Thứ Bảy, 6 tháng 11, 2021

TT&HĐ V - 43/q


 
[Triết học Mác - Lênin] Vật chất và ý thức (Bài giảng khái quát - Phần 1)

PHẦN V:     THỐNG NHẤT 

"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
                                                                                                                               Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
                                                                                                                                       Upanishad       

CHƯƠNG IV (XXXXIII): ÊTE


“Một con người có thể thành công trong bất cứ việc gì nếu anh ta đổ vào đó một lòng nhiệt thành vô hạn”.
Charles Schwab

“Nếu toán học quắc thước, ngạo nghễ và hùng vĩ như những kim tự tháp Ai Cập thì vật lý học uyển chuyển, lúc điềm tĩnh lúc cuồn cuộn dâng trào như dòng sông Nin và chúng hợp thành một quang cảnh hiện thực khách quan vô cùng sinh động, vừa sáng lạn, vừa kỳ bí, được tạo dựng bởi thiên nhiên hoang dã và sự cộng tác sáng tạo của lý trí loài người”.
Thầy Cãi

“Đôi lúc cuộc sống thật khắc nghiệt, rắn như thép đã tôi. Nó có những lúc ảm đạm và đau đớn. Như bất cứ một dòng chảy nào của một con sông, cuộc sống có những lúc khô cạn và những khi triều cường. Cũng như sự thay đổi theo chu kỳ từ trước đến nay của các mùa, cuộc sống có cái ấm áp dễ chịu của những mùa hè và cái rét buốt của những mùa đông…Nhưng chúng ta có thể tự nâng mình lên khỏi nỗi chán chường và tuyệt vọng, vươn đến sự vui vẻ của hy vọng và biến đổi các thung lũng hoang vắng, tăm tối thành những lối đi chan hoà ánh nắng của sự thanh bình sâu lắng”.
 MARTIN LUTHER KING 

"Sai lầm lớn nhất của Anhxtanh là tin theo quan niệm coi thời gian như vật chất, có thể co giãn được và hòa quyện vào không gian được. Do đó nếu ngày nay học thuyết tương đối trở thành cơ sở chủ yếu cho nhận thức vật lý học về Vũ Trụ, thì tương lai nó chỉ còn là một huyền thoại của một thời ảo mộng. Có thể coi không gian và thời gian quan hệ khăng khít như hình với bóng, như thể xác với linh hồn, nhưng phải được phân biệt dứt khoát với điều kiện tiên quyết: không có hình thì không có bóng, không có thể xác thì tuyệt đối không có linh hồn".
NTT

"Tất cả mọi điều trên thế giới này đều được hy vọng làm nên".  

 

 

(Tiếp theo)

                                                ***

Nói đến một thực thể cụ thể nào đó thì phải nói đến lượng cụ thể và chất cụ thể của nó. Một lượng cụ thể bao giờ cũng phải kèm theo một con số và một thứ nguyên, chẳng hạn 1kg, 2m3, 3 lít, 4 “xị” (thèm rượu quá! he, he!)… Một khi chỉ nói “lượng” không thôi thì nó mang ý nghĩa phổ quát. Đối với chất cũng vậy. Nói đến một chất cụ thể thì phải kèm thêm một thuật ngữ như "chất cồn" (lại thèm rượu!)… Còn nếu chỉ nói “chất” cụt lủn thế thôi thì nó cũng mang ý nghĩa phổ quát. Một vật hay thực thể nào đó bao giờ cũng hàm chứa một lượng nào đó và một chất nào đó. Có thể nói, đặc trưng cơ bản của vạn vật - thực thể là lượng và chất. Có lượng thì phải có chất và ngược lại, có chất thì nhất thiết phải có lượng! 
Như chúng ta đã quan niệm thì có hai hình thức tồn tại là tồn tại thực và tồn tại ảo. Trong hai hình thức tồn tại ấy, chỉ có tồn tại thực mới có chất và do đó chỉ có tồn tại thực mới được gọi là vật - thực thể (dù hiện hữu hay không hiện hữu!). Khi nói đến vật thì đã hàm ý về lượng cho nên có thể dùng thuật ngữ “vật chất” để gọi bao hàm mọi tồn tại thực trong Vũ Trụ.
Biết được nguồn gốc và bản chất vật chất là ước mơ của loài người từ thời âm u tối cổ cho đến ngày nay. Hàng trăm thế hệ các nhà hiền triết, các nhà tư tưởng ưu tú nhất đã cố công đi tìm lời giải đáp khả dĩ, xây dựng những triết thuyết về vấn đề đó. Song, phải nói rằng, không có triết thuyết nào không chứa đựng ít nhiều mâu thuẫn trong lòng nó.
Rất có thể cái nôi của triết học cổ đại là vùng Nam - Châu Á và cũng rất có thể xuất phát điểm của nó là ở đâu đó thuộc miền Đông Nam Á, nơi mà con người ở đó đã sáng tạo ra Hà Đồ - Lạc Thư. Đến lúc này, chúng ta vẫn tin là tổ tiên người Việt cổ là tác giả của Hà Đồ - Lạc Thư.
Triết lý về tự nhiên của loài người nảy sinh ra từ thực tiễn cuộc sống, từ yêu cầu phải tìm hiểu tự nhiên để mưu sinh. Cuộc hành trình đi nhận biết nguồn gốc của tự nhiên, căn nguyên của thế giới loài người có thể là đã được bắt đầu từ rất sớm, rất sâu trong tối cổ. Tuy nhiên, theo nghiên cứu lịch sử ngày nay ghi nhận thì những suy tư có tính triết lý sâu sắc và mạch lạc được cho là sớm nhất còn lưu lại được (dưới dạng thơ ca, thánh kinh) của nhân loại là ở trong bộ thánh ca RigVêda - niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ. Có thể coi thánh ca Rig Vêda là sự hàm chứa một cách cốt lõi nhất nhận thức của loài người về tự nhiên từ tối cổ cho đến thời điểm nó xuất hiện và truyền khẩu trong dân gian, đồng thời cũng có thể coi nó là cái gốc chung của mọi trào lưu triết học thời cổ đại của loài người.
Ngay từ buổi bình minh của triết học thời cổ đại, dù là còn khoác lớp áo thần bí thì nhiều nhận định có tính minh triết sâu sắc và uyên thâm đã được nêu ra, đóng vai trò như chân lý phổ quát về tự nhiên đã được nhận thức, như tiền đề, sự định hướng để từ đó đặt ra nhiệm vụ cơ bản nhất, trọng yếu nhất cho bước nhận thức tiếp theo. Sau đây là một vài trích dẫn từ thánh kinh Rig Vêda để phần nào thấy được các bậc hiền triết Ấn Độ cổ xưa suy tư trác tuyệt như thế nào:
Đoạn ca tụng Thượng Đế sáng tạo (chính là Tạo Hóa chứ không phải là Thượng Đế của Thiên chúa giáo):
“Ngài là Đức Cha, Đức Sáng Tạo
Định mệnh thiêng liêng đối với tất cả chúng ta
Ngài biết tất cả Vũ Trụ
Ngài là duy nhất
Vậy mà Ngài mang nhiều danh hiện thần linh vô kể
Chính ngài mà tất cả nhân dân trên mặt đất cố sức muốn biết”
(Rig Vêda X. 82-83)
Đoạn ca tụng Thần Kiến Thiết (Vicvakatman):
“Lúc khai thiên lập địa
Ngài ở tại đâu?
Thần Kiến Thiết vĩ đại!
Người chứng kiến bất tử của muôn vật
Đã thúc đẩy cuộc sáng tạo như thế nào
Với cái gì?
Làm thế nào mà Ngài đã phô diễn vòm trời kia?
Và mặt đất ở dưới này?
Tai và mắt Ngài đâu đâu cũng có!
Diện mục Ngài ở khắp cả mọi nơi!
Ngài ở trong tất cả bàn tay,
Tất cả bàn chân.
Thượng Đế duy nhất vận động cánh và tay
Và đây, Ngài tạo ra đất và trời.
Với rừng nào,
Với gỗ nào,
Ngài đã dùng làm chất liệu để tạo thành trời, đất?...”
 (Rig. Vêda)
Đây là đoạn nói về nguyên lai sự khai thiên lập địa:
“Ở thuở ấy (trước cuộc sáng tạo, kiến thiết), chưa có hiện diện một vật gì mà cũng không phải là trống không (tồn tại nhưng chưa hiện hữu? Thời đó mà suy tư được như thế thì thật là tài tình!).
Bấy giờ chưa có địa giới này và cũng chưa có bầu không khí xa vời và cao tít trên đầu. Đã có không biết cái gì (như một dải sương mù: Maya) bao phủ hai thế giới chưa?
Có ai sống bấy giờ và ở đâu? Ở đây chỉ có một sự Nghiêm Nghị với Nghiêm Nghị mà thôi (nghĩa là chỉ có duy nhất Tồn Tại, chưa có sự nhận biết?).
Thuở ấy chưa có chết và không chết, chưa có gì khác nhau giữa ngày và đêm. Bấy giờ chỉ có cái Một hồn nhất, Tự Tại tối cao không chút gợn, yên lặng không một hơi thở. Sự thực chỉ có cái Một mà thôi… (tuyệt hay!).
Bấy giờ đêm dày bao phủ lấy đêm dày, tất cả còn chưa phân, tất cả chìm trong Hồng Thủy.
Bấy giờ Hiện Hữu còn chìm bên trong Vô Hữu, cái vĩ đại của nó chỉ biểu hiện ra là Nghiêm Nghị và Nghiêm Nghị mà thôi.
Bấy giờ một ý muốn đầu tiên (chí dục) xuất hiện trong cái THỨC Vũ Trụ hóa. Từ cái chí dục đầu tiên ấy (cú hích đầu tiên?) nảy nở mầm mống của tất cả sự vật…”
(Rig. Veda X.129)
Kết thúc bài thánh ca ấy là một câu hỏi vĩ đại được đặt ra cho nhận thức của loài người về tự nhiên mà chúng ta cho rằng đã làm bùng phát nên thành cao trào suy tư triết học, đạt tới không ít những thành tựu thực sự quan trọng, thực sự rực rỡ, lan rộng khắp từ Đông sang Tây trong suốt thời cổ đại, và câu hỏi ấy vẫn còn gây “nhức nhối” đến tận những thế hệ con người hiện nay, đó là:
               “Ai biết, ai có thể nói cho ta ở tại đây
               Tự đâu mà sinh ra có tạo vật?
               Chư vị Thần Linh không thể nói được
               Vì các Người ra đời sau cuộc sinh thành tạo thiên lập địa
               Vậy thì ai biết tự đâu sinh ra tạo vật?
Từ đâu mà có thế giới này?
               Thế giới này là sáng tạo hay không phải là sáng tạo?...”
Theo khảo cổ học thì tục thờ Linga - Yôni có xuất xứ từ Ấn Độ. Chúng ta đoán rằng chưa chắc đã như vậy. Tập tục thờ đó, hợp lý hơn, có thể được hình thành từ những quần thể xã hội trồng lúa nước đầu tiên trên thế giới, trong thời kỳ đã đạt đến mức sống sung túc, phồn thịnh, có lối sống phồn thực và có lẽ cũng đã có ý niệm lưỡng phân - lưỡng hợp là nguyên lý sinh thành và tạo dựng thế giới. Phải chăng nguồn gốc của tập tục ấy xuất hiện đầu tiên ở đâu đó thuộc miền đồng bằng ven biển Đông Á và Đông Nam Á, trong đó có cả Việt Nam, những nơi mà cho đến nay, người ta vẫn dùng đôi đũa làm phương tiện chủ yếu khi ăn uống? Không biết việc sử dụng đôi đũa bắt đầu từ lúc nào và tại sao phải dùng đũa khi mà như chúng ta cũng thấy việc dùng đũa một cách thành thạo trong ăn uống có vẻ khó khăn hơn rất nhiều so với cách dùng thìa, nĩa, dao… Có thể nguyên nhân cho việc dùng đũa là ở chủng loại thực phẩm mà người thượng cổ trồng lúa nước dùng có tính thường xuyên, ổn định. Phải chăng đó là chế độ ăn chín với thành phần chủ đạo là cơm, các loại rau, trái đậu… Món ăn nóng thì không dùng tay mà bốc được, rau khi đã nấu chính thì vừa rối vừa mềm oặt ẹo nên dùng thìa mà múc thì kể ra cũng thật bất tiện. Hóa ra, với chế độ ăn như vật thì dùng đũa gắp vào chén bát mà “và” cùng với cơm vào miệng lại thật là thuận tiện. Lấy đôi đũa để làm “thần tượng” biều trưng cho tính lưỡng phân - lưỡng hợp của thế giới thì không những cũng được, mà còn quá....hay.
Lão Tử là một trong vài nhà hiền triết thiên tài thời cổ đại của phương Đông cũng như của thế giới. Vừa trực tiếp, vừa gián tiếp, ông là người đã kế thừa xuất sắc nhất những tinh túy nhận thức triết học phương Đông ở thời kỳ trước mà sáng tạo ra một triết thuyết có cốt lõi đã tiếp cận rất gần với chân lý khách quan. Triết thuyết ấy đã giảng giải được một cách nhất quán, rất sâu sắc và cũng xác đáng về tự nhiên cũng như xã hội. Tác phẩm “Đạo đức Kinh” của ông dù còn những mặt hạn chế nhất định có tính thời đại thì vẫn là một tuyệt tác bất hủ của nhân loại và vĩnh viễn là niềm tự hào của dân tộc Trung Hoa. Nhiều người cho rằng triết thuyết của ông là duy vật, không ít người lại nghĩ rằng nó có tính thần bí, riêng chúng ta thì khẳng định rằng nó mang màu sắc huyền linh bởi chính tự nhiên là một huyền linh thực sự, và có thể gọi triết thuyết của Lão Tử là triết học duy tồn sơ khai. Từ “Đạo” mà ông dùng cũng hoàn toàn tương tự như thuật ngữ “Tự Nhiên Tồn Tại”. Ông hiểu Đạo vừa là bản thể, vừa là nguyên lý biến hóa của vạn vật thì cũng tương tự như chúng ta hiểu “Tự Nhiên Tồn Tại” vừa là thực thể vừa là nguyên lý tối cao của vận động. Đối với ông Đạo sinh ra vạn vật thì đối với chúng ta, Không Gian là nền tảng để từ đó mà xuất hiện vạn vật.
Lão Tử cũng quan niệm Vũ Trụ là một thể thống nhất vận động không ngừng và vạn vật đều sinh ra từ cùng một bản thể (mà chúng ta gọi là Không Gian). Muốn hiểu Lão Tử thì phải tưởng tượng đang ở thời đại ông để đồng cảm với ông. Khi đã đồng cảm thì sẽ “ngộ” được cái tuyệt, cái tài tình của một nhận thức sâu thẳm và đích đáng mà Lão Tử đã gửi gắm cho hậu thế ở những dòng dưới đây trong “Đạo đức Kinh”:
“Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cửu bất biến: tên mà có thể đặt ra để gọi nó (đạo) thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến.
“Không” là gọi cái bản thủy của trời đất, “có” là gọi mẹ sinh ra muôn vật.
Cho nên, tự thường đặt vào chỗ “không” là để xét cái thể vi diệu của nó (đạo), tự thường đặt vào chỗ “có” là để xét cái (dụng) vô biên của nó.
Hai cái đó (“không” và “có”) cũng từ đạo ra mà khác tên, đều là huyền diệu.
Huyền diệu rồi lại thêm huyền diệu, đó là cửa của mọi biến hóa kỳ diệu”.
“Đạo, bản thể thì hư không mà tác dụng thì cơ hồ vô cùng, nó uyên áo mà tựa như làm chủ tể vạn vật.
Nó không để lộ tinh nhuệ ra, gỡ những rối loạn, che bớt ánh sáng, hòa đồng với trần tục; nó sâu kín (không hiện hữu?) mà dường như trường tồn.
Ta không biết nó là con ai, có lẽ nó có trước thượng đế”.
“Thần hang bất tử, gọi là Huyền Tẫn (Mẹ nhiệm màu), cửa Huyền Tẫn là gốc của trời đất.
Dằng dặc mà bất tuyệt, tạo thành mọi thứ mà không kiệt”.
Như vậy, theo Lão Tử, Đạo (hay chúng ta gọi là Tồn Tại hay Tự Nhiên) là cái như nhất, đóng vai trò nguồn gốc của vạn vật (hay có thể gọi là vật chất). Khi đã xuất hiện vật chất rồi thì Vũ Trụ cũng phân lập thành hai thứ gọi là “có” và “không” để rồi có thể dựa vào chúng mà nhận biết thế giới.
Sau thời Lão tử nói chung, triết học cổ đại phương đông, trên bình diện tri thức khoa học còn rất manh mún, hoàn toàn không thể tiếp cứu cho nó, hình như đã đạt đến tận cùng khả năng trong việc nhận thức những vấn đề cơ bản nhất về bản chất của tự nhiên và nguyên nhân tạo sinh vạn vật. Ở những thời kỳ sau không phải là không xuất hiện những triết thuyết mới về tư nhiên, nhưng chúng ta cho rằng nội dung của chúng chỉ là sự mở rộng theo hướng cụ thể hóa những ý niệm, quan niệm đã có từ trước đó. Điều đáng chú ý là xu thế hướng về nhân sinh, lấy nhân sinh làm trọng tâm, chiêm nghiệm, thậm chí là làm đối tượng nhận thức chủ yếu. Từ đó mà xuất hiện những giáo lý rao giảng niềm tin tín ngưỡng.
Xã hội Hy Lạp cổ đại bước vào cường thịnh đã tạo điều kiện cho nghiên cứu triết học và khoa học ở đó phát triển. Tiếp thu những quan niệm tinh túy, những thành tựu suy lý có được của triết học cổ đại phương Đông về tự nhiên, các nhà tư tưởng Hi Lạp cổ đại đã phất cao ngọn cờ triết học của họ, đưa nhận thức triết học của loài người lên một trình độ tư duy mới, theo hướng biện giải thuần túy duy lý nên chắn chắn hơn, khúc chiết hơn, nhưng cũng vì thế mà bắt đầu hàm chứa tính cực đoan, mất đi cái vẻ đẹp hồn nhiên, cái uyển chuyển cần thiết mà triết học cổ đại phương Đông có được.
Có thể hiểu nôm na, nhận thức duy lý là tìm hiểu đối tượng đơn thuần bằng quá trình suy tư một cách hợp lý, có lý, khó lòng bác bỏ được. Nhưng suy tư hay tư duy thì phải bắt đầu từ quan sát và cuối cùng thì phải nói đến con người. Tư duy nhận thức về thế giới là con người tư duy nhận thức chứ không phải là cái gì khác. Các nhà hiền triết Hy Lạp cổ đại trên bước đường suy tư triết học đã nhận biết được rõ ràng điều đó, đã phân định được chủ thể và khách thể của quan sát - nhận thức. Trên cơ sở đó mà nhà hiền triết Platon đã đề ra học thuyết “ý niệm” - một học thuyết triết học mà tinh thần của nó còn sống mãi đến tận ngày nay và loài người vẫn chưa nguôi bàn luận về nó.
Theo thuyết ý niệm, có hai thế giới gọi là “hữu hình” và “vô hình” cùng tồn tại. Thế giới hữu hình là gồm những sự vật cảm tính quen thuộc, có thể trực giác được, thấy được, ai cũng có thể biết. Thế giới vô hình hay còn gọi là thế giới ý niệm, là thế giới không thể nhận thấy được bằng các giác quan, có bản chất siêu cảm tính, đòi hỏi những nỗ lực đặc biệt về trí tuệ mới có thể nhận thức được. Tuy nhiên, giữa ý niệm của một vật và bản thân vật có những quan hệ xác định cũng theo Platôn, ý niệm là nguyên mẫu lý tưởng của vật, là mô hình hoàn hảo của nó (eidos), mỗi vật đều có hình ảnh tương ứng, hình ảnh này biểu thị bản chất của nó; do vậy, vật là sự sao chụp không hoàn hảo của ý niệm, còn ý niệm là khuôn mẫu vươn tới nhưng không bao giờ đạt được của vật, đóng vai trò như một giới hạn. Cuối cùng, Platôn đã đi đến quan niệm cho rằng, thế giới cảm tính (hữu hình) không thể nhận được hình thức của mình bằng cách nào khác nếu không thông qua sự tiếp cận với thế giới ý niệm. Vì thế mà phải có một Đấng Sáng Thế tạo ra thế giới cảm tính theo khuôn mẫu của thế giới ý niệm. Đấng Sáng Thế là vốn dĩ tồn tại vĩnh hằng, đứng trước vật chất thuần túy, vô hình thức. Đấng Sáng Thế không tạo ra thế giới ý niệm mà làm hình thành vật chất, sử dụng vật chất để tạo ra thế giới hữu hình theo khuôn mẫu của thế giới ý niệm có tính lý tưởng.
Arixtốt (384-322 TCN) từng là học trò của Platon, dù có những phê phán kịch liệt tính tồn tại độc lập tương đối của hai thế giới ý niệm và hữu hình, dù cho rằng không có vật chất tuyệt đối xa lạ với hình dạng, tuyệt đối không có hình dạng (hay vô hình): nếu tước mất của vật tình cảm nhận được (tính hữu hình), là những cái cấu thành hình dạng của nó, các đặc điểm cảm tính hay tưởng tượng của nó, thì nó biến thành không tồn tại, thì vị hiền triết kiệt xuất này vẫn không thể vượt thoát được thần linh, vẫn phải thừa nhận có một Đấng Cứu  Thế (hay Thần).
Như vậy, triết học duy lý Hy Lạp cổ đại, do hạn chế thời đại mà đã không thể tự giải quyết được những khúc mắc, những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình suy tư của nó và dẫn đến một thời kỳ hoài nghi, thoái trào như chúng ta đã từng kể.
Thiên Chúa giáo ra đời có nhiều yếu tố hợp thành nguyên nhân. Nó có tính kế thừa từ Do Thái giáo và xa xôi hơn, có thể là từ tín ngưỡng Ấn Độ. Một trong nhiều yếu tố hợp thành nguyên nhân đó, phải kể đến sự hoài nghi và bi quan trong nhận thức tự nhiên, hình thành như một trào lưu nổi trội vào thời kỳ cuối của triết học Hi Lạp cổ đại. Mục đích cao cả của Thiên Chúa giáo có ngay từ buổi đầu tiên hình thành của nó (Đạo Ki Tô) là “cứu rỗi” nỗi đau thương trong tầng lớp lao động cần lao do biến động xã hội gây ra. Triết học Thiên Chúa giáo, không thể khác, cũng được xây dựng trên nền tảng triết học cổ đại Hi Lạp thời kỳ nặng nỗi hoài nghi và chính nó đã giải quyết “cái rụp” mọi bế tắc, mâu thuẫn mà triết học duy lý cổ đại Hi Lạp, vấp phải nhưng không thể tự giải quyết được. Thuyết “sáng thế” của Thiên Chúa giáo công khai khẳng định rằng chính Chúa đã sáng tạo ra trời đất, sinh vật, con người,… nói chung là toàn bộ thế gian từ hư vô một cách siêu lý tính, siêu duy lý. Chúa là thứ gì đó đứng trên tất cả, ngoài tất cả, toàn thiện, toàn năng và là nguyên nhân duy nhất làm xuất hiện vật chất.
Sự phát triển của nghiên cứu khoa học, nhất là vật lý học đã có tác động ngày càng mạnh mẽ đến suy tư triết học về tự nhiên theo hướng phải nhận thức sâu hơn nữa, cụ thể hơn nữa về bản chất vật chất cũng như nguồn gốc của nó. Tình hình đó làm cho trong hàng ngũ các nhà thần học Thiên Chúa giáo xuất hiện những tư tưởng hoài nghi về cách mà Chúa đã “sáng thế” dẫn đến đòi hỏi phải nhận thức lại ngay chính sự tồn tại và cách thức tồn tại của Chúa.
Đến thế kỷ XVII, ở Châu Âu, dù vẫn chưa gạt bỏ được hình bóng của Chúa trong khoa học thì nhận thức về mối quan hệ giữa Chúa (hay Thượng Đế) và vật chất đã có những biến đổi lớn lao theo hướng vật chất và vận động của chúng ngày càng được tháo bỏ “gông xiềng” khỏi Chúa, ngày càng bớt lệ thuộc vào Chúa.
Như đã kể, Đềcác là nhà tư tưởng duy lý. Có thể coi ông là kết quả được hun đúc từ sự khủng hoảng niềm tin tuyệt đối vào sự tồn tại của Chúa trong nhận thức về tự nhiên của loài người xuất hiện nổi trội ở châu Âu thời Phục hưng và cũng có thể coi ông là “con chiên ngoan đạo” của Ploton, xuất phát điểm cho quá trình suy lý nhiều sắc sảo mà cũng không ít lạ lùng của Đềcác là “hoài nghi tất cả”. Sự “hoài nghi tất cả” đó đã dẫn Đềcác đến luận điềm: “Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại” là luận điểm này làm tiền để để xây dựng nên học thuyết triết học của mình. Theo ý Đềcác, cái “tôi” ở đây không phải là cái tôi thể xác, cũng không phải là cái tôi cụ thể nào đó mà là cái tôi tinh thần “nấp” trong thể xác hay là sự tư duy của cái tôi nói chung. Nói “Tôi suy nghĩ, vậy tôi tồn tại” thì cũng hàm nghĩa rằng tồn tại khách quan không phải là cái có trước, “làm ra” tư duy, mà ngược lại, chính tư duy chủ quan mới dẫn đến ý niệm về tồn tại. Vì có tính chủ quan nên tư duy ở con người là không hoàn hảo, có lúc đúng, có lúc sai và nói chung là có sự hạn chế về nhận thức đối với thế giới khách quan ở bên ngoài nó. Đềcác cho rằng một nhận thức được thừa nhận là đúng về thế giới khách quan thì phải “rõ ràng và sáng sủa” vì sự “rõ ràng và sáng sủa” ấy đã được “chứng giám” bởi một “thực tồn” ở bên ngoài cái “tôi tồn tại”, đóng vai trò là chân lý tuyệt đối và được gọi là Thượng Đế. Thượng Đế là tinh thần hoàn hảo tuyệt đối và được gọi là tư duy “sáng láng” tuyệt đối, là tối cao, vô tận, đứng trên tất cả, ngoài tất cả, là “thực tồn” tự thân sinh ra mọi thứ. Mọi thứ ấy được phân định thành hai loại: một là thực thể tinh thần (phi vật chất), bao gồm toàn bộ các ý niệm, tư tưởng, tổng số các ý thức cá nhân của con người, hai là thực thể quảng tính (vật chất), bao gồm các sự vật muôn hình muôn vẻ mang tính không gian và thời gian. Đặc biệt, dưới con mắt vật lý của mình, Đềcác khẳng định rằng các thiên thể trong Vũ Trụ đều có cấu tạo từ vật chất, hay nói chung, vật chất là nguồn gốc chung của mọi sự vật, là thứ duy nhất tạo nên thế giới vạn vật, cho nên thế giới này cũng thống nhất ở tính vật chất của nó và hơn nữa, nhờ ơn chúa có thể nhận thức được hoàn tòan về nó.
Spinôda (Baruch Spinoza, 1632 - 1677) là nhà triết học người Hà Lan. Lúc nhỏ, ông được giáo dục để trở thành nhà thần học Do Thái giáo. Do hoàn cảnh khó khăn về kinh tế của gia đình mà ông buộc phải bỏ học giữa chừng. Chính điều đó đã giúp Spinôda chuyển sang nghiên cứu toán học, y học và triết học. Lúc trẻ, ông đã từng bị truy nã về tội không thường xuyên đến thánh đường và không thể hiện lòng mộ đạo cần thiết. Vào năm 1656, những tín đồ Do Thái giáo đã tổ chức rút phép thông công đối với Spinôda chỉ vì ông chú giải sai Thánh Kinh. Sau này, ông trở thành môn đồ, người tiếp thu có phê phán triết học Đềcác, và qua đó cũng đưa nhận thức triết học lên một bình diện mới.
Spinôda hoàn toàn thừa nhận quan niệm của Đềcác về sự tồn tại của một tinh thần tối cao, toàn thiện, tuyệt hảo và đó chính là Thượng Đế (hay Chúa). Ông cũng đồng ý rằng có thể minh chứng Chúa thực sự tồn tại và tồn tại tuyệt đối chính là Chúa. Để chứng minh điều đó, ông đưa ra và phát triển khái niệm “causa sui” (có thể hiểu là nguyên nhân đầu tiên tự phát sinh, nguyên nhân tự thân tồn tại, nguyên nhân tự nó. Ông viết: “Tôi hiều causa sui là cái mà bản chất bao hàm trong mình sự “tự tồn”, nói cách khác, bản chất của nó không thể hiểu theo cách nào khác ngoài cách: bản chất đang tồn tại”. Từ điểm xuất phát này, quá trình suy luận đã hướng Spinôda đến sự hợp nhất khái niệm “Chúa” với khái niệm “tự nhiên” và khái niệm “thực thể” . Cũng như Đềcác, Spinôda cho rằng trí tuệ hữu hạn (tư duy của cái tôi) tự thân nó không thể hiểu được cái gì nếu không được qui định bởi một cái gì đó ở bên ngoài nó có tính hoàn hảo hơn. Cái bên ngoài có tính hoàn hảo hơn đó là cái gì nếu không phải là Chúa và Chúa là gì nếu không phải là “tự nhiên” đang tồn tại có nguyên nhân tự nó mà chẳng cần đến cái gì khác nữa. Từ đây xuất hiện những khác biệt cơ bản trong quan niệm về Chúa của Spinôda đối với quan niệm của Đềcác. Theo Spinôda thì Chúa (hay tự nhiên) tồn tại không phải ở bên ngoài thế giới mà ở trong thế giới, mang tính nội tại và tương đồng với thế giới. Vậy Chúa cũng phải được coi như thực thể - một thực thể thần thánh duy nhất và tuyệt đối, “tự nhiên được sản sinh ra” (natura naturata) và “tự nhiên sinh ra” (natura naturans). Ông viết: “Tôi hiểu Chúa là thực thể tuyệt đối vô hạn, tức thực thể cấu thành từ vô số đặc tính, trong đó mỗi đặc tính đều biểu thị bản chất vĩnh hằng và vô hạn”, và: “Thực thể tuyệt đối vô hạn, hay Chúa, tự mình có năng lực tồn tại vô hạn và do vậy mà cũng tồn tại tuyệt đối”. Spinôda còn phân biệt tự nhiên thành tự nhiên chung và tự nhiên riêng có tính đặc thù, nếu thực thể là duy nhất tuyệt đối thì sự vật hữu hạn là nhiều vô số kể. Đối với Spinôda, vì thực thể, hay Chúa, hay Tự Nhiên là duy nhất nên hai thực thể quảng tính (extensio) và tư duy (cogitato) của Đềcác đã được qui về, biến thành hai thuộc tính của thực thể ấy.
Nếu Đềcác làm cho hình bóng của Chúa mờ nhạt đi nhiều trong Vũ Trụ thì Spinôda làm cho hình bóng ấy mờ nhạt hơn nữa. Tuy nhiên, nhận thức về bản nguyên vật chất của loài người nếu xét cho đến cùng thì coi như vẫn “dậm chân tại chỗ” kể từ thời Lão Tử, thậm chí là từ thời Veda và câu đố vĩ đại trong thánh kinh Rig Vêda, cho đến thời Spinôda, coi như vẫn “đứng vững như bàn thạch”. Trong bối cảnh đó, Niutơn đã nêu ra định nghĩa về vật chất để làm tiền đề cơ bản xây dựng lý thuyết cơ học của mình.
Nói thêm, chính học thuyết cơ học của Niutơn, kéo theo hàng loạt những phát kiến quan trọng về vật lý đã thổi một luồng gió mới vào nhận thức triết học về tự nhiên ở Châu Âu, làm xuất hiện một trào lưu triết học có tính đặc thù rõ rệt vào thời khai sáng ở Pháp (thế kỷ XVIII). Trào lưu triết học này còn được gọi là “Triết học khai sáng” hay “Triết học duy vật cơ giới”, mà người tiêu biểu và đóng vai trò đại diện xuất sắc của nó là Điđơrô.
Điđơrô (Denis Diderot, 1713 - 1784) là nhà văn và là nhà triết học lừng danh ở Pháp. Đầu tiên, ông học tại trường trung học Louis Đại Đế ở Pari, một trường nổi tiếng thời đó, rồi học làm mục sư theo ý muốn của gia đình. Nhưng ông không thích trở thành mục sư vì không tán thành những nguyên lý của nhà thờ. Điều đó làm cha của ông tức giận, không tiếp tục chu cấp tiền ăn học cho ông. Do vậy mà năm 1733, ông bước vào cuộc sống lang thang túng thiếu, làm nhiều nghề kiếm sống, đồng thời cũng say mê lao vào con đường sáng tác văn học, nghiên cứu triết học và khoa học.
Sáng tác của Đidơrô rất đa dạng và phong phú cho nên cũng đồ sộ. Năm 1746, ông cho ra đời một trong những tác phẩm triết học đầu tay của mình có tựa đề: “Những tư tưởng triết học”. tác phẩm có giá trị này bị Nghị viện Pari cấm lưu hành và ra lệnh tiêu hủy hết. Năm 1749, ông cho xuất bản tập văn “Bức thư về những người mù dành cho kẻ sáng mắt”. Vì nội dung duy vật, vô thần của tác phẩm này mà Điđơrô phải bị ngồi tù ba tháng. Năm 1751, ông lao vào biên soạn và làm chủ biên bộ “Bách Khoa toàn thư”. Công trình này gồm 35 tập, được xuất bản trong khoảng thời gian từ năm 1751 đến năm 1780, được coi là bước chuẩn bị cho sự hình thành hệ tư tưởng đóng vai trò vũ khí chính trị của cuộc cách mạng tư sản Pháp nổ ra vào năm 1789…
Suốt đời, Điđơrô sống trong nghèo túng. Vào năm 1773, ông đã phải bán tủ sách riêng của mình cho Nữ hoàng Nga, Catơrin II, người rất hâm mộ ông. Tuy đã mua tủ sách của ông nhưng Nữ hoàng vẫn để cho ông sử dụng và hơn nữa, còn trợ cấp thêm hàng năm cho ông. Cũng trong năm 1773, ông có qua Xanh Pêtécbua (thủ đô của nước Nga Sa hoàng thời đó) để cảm ơn bà.
Sau khi qua đời, Điđơrô được an táng tại nhà thờ Saint -Roch, nhưng đến nay không biết mộ phần của ông nằm ở đâu.
Về mặt thế giới quan, Điđơrô cho rằng không có Chúa, còn Tự Nhiên thì đơn giản là… tự nhiên thế thôi. Đối với ông, Tự Nhiên là một thực thể vật chất tồn tại vĩnh cửu, do vô số và đa dạng các thành tố hợp thành. Mỗi thành tố này đều có một lực đặc biệt, vĩnh cửu, không thủ tiêu được của riêng nó, Nhờ đó mà diễn ra sự vận động phổ biến, không ngừng. Ông coi vật chất là toàn bộ những thể có quảng tính, có hình thức, có tính chất không xuyên qua được và có chuyển động, còn không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất, nếu thời gian là sự nối tiếp nhau của các hoạt động thì không gian là sự chung sống của các hoạt động xảy ra cùng một lúc. Vì vận động không thể tách rời khỏi vật chất nên vận động phải là một thuộc tính của vật chất, đóng vai trò là phương thức tồn tại của vật chất. Điđơrô còn phân biệt hai dạng chủ yếu của vận động là chuyển động thay đổi vị trí và xu thế ở bên trong. Hơn nữa ông còn khẳng định, vì vận động là không ngừng và vĩnh cửu do đó không có đứng yên tuyệt đối mà chỉ có đứng yên tương đối trong tự nhiên.
Phải thừa nhận rằng, thế giới quan của Điđơrô là sự kế thừa có sáng tạo thế giới quan của nhà triết học người Đức tên là Hônbách. Hônbách (1723 - 1789) sinh ra ở Đức trong một gia đình dòng dõi nam tước, nhưng sống và học tập ở Pari, rồi tiếp theo, toàn bộ hoạt động, sự nghiệp của ông đều diễn ra trên đất Pháp. Ông là một trong những thủ lĩnh của trào lưu triết học khai sáng, đồng thời cũng là một trong những nhà tư tưởng tiên phong của cuộc cách mạng tư sản Pháp. Ông theo chủ nghĩa vô thần và kịch liệt phê phán tôn giáo. Ông từng viết: “Ngu dốt, lo sợ, đau khổ bao giờ cũng là nguồn gốc của những quan niệm đầu tiên ở con người về thần linh”. Ông chỉ rõ rằng thần học là thứ “khoa học mang màu sắc thần thánh dạy chúng ta suy nghĩ về những cái mà chúng ta không hiểu, và làm cho chúng ta mất quan niệm rõ ràng về những điều mà chúng ta hoàn toàn có thể hiểu được”. Chính vì có tư tưởng vô thần và tấn công trực tiếp vào tôn giáo mà ông, cũng như nhiều nhà triết học khai sáng khác không thể tránh khỏi sự truy bức, đàn áp ác liệt của giáo hội và triều đình Pháp thời kỳ đó.

                                                          Baruch Spinoza
Spinoza.jpg
Thời đại Triết học thế kỉ 17
Lĩnh vực Triết học phương Tây
Trường phái Chủ nghĩa duy lý, sáng lập chủ nghĩa Spinoza
Sở thích Luân lý học, Nhận thức luận, Siêu hình học
Ý tưởng nổi trội Thuyết phiếm thần, Thuyết nhất nguyên trung hòa, Tự do tôn giáo và tri thức/sự tách biệt giữa Nhà thờ và Nhà nước, Criticism of Mosaic authorship of certain Old Testament books, Xã hội chính trị xuất phát từ quyền lực, không phải khế ước
Louis-Michel van Loo 001.jpg
Denis Diderot
Thời đại Thời kỳ Khai sáng
Lĩnh vực Triết học phương Tây
Với quan niệm vô thần và duy vật, Hônbách thừa nhận tính vật chất của thế giới, coi vật chất là thứ duy nhất tồn tại. Theo ông định nghĩa thì “vật chất là tất cả những cái tác động bằng cách nào đó vào các giác quan của chúng ta, còn những đặc tính mà chúng ta gán cho các chất khác nhau do chúng gây ra trong chúng ta”. Nói đến mối quan hệ giữa vật chất và vận động, ông cho rằng vật chất đã, đang và sẽ tồn tại vĩnh viễn, còn “vận động là phương thức tồn tại xuất phát một cách tất nhiên từ bản chất vật chất”.
 
(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------------


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét