TT&HĐ V - 44/e
Nguồn gốc của loài người [Phần 1/3]
PHẦN V: THỐNG NHẤT
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG V (XXXXVI): CHIÊM BÁI
“Bằng
cách ở mỗi hiện tượng tự nhiên của cái riêng lẻ, cái qui ước và ngẫu
nhiên, chúng ta hướng mắt đến cái phổ quát, cái khách quan và tất yếu,
thì đó là chúng ta tìm cái độc lập đằng sau cái lệ thuộc, cái tuyệt đối
đằng sau cái tương đối, cái vĩnh cửu đằng sau cái vô thường. Và như tôi
nhìn thấy, cái khuynh hướng này biểu lộ không những trong vật lý học, mà
còn trong mỗi ngành khoa học, vâng, không chỉ trên lĩnh vực khoa học,
mà còn trên lĩnh vực của cái thiện và cái mỹ”.
“Cái
huyền diệu là trong tất cả các hiện tượng của tự nhiên, có một tính qui
luật phổ quát ngự trị mà ở mức độ nào đó, có thể nhận thức được đối với
chúng ta”.
Max Planck
Albert Einstein
Albert Einstein
(Tiếp theo)
Do
sự hối thúc khách quan luôn thường trực nên khi đã hình thành tiền ngôn
ngữ rồi thì bộ não của tổ tiên loài người vẫn không dừng lại, mà tiếp
tục phát triển thứ ngôn ngữ sơ khai ấy lên mức độ ngày càng phong phú,
phức tạp để rồi cuối cùng làm xuất hiện ra ngôn ngữ thực thụ. Biểu hiện
đặc thù của ngôn ngữ là có thể kết hợp những tín hiệu phát âm theo một
thứ tự hợp lý để tạo ra những cái gọi là tiếng nói, rồi từ những tiếng
nói lại được kết hợp theo một thứ tự hợp lý để có được những đoạn nói
dài ngắn khác nhau gọi là câu nói, cuối cùng, có thể lắp ghép những câu
nói ấy theo một trình tự hợp lý để có được một bài nói, một cuộc nói dài
ngắn tùy ý nhằm truyền đạt một lượng thông tin “dài hơi”, mang một hay
nhiều nội dung nhất quán nào đó. Tùy vào nội dung thông tin mà sự truyền
đạt đó có ý nghĩa là sự mô tả, sự giãi bày, sự giải thích, sự mách bảo
kinh nghiệm, sự khuyến cáo…
Có
thể tin được rằng, trước khi ngôn ngữ thực thụ hình thành thì bộ não của
tổ tiên loài người đã biết đến sự suy nghĩ tự phát hay tư duy lôgic dạng sơ khai. Như vậy, trong một
chừng mực nhất định, có thể kết luận rằng, bộ não của tổ tiên loài người
đã làm hình thành nên ngôn ngữ thông qua thanh quản và cơ quan phát âm
và đồng thời cũng thông qua quá trình hình thành ngôn ngữ mà tự hoàn
thiện mình từ không biết suy diễn lên trình độ biết tư duy lôgic, tư duy trừu tượng một cách hoàn hảo. Nếu có thể
nói bộ não của tổ tiên loài người đã sáng tạo ra ngôn ngữ cho loài
người thì cũng có thể nói đến lượt ngôn ngữ tác động trở lại bộ não ấy,
làm cho nó biến thành bộ não người biết suy nghĩ (trên ngôn ngữ ấy) và
suy nghĩ ngày một sâu sắc. Điều đó cũng có nghĩa là khi xuất hiện ngôn
ngữ thì đồng thời tổ tiên loài người đã hoàn thành sứ mạng thiêng liêng
của mình là phục tùng tự nhiên và cùng với tự nhiên hun đúc nên hậu duệ
của mình: loài người. Và những thế hệ đầu tiên của loài người - gọi là
người nguyên thủy - được trang bị một phương tiện cực kỳ đắc dụng là
ngôn ngữ thực thụ dù còn sơ khai, đóng vai trò là con cháu trực tiếp của
tổ tiên loài người, lại tiếp tục bước trên con đường tự chuyển hóa
thích nghi mà cha ông họ nhường lại, lại tiếp tục công cuộc mưu sinh đầy
khó khăn gian khổ nhưng cũng đầy vui thú mà cha ông họ đã bàn giao lại.
Bạn có tò mò về hình dáng hậu duệ của chúng ta sau 1000 năm nữa? Đừng sốc khi xem những hình ảnh này!
1. Con người sẽ cao hơn
2. Tay chân dài ra
3. Ruột ngắn lại
4. Bộ não teo lại
5. Mắt to hơn
6. Răng ít hơn
7. Cằm to hơn
8. Mũi giống nhau
9. Tóc ít hơn
Lao
động sáng tạo là sự làm ăn đặc thù của con người, chỉ gióng loài biết tư duy trừu tượng mới có, cho nên
phải cho rằng khi loài người nguyên thủy xuất hiện thì lao động sáng tạo của họ
cũng xuất hiện theo, dù trình độ sáng tạo của lao động ấy “chẳng ra làm sao cả”.
Vậy thì có thể nói, lao động đồng thời xuất hiện với sự xuất hiện ngôn
ngữ và loài người nguyên thủy. Nhưng thử hỏi, loài người nguyên thủy
xuất hiện cụ thể trong khoảng thời gian nào? Thật là vô cùng khó khăn
trong việc xác định khoảng thời gian ấy! Hiện nay các nhà khoa học vẫn
đang bàn luận sôi nổi với nhiều đoán định những cơ sở chắc chắn và đang
chờ những phát hiện mới từ khảo cổ. Về vấn đề này, có thể tham khảo
trong cuốn “Con người không thể đoán trước” của André Bourguignon, nhà
nhân học người Pháp. Sau đây là những trích lược từ tác phẩm ấy:
“Thật
nghịch lý, con người vừa là già nhất vừa là trẻ nhất trong các động
vật, vì nó là kết quả của sự tiến hóa dài nhất (…). Khi một cái trứng
của người mẹ vừa được thụ thai, nói giống như một eucaryote đơn bào cách
đây một tỷ rưỡi năm. Nguồn gốc những đốt sống của nó có từ 430 triệu
năm. Cấu trúc mô ở răng và hàm dưới của nó có từ 400 triệu năm và các
chi có năm ngón chưa hoàn thiện của nó có từ 350 triệu năm. Ở nó, sự
phân hóa của răng thành răng cửa, răng nanh và răng hàm là một đặc điểm
có từ 200 triệu năm, còn hình thức cũ có bốn mặt của răng hàm thì có từ
160 triệu năm. Nhưng thế đứng thẳng của nó chỉ mới có từ 4 đến 5 triệu
năm. Để có một ý niệm về vị trí của nó trong thời gian tiến hóa của sinh
vật, người ta thường dùng một lối ẩn dụ cổ điển là ghi tuổi hành tinh
chúng ta thành một năm (…). Một kiểu ẩn dụ thô sơ giống như thế cũng cho
phép có một ý niệm (…) về sự tiến hóa gia tốc của họ người (…). Nhưng
bằng cách tạo ra một kiểu ẩn dụ theo thang thời gian lịch sử như vậy,
người ta vẫn thấy một qui luật giống như thế về tăng trưởng gia tốc -
thậm chí với một sự gia tốc ngày càng lớn - đối với phần lớn những quá
trình công nghệ và xã hội: sự bành trướng dân số, sức mạnh của những tư
liệu sản xuất năng lượng, tốc độ di chuyển trên bộ và trên không… Với
một sự kiện mới trong lịch sử họ người, đó là sự ngưng trệ từ 50 ngàn
đến 100 ngàn năm của mọi tiến hóa hình thái đáng kể, đã xác nhận ý kiến
cho rằng, phần lớn các quá trình tăng trưởng và bành trướng đều sớm hay
muộn bị chậm lại, bị đình chỉ, thậm chí bị đảo ngược bởi những tác động
thụt lùi tiêu cực, nếu không thế thì những quá trình ấy sẽ kết thúc bằng
một sự “bùng nổ”, một tai biến.
(…)
Như
Leroi - Gouthan (1964) đã diễn đạt rất hay, con người chỉ có thể xuất
hiện sau nhiều sự “giải phóng”: giải phóng thân thể đối với yếu tố nước
và những bó buộc của nhiệt từ môi trường, và tôi xin nói thêm, giải phóng
cái đầu đối với mặt đất, giải phóng bàn tay đối với sự di chuyển, giải
phóng não đối với khuôn mặt.
Con
người thuộc bộ linh trưởng, những động vật xuất hiện cách đây 65 triệu
năm, còn những linh trưởng cấp cao thì xuất hiện 30 triệu năm sau đó.
Nhưng khoảng từ 30 triệu năm đến 6 triệu năm cách nay, chúng ít tiến
hóa, điều đó sẽ là một luận cứ ủng hộ cho lý thuyết về những cân bằng
từng lúc. Thật vậy, từ 7 đến 4.5 triệu năm cách nay mới bắt đầu lịch sử
gia tốc của quá trình người hóa. Trước khi xuất hiện những đại diện đầu
tiên của giống Homo thì, một động vật họ người, được Dart đặt tên là
Australapithecus vào năm 1925, đã sống ở Đông Phi và Nam Phi, mà người
ta có thể theo dõi sự tiến hóa của nó trong hàng triệu năm. Hóa thạch
xưa nhất được biết hiện nay đã có hơn 4 triệu năm, nhưng rất có khả năng
là thời điểm ấy còn lùi xa hơn. Australopithecus đầu tiên được đặt tên
là afarensis và từ đó nảy sinh ra nhánh người đích thực, ít ra là đối
với một số tác giả. Dù sao thì nó cũng tiếp tục lâu dài sự tiến hóa
riêng của nó bên cạnh con người để liên tiếp trở thành A. africanus, A.
robustus, A. boisei. Tuy nhiên sự nối dõi đó bị nhiều người phản bác.
Theo Coppens (1983), A. afrensis là một tiền Australopithecus.
Australopithecus tiêu vong cách đây từ 500 ngàn đến một triệu năm. Thời
đại xuất hiện của nó được đánh dấu bằng một biến đổi về khí hậu sau một
giai đoạn băng hà. Ở Đông Phi, thời tiết trở nên khô hơn, rừng lùi đi
nhường chỗ cho trảng cỏ có cây, còn ở phía tây thì rừng ẩm vẫn còn nên
không thuận lợi chút nào cho sự bảo tồn các hóa thạch. Sự biến đổi khí
hậu này không chỉ kéo theo sự xuất hiện của Australopithecus, mà còn kéo
theo sự xuất hiện của những loài linh dương và khỉ đầu chó mới.
A.
afrensis chắc chắn là động vật họ người đầu tiên đã được biết tới (…).
Nó khác với khỉ vì không có răng nanh của khỉ Gorille và cả của Tinh
tinh nữa, nhưng vẫn còn giữ lại bộ não nhỏ bé (500 cm3, tính
trung bình) và một số tính chất của cánh tay. Hoàn toàn không loại trừ
việc nó vẫn còn có khả năng leo cây và vận động trên cây (đu cành) tương
đối thoải mái. Tầm vóc của nó rất nhỏ, khoảng 1 m đến 1,1 m, nhưng đi
theo tư thế thẳng người dựa vào hai chân (đi hai chân). Những dấu vết
của nó, được phát hiện ngẫu nhiên ở Laetoli, là một trong những tài liệu
gây chấn động nhất trong lịch sử loài người. Trên một độ cao đã tìm
thấy được, họ có hai người, tầm vóc không ngang nhau, người nhỏ hơn đang
cõng một cái gì đó - một người mẹ và đứa con mình chăng? - và dừng lại
một lát để ngoái nhìn lại đằng sau. Mặt đất phủ đầy tro phun ra từ một
núi lửa (Sadiman) cách đó chừng 20 km nên đã giữ được những dấu vết của
hai người ấy cùng với dấu vết của nhiều động vật thường qua lại trên
cánh đồng vào thời của họ. Thậm chí còn giữ được dấu vết của những giọt
mưa nữa. Đó là cách đây 3,7 triệu năm. Một triệu năm sau, có thể ít hơn,
Australopithecus đã bắt đầu chế tác những công cụ bằng đá cuội cải tiến
thô sơ và mảnh thạch anh, dùng vào rất nhiều việc. Có lẽ điều quan
trọng nhất cần nhớ là việc đi hai chân và chế tác công cụ, dù thô sơ
nhất, không nảy sinh đồng thời với nhau. Phải mất nhiều thời gian để
chuyển từ chuyện này sang chuyện kia.
(…)
Dòng
họ Australopithecus chưa tiêu vong thì đã có một nhánh khởi đầu cho
giống Homo tách ra, cách đây 2,5 triệu năm, mà đại diện đầu tiên là Homo
habilis. Nhưng theo Coppens và Senut (1985), nguồn gốc của nó còn xưa
hơn nữa (khoảng 4 triệu năm). Dù sao thì nó cũng không tiếp nối A boisei
hay A. robustus là những ngõ cụt tiến hóa, mà nối tiếp A. afarensis hay
A. africanus. Châu Phi dường như đúng là cái nôi của giống Homo, dù cho
các hóa thạch cách đầy 2 triệu năm cũng được tìm thấy ở Trung Quốc. Sự
ra đời của nó trùng với một sự gia tăng hạn hán và cùng với sự phân hóa
của nhiều động vật có vú ra thành nhiều loài.
A. afarensis và africanus chỉ có 400 đến 500 cm3 thể tích hộp sọ (chứa não), trong khi thể tích đó của H. habilis đạt tới 650 cm3
(tính trung bình). Nhất là khối mặt của nó giảm đi ở tất cả các chiều.
Sọ của nó tròn lại, trán nhô ra và vòm sọ phồng lên theo chiều ngang,
còn các vùng trán và cùng xương đỉnh sọ thì rộng ra. Với tầm vóc hơi to
hơn (cao 140 cm), nó có những chi trên hơi ngắn hơn và do đó, không thể
đu cành được. Chế độ ăn uống của nó đã thay đổi, trở thành động vật ăn
tạp. Chưa phải là kẻ săn bắt mà chỉ ăn xác chết. Nó xé và cắt các thi
hài của những động vật lớn ra từng mảnh, giống như hà mã. Nó sống thành
những nhóm nhỏ, gần các sông và hồ do môi trường cằn cỗi đi, tự làm lấy
những nơi ở rất thô sơ để chống gió. Công nghiệp đá của nó không tiến
hơn chút nào so với Australopithecus.
Cái
tên Homo erectus được đặt cho một tập hợp hóa thạch rất đa dạng, trước
tiên tìm thấy ở Java (Pithecanthropus erectus), rồi ở Trung Quốc
(Sinanthropus pekinesis), ở Châu Phi và Châu Âu.
Nhưng
đôi khi, đứng trước những di tích xương, thật khó mà nói rằng đó là một
H. habilis phát triển hay một H. erectus cổ xưa, vì sự tiến hóa của con
người diễn ra theo lối tranh ghép mảnh, những biến đổi giải phẫu, sự
phát triển của não và những tiến bộ kỹ thuật không bao giờ là đồng thời
cả. Tuy nhiên, có hai sự kiện đặc trưng cho giai đoạn H. erectus: đã có
những mỏ đá ở ngoài Châu Phi, ở lục địa Âu - Á, và có thể đã có sự điều
khiển lửa. Ở Châu Phi không thấy có một đứt quãng nào giữa
Australopithecus, H. habilis và H. erectus, mà sự có mặt của nó đã được
xác nhận cho tới cách đây 120 ngàn năm. Hơn nữa, H. erectus cổ nhất đã
được xác định niên đại (1,82 triệu năm) là ở Châu Phi, trong khi nhiều
hóa thạch ở Java không phải bao giờ cũng có niên đại chính xác cả, ở
Trung Quốc, nó có mặt cách đây 1,7 triệu năm và ở Châu Âu cách đây 1,5
triệu năm, nhưng chỉ được xác nhận qua công nghiệp đá. Sọ xưa nhất của
H. erectus Châu Âu (Tautavel) chỉ mới 450 ngàn năm. Tất cả những biến
đổi ở sọ đã thấy được ở H. habilis đều được cường điệu, với một sự khác
nhau lớn về dung tích sọ ngay bên trong mỗi vùng địa lý. Nói chung, dung
tích ấy là từ 800 đến 1400 cm3. Tiến bộ kỹ thuật hiển nhiên
nhất là, sau khi đã làm chủ được lửa, xuất hiện việc chế tác những đồ đá
mài hai mặt cách đây 1,4 triệu năm. Những nơi được đặt biệt nghiên cứu
rõ (ở Trung Quốc và Pháp) đã cho chúng ta biết được nhiều về sự tiến hóa
hình thái và văn hóa của H. erectus.
Người
vượn Bắc Kinh có lẽ là một trong những hóa thạch nổi tiếng nhất. Nó
được phát hiện trước chiến tranh thế giới thứ hai, trong một hang động
gần Chu Cẩm Điếm, cách Bắc Kinh 50 km. Hang động này không ngừng có
người ở trong 230 ngàn năm, bắt đầu từ cách đây460 ngàn năm. Các hóa
thạch và công cụ đã tìm thấy nằm tản mát trong một cái kho có chiều dày
40m, có phủ một lớp tro cao 6m, chúng cho thấy hai sự tiến hóa của não
và của văn hóa, đặc biệt là những công cụ và kỹ thuật chặt đẽo, một sự
tiến hóa chậm chạp lúc đầu rồi dần dần nhanh hơn. Những di tích gồm 40
cá nhân khác nhau, đủ hai giới tính và đủ các lứa tuổi, đã xác nhận sự
gia tăng từ từ của khối lượng hộp sọ. Khung xương mang tính chất hoàn
toàn hiện đại, trừ độ dày hơn của thành xương (…). H. erectus pekimensis
săn bắt những con mồi nhỏ và lớn (96 loài có vú đã được tìm thấy) và
chia nhau sau những cuộc săn bắt ấy, còn đàn bà thì hái lượm hạt và quả.
Họ dùng lửa để nướng thức ăn và để sưởi ấm. Công cụ đá hoàn thiện dần
chứng tỏ có sự truyền thụ và cải tiến những kỹ thuật của họ từ đời này
sang đời khác.
Năm
1965 và 1966, ở sườn núi Boron, Lumley và nhóm của ông đã khám phá ra
những dấu vết nơi ở trên nhiều độ cao khác nhau (xưa nhất là cách đây
500 ngàn năm), cho phép có một ý niệm về H. erectus săn bắt, hái lượm và
du cư. Nó sống ở đó trong những cái lều to làm bằng cành cây, có cột
chống, và có thể chứa tới khoảng hai chục người. Mặt đất phủ những tấm
da, bếp nấu được che gió bằng một tảng đá, còn những chỗ giành để ngủ
thì khác với những chỗ cất giữ thịt và nấu thức ăn (…).
Theo
Coppens và Peyer (1985), việc H. erectus phát triển với H. sapiens xảy
ra ở khắp nơi, dù không phải là đồng thời thì cũng cho phép họ như cùng
một loài duy nhất, với những trao đổi di truyền và văn hóa diễn ra nhiều
và đều đặn, nhưng không gây trở ngại cho tính bền vững của một số đặc
trưng vùng, chẳng hạn “răng hình lưỡi mai” và khuôn mặt bẹp của các cư
dân Trung Quốc. Chính những đặc trưng bền vững này đã cắt nghĩa tại sao
có tính đa dạng hiện nay của các cư dân con người. Sinh ra ở Châu Phi
cách đây 1,8 triệu năm, H. erectus đã phân tán khắp lục địa Âu - Á cách
đây từ 1,7 đến 0,9 triệu năm, phân hóa theo những vùng cư trú của nó.
(…) H. sapiens có hai loài nhỏ: Homo sapiens neandertalensis và Homo sapiens sapiens, và chúng ta thuộc vào loài sau (…).
(…)
H.
s. sapiens gần đây nhất là người Cro-Magnon (…). Những người này có mặt
ở Inđônêxia và ở Maghres cách đây 130 ngàn năm. (…). H. s. sapiens tỏa
ra khắp Trái Đất, chinh phục Châu Mỹ, Niu Ginê, Úc và Nhật Bản cách đây
20 ngàn đến 40 ngàn năm. Với nó, mọi cái được đẩy nhanh, trong khi hình
thái của nó, giống như chúng ta, đã ngừng tiến hóa, dường như thế. Trái
lại, văn hóa của nó, từ Aungnacien trở đi, đã tiến hóa một cách độc lập
với khí hậu và cho thấy có những biểu hiện nghệ thuật rõ rệt đầu tiên.
(Việc phát hiện ra ở Pech-de-Aze (Pháp) một khúc xương có trang trí
những vết khắc không có tính tượng hình đã có từ 250 ngàn năm nay, cho
phép người ta nghĩ rằng những biểu hiện đồ họa đầu tiên có thể gán cho
H. erectus). Còn công nghiệp đá của nó thì không cho thấy đứt quãng nào
với công nghiệp đá của người Néanderthal.
(…)
Một
ngày nào đó, cách đây từ 10 ngàn đến 20 ngàn năm, H. s. sapiens đã định
cư lại trong khi theo đuổi hoạt động săn bắt và hái lượm của nó, và
cùng lúc đó Trái Đất cũng nóng lên. Thật vậy, nó đã giải quyết được vấn
đề tích trữ một số nguồn thức ăn trong một thời hạn vừa hay dài. Sự kiện
ấy chắc đã xảy ra vào cuối thời đá cũ và trong thời đá giữa (…). Nhưng
chúng ta sẽ thấy, bước ngoặt lớn không phải là thiết lập được nông
nghiệp và chăn nuôi với những lợi thế không rõ ràng vào buổi đầu của các
ngành này, mà là việc chuyển từ du cư sang định cư.
Từ
đó, mọi cái, hay gần như mọi cái đều đã được biết rõ. Các làng mạc từ
đất đi ra, các thành phố, các quốc gia ra đời, những sự tàn bạo, những
cuộc giết chóc, những cuộc chiến tranh nối tiếp nhau, chữ viết xuất hiện
vào 3300 năm trước Công Nguyên (…). Nó làm thay đổi và tiếp tục làm
thay đổi môi trường của mình. Dần dà, nó vượt quá những giới hạn của sự
chừng mực…”.
Một
cách tương đối, có thể coi trích lược trên, một cách chung nhất, là
quan niệm hiện nay của các nhà nhân học về quá trình lịch sử hình thành
nên loài người. Vì suy đoán chủ yếu dựa trên cơ sở triết học duy tồn nên
quan niệm của chúng ta về quá trình ấy tương đối khác. Tuy nhiên dù
theo quan niệm của chúng ta, trong trích lược trên có những nhận xét
chưa thỏa đáng thì cũng không thể phủ nhận, bác bỏ được những phát hiện
khảo cổ, những kết quả xác định một cách khoa học về những khoảng thời
gian xảy ra các sự kiện trong tiến trình lịch sử người hóa được. Do đó,
muốn bảo lưu quan niệm của mình, chúng ta, không thể nào khác, phải làm
sao cho nó phù hợp với khảo cổ học.
Người
hóa là một quá trình tiến hóa lúc nhanh, lúc chậm, có cả lúc chững lại,
thậm chí, xét về mặt bộ phận, có những hướng được thấy như thoái hóa
đi, nhưng xét về tổng thể thì đó là một quá trình “tiến lên” thích nghi
từ từ rất lâu dài về mặt thời gian trước một môi trường luôn luôn biến
đổi mà chủ yếu là trước sự biến đổi có xu thế nói chung là bất lợi, nảy
sinh ra trong cuộc đấu tranh sinh tồn giữa các giống loài sinh vật. Vì
thế mà một cách khách quan, sẽ không có một thời điểm dứt khoát và rành
mạch từ con vật hóa thành con người theo kiểu đột biến được. Nhưng một
cách tương đối thì có thể qui ước và dựa vào kết quả khảo cổ mà xác định
được thời điểm ấy (khoảng thời gian rất ngắn so với chiều dài của quá
trình người hóa).
Có
thể qua hình hài vóc dáng mà phân biệt được con người với con vật nào
đó. Nhưng sự phân biệt đó chỉ có tính bề ngoài, hình thức và chỉ nói lên
được rằng đó là hai động vật thuộc hai loài khác nhau. Sự phân biệt đó
thật tầm thường, không nêu ra được tính “khác hẳn” của loài người đối
với mọi giống loài muông thú khác, tính nổi trội hơn hẳn, thậm chí là
trong thực tế, loài người tỏ ra như là đã thoát ly khỏi thế giới sinh
vật. Nếu chỉ dựa vào hình thể và cho rằng nhờ tiến hóa mà hình thể con
người ưu việt hơn con vật thì thật là lầm to! Rõ ràng, xét về mặt hiệu
quả săn bắt con mồi thì hình thể con người “quá kém cỏi” so với hình thể
con hổ hay con báo, xét về mặt đu cành thì nó kém xa loài khỉ và xét về
mặt bay trên không trung thì bản thân nó hoàn toàn bất lực. Vậy thì dựa
vào tiêu chuẩn nào để vạch ra được sự khác biệt cơ bản biểu hiện rất rõ
ràng trong hiện thực giữa con người và con vật, không thể chối cãi
được? Đó chính là cái ưu thế, cái uy quyền hầu như tuyệt đối mà loài
người đã giành được, đã chiếm lĩnh được trong cuộc đấu tranh sinh tồn
gay gắt giữa các giống loài sinh vật, cũng như cái khả năng to lớn mà
loài người có được, và chỉ riêng loài người có được trong việc chế ngự,
chinh phục thiên nhiên, khai thác, biến đổi thiên nhiên nhằm phục vị cho
lợi ích của mình. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, loài người có được cái
địa vị mà nó tự phong là “chúa tể” đó là do sự vận động, chuyển hóa của
môi trường thiên nhiên làm xuất hiện quá trình tiến hóa thích nghi
trong thế giới sinh vật và thông qua quá trình đó hun đúc nên, Nhờ quá
trình tiến hóa thích nghi mà loài người xuất hiện, trở thành lực lượng
thống trị trong thế giới sinh vật, có sức mạnh tưởng chừng như vô địch
trong việc làm biến đổi môi trường thiên nhiên. Được như vậy không phải
vì con người có hình thể hợp lý nhất mà chính là vì có được một bộ não
ưu tú nhất: biết suy nghĩ sâu sắc. Như vậy, sự khác biệt cơ bản nhất, rõ
ràng nhất, giữa loài người và loài vật chính là ở chỗ loài người biết
suy nghĩ sâu sắc còn loài vật thì không. Từ sự phân biệt này mà thấy,
nếu lao động là chỉ ở loài người mới có, thì lao động chính là hành vi
“làm việc” của một giống loài biết suy nghĩ sâu sắc, biết tư duy trừu
tượng đến cao độ, và đây cũng chính là bản chất đặc thù của lao động.
Vậy thì những biểu hiện nào của lao động được cho là đặc thù mà ở loài
vật không thể có được? Nếu hành vi làm việc ở loài vật nổi trội rõ rệt
tính tự phát bản năng, thụ động, ngẫu nhiên, nhất thời, đơn điệu và có
thời gian thực hiện một công việc nào đó nói chung là tương đối ngắn
ngủi, thì hành vi làm việc - tức lao động - ở loài người lại nổi trội rõ
rệt tính tự giác lý trí, chủ động, có chủ đích, có tính năng động sáng
tạo cao độ, đa dạng, bền bỉ thực hiện liên tục một công việc lớn lao nào
đó đã hoạch định trước vì một mục đích lâu dài. Nói tóm lại lao động là
hành vi làm việc có lý trí của con người và biểu hiện đặc thù của nó
chính là tính năng động, sáng tạo và có ý thức phối hợp đến cao độ mà ở
loài vật không hề có hoặc nếu cho là có đi chăng nữa thì cũng hoàn toàn
mờ nhạt.
Daniel Lee đã khiến dân mạng xôn xao về " thuyết tiến hóa" do mình sáng tạo.
Vì
đã “trót lỡ” quan niệm con người chỉ có thể xuất hiện vào giai đoạn nửa
sau của quá trình hình thành ngôn ngữ cho nên chúng ta cho rằng lao
động cũng xuất hiện trong thời đoạn đó. Vậy thì ngôn ngữ giao tiếp
nguyên thủy (còn sơ sài hời hợt nhưng đã có thể dùng nó làm phương tiện
để suy xét, suy lý, dù có thể là còn rất đơn giản nhưng đã tương đối
mạch lạc) xuất hiện cụ thể trong khoảng thời gian nào trong lịch trình
người hóa? Chúng ta lại trích lược một đoạn từ tác phẩm “Loài người
không thể đoán trước” để tham khảo, dù không thừa nhận một số ý kiến
trong đó:
“Giống
như tất cả những biến đổi có tác động xã hội mạnh mẽ, sự ra đời của
ngôn ngữ có những nền tảng sinh học, nhưng những nền tảng ấy còn sâu xa
hơn, mang bản chất giải phẫu và sinh lý. Để nói, cần phải có những khả
năng nói, và để có những khả năng đó, phải có một bộ não và một hệ thống
phát âm thích hợp. Ở trình độ bộ não, ngôn ngữ đòi hỏi phải có một vùng
riêng biệt, vùng Broca, nằm ở hồi trán thứ ba bên trái. (…).Ở
Australopithecus, nó chỉ mới manh nha (…). Sự tồn tại của nó trên thực
tế đã bị qui định bởi sự mở rộng các vùng trán, thành và thái dương của
vỏ não, nhờ vào vùng chẩm (thị giác), vì ngôn ngữ huy động cả những vùng
khác ngoài vùng Broca nữa (…).
Còn
về hệ thống phát âm đã được nhiều tác giả nghiên cứu, trong đó có
Lieberman (1975) và Laitman (1986). Theo hai người này thì nó hoạt động
như một tổng thể. Để tạo ra được lời nói, phải có một tư thế và một hình
dạng của yết hầu, nhất là kênh trên hầu, miệng, môi lưỡi và cả hốc mũi.
Khả năng vận hành của tất cả các cơ quan ấy phụ thuộc vào hình thức và
tư thế tương ứng của sọ và hàm dưới. Tất nhiên, nếu hầu nằm quá cao thì
không thể phát ra lời được, đó là trường hợp của trẻ sơ sinh và những
động vật hình người trưởng thành (…).
Laitman
đã chú trọng tới giải phẫu học về yết hầu của những động vật có vú, của
trẻ em và cả những người lớn hóa thạch, vì nhận thấy rằng vị trí của
yết hầu có tương quan chặt chẽ với hình thức của nền sọ, nơi qui tụ
những cơ họng và cơ hầu. Khi hầu ở vị trí cao (…) con người đồng thời
vừa thở vừa nuốt nước được, nhưng nó chỉ có thể điều biến một cách yếu
ớt - cùng với miệng và đôi môi - những âm thanh phát ra từ những dây
thanh, khiến cho ngôn ngữ có âm tiết chưa thể hình thành. Khi yết hầu ở
vị trí thấp (…), con người không thể thở và nuốt cùng một lúc được mà
không gặp nguy hiểm, nhưng lúc đó, do có một hốc miệng lớn ở bên trên
yết hầu, nên nó có thể tạo ra một ngôn ngữ có âm tiết. Thế mà người ta
thấy rằng, tất cả các động vật có vú, trừ con người trưởng thành ra, đều
có một yết hầu nằm ở vị trí cao, và cũng thấy như vậy ở trẻ con trước
18 tháng hay 2 năm. Vào tuổi ấy, yết hầu bắt đầu tụt xuống cổ và vì thế,
có thể có ngôn ngữ có âm tiết. Từ việc đo “đường nền của sọ”, Laitman
đã nhận xét rằng Australopithecus và Homohabilis chưa có ngôn ngữ có âm
tiết, còn Homo erectus thì đã có thể dùng một thứ ngôn ngữ thô sơ, và
chỉ từ 300 ngàn đến 400 ngàn năm trước kỷ nguyên chúng ta mới bắt đầu
hình thành ngôn ngữ có âm tiết.
Đối
với Lieberman, thì cách đây 40 ngàn đến 50 ngàn năm, Homo s. sapiens và
những tiền bối trực tiếp của nó đã có khả năng nói như chúng ta (…).
Những hình thức giao tiếp khác bằng âm thanh có trước đó liệu đã được
gọi là ngôn ngữ chưa? Không thể quyết định điều đó được, đó là một vấn
đề về định nghĩa. Tobias (1980) và Coppens (1983) cho rằng ngôn ngữ đã
xuất hiện cùng với Homo habilis. Còn theo Bounat (1958), thì nó xuất
hiện cách đây 300 ngàn năm - phù hợp với những giả thuyết của Laitman -
khi những công cụ đá bắt đầu mang những hình thức cố định, đều đặn và
lặp đi lặp lại, chứng tỏ đã có một kỹ thuật có thể truyền thụ bằng lời
nói được (…)."
Nếu
chọn thời gian xuất hiện ngôn ngữ của loài người từ trích đoạn trên thì
chúng ta chọn khoảng thời gian nào? Để có thể trả lời câu hỏi đó và hơn
nữa phải “hợp lý hóa” cho được cái quan niệm tổ quán của loài người là
một miền duyên hải có khí hậu nhiệt đới, thời tiết hài hòa nào đó với
những phát hiện khảo cổ đã nêu trong hai trích lược, thì chúng ta lại
phải bàn thêm chút ít nữa về ngôn ngữ và về sự người hóa.
Như
chúng ta đã quan niệm thì ngôn ngữ là kết quả có tính đặc thù, được tạo
thành từ đòi hỏi khách quan là tăng cường khả năng sống còn, tăng cường
ưu thế trong đấu tranh sinh tồn cho giống loài, thông qua quá trình
tiến hóa thích nghi. Ngôn ngữ xuất hiện là nhằm đáp ứng sự thu - phát
thông tin bằng âm thanh, lợi dụng khí quyển làm khâu trung gian truyền
dẫn. Cách thức truyền đạt và thu nhận thông tin bằng âm thanh là có tính
phổ biến trong thế giới sinh vật, và là một cách thức hiệu quả giúp cho
các cá thể thông báo, giao tiếp được với nhau trong nội bộ giống loài,
ngoài ra ở nhiều loài còn được dùng như một phương tiện hù dọa, cảnh cáo
đối với kẻ thù hoặc dụ khị con mồi. Giao tiếp bằng ngôn ngữ là trình độ
cao nhất của hình thức giao tiếp bằng âm thanh, có tính đặc thù, chỉ ở
loài người mới có. Nhưng nếu xét ở góc độ giao tiếp bằng âm thanh là sự
truyền đạt và tiếp thu được một số lượng âm tiết nhất định, dù ít dù
nhiều và gọi như thế là “nói được” thì không chỉ loài người biết nói mà
nhiều loài vật khác cũng biết nói. Với qui ước như vậy thì khi chim họa
mi hót cũng có nghĩa là nó đang nói, dù có thể suốt đời nó chỉ nói được
đúng có một câu. Thật buồn cười mà cũng khiên cưỡng khi nói thế nhưng
ngẫm kỹ thì không phải là hoàn toàn phi lý. Dễ thấy được điều này: ở
loài người, “nói” không phải là một hành động bản năng mà phải học mới
biết được. Điều đó cho phép nghĩ rằng tại thời điểm yết hầu của một đứa
trẻ tụt xuống thì não của nó cũng phát triển đến trình độ bắt chước được
để học nói. Nghĩa là muốn học nói thì phải có một bộ não thông minh ở
mức độ nhất định. Ở loài động vật có vú việc phát ra âm thanh đặc trưng
của giống loài từ cuống họng đã trở thành bản năng và hầu hết là chỉ có
một hoặc cùng lắm là hai, ba loại âm tiết, hơn nữa không thể dạy dỗ
chúng phát âm theo ngôn ngữ con người dù chỉ là một câu ngắn ngủi. Nhưng
ở lớp chim thì tình hình có hơi khác. Có nhiều loài chim biết hót líu
lo một tràng dài gồm nhiều loại âm tiết trầm bổng khác nhau. Để hót được
như vậy, hình như chúng cũng phải “học”, nghĩa là tiếng hót ấy có vẻ là
kết quả của lý trí nhiều hơn của bản năng. Trong thực tế, nhiều người
nuôi chim cảnh lớn đến độ nào đó thì phải mang lồng nhốt con chim cảnh
đến chỗ có con chim đồng loại đã biết hót để nó nghe tiếng hót ấy mà bắt
chước theo. Vậy, tiếng hót líu lo của loài chim có được coi là một thứ
ngôn ngữ sơ đẳng nào đó không? Có thể được nếu chúng ta thay đổi lại
định nghĩa ngôn ngữ! Đùa vui thế chứ chắc chắn là không rồi! Ngôn ngữ là
kết quả mà bộ não đã phát triển đến trình độ cao, đã bước đầu biết trừu
tượng, biết phán đoán đơn giản và bắt đầu tập sáng tạo, tạo ra được
trong suốt một quá trình lâu dài và đồng thời cũng nhờ quá trình đó,
thông qua sự hình thành và sử dụng thứ ngôn ngữ ngày một hoàn thiện mà
bản thân bộ não cũng tự nâng cao trình độ hoạt động của nó, biết tư duy
trừu tượng ngày một sâu sắc. Như vậy, ngôn ngữ không những là phương
tiện không thể thiếu được trong giao tiếp bằng âm thanh của loài người
mà còn là phương tiện cực kỳ quan trọng đối với sự suy nghĩ, nhận thức
của con người nữa. Những đứa trẻ câm điếc bẩm sinh thường là chậm phát
triển về trí tuệ và nếu còn bị mù bẩm sinh nữa thì không biết sự thể sẽ
ra sao?
Đúng
là ngôn ngữ có tính đặc thù rõ rệt và chỉ ở loài người mới có. Nhưng
điều thực sự lý thú và cũng không ít ngạc nhiên là không phải chỉ con
người mới biết nói thứ tiếng đó, Đối với những con chim như sáo, vẹt…
được nuôi đến độ tuổi thích hợp thì người ta có thể dạy dỗ chúng nói
được nhiều câu tiếng người, dù là ở loại ngôn ngữ của nước nào. Vậy thì
thử hỏi những loài chim ấy có trí thông minh không? Chắc là phải có một
chút thông minh nào đó chứ nếu không, làm sao chúng bắt chước được và
nhớ lại được? Tuy nhiên, sự thông minh ấy chẳng cao tý nào, chỉ là sự
“học vẹt”, thuộc đấy nhưng không thể hiểu được hàm nghĩa của những câu
nói để cứ thế nói lung tung, vô thưởng vô phạt theo lối phản xạ có điều
kiện. Dù sao thì hiện tượng chim nói tiếng người nhờ được dạy dỗ đã gợi
ra một suy nghĩ ngộ nghĩnh: nói được tiếng người không nhất thiết cần
đến hệ thống thanh quản và các cơ quan phối hợp để phát ra ngôn ngữ của
con người mà cái loa điện, con sáo, con vẹt… cũng làm được điều đó dù
không tự giác. Thế thì nếu bằng cách nào đó có thể thay não con vẹt bằng
não người, nó có thành con người - gọi là “người mỏ vẹt” - được không?
Mà sao trong thiên nhiên, quá trình người hóa không theo hướng con người
có cái mỏ như con vẹt? Hỏi như thế thì cũng có thể hỏi: tại sao một
loài vật tiền bối nào đó lại tiến hóa thành loài hổ chứ không thành loài
người?
***
Một
cách đại khái, có thể hình dung rằng, sự sống xuất hiện lần đầu tiên ở
trong lòng biển khơi. Chưa cần nói đến môi trường sống cũng có những
thời kỳ biến đổi gây bất lợi cho sự sống thì sự sống, trong điều kiện
hoàn cảnh thuận lợi của môi trường đối với nó mà tăng trưởng số lượng
thành viên một cách mù quán, có tính lạm phát, tự gây ra một quá trình
làm biến đổi môi trường sống của nó theo xu hướng bất lợi đối với chính
bản thân sự sống, đó là nguồn thức ăn ngày càng giảm, ngày càng khó khăn
để tiếp cận miếng ăn, dẫn đến nguy cơ bị tiêu vong. Cơ thể sống cũng
phải tuân theo nguyên lý sâu xa này: mọi thực thể đều phải tương tác với
môi trường chứa nó, tích cực vận động đến tận cùng khả năng để duy trì
cân bằng nội tại mà đảm bảo nó vẫn là nó (một cách tương đối trong sự
biến đổi tuyệt đối của tồn tại). Trên cơ sở đó, và trong tình hình ngày
càng khó khăn tiếp cận được miếng ăn, sự sống đã phải tự phát điều chỉnh
lại tốc độ tăng trưởng, tự phát cải tạo mình cho phù hợp với hoàn cảnh
mới và đồng thời qua đó mà làm xuất hiện những nguồn thức ăn bổ sung,
những chủng loại thức ăn mới. Đó chính là bước đi đầu tiên của cuộc đấu
tranh sinh tồn gay gắt và quá trình tiến hóa thích nghi theo nhiều hướng
và kéo dài xuyên suốt lịch sử tồn tại của thế giới sinh vật. Có thể nói
đấu tranh sinh tồn làm xuất hiện sự tiến hóa, tiến hóa để có khả năng
thích nghi giành ưu thế có lợi nhằm đảm bảo sống còn và đến lượt nó tác
động trở lại cuộc đấu tranh sinh tồn, gây ra sự điều chỉnh, biến đổi ở
một mức độ nào đó, ở một hướng nào đó đối với cuộc đấu tranh ấy. Vì đấu
tranh sinh tồn và tiến hóa thích nghi được thấy trong thực tế là đan xen
nhau, lồng vào nhau, có mối quan hệ hữu cơ với nhau, mà đấu tranh sinh
tồn là tiền đề tồn tại của tiến hóa thích nghi, nên có thể coi chúng là
hai mặt của một quá trình thống nhất và duy nhất. Quá trình thống nhất
này là giềng mối làm xuất hiện hai quá trình cơ bản, đóng vai trò như là
những hậu quả của nó, đó là sự mở rộng môi trường sống đến tận cùng khả
năng của sự sống trong thiên nhiên và quá trình đa dạng hóa đến vô cùng
phong phú các giống loài sinh vật (mà nhìn ở góc độ thống nhất thì đó
cũng là hai mặt có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại nhau
của một quá trình thống nhất và duy nhất).
Hai
quá trình cơ bản trên cho phép chúng ta lắp ghép nên một bức tranh có
phần thô sơ nhưng không đến nỗi bất hợp lý lắm. Lúc đầu sự sống chỉ có ở
biển khơi dưới dạng đơn giản nhất là những đơn bào nhỏ bé (vi sinh)
không có nhân. Những đơn bào đó dần chuyển biến: thành lớn hơn và có vài
ba dạng. Sau đó là sự xuất hiện các đơn bào có nhân nguyên thủy, tiếp
đến là đa bào nguyên thủy. Quá trình đa dạng hóa sự sống đó làm xuất
hiện một thế giới vi sinh vật phong phú trong đại dương. Sau quá trình
đó có thể là sự xuất hiện của những thực thể sống tạm gọi là “tiền thực
vật” - tổ tiên xa xôi nhất của thực vật sống dưới nước ngày nay như tảo,
rong, bèo… Tiếp theo, chắc phải là sự ra đời nhiều thực thể sống tạm
gọi là “tiền động vật”, lấy “tiền thực vật” làm nguồn thức ăn chính.
“Tiền động vật” chính là tiền thân của những động vật không xương sống
nguyên thủy. Nhiều khả năng sự phân chia thế giới sinh vật thành hai
giới thực vật và động vật xảy ra đầu tiên là ở đại dương.
Có
lẽ là do sự sống trong đại dương ngày càng gặp khó khăn, chủ yếu có thể
là bởi tăng trưởng về số lượng mà sự sống lan tỏa vào các cửa sông rồi
dần tiến về phía thượng nguồn cũng như vào các vùng đầm lầy, ao, hồ
thường có ở những miền duyên hải. Sự tiến hóa sinh vật làm xuất hiện
những giống loài mới thích nghi với những môi trường sống mới ấy. Đó
cũng chính là những miền trung gian để sự sống “đổ bộ” lên đất liền.
Đầu
tiên, thực vật sống trên cạn có dạng như rêu, sống quanh bờ đầm lầy, ao
hồ, dọc bờ các con sông, rồi lan tỏa sâu hơn trên cạn và đồng thời cũng
xuất hiện loại thực vật dạng cỏ, thấp nhỏ, có rễ và lá. Quá trình đó
làm xuất hiện động vật sống lưỡng cư đầu tiên, tiến hóa lên, theo các
nhà cổ sinh học, từ cá vây mấu. Càng ngày giới thực vật càng tiến sâu
vào đất liền và đồng thời cũng càng có nhiều giống loài với dáng vóc to
cao khác nhau; cả thân mềm lẫn thân cứng (thân mộc), kéo theo sự ra đời
lớp động vật sống hẳn trên cạn đầu tiên là bò sát, tiến hóa lên từ động
vật lưỡng cư nói trên (đã xuất hiện trong kỷ Devon, thuộc đại Cổ sinh,
cách nay khoảng 380 triệu năm).
Sau
khi đã hoàn toàn thích nghi với đời sống trên cạn thì bộ phận thực vật ở
đó bước vào thời kỳ tăng trưởng và đồng thời cũng cạnh tranh mạnh mẽ,
làm xuất hiện nhiều giống loài mới, đua nhau lan tỏa ra khắp những nơi
có thể, trong một môi trường mênh mông còn nhiều thuận lợi và có lượng
ôxy trong khí quyển ngày một dồi dào, do chính chúng tạo ra. Trong cuộc
cạnh tranh để sống sót và tăng trưởng đó, những giống loài thực vật thân
mộc ngày một chiếm ưu thế hơn vì thích nghi hơn, do đó sự tăng trưởng
của chúng dần dần có tính đột biến: lực lượng nhanh chóng đông đảo, kích
thước cây ngày càng to, càng cao (chẳng hạn cây Vẩy cao tới vài chục
mét). Kết quả là sự xuất hiện các khu rừng cổ sinh bạt ngàn, lúc đầu là ở
các vùng có khí hậu nhiệt đới, sau lan tràn ra khắp nơi. Những khi rừng
nguyên sinh bạt ngàn này đã hạn chế tối đa sự tăng trưởng của hệ thực
vật mà chúng che phủ. Để có thể hình dung được mức độ che phủ và xâm lấn
đất đai của những cây thân mộc khổng lồ thời kỳ này và suốt thời Trung
Sinh tiếp theo, chúng ta sẽ mô tả kỹ hơn về một loài cây thuộc họ thông
mà ngày nay vẫn còn có thể chiêm ngưỡng được ở Châu Mỹ.
Theo
các nhà thực vật học thì cách đây hơn 4 ngàn năm, xuất hiện loài cây có
tên gọi là Sequoia. Chúng hợp thành những cánh rừng bạt ngàn ven bờ
Thái Bình Dương trong vùng Bắc Mỹ và được phân biệt ra hai nhóm chính
dựa vào tán lá xanh hay đỏ. Tên gọi Sequoia là do tộc người Cherokee -
một trong những bộ lạc văn minh nhất, đặt Sequoia chính là tên người đã
sáng lập ra văn tự của họ (văn tự tượng hình gồm 86 hình). Loài cây
khổng lồ này có chiều cao trung bình từ 70 đến 120 m, có đường kính
trung bình 9 m, sống đến khoảng 3 - 4 ngàn năm tuổi. Chúng được phát
hiện lần đầu tiên vào năm 1885 bởi nhà thực vật học lỗi lạc người Anh
tên là William Lobe trong khu rừng nguyên sinh ở Vera Cruz thuộc
California. Từ 90 cây được phát hiện hồi đó, đến nay chỉ còn độ 30 cây
còn sống. Cây khổng lồ nhất (đã bị bão quật đổ) trong những cây khổng lồ
đó cao tới 140 m, có chu vi thân cây lên đến 35 m.
dâu, chị rất hay lén ra dựa gốc xoan…”
Cây Chandelier có tuổi thọ 2.400 năm.
Cây ở Tuolumne Grove đã trở thành một điểm thu hút khách tham quan, điều này khiến nhiều cây đường hầm khác được tạo ra sau đó.
dâu, chị rất hay lén ra dựa gốc xoan…”
Cây Sequoia tại khu Wawona Mariposa- Photo by Robert J. Boser
Cây General Sherman – nguồn travelalltogether.com
Nếu
có dịp đến thăm khu công viên bảo tồn quốc gia ở California (Mỹ), chúng
ta sẽ phải sửng sốt trước những cây Sequoia có chiều cao trung bình là
98m, có vòng thân mà 12 người nối tay nhau vẫn ôm không xuể và nếu tính
ra thì mỗi cây nặng trung bình đến 2 ngàn tấn (!). Lượng gỗ của một cây,
nếu đem xẻ ra sẽ làm được 40 ngôi nhà 5 gian rộng rãi với những bộ vĩ
kèo đồ sộ. Trong khu công viên này, có chỗ người ta còn làm đường lộ
xuyên qua gốc của cây Sequoia. Có lẽ vì sự khổng lồ đến mức choáng ngợp
của loài cây này mà ở đó, các nhà thực vật học Mỹ còn gọi chúng là tướng
quân Sherman - tên một viên tướng huyền thoại trong cuộc chiến tranh
Bắc - Nam ở nước Mỹ (1861-1865).
Quá
trình chuyển hóa và tăng trưởng của giới thực vật trên cạn đã tất yếu
làm xuất hiện sự chuyển hóa và tăng trưởng của giới động vật ăn thực vật
chủ yếu là bò sát (có thể lúc này chưa có động vật ăn thịt trên cạn)
theo hướng đa dạng hóa giống loài, phát triển về số lượng và đặc biệt là
theo một hướng có tính nổi trội hơn hẳn, được ưu tiên lựa chọn hơn hẳn,
đó là sự tăng lên nhanh chóng về mặt kích thước cơ thể đối với bò sát,
làm xuất hiện những giống loài bò sát thực sự khổng lồ (nhiều con trưởng
thành dài tới 25 m, nặng chừng 30 tấn), gọi là khủng long. Kích thước
cơ thể khổng lồ của khủng long tất nhiên cũng làm cho lượng thức ăn thực
vật (lá, cỏ) cần thiết mà nó tiêu thụ hàng ngày cũng rất lớn.
Hoàn
toàn tự nhiên là bất cứ giống loài nào vừa xuất hiện thì cũng lập tức
tăng trưởng và tăng trưởng với đà ngày càng nhanh về số lượng nếu không
gặp một tai biến bất ngờ nào. Nhưng sự tăng trưởng ấy không thể vô hạn
độ được mà đến lúc nào đó phải chậm dần rồi dừng lại, thậm chí, thay cho
nó là một quá trình triệt thoái về số lượng đến mức tuyệt chủng. Đó là
một hiện tượng phổ biến có tính qui luật trong thế giới sinh vật. Đối
với lực lượng khủng long cũng vậy nhưng chỉ có điều tốc độ tăng trưởng
về số lượng ở chúng là rất nhanh, rất mạnh mẽ và tốc độ triệt thoái đến
tuyệt chủng lại còn nhanh hơn nữa, có vẻ đột ngột.
Ngay
từ buổi đầu hiện diện trên mặt đất, khủng long đã ở trong một môi
trường sinh thái hết sức thuận lợi đối với chúng: đại ngàn cây cối mênh
mông và vẫn đang thời kỳ sung sức, với số lượng khủng long còn tương đối
ít ỏi thì đó là nguồn thức ăn vô cùng dồi dào. Nhờ thế mà cũng ngay từ
đầu, tốc độ tăng trưởng số lượng của chúng đã có biểu hiện về sự nhảy
vọt và sau đó trở nên bùng phát. Theo cách phân chia các thời kỳ lịch sử
sinh giới của các nhà cổ sinh học thì thời đại Trung sinh được bắt đầu
từ cách nay khoảng 250 triệu năm, kéo dài khoảng hơn 180 triệu năm, được
chia ra làm bốn kỷ: Kỷ Trias (gần 47 triệu năm), kỷ Jura (khoảng 68
triệu năm), kỷ Creta (khoảng 70 triệu năm). Khủng long - bò sát khổng lồ
đã xuất hiện trong kỷ Trias và bắt đầu lan tràn, thống trị trên mặt
đất. Có thể là trong khoảng thời gian cuối kỷ này, sự tăng trưởng lực
lượng khủng long ăn thực vật đã đạt đến tột độ, làm xuất hiện từng lúc,
từng nơi và dần dần trở nên thường xuyên hơn tình trạng khủng hoảng
thiếu thức ăn đối với những con vật hàng ngày phải cần đến những lượng
thức ăn to lớn. Cần nhớ rằng đi đôi với sự hình thành những cánh rừng
cây cối thân mộc là nạn cháy rừng, rừng càng bạt ngàn thì sự cháy rừng
càng trở nên khốc liệt về qui mô lan tỏa. Hiện tượng đó cũng là một tác
động làm nghiêm trọng thêm tình trạng khan hiếm thức ăn đối với động vật
ăn thực vật, nhất là đối với những con vật có cơ thể khổng lồ và hơn
nữa, làm giảm lượng ôxy trong khí quyển vốn dồi dào trước đó. Có thể
đoán rằng, bản thân sự tăng trưởng lực lượng đến cao độ và nạn cháy rừng
ngày một khốc liệt đã đưa khủng long vào tình thế khan hiếm thức ăn,
ngày một khó khăn hơn trong việc tìm kiếm thức ăn thực vật. Chính tình
thế đó đã buộc khủng long phải chuyển biến tích cực, tiến hóa theo chiều
hướng khác nhau để thích nghi với môi trường sống đã thay đổi ngày càng
bất lợi, nhằm duy trì sinh tồn. Nửa đầu quá trình tiến hóa của lực
lượng khủng long xảy ra trong kỷ Jura và được thấy như là sự tự cải tạo
hình vóc, cấu trúc cơ thể, điều chỉnh lại lối sống theo những cách khác
nhau, từ đó mà cũng tự phân hóa thành nhiều giống loài mới: một số trở
về với đời sống dưới nước, một số thích nghi với lối sống thường xuyên
trên cây, chuyển phương thức di chuyển bằng cách bay trong không trung
(thằn lằn có cánh, Chim thủy tổ), và đặc biệt là sự xuất hiện loài khủng
long ăn thịt, lấy động vật ăn thực vật làm nguồn thức ăn chủ yếu, làm
cho số còn lại phải tăng cường khả năng tự vệ theo cách này hay cách
khác. Nửa sau quá trình tiến hóa của lực lượng khủng long xảy ra trong
kỷ Creta, làm xuất hiện dạng động vật có vú. Lúc đầu động vật bò sát
khổng lồ vẫn tiếp tục đóng vai trò bá chủ trên đất liền, tuy nhiên sau
đó, đến cuối kỷ này thì đột nhiên bị tiêu vong hết, nhường vai trò bá
chủ cho động vật có vú đang phát triển mạnh mẽ ở khắp môi trường sống.
Trong cổ sinh học, có nhiều giả thuyết được đưa ra để giải thích nguyên
nhân biến mất kỳ lạ này của khủng long, trong đó có cả ý kiến cho rằng
vào cuối kỷ Creta, một thiên thạch khổng lồ đã đâm sầm vào Trái Đất.
Nhưng cũng có thể nghĩ đến nguyên nhân là do sự hoạt động tích cực một
cách bất thường của núi lửa, của nạn cháy rừng làm giảm có tính đột phát
lượng ôxy trong khí quyển, làm biến thái nhanh chóng rừng rậm nguyên
sinh theo hướng tiêu điều đi và do đó mà môi trường sống chuyển sang
tình trạng hoàn toàn bất lợi đối với cấu tạo sinh học cơ thể cũng như
lối sống của khủng long, làm chúng bị tuyệt diệt. Có khả năng sự tuyệt
diệt đó theo trình tự khủng long ăn thực vật bị tiêu vong kéo theo sự
tiêu vong của khủng long ăn thịt.
Tiếp
theo thời đại Trung sinh là thời đại Tân sinh. Thời đại này bắt đầu từ
khoảng 65 triệu năm trước đây và tiếp diễn đến ngày nay. Đây là kỷ
nguyên của động vật có vú và thực vật hạt kín. Có lẽ bước vào thời đại
này mới xuất hiện hiện tượng động vật ăn thịt không những ăn thịt động
vật ăn thực vật mà còn ăn cả động vật ăn thịt khác, Trong thời đại Tân
sinh, động vật có vú phát triển mạnh mẽ và mau chóng trở thành nhóm động
vật có ưu thế nhất trong cuộc đấu tranh sinh tồn trên Trái Đất. Tuy
nhiên không phải vì thế mà cuộc đấu tranh sinh tồn trong thế giới sinh
vật bớt gay gắt, thậm chí là còn gay gắt hơn, nghĩa là động vật có vú
vẫn tiếp tục quá trình tiến hóa theo nhiều hướng khác nhau tùy theo cấu
tạo cơ thể và lối sống đã định hình trước đó ở mỗi giống loài, cũng như
xu thế chuyển biến của môi trường thiên nhiên. Một trong những hướng
tiến hóa ấy đã làm xuất hiện loài người.
Theo
cổ sinh học thì động vật Linh trưởng là nhóm thú bậc cao đã tách ra từ
động vật ăn sâu bọ vào cuối kỷ Creta. Điểm đặc trưng nhất của nhóm này
là có đôi chi trước linh hoạt, có khả năng nắm bắt và leo trèo. Các giác
quan, đặc biệt là thị giác và thính giác, đã phát triển để thích ứng
với lối sống leo cây, đu cành, hái, lượm. Dựa vào mức độ tiến hóa thể
hiện chủ yếu trong cấu trúc hộp sọ và các chi mà người ta phân biệt
thành ba nhóm Linh trưởng. Nhóm Linh trưởng nguyên thủy nhất gọi là
Lemuroidea, có tầm vóc nhỏ, còn đi bằng bốn chân, hộp sọ nhỏ, vỏ bán cầu
đại não phẳng, mõm nhô về phía trước, mắt đã nhìn về phía trước nhưng
còn hướng nhiều sang hai bên. Đại biểu của nhóm này hiện còn sống trong
rừng nhiệt đới ở Châu Phi và được gọi là khỉ cáo (nhìn giống như con
cáo). Nhóm Linh trưởng thứ hai, tiến hóa hơn, gọi là Tarsioidea. Nhóm
này gồm những con vật có cặp mắt nhìn về phía trước tập trung hơn, đôi
chi sau dài, có hộp sọ lớn hơn của khỉ cáo, mõm cũng đỡ nhô về phía
trước hơn. Hiện còn đại diện là giống Tarsius, cũng sống trong rừng
nhiệt đới Châu Phi. Nhóm thứ ba gọi là Nhóm dạng người (Anthrôpidea).
Nhóm này được cho là tiến hóa nhất trong bộ Linh trưởng, bao gồm các
loại khỉ, vượn, vượn người, người vượn và người. Nét đặc trưng của nhóm
này là có mặt ngắn với đôi mắt hướng hoàn toàn về phía trước, hai chi
trước có các ngón dài, ngón cái đối diện với các ngón khác tạo khả năng
nắm bắt chặt chẽ và khéo léo, có hộp sọ lớn hơn nhiều so với các nhóm
Linh trưởng khác, não có cấu tạo phức tạp, có nhiều nếp nhăn trên vỏ
não.
Như thế, có thể xác định một quá trình tiến hóa làm xuất hiện loài người là: bò sát động vật ăn sâu bọ nhóm Linh trưởng thứ nhất nhóm Linh trưởng thứ hai nhóm Linh trưởng thứ ba người.
Trong tác phẩm “Nền văn minh Châu Phi”, Jacques Maquet (tác giả) cho
biết, năm 1930, trên một hòn đảo và bờ hồ Victoria (Châu Phi), Leakey đã
phát hiện được những hóa thạch của khoảng 100 cá thể có niên đại lên
đến 30 triệu năm. Một trong số đó được đặt tên là Proconsul, đã đủ khác
để phân biệt các đặc điểm giữa loài khỉ và loài người. Loài Proconsul
dường như đã sinh sống chủ yếu trên mặt đất, dù rằng xương tứ chi của
chúng cho thấy chúng vẫn có thể leo trèo trên cây. Năm 1962, ở gần
Kisumu - về phía đông bắc hồ Victoria, cũng chính là nhóm của Leakey đã
phát hiện xương hàm của một trong các vị tổ tiên xa xưa sống cách nay 14
triệu năm.
Từ
những phát hiện khảo cổ đó, dù vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn cãi về quá
trình người hóa, song có sự nhất trí chung tương đối về khoảng thời
gian xảy ra sự tiến hóa đó. Tổ tiên chung của con người và vượn người
ngày nay là con Proconsul sống cách nay khoảng 30 triệu năm. Tổ tiên
trực hệ của loài người đã xuất hiện trong khoảng từ 8 triệu năm đến 14
triệu năm cách ngày nay. Đến khoảng hơn 4 triệu năm trước đây thì xuất
hiện những thế hệ đầu tiên của giống Australopithecus (có thể là A.
frensis). Từ đó mà tiến hóa nên hai giống người Neanderthal và H. s.
sapiens. Giống người Neanderthal đột ngột bị tuyệt diệt (chưa biết
nguyên nhân vì sao, có thể là do bị dịch bệnh, có thể là do chính giống
H. s. sapiens tiêu diệt, cũng có thể chế độ ăn thiếu muối làm suy thoái
cơ thể gây ra…), còn giống H. s. sapiens tiếp tục tồn tại và trở thành
con người hoàn chỉnh như ngày nay.
Phác họa về loài Homo sapiens.
Bầy đàn người Neanderthal
Phác họa về loài Homo sapiens.
Người Neanderthal được tái hiện lại bằng phần mềm vi tính
Bầy đàn người Neanderthal
Tuy
nhiên, có một hiện tượng kỳ lạ và chưa có bất cứ một giải thích rõ ràng
nào. Đó là, dù các nhà khảo cổ đã nỗ lực tìm kiếm thì trong bộ sưu tập
các hóa thạch sắp xếp theo trình tự kế thừa tiến hóa thành con người,
không hề có một hóa thạch nào trong khoảng thời gian giữa cỡ 7 triệu năm
đến hơn 4 triệu năm trước đây, tạo ra một đứt quãng rất khó hiểu.
Năm
1960, nhà nhân loại học Alisthe, người Anh, đã đưa ra một bằng chứng
địa chất chứng minh rằng, trong khoảng thời gian giữa 8 triệu năm và 4
triệu năm trước đây tại miền Đông Phi, có một khu vực đất đai rộng lớn
bị nước biển làm chìm ngập, buộc một bộ phận loài vượn cổ phải xuống
sống dưới biển, trở thành loài gọi là “vượn nước”. Đến khoảng 4 triệu
năm sau, nước biển rút hết, số vượn nước lại trở về thích nghi với đời
sống trên cạn, trở thành tổ tiên của loài người. VÌ thế mà không tìm
được hóa thạch trong quãng thời gian đó. Thuyết vượn nước gây xôn xao
giới khoa học một thời. Chính Alisthe đã chỉ ra rằng, giai đoạn sống đời
hải dương này trong lịch sử người hóa còn để lại nhiều dấu vết trên con
người hiện đại như: cơ thể hầu như không có lông, tiết nước mắt và mồ
hôi làm mất một phần muối có trong cơ thể, nếu sinh con trong nước thì
đứa con thực hiện những hành vi như có bản năng bơi lặn… Nói chung rất
nhiều đặc trưng sinh lý của con người giống với các loài động vật có vú
sống dưới biển (như loài báo biển chẳng hạn). Tuy nhiên thuyết vượn nước
bị không ít các nhà nghiên cứu phản đối, trong đó, vấn đề lớn nhất là
không có đầy đủ căn cứ hóa thạch để làm bằng chứng. Chúng ta cũng cho
rằng thuyết đó sai vì sống trong biển hàng mấy triệu năm mà không biến
đổi hình dạng cơ thể cho phù hợp với môi trường sống đó.
Chúng
ta vẫn kiên trì với phán đoán: tổ tiên đầu tiên của loài người là loài
linh trưởng cổ sống ở khu vực duyên hải, nơi vừa có đất liền vừa có sông
ngòi, ao hồ, đầm lầy đan xen, cỏ mọc chen cây cối và gần biển cả… Với
phán đoán đó và kết hợp với những tư liệu, nhận định khảo cổ cơ bản đã
trình bày ở trên, chúng ta sẽ nêu ra một giả thuyết về nguồn gốc loài
người và quá trình người hóa.
(Còn tiếp)
------------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét