặc tính của nội tại ấy là loại cặp hạt mang điện tích trái dấu
điện tử - pôzitrôn, thì cũng có một loại cặp hạt mang điện tích trái dấu nào đó
đóng vai trò là đơn vị nhỏ nhất hợp thành nên điện tử và pozitron cùng những đặc
tính của chúng và cuối cùng là cặp mang điện tích trái dấu , đóng vai trò là đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối làm nên mọi sự
vật - hiện tượng của Vũ Trụ thực tại, từ các loại trường như hấp dẫn, điện từ,
thế giới các hạt cho đến các hành tinh, các thiên hà…
Vì hoàn toàn bất
lực, chưa có cách nào xác minh được quan niệm trên cũng như các kết quả đo đạc,
tính toán trong thực nghiệm vật lý về hạt như đã nêu có phù hợp
với thực tại khách quan hay không, và hơn nữa vì những lý do riêng tư đòi hỏi
(mà sau này dễ thấy), chúng ta tạm thời cho rằng hạt điện tử gồm 89 hạt . Như vậy x=0, k=28, l=38, từ đây chúng ta có các thông số cụ thể về là:
Và của điện tử
là:
Với qui ước tạm
thời ấy, chúng ta sẽ sử dụng để tiếp tục “tiến lên phía trước”, đến đâu hay đến
đấy và lúc nào gặp mâu thuẫn, vướng víu vào vòng “lao lý”, quên, phi lý, thì chúng
ta sẽ “gân cổ”… cãi, hay nhẹ nhàng “xuống nước”… xin lỗi. Dân gian có câu “quân
tử nhất ngôn quân tử dại, quân tử lải nhải quân tử khôn”mà!
Đến đây, coi như
chúng ta đã xác định được một cách cụ thể về “chân tướng” và những thông số cơ
bản nhất của hạt KG thông thường cũng như của hạt KG kích thích. Tiếp theo, dựa
trên các thông số này, chúng ta sẽ đi xác định các thông số khác, không kém phần
quan trọng của chúng. Nhưng trước hết, như nhiều lúc phởn chí khác, chúng ta làm
bài thơ ngay giữa chốn bao la đến khôn cùng mà cũng thanh vắng cô liêu đến tuyệt tận này:
MÓN QUÀ TÂM HUYẾT
Đi mải miết trên con đường huyễn
hoặc
Lang thang trong hoang cảnh tuyệt
vời
Mơ màng nhớ về ngàn xưa minh triết
Tạm quên đi nỗi cô quạnh kiếp người
Ghi chép lại thành một pho kỳ tích
Giảng giải ngây ngô nguồn gốc Đất
- Trời
Chờ ngày về cõi Muôn Năm xa tít
Gói ghém yêu thương dâng tặng cho
đời.
Nhưng người đời
có chấp nhận “pho kỳ tích” (hiểu là “pho sự tích kỳ cục”) này không? Chúng ta
không thể biết được! Tất cả còn tùy thuộc vào sự may rủi và cả định mệnh của chúng
ta nữa. Giờ này có lo ngại đến mấy thì cũng chẳng giải quyết được gì hay ho, còn
thêm nản lòng mà thôi. Không gì bằng cứ bình thản mà hoang tưởng tiếp cho “thỏa
chí tang bồng” trong ngập tràn hy vọng!
Chúng ta đã từng
luận giải rằng, mọi quá trình biến đổi, chuyển hóa của lực lượng vật chất đều có
thể biểu diễn dưới dạng cơ học. khi một thực thể vẫn còn là nó thì năng lượng toàn
phần của nó là bất biến về lượng. Lượng đó do có tác động từ bên ngoài mà phân định
thành hai phần chuyển hóa qua lại nhau là nội năng và động năng (năng lượng cơ học, thứ có khả năng sinh công). Động năng của
một thực thể là thành phần có khả năng chủ động tác động làm chuyển hóa năng lượng
của một thực thể khác (và qua đó mà cũng đồng thời làm chuyển hóa năng lượng của
bản thân nó). Muốn biết khả năng của một động năng tác động đến thực thể nào đó
có chuyển biến thành hiện thực được không thì phải xét đến yếu tố phương chiều
của nó, đó chính là véctơ vận tốc. Nói chung, động năng của vạn vật luôn giảm
xuống sau một quá trình tương tác nào đó với một vật khác (xét theo phương chiều
mà nó đã phát huy tác động!). Vì độ lớn của động năng một vật, như biểu diễn toán
học cho thấy, phụ thuộc vào độ lớn về khối lượng của vật. Mà độ lớn về khối lượng của vật, sau khi xảy ra tương
tác là bất biến, do đó, muốn biết mức độ, tác động gây ra chuyển hóa năng lượng
(thực tế) đối với một vật khác nào đó thì phải xác định được độ giảm vận tốc bình
phương () và khoảng thời gian xảy ra sự giảm vận tốc bình phương của động
năng đó sau quá trình tương tác. Chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng biểu diễn toán
học dùng để xác định cái gọi là “mức độ tác động gây ra chuyển hóa năng lượng”.
Giả sử một vật
khối lượng m, có động năng ban đầu là W1 tương ứng với vận tốc v1. Sau khi tác động vào một vật khác đứng yên nào đó thì động
năng của nó giảm xuống còn W2. Khoảng thời gian giảm vận tốc của vật đang xét là . Gọi đại lượng đo mức độ gây ra chuyển hóa năng lượng đối với
vật bị tác động là N, thì nó bằng:
Hay viết gọn lại:
Nhìn thứ nguyên
của đại lượng N, chúng ta “vỡ lẽ” ra, vật lý học đã xây dựng khái niệm cũng như
đại lượng đó từ hồi nảo hồi nào rồi và gọi là “công xuất”!
Qua biểu diễn đó
chúng ta dễ dàng thấy rằng, khi xảy ra tương tác (cơ học), một vật có độ giảm vận
tốc càng nhiều trong khoảng thời gian giảm tốc càng ngắn thì mức độ tác động gây
chuyển hóa năng lượng đối với vật kia càng lớn và ngược lại.
Khi đã hiểu được
ý nghĩa của biểu diễn nêu trên rồi thì chúng ta có thể viết gọn lại hơn nữa:
,
và gọi đó là biểu
diễn về mức độ chuyển hóa qua lại giữa nội năng và động năng của một vật. Vì vế
trái có thể mang dấu âm hoặc dương nên tùy qui ước mà xác định với dấu nào là
chỉ thị về sự giảm hay tăng động năng (và dấu kia sẽ là sự chỉ thị về sự tăng
hay giảm nội năng).
Từ đó và một cách
không mâu thuẫn với định luật II Niutơn, chúng ta viết được:
F.v.t=mv2
Có thể ngầm hiểu
biểu diễn trên như thế này: một vật khối lượng m đang chuyển động thực
sự (hoặc được quan sát thấy như đang chuyển động) với vận tốc v thì có một động năng là mv2 và khi bị làm cho đứng
yên lại thì nó sinh ra một “công sức” chuyển hóa năng lượng đúng bằng động năng
của vật, đồng thời nếu lúc đó vật vẫn còn là nó thì lượng động năng đó, do nguyên
lý tác động tương hỗ mà coi như chuyển biến hoàn toàn thành nội năng của nó. Ngược
lại, nếu đưa vật đó từ đứng yên sang chuyển động với vận tốc v, cũng vì bị chi phối bởi nguyên lý tác động tương hỗ mà phải
cần một “công sức” lớn hơn giá trị F.v.t từ bên ngoài tác động vào
vật sao cho vật đạt được vận tốc v nghĩa là làm cho vật
chuyển hóa một lượng nội năng thành động năng đúng bằng mv2. Có thể coi vế trái của biểu diễn là sự phô diễn tác động của
động năng trong hiện thực. Khi có được (hay bị mất đi) lượng động năng ở vế phải
thì vật hàm chứa (hay mất đi) một “công sức” đúng bằng vế trái của biểu diễn với
ba thành phần ấy dù có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau thì cũng không nhất thiết
phải mang những giá trị không đổi. Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể khi xảy
ra tương tác mà ba đại lượng ấy nhận những giá trị phù hợp, miễn sao giá trị của
“công sức” là không đổi.
Biểu diễn nêu
trên, thực ra có xuất phát ban đầu từ ý tưởng và đề xướng của Lépnít. Ý tưởng ấy
quả thật là rất xuất sắc. Nếu chia hai vế của biểu diễn cho v, chúng ta sẽ có lại biểu diễn của Niutơn:
F.t=m.v
Rõ ràng biểu diễn
của Niutơn là sự giản lượng biểu diễn của Lépnít. Nó không cho thấy được lực lượng
đích thực của vật chất tồn tại, không cho thấy được một cách xác thực diễn biến
của quá trình tác động lực, và hơn nữa là không thể hiện được quá trình tác động
lực trong môi trường lực thế.
Vì: v.t=s
Nên: F.s=mv2
Do cách viết rút
gọn mà chúng ta tưởng rằng s là quãng đường phải có
giá trị luôn bằng v.t. Thực ra không phải như vậy. Tùy thuộc vào hiện tượng dẫn đến
việc thiết lập được biểu diễn ấy xảy ra ở đâu, trong hoàn cảnh nào mà giá trị của s có thể khác v.t. Vì thế mà chúng ta cho rằng biểu diễn trên, xét về mặt tác động
lực là mang tính tổng quát hơn biểu diễn lực hay xung lực của Niutơn nếu nó thỏa
mãn điều kiện.
Khi s khác v.t thì vật khối lượng m đang chuyển động trong
môi trường lực thế và nếu nó “rơi tự do” trong đó thì s chính là quãng đường cần
thiết để vật từ trạng thái đứng yên (cân bằng lực) hoặc từ vận tốc ban đầu nhỏ
hơn v nào đó, đạt được vận tốc
có giá trị v và lúc đó động năng của
vật hàm chứa một lưc là:
Khi s=v.t thì vật khối lượng m được
thấy là đang chuyển động đều với vận tốc v ở ngoài môi trường lực
thế, có động năng không đổi là mv2, tàng trữ một lực không đổi là F. Lực tiềm tàng đó có giá trị đúng bằng:
Vì vạn vật hay
nói chung là mọi thứ trong Vũ Trụ chỉ có thể chuyển động (hay lan truyền) với vận
tốc cực đại cùng lắm là bằng C nên lực cực đại giới hạn
của một vật có khối lượng m có thể tàng trữ được là:
Với Tmin là chu kỳ vận động nội
tại của vật, được qui định bới qui mô vật chất cũng như mức độ liên kết giữa các
lực lượng vật chất tạo nên vật khi vật đứng yên. Và có thể nghĩ rằng, tương ứng
với đơn vị thời gian này, phải tồn tại một cái gọi là “độ dài cực đại giới hạn”
(ký hiệu là Smax) sao cho:
Smax=C.Tmin
Như vậy, có thể
viết biểu diễn thứ hai về lực cực đại giới hạn mà vật khối lượng m có thể tàng trữ được là:
Theo biểu diễn đó,
với những thông số vật lý của mà chúng ta đã tạm thời
thừa nhận thì lực cực đại giới hạn hàm chứa trong nó là:
Với: fmax là lực cực đại giới hạn
của hạt
là khối lượng của hạt
se là độ dài cực đại giới
hạn được qui định cho
Vì hạt khi đứng yên thì có một
nội tại xoáy không gian, hàm chứa một nội năng đúng bằng năng lượng toàn phần của
nó và khi chuyển động trong chân không thì luôn chuyển động đều với vận tốc c, có một động năng cũng đúng bằng năng lượng toàn phần của nó
(nghĩa là khi chuyển động, hạt không có nội tại, hay
nói cách khác là khối lượng nghỉ của nó bằng 0) nên se không thể khác mà phải
bằng chu vi của hạt khi nó đứng yên, nghĩa
là bằng . Vậy:
Đó là một lực lớn
tác động trên một diện tích cực nhỏ, cỡ tiết diện hạt (khoảng 10-56 cm2). Cho nên có thể thấy cũng có tính xuyên thấu
mạnh mẽ.
Như chúng ta đã
quan niệm thì năng lượng toàn phần E của một thực thể luôn
bằng:
Với: n là số hạt
Nếu một thực thể
khi chuyển động (hay lan truyền) biến thành một dây sóng (hay đoàn sóng) không
có nội tại thì vận tốc của nó là bằng C. Do đó, nếu gọi lực cực đại giới hạn của nó là fsmax, quãng đường cực đại là ss, thì:
Nếu xét về mặt
tổng lực, thì:
fsmax=n.fmax
Nhưng tổng lực ấy
không phải cùng tác động vào cùng một thời điểm (hoặc trên một điện tích cỡ tiết
diện hạt ) mà nối tiếp từng lượng fmax một (hoặc trên một tiết
diện lớn hơn tiết diện của ), cho nên phải hình dung rằng trong thực tại, về mặt cường độ
(hay về mặt gây ra áp lực) thì:
Đối với một thực
thể vĩ mô có khối lượng m trong trạng thái chuyển
động để duy trì nó vẫn là nó, thì nó chỉ có thể chuyển động đến một vận tốc Vmax nào đó được qui định
cho nó (mà nếu vượt qua vận tốc này thì coi như nó không còn là nó nữa vì như vậy
nó sẽ bị phân rã thành những thực thể nhỏ hơn, nghĩa là nó luôn có một nội tại
dù đứng yên hay chuyển động). Cũng vì thế mà:
Về mặt tác động
lực, vì một vật chuyển động vẫn có một nội tại và coi như chỉ có động năng của
nó tàng trữ lực, cho nên nói chung, có thể viết:
Với:
Tóm lại: Giả sử
rằng, có một vật khối lượng m=0,1024 g từ đứng yên được tác động lực để đưa vào trạng thái chuyển động
thẳng đều với vận tốc c và đạt được vận tốc c trong khoảng thời gian
tối thiểu là 1s. Hỏi, vật đó đã “tích lũy” được một lực tối đa là bao nhiêu? Trả
lời: Vì có:
Nên: n=1028
Vì thời gian tăng
tốc từ 0 đến c của vật cũng đóng vai
trò tmin của vật nên có:
Do đó: n'=1038
Từ đó chúng ta
xác định được Fmax:
Thực ra cách tính
thông thường không rắm rối thế, chỉ đơn giản là:
và thời gian tăng
tốc vật từ 0 đến c bằng 1s chỉ là giá trị
thời gian tác dụng cực tiểu được xác định thực sự.
Phải chăng fmax là lực cực đại giới hạn
tuyệt đối xét theo lượng vật chất và thời gian tác động, có thể có của Vũ Trụ?
Rất có thể là như thế. Nếu viết dưới dạng xung lực - động lượng, chúng ta có:
Rõ ràng, động lượng
của thật là quá ư “ít ỏi”
và thậm chí còn “ít ỏi” hơn rất nhiều nữa nếu các thông số chúng ta đã chọn cho vẫn còn quá lớn so với
với sự thực khách quan khi động lượng đó chuyển hóa thành xung lực thì dù có xuất
hiện một lực cực đại tuyệt đối, nhưng vì lực ấy chỉ tác động trong khoảng thời
gian quá ngắn ngủi là 10-38 s và trên một diện tích cũng quá nhỏ là khoảng 10-56 cm2, nên
ngay cả đối với thể giới ở tầng nấc nội nguyên tử cũng gây ra một hiệu ứng “chả
ra gì cả”. Nếu thực sự là đến nguyên tử cũng không thể cảm nhận được tác động ấy
thì mọi thiết bị thăm dò thế giới vi mô do con người sáng tạo ra được cũng vĩnh
viễn không thể phát hiện được. Rất may là ở tầng nấc vi mô của Vũ Trụ, khoảng cách
và thời gian tác động giảm đi bao nhiêu thì số lượng tác động trong cùng một thời
điểm tăng lên bấy nhiêu và có tính liên tục ở Vũ Trụ vĩ mô, do đó mà quan sát ở
tầng nấc vĩ mô vẫn còn khả năng nhất định trong việc “nắm bắt” hành tung của những
tác động bé nhỏ ấy và nhận thức chúng.
Trong biểu diễn
nêu trên, vì các thành phần của vế phải là thực tại bất biến nên tích của chúng
là một hằng số. Như vậy thì tích của vế trái cũng là hằng số nhưng hai thành phần
lực và thời gian không nhất thiết phải mang những giá trị cố định mà có thể
mang nhiều giá trị khác nhau, hợp lại thành những cặp phù hợp. Nếu chúng ta chọn ở vế trái là 1s, nghĩa
là một cách hình thức, lấy 1s làm khoảng thời gian hình thành nên động lượng ở
vế phải, hay nói cách khác rằng, đem “dàn trải” lực fmax ấy ra khoảng thời gian
1s, thì lúc này nó sẽ bị giảm xuống và chỉ còn:
Chúng ta nói, ft là lực hàm chứa trong lệ thuộc vào đơn vị thời
gian qui ước. Chúng ta còn có biểu diễn:
Với: se = 3.10-28 cm
Nếu chọn se = 3.1010 cm (quãng đường đi được
của một vật trong 1s với vận tốc c) thì coi như chúng ta đã chọn đơn vị thời gian qui ước là 1s
và lại có:
Nhưng nếu chúng
ta chọn se = 3 cm (cũng có nghĩa chọn t1=10-10 s) thì coi như chúng đã chọn đơn vị độ dài qui ước là 3cm, và
lực fmax tính theo đơn vị độ dài
ấy được gọi là lực hàm chứa trong lệ thuộc vào đơn vị độ
dài qui ước, ký hiệu là fs. Độ lớn của nó bằng:
Với đơn vị độ dài
qui ước là 1cm thì lúc này:
Chúng ta cho rằng
sự tồn tại của lực fmax cũng là một “vốn dĩ thế”
trước quan sát và nhận thức; đóng vai trò là một lực gốc của Vũ Trụ. Nguyên nhân
làm xuất hiện fmax là có tính hiển nhiên.
Nguyên nhân đó có thể là do cấu trúc của Vũ Trụ ở tầng đáy cùng vi mô đã hoàn toàn
mất đi tính Ơclít của không gian trong khi nếu không di dời vị trí, lại phải xoáy nội tại
“kinh hồn bạt vía”, gây ra tình hình “tréo ngoe cẳng ngỗng”, buộc phải lấy lan truyền với
vận tốc c làm phương thức tồn tại
phổ biến của nó. Hoặc nguyên nhân cũng có thể là do sự phân bố không đồng đều lực
lượng vật chất trong môi trường không
gian làm xuất hiện hiện tượng như có những “độ dốc” ở tầng nấc đáy cùng vi mô,
buộc phải lan truyền theo
những “con dốc” ấy như những phần tử nước trôi trong những dòng sông với một tốc
độ không đổi. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa nhất chính là do có sự xuất hiện và
tồn tại của nhờ có sự tương tác của
hai hạt trái dấu. vậy thì ngoài
lực fmax đóng vai trò như một lực
gốc ra còn phải có một lực nữa cũng đóng vai trò là một lực gốc cực kỳ quan trọng,
thậm chí là quan trọng bậc nhất, quyết định đến sự tồn tại của Vũ Trụ thực tại
với quang cảnh mà chúng ta đang quan chiêm. Lực đó chính là động lực gây ra sự
tương tác (hút hoặc đẩy) giữa hai hạt . Chúng ta có thể đặt tên cho nó là “lực cảm ứng điện chuyển
hóa Không Gian”, hay đơn giản hơn là “lực tĩnh điện cực đại” và ký hiệu là femax. Lực femax có bản chất “thế”, nghĩa
là giữa hai hạt luôn tồn tại một lực hút
hoặc đẩy và mỗi hạt coi như ở trong một trường lực thế do chính chúng kết hợp tạo
ra cho nhau, gây tác động lực đến nhau thông qua môi trường không gian.
Khi hai hạt trái dấu hút nhau, thì
coi như vật lý học đã chỉ ra, biểu hiện của lực hút ấy có dạng tương tự như lực
vạn vật hấp dẫn. Tuy nhiên cần phải quan niệm như đối với hạt rằng sự hút nhau ấy không
phải là do chúng tự gây ra mà do môi trường không gian qui định, tạo ra hai
“con dốc” ngược chiều nhau làm cho hai hạt ấy buộc phải di chuyển
về phía nhau với vận tốc bất biến c. (Có thể nghĩ rằng, và là hai loại hạt đóng
vai trò là nguyên nhân của hiện tượng vạn vật hấp dẫn, và hiện tượng hút - đẩy
tĩnh điện trong Vũ Trụ Vĩ Mô song chúng không tự thân hút, đẩy nhau để trực tiếp
tạo ra mà do chính môi trường không gian làm xuất hiện những hiện tượng ấy, còn
chúng chỉ đóng vai trò là những “phương tiện” thể hiện.
Khi hai hạt trái dấu đến với nhau
và không chuyển hóa nhau để cùng trở thành hạt KG bình thường được, chúng sẽ liên
kết với nhau, hợp thành một hệ xoáy “tít
mù” trong không gian, và một cách hình thức thì coi như một hạt có một gia tốc hướng tâm
là:
Sự hình dung ra
hai hạt kết hợp với nhau tạo
thành một điểm xoáy nội tại trong môi trường không gian dẫn chúng ta đến cần phải
quan niệm thêm rằng, một cách hình thức, khi hai hạt trái dấu hút nhau (và
cũng đúng đối với trường hợp hai hạt đó cùng dấu và đẩy nhau), coi như chúng cùng
tạo ra môi trường hút (hoặc đẩy) có bản chất xoáy đối với nhau, hay cũng một cách
hoàn toàn hình thức, coi như chúng tương tác nhau trong môi trường không gian có
tính xoáy và độ lớn của lực tương tác giữa chúng là do môi trường ấy qui định.
Hơn nữa cũng phải hình dung rằng, hai hạt trái dấu càng ở xa
nhau thì tính xoáy của môi trường không gian càng giảm đi, cho nên lực hút giữa
hai hạt đó cũng giảm theo và ngược lại. Bản chất xoáy ấy phải chăng là cội rễ của
bản chất trường điện từ mà vật lý học đã phát hiện ra?
Phải chăng là hạt cơ bản nhất
trong số những hạt cơ bản hàm chứa điện tích nguyên tố?
Napôlêông, một
thiên tài quân sự của thế giới, người cũng có biệt tài đưa ra ý kiến một cách xúc
tích và ví von sâu sắc, đã từng nói: “Lòng dũng cảm cũng như tình yêu, phải được
nuôi dưỡng bằng niềm hy vọng”. Chúng tôi tin lời ông và đợi chờ với một niềm hy
vọng mãnh liệt nhất.
Đến đây, có lẽ
chúng ta hầu như đã thực hiện xong những nét phác thảo cơ bản nhất của bức
tranh tổng thể về Vũ Trụ thực tại. Những nét phác thảo ấy đã hoàn toàn hợp lý
chưa? Chúng ta không có cách nào xác minh được vì chúng là kết quả của sự kết hợp
một cách “cưỡng bức” giữa suy lý huyễn hoặc và chứng nghiệm vật lý còn bị bao
phủ bởi không ít quan niệm sai lầm. Tuy nhiên, dù có thể trong những nét phác
thảo ấy còn hàm chứa những sai lầm “ngộ nghĩnh”, những mâu thuẫn “ngây ngô”, những
sáng tạo “điên rồ”, thì chúng ta vẫn kiên định mà rằng, vì nhìn một cách bao quát,
chúng không thiếu cái vẻ đẹp bình dị, hồn nhiên, uyển chuyển và hài hòa, nên chúng
cũng hàm chứa sự đúng đắn lớn lao về mặt quan niệm đối với Vũ Trụ thực tại.
Trong khi chờ đợi sự thẩm định của các “đại gia” vật lý học (nhưng không biết họ
có thèm đón nhận không hay phải đợi chờ đến sự thẩm định của hậu thế?). Chúng
ta thêm thắt bên lề đôi nét “nguệch ngoạc” nữa (cho vui thôi chứ chẳng quan trọng
gì và rất có thể dưới con mắt của những “người lớn nghiêm túc”, chúng bị cho là
có phần… lếu láo!).
Vấn đề cuối cùng
mà chúng ta muốn nói thêm cho vui ở đây là từ những thông số đã tạm qui ước cho hay có thể truy ra được những
thông số qui ước gán cho Vũ Trụ, nếu hiện tượng tương phản ảo - thực nghịch đảo
tuyệt đối là có thực.
Dù sao thì chí ít,
chúng ta cũng tin là có sự biểu diễn mối tương phản nghịch đảo của thực tại khách
quan. Bởi vì nếu không như thế thì toán học đã không bao giờ chỉ thị ra được. Hơn
nữa, chính vận tốc c cũng mách bảo cho chúng
ta về điều đó. Trong mọi trường hợp, bao giờ cũng viết được:
với A là độ dài không gian đạt
được trong khoảng thời gian B của một chuyển động
hay lan truyền và c là một cực đại bất biến.
Qua đó mà thấy,
nếu x và y là những số âm thì bao giờ
cũng phải thỏa mãn điều kiện:
;
còn nếu x và y là những số dương thì
lại phải thỏa mãn:
x > y
Hơn nữa cũng có
thể rút ra được từ đó:
và nói rằng, độ
dài không gian và độ dài thời gian có mối quan hệ là tương phản ảo - thực nghịch
đảo của nhau. Nghịch đảo độ dài không gian sẽ là độ dài thời gian và ngược lại,
nghịch đảo độ dài thời gian sẽ là độ dài không gian. Nếu độ dài không gian là
thực của độ dài thời gian thì độ dài thời gian là ảo của độ
dài không gian và ngược lại. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng, vì “Tôi tư duy,
vậy tôi tồn tại” là một sự thực không thể chối cãi được, hay nói cách khác: vì
“Tôi quan sát và nhận thức” luôn là cái thực tồn nên đối với “Tôi”, độ dài không
gian cũng luôn luôn là thực (thấy được) và do đó, độ dài thời gian phải luôn là
ảo (không thấy được).
Nếu xét độ dài
nói chung (cả thực lẫn ảo) thì vì chúng ta đã chọn giá trị cực tiểu của độ dài
là 10-38 và đây là độ dài thời
gian nên nghịch đảo của nó sẽ là giá trị cực đại của độ dài không gian. Giá trị
của độ dài cực đại ấy đúng bằng 1038 cm (hay đúng hơn, có lẽ
phải là 3.1038 cm).
Tương ứng với độ
dài không gian cực đại là độ dài thời gian cực đại sao cho c bất biến và do đó mà nó
phải bằng 1028 s. Có thể chọn lại đơn vị độ dài thời gian hoặc độ dài không
gian sao cho x = y thì chúng ta có thể thêm
nhận xét: nghịch đảo của đường kính hạt KG là đường kính của Vũ Trụ và ngược lại.
Đó cũng là kết luận mà chúng ta đã rút ra được ở chương: Thực - Ảo.
Xét góc độ Vũ
Trụ là Vũ Trụ thì Nó không có ngoài lẫn trong hay trong thì cũng là ngoài và ngoài
thì cũng là trong cho nên chu vi của nó là một đường ảo. Chúng ta hình dung rằng
từ Trái Đất, dù đi theo bất cứ phương chiều nào một cách tự nhiên, hoàn toàn lý
tưởng (không bị ngoại lực tác động!) và nếu đi qua cả miền ảo của Vũ Trụ thì
bao giờ cũng về lại Trái Đất sau một quãng đường dài cỡ 2.1038 cm, miễn là chúng ta phải… trường thọ. Giả sử rằng chúng ta hành
trình với vận tốc bằng vận tốc ánh sáng (vận tốc c) thì thời gian tốn cho hành
trình đó là:
Biết rằng một năm,
ánh sáng đi được:
Vậy số năm mà
chúng ta phải tốn cho cuộc hành trình là khoảng:
(Bảy tỷ năm!!!)
Khi đã biết đường
kính Vũ Trụ rồi thì chúng ta sẽ tính được hàng loạt thông số khác của Nó và chúng
ta liệt kê ra dưới đây:
- Thể tích của
Vũ Trụ thực tại cỡ 10114
cm3
- Tổng số hạt
KG cỡ: hạt
- Số hạt KG có
trong 1 cm3 cỡ: 1084 hạt
- Khối lượng của
Vũ Trụ thực tại cỡ: 10198.10-28 =10170 g
- Năng lượng toàn phần của Vũ Trụ thực tại cỡ:
Những thông số
Vũ Trụ ấy có khủng khiếp không? Thật là khủng khiếp! Tuy nhiên linh cảm cho chúng
ta biết rằng kích cỡ hạt KG có thể còn phải nhỏ hơn nữa và nếu đúng như thế thì
các thông số ở trên chả nhằm nhò gì!
Nhưng thôi, chúng
ta cứ tạm thời thừa nhận những thông số ấy vì nếu đem so sánh với những số liệu
thống kê của vật lý thiên văn ngày nay, chúng đã là những “gã khổng lồ” phi phàm
rồi. Chẳng hạn, ngày nay các nhà vật lý thiên văn sau nhiều lần ngồi đếm sao (công
việc đó có thú vị không nhỉ?!) đã đi đến kết luận có tổng cộng khoảng 3.1023 vì sao trong Vũ Trụ. Một
trong những vì sao đó là Mặt Trời. Nếu cho rằng khối lượng của một ngôi sao phải
gồm cả khối lượng của các hành tinh quay quanh nó, thì khối lượng Thái Dương Hệ
ước chừng bằng 2.1033 g. Có thể cho rằng Mặt Trời chỉ là một ngôi sao nhỏ, nên khối
lượng trung bình của một ngôi sao phải được phóng đại lên và chúng ta cho bằng 1040 g. Vậy, khối lượng của 3.1023 ngôi sao là vào khoảng:
1040.3.1023=3.1063 g
Chúng ta phóng đại
thêm nữa vì cho rằng còn rất nhiều sao mà “người trần mắt thịt” không thấy được,
và nó bằng: 1070 g. Khối lượng đó chính là tổng khối lượng của tất cả các hạt có trong Vũ Trụ thực tại.
Tương ứng với khối lượng ấy là một năng lượng cỡ:
Nếu lấy năng lượng
toàn phần của Vũ Trụ trừ đi năng lượng ấy thì còn lại:
Nghĩa là tổng năng
lượng của các vì sao chẳng “nhằm nhò” gì so với năng lượng của Vũ Trụ.
Còn nếu đem
chia năng lượng Vũ Trụ cho tổng năng lượng các vì sao thì được:
Nghĩa là năng lượng
Vũ Trụ lớn gấp 10100 lần năng lượng của tất
cả các vì sao cộng lại.
Thật khó lòng tưởng
tượng nổi trước thời điểm Big Bang (Bùng nổ), điểm “kỳ dị” lại có một nội năng
bằng . Nhưng theo quan niệm của triết học duy tồn thì có thể tin được
rằng điểm “kỳ dị” thực sự tồn tại và đó chính là hạt KG. Như vậy phải có vô vàn
điểm “kỳ dị” chen chúc chật cứng hợp thành Vũ Trụ có tính một phía, và chúng không
bao giờ phát nổ vì đơn giản là Hư Vô không thể làm tổn thương Tồn Tại được…
Hình như sự
hoang tưởng thái quá đã đưa tâm thức của chúng ta càng lúc càng chìm đắm sâu vào
cõi mê man mông muội với những suy nghĩ hỗn độn. Và hình như sự chìm đắm quá lâu
và cũng quá đà ấy đã làm cho chúng ta “hành quân” chệch khỏi con đường tự nhiên
của cuộc hành trình đến đỉnh của ngọn núi Tu Di huyền thoại - đỉnh của ngàn đời
mơ ước mất rồi! Bất giác, chúng ta rùng mình, hoàn hồn trở lại, không còn cái tâm
trạng phởn chí có phần ngổ ngáo nữa mà thay vào đó là một nỗi lo sợ. Chúng ta
nháo nhác nhìn ra xung quanh để cố đánh giá lại tình hình. Miền không gian phía
sau lưng là một bầu trời đêm với muôn ngàn sao lấp lánh, lung linh, gợi nhớ da
diết về quê cha đất tổ. Hai bên và cả trên dưới, không gian có vẻ bớt tối hơn
nhưng các vì sao thì chỉ còn thưa thớt và cũng không lấp lánh một cách sinh động
nữa. Cảnh tượng ấy mới mịt mờ, nhạt nhòa làm sao! Cứ im phắc, vắng tờ, hoang hóa
đến ngao ngán. Chúng ta chầm chậm quay đầu lại, nhìn về phía trước mặt. Ôi, không
thể ngờ được! Một quang cảnh thật tuyệt hiện ra. Đó là một miền không gian hết
sức trong trẻo, không chút gợn đục. Chúng ta có cảm giác như đang đứng trước một
trong những buổi mai mới vừa hừng sáng, thanh khiết nhất, trong lành nhất, nhẹ
nhõm nhất và gây hứng khởi nhất của cõi Trần Gian. Hình như có thể nhìn xuyên
suốt miền không gian trong vắt không môt chút gợn ấy đến tận biên thùy của Vũ
Trụ, nơi giao hòa giữa thực và ảo. Không biết có thật vậy không nhưng khi phóng
tầm mắt thẳng theo phương chính diện về phía tít tắp xa vời mà khả năng quan sát của chúng ta còn vươn tới
được, chúng ta thấy nguyên một vầng hồng sáng lạn ở đó. Một ý nghĩ vụt lóe lên
trong vô thức: phải chăng đó là vầng hồng của Mặt Trời thân yêu và chúng ta, do
hoang tưởng làm lạc hướng hành trình, tưởng đang đi đến đỉnh núi Tu Di lại hóa ra là đi về Thái Dương Hệ? Ý nghĩ đó
làm chúng ta hơi chột dạ…
Tuy nhiên, định
thần lại, chúng ta thấy không thể nào xảy ra điều oái oăm như thế được. Chúng
ta nhớ rằng trong suốt cuộc hành trình từ lúc rời Thái Dương Hệ cho đến lúc này,
chúng ta chưa “va vấp” phải bất cứ một trở lực dù nhỏ nhoi nào nên chắc chắn
con đường chúng ta đi là con đường tự nhiên, và như thế dù có những lúc, những
chặng hồn vía bị lạc vào mê sảng, mù lòa, lầm lỗi, thì cho đến lúc này, tất yếu
chúng ta vẫn đang hành trình trên con đường ấy, nghĩa là vẫn đang đi đúng hướng.
Mà đã đi đúng hướng thì ắt phải có trình tự: ra đi - đạt đến - trở về. Nghĩa là,
trước khi thấy lại Mặt Trời thân yêu, chúng ta phải đến được với “đỉnh cao của
ngàn đời mơ ước”. Vậy thì cái vầng hào quang sáng lạn ấy không thể là do Mặt Trời
gây ra được.
Cái suy lý chặt
chẽ về mặt lôgic ấy làm chúng ta bình tâm trở lại và cố dương “mắt ếch” lên soi
mói vùng trung tâm của vầng dương đang tỏa sáng rạng ngời ở chốn xa xăm trước mặt.
Đó chắc hẳn là một ngôi sao, vì sáng nhất trong vầng dương. Nó không lấp láy nhưng
tỏ tường. Có lẽ nó cũng lấp láy, thậm chí là lấp lánh sinh động nhất trong số
những vì sao mà chúng ta đã thấy trong Vũ Trụ, nhưng vì tần số lấp láy quá cao,
vượt qua ngưỡng nhận biết của một cơ thể sinh vật nên chúng ta không cảm giác được.
Chúng ta cố gắng quan chiêm cho thật rõ ngôi sao làm mê mẩn lòng người ấy và thấy
hình như không phải… ngôi sao. Một ngôi sao phải tròn trịa chứ không thể quắc
thước như thế, không thể là gồm hai vạch sáng quắc chụm đầu vào nhau thành hình
chữ “V” lộn ngược (“”) được. Nhưng nếu không phải là ngôi sao thì đó là cái gì? Là
cái gì? Là cái gì? Là… cái… gì? … Á, á, á… á… á: là… Đỉnh - núi - Tu - Di - huyền
- thoại, chứ còn là cái gì được nữa!!!
Lòng chúng ta bùng
lên niềm sung sướng vô hạn. Thật là tuyệt vời đến không thể tuyệt vời hơn!
Trong đời người, có những lúc hạnh phúc đến bất chợt, không thể ngờ được. Và những
lúc ấy, hạnh phúc thường tràn trề, tạm thời xoa dịu, khỏa lấp hết mọi nỗi ưu
phiền, lo âu và đau khổ thường trực của một kiếp đời nhân thế. Lần này cũng vậy,
và có lẽ là lần hạnh phúc nhất trong cuộc đời chúng ta. Không biết hạnh phúc đến
tột độ gọi là gì, nhưng lúc này đây, mọi sầu muộn, thấp thỏm, thương nhớ, buồn đau
chất chứa một cách cố hữu trong chúng ta từ ngày cha sinh mẹ đẻ đến giờ bỗng
nhiên tan biến tất cả, ngay cả nỗi cô đơn, nhọc nhằn ghê hồn đang đè nặng trĩu
tâm can cũng tự dưng được trút bỏ, nhường chỗ cho sự phấn khích, thích thú, vui
tươi, an lành và niềm hy vọng chứa chan! Yêu đời quá đi!
Dù vẫn còn xa vời
lắm lắm, nhưng so với chặng đường dài từ Trái Đất đến đây, coi như đỉnh núi Tu
Di huyền thoại đã lù lù trước mặt chúng ta và như vậy, đối với chúng ta, nó cũng
sắp sửa mất đi… tính huyền thoại và chính cuộc hành trình của chúng ta sẽ trở
thành huyền thoại. Nghĩ ra ý tưởng hay ho như thế bất giác làm cho chúng ta nhớ
tới rượu và thèm rượu. Trước viễn cảnh tươi đẹp này và trong tâm trạng rừng rực
sảng khoái này mà có được một chai uýtxki loại hảo hạng thì tuyệt cú mèo. Đối với
người đàn ông đứng đắn thì không biết thế nào chứ đối với chung ta, những kẻ chưa
từng biết sống đứng đắn là gì thì có hai thứ mê tơi (hiểu là mê mẩn đến tả tơi)
nhất trong đời là rượu và đàn bà. Hai thứ ấy có tác dụng giải sầu rất tốt một
khi chúng ta nổi cơn sầu muộn và hơn nữa còn tạo ra trạng thái sung sướng, cuồng
nhiệt, mãn nguyện. Tuy nhiên, nếu thấy vậy mà tham lam, “nốc (nhậu) thái quá thì
dễ thành bị “nốc ao” (knock out - đo ván), nghĩa là lại quay về với sầu muộn, ủ
dột thậm chí là ở mức độ còn “tả tơi” hơn trước. bây giờ mà có được một chai Uýtxki
hảo hạng (không cần đàn bà!) là đủ cho chúng ta tự chuốc mình một chầu bí tỉ để
tự chúc tụng cái sự “bất khuất” và “tài năng kiệt xuất” của bản thân mình trong
“công cuộc” thêu dệt, bịa đặt và dựng chuyện trắng trợn. Thật đáng tiếc vì ở đây
chẳng thể bói đâu ra được một giọt rượu! Thôi! Hãy cố “nung nấu” sự thèm khát
cho đến khi về lại giải Ngân Hà vậy! Lúc đó biết đâu chừng chúng ta uống rượu có
cả Hằng Nga bên cạnh vỗ về!
Đừng tưởng chỉ ở
Trái Đất mới có rượu! Theo nhà vật lý thiên văn Nguyễn Quang
Riệu thì vào năm 1975, các nhà vật lý thiên văn vô tuyến Mỹ đã phát hiện được rượu
êtylic (thứ mà con người ưa chuộng) trên bước sóng 3mm trong đám mây phân tử khổng
lồ ở trung tâm giải Ngân hà. Trong bài báo cáo công trình phát hiện đăng trong
một tạp chí khoa học, họ khởi đầu như sau: “Ngay từ buổi bình minh của những nền
văn minh, rượu êtylic đã là một sở thích của nhân loại. Hơi rượu trong đám mây
phân tử phát hiện được ở trong tâm giải Ngân Hà, nếu đọng thành rượu nguyên chất,
phải chứa trong 1028 chai loại 0,75 lít. Kho tàng rượu này nhiều hơn
hẳn tất cả lượng rượu cất được bởi loài người từ xưa đến nay”. Cũng theo Nguyễn
Quang Riệu thì kho rượu thiên nhiên quí báu đó có thể cung cấp mỗi ngày một
chai cho mỗi người đối với toàn bộ nam, phụ, lão, ấu đang sống hiện nay trong
suốt thời gian là 5.1015 (năm triệu tỷ!) năm. Ghê chưa?!(Hết chương XXXXIII).
------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét