TT&HĐ V - 43/o
Động lượng và Định luật bảo toàn Động lượng
PHẦN V: THỐNG NHẤT
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG IV (XXXXIII): ÊTE
“Một con người có thể thành công trong bất cứ việc gì nếu anh ta đổ vào đó một lòng nhiệt thành vô hạn”.
Charles Schwab
“Nếu
toán học quắc thước, ngạo nghễ và hùng vĩ như những kim tự tháp Ai Cập
thì vật lý học uyển chuyển, lúc điềm tĩnh lúc cuồn cuộn dâng trào như
dòng sông Nin và chúng hợp thành một quang cảnh hiện thực khách quan vô
cùng sinh động, vừa sáng lạn, vừa kỳ bí, được tạo dựng bởi thiên nhiên
hoang dã và sự cộng tác sáng tạo của lý trí loài người”.
Thầy Cãi
“Đôi lúc cuộc sống thật khắc nghiệt, rắn như thép đã tôi. Nó có những lúc ảm đạm và đau đớn. Như bất cứ một dòng chảy nào của một con sông, cuộc sống có những lúc khô cạn và những khi triều cường. Cũng như sự thay đổi theo chu kỳ từ trước đến nay của các mùa, cuộc sống có cái ấm áp dễ chịu của những mùa hè và cái rét buốt của những mùa đông…Nhưng chúng ta có thể tự nâng mình lên khỏi nỗi chán chường và tuyệt vọng, vươn đến sự vui vẻ của hy vọng và biến đổi các thung lũng hoang vắng, tăm tối thành những lối đi chan hoà ánh nắng của sự thanh bình sâu lắng”.
MARTIN LUTHER KING
"Sai lầm lớn nhất của Anhxtanh là tin theo quan niệm coi thời gian như vật chất, có thể co giãn được và hòa quyện vào không gian được. Do đó nếu ngày nay học thuyết tương đối trở thành cơ sở chủ yếu cho nhận thức vật lý học về Vũ Trụ, thì tương lai nó chỉ còn là một huyền thoại của một thời ảo mộng. Có thể coi không gian và thời gian quan hệ khăng khít như hình với bóng, như thể xác với linh hồn, nhưng phải được phân biệt dứt khoát với điều kiện tiên quyết: không có hình thì không có bóng, không có thể xác thì tuyệt đối không có linh hồn".
NTT
"Tất cả mọi điều trên thế giới này đều được hy vọng làm nên".
(Tiếp theo)
Có
thể nói rằng, cơ học Niutơn là một chân lý vĩ đại mà loài người đã khám
phá và sáng tạo ra được từ hiện thực khách quan của mình, bởi vì nó
không những được thí nghiệm của cả một thời đại xác nhận mà còn vượt qua
được một thử thách “ghê gớm” hơn nữa, đó là thực tiễn ứng dụng sục sôi
của thời đại vũ bão đã như một “lò lửa thử vàng” đối với nó. Vật lý
học cổ điển là sự hợp thành của những bộ phận chủ yếu là: cơ học, điện
học, nhiệt học mà trong đó, cơ học đóng vai trò nòng cốt (là bệ đỡ cho
những bộ phận khác triển khai). Hãy tưởng tượng rằng, sau khi hoàn thành
vật lý học cổ điển (và nói chung là khoa học cổ điển) thì loài người
dừng lại, không “thèm” tiếp tục nhận thức tự nhiên nữa vì cho rằng như
thế là đã đủ, hay không còn gì mới để nhận thức nữa. Lúc đó, tình hình sẽ
ra sao? Bình thường thôi, vì vật lý cổ điển hoàn toàn đủ khả năng lý
giải thỏa đáng mọi hiện tượng xảy ra trong hiện thực khách quan “ở tầm
trực giác” của loài người.
Ví
dụ tưởng tượng trên không hẳn là ngẫu hứng “vớ vẩn”, phi thực tế. Cần
nhớ rằng các nhà toán học theo chủ nghĩa duy lý của thế kỷ XVIII đã đưa
cơ học Niutơn lên thành mẫu mực của mọi khoa học. Nhà toán học Lagrăngiơ, người tham gia thiết lập hệ thống đo lường trong thời kỳ cách
mạng Pháp, đã viết: “Niutơn không chỉ là một bộ óc vĩ đại nhất từ trước
đến nay, mà còn là một người may mắn nhất, bởi vì chỉ có một thế giới
tồn tại, và thế là trong lịch sử của nhân loại chỉ một người duy nhất
tìm ra các định luật của thế giới”. Còn Laplaxơ (1749-1827), nhà thiên
văn và toán học nổi tiếng người Pháp thì khẳng định mạnh mẽ hơn nữa:
“Nếu có một con vật thông minh mà mọi lúc nó biết lực gây ra chuyển động
của tự nhiên, và biết chính xác trạng thái của tự nhiên ở một thời điểm
cho trước, khi đó nếu trí thông minh của nó có khả năng phân tích các
dữ kiện này với một sự tỉ mỉ cần thiết, thì nó biết biểu diễn chuyển
động của các thiên thể lớn nhất, cũng như của các nguyên tử nhỏ nhất
trong Vũ Trụ chỉ bằng một phương trình. Đối với nó, không còn cái gì là
không biết được, chỉ một chớp mắt là nó bao quát hết cả quá khứ lẫn
tương lai”. Đến khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, không ít nhà khoa
học đã nghĩ rằng vật lý học chỉ còn vài điều chỉnh không đáng kể nữa là
đạt đến hoàn thiện. Kiêckhốp (G. R Kirchhoff, 1824-1887), nhà vật lý
người Đức, khi nghe tin có một phát hiện vật lý mới, đã rất ngạc nhiên:
“Ủa, cũng còn có điều để phát hiện nữa cơ à?”. Hay có chuyện, sau khi
bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ở Muychen (Đức) vào năm 1879, Max
Plank, sau này là một trong những nhà vật lý đặt nền móng cho cơ học
lượng tử, đã lập tức đến gặp người thầy của mình là M. Von Jolly để hỏi ý
kiến về ý định dấn thân vào nghiên cứu vật lý lý thuyết của mình. Và
đây là lời khuyên của Jolly: “Này anh bạn trẻ, tội vạ gì làm hỏng cả
cuộc đời minh. Vật lý lý thuyết giờ đây về cơ bản đã hoàn chỉnh rồi… Chỉ
còn vài trường hợp riêng biệt cần xem xét thôi. Lao vào một lĩnh vực
không có tương lai như thế liệu có đáng không?”. Ngày 27-4-1900, bá tước
Kenvin (William Thompson, 1824-1907), nhà vật lý học xuất sắc người
Anh, chuyên nghiên cứu trong lĩnh vực nhiệt động học đã đưa ra bài phát
biểu chào mừng thế kỷ mới, với đại ý rằng sự nghiên cứu vật lý đã đến
hồi hoàn thành và tất cả những gì cần làm đối với các nhà vật lý thuộc
thế hệ sau là trau chuốt các phép đo và kéo dài thêm các số lẻ thập
phân. Hết sức cả tin, Kenvin đã nhìn nhận rằng: “Tuy nhiên, vẻ đẹp và sự
rõ ràng của lý thuyết động học vẫn còn bị vài ánh mây đen làm lu mờ.
Nhưng chúng cũng không đáng để chúng ta quá bận tâm”. Ông đâu có thể ngờ
được, chính từ vài áng mây đen không đáng bận tâm ấy đã nổi lên một
khối vần vũ khổng lồ, gây ra một trận phong ba dữ dội, làm chao đảo niềm
tin đối với vật lý lý thuyết đã được xây dựng cho đến lúc đó, thứ đã
từng không thể nghi ngờ được, để rồi khi trận cuồng phong qua đi, bình
minh của một ngày mới xuất hiện thì nền vật lý ấy cũng bị “gông xiềng”
vào hai tiếng “cổ điển”.
Joseph Lagrange | |
---|---|
Joseph Louis Lagrange
|
|
Sinh | 25 tháng 1 năm 1736 Torino, Ý |
Mất | 10 tháng 4 năm 1813 Paris, Pháp |
Nơi cư trú | Ý Pháp Phổ |
Tôn giáo | Thiên chúa giáo |
Ngành | Toán học Vật lý học |
Nổi tiếng vì | Cơ học giải tích Cơ học thiên thể Giải tích toán học Lý thuyết số |
Gustav Robert Kirchhoff | |
---|---|
Gustav Kirchhoff
|
|
Sinh | 12 tháng 3, 1824 Königsberg, Đông Prussia |
Mất | 17 tháng 10, 1887 (63 tuổi) Berlin, Đức |
Nơi cư trú | Đức |
Ngành | Nhà vật lý |
Nổi tiếng vì | Định luật mạch Kirchhoff Định luật Kirchhoff cho bức xạ nhiệt Định luật Kirchhoff cho Phổ |
Không
như thuyết địa tâm của Ptôlemê, chỉ là sự ngộ nhận “đáng yêu” của loài
người, dù đã từng đóng vai chân lý trong một thời kỳ rất dài thì rốt
cuộc cũng trở nên lỗi thời và phải rút khỏi tri thức của nhân loại, mà
tương tự như hình học Ơclít, vật lý cổ điển vẫn mãi mãi được truyền thụ
từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nền vật lý mang tiếng “cổ điển” không có
nghĩa là nó đã trở thành như một cung điện cổ xưa chỉ còn được sử dụng
làm viện bảo tàng mà trong đó gồm những hiện vật chẳng còn công dụng nào
khác ngoài việc giúp cho hiện tại hoài niệm về một thời sôi động đã lùi
sâu vào quá khứ. Theo chúng ta hiểu thì vật lý cổ điển mang hai tiếng
“cổ điển” để phân biệt thế giới quan vật lý của thế kỷ XIX với thế giới
quan vật lý của thế kỷ XX. Chúng ta cho rằng thế giới quan vật lý của
thế kỷ XIX là một trong vài nhận thức trác tuyệt nhất và cũng xác đáng
nhất của loài người về môi trường thiên nhiên mà họ đang sống trong đó,
đang quan chiêm và cả tiếp xúc được những hiện tượng xảy ra trong đó.
Không có vật lý cổ điển thì cũng không có thời đại cơ giới hóa và điện
khí hóa với tốc độ phát triển và sức lan tỏa trên phạm vi toàn thế giới
có tính đột biến như thế. Tính xác đáng của vật lý cổ điển còn thể hiện ở
chỗ thông qua quá trình sáng tạo trong ứng dụng thực tiễn dựa trên
những nguyên lý, qui luật tự nhiên mà nó phát hiện ra làm xuất hiện một
nền công nghiệp đồ sộ, phi thường, chưa từng có trong lịch sử loài người
trước đó, mà bản thân vật lý cổ điển cũng được làm cho sâu sắc thêm và
nội dung của nó cũng nhanh chóng được bổ sung đến mức hoàn thiện.
Như
vậy, rõ ràng có thể nhận định, vật lý cổ điển không phải là một ngộ
nhận mà là một nhận thức không sai lầm của loài người, là thế giới quan
vật lý đúng đắn về hiện thực khách quan “ngày hôm qua” chính là hiện
thực của môi trường tự nhiên mà con người đã, đang và sẽ mãi sống ở đó
(chừng nào loài người còn tồn tại!), trong phạm vi con người còn trực
quan được, trực giác được và “nắm bắt” được. Cũng chính vì lẽ đó mà vật
lý cổ điển mang tính vĩnh cửu trong lòng nó, mãi mãi là cứu cánh của
loài người trong thực tiễn ứng dụng và nhận thức vật lý, là bộ phận có
tính cơ sở, thiết yếu, không thể thiếu được của vật lý hiện đại trong
việc truyền thụ kiến thức.
Chúng
ta nghĩ rằng vật lý hiện đại đã gặt hái được nhiều thành quả tuyệt vời.
Tuy nhiên, trong đó cũng tồn tại không ít những “áng mây mù” và cả
những ngộ nhận “chết người”. Những tồn tại bất cập đó làm cho vật lý
hiện đại hàm chứa nỗi hoang mang và có thể đoán được nó đang bước vào
một sự hoang mang toàn diện mà dấu hiệu dễ thấy nhất là sự mất kiên định
trong tư tưởng khoa học của một số nhà vật lý hàng đầu ở thế kỷ XX, là
hiện tượng không ít người trong số họ đi tìm sự “cứu rỗi” bằng những
“niềm tin” tôn giáo, nhất là Phật giáo, đầy bất ổn và cũng thiếu minh
bạch.
Dù
sao thì cũng chắc chắn là trước sau gì rồi những khuất tất, hoang mang
của vật lý hiện đại sẽ được sẽ được khắc phục, vì quá trình nhận thức
vật lý tất yếu phải xảy ra như vậy. Điều đáng nói là trong nội dung của
“vật lý ngày mai” có thể sẽ không còn thấy rất nhiều những quan niệm ,
những biểu diễn toán học của “vật lý ngày hôm nay” nữa hoặc thấy ở dưới
dạng đã được chỉnh sửa của chúng, nhưng nội dung cơ bản của vật lý cổ
điển thì vẫn không hề hấn gì và vẫn “có mặt” trong đó như một bộ phận cơ
sở, hợp thành không thể thiếu được. Có thể nói trình độ nhận thức về
mặt vật lý của loài người ngày càng sâu sắc thì thế giới quan vật lý của
họ càng mở rộng. Nhưng dù có mở rộng bao nhiêu chăng nữa thì thế giới
quan vật lý “ngày hôm qua” được xây dựng trên nền tảng vật lý cổ điển
vẫn là điểm khởi đầu, là chỗ dựa xuất phát và tồn tại của cái thế giới
quan vật lý đã được mở rộng ấy…
“Hùng
biện lớn tiếng” đến sùi bọt mép như thế là đủ rồi! Chúng ta quay lại
tiếp tục “thủ thỉ” những cảm nghĩ “ngơ ngác” của mình.
Khi
thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh ra đời thì khái niệm về lực vẫn hầu
như không thay đổi nhưng khái niệm về khối lượng đã có những thay đổi
lớn lao. Khối lượng giờ đây không chỉ là “thước đo” quán tính vật mà còn
là đại lượng đặc trưng cho năng lượng (toàn phần) của vật, hơn nữa khối
lượng không còn bất biến mà tăng lên một cách tỷ lệ theo sự tăng lên
của vận tốc vật.
Chính
cái quan niệm mới của vật lý hiện đại nói trên đã làm cho chúng ta phải
suy tư rất nhiều về ý nghĩa của khối lượng để rồi… không hiểu gì cả!
Theo Anhxtanh thì:
Qua đó, ông cho rằng khi v=0, nếu quan sát trong hệ O’ (chuyển động với vận tốc v so với hệ O) thấy khối lượng của một vật đứng yên là mo thì quan sát từ hệ O sẽ phải thấy khối lượng của nó là m, hệ cũng sẽ thấy khối lượng đó là bằng mo nếu hệ O’ đứng yên so với hệ O, và ông gọi mo
là khối lượng nghỉ của vật. Anhxtanh kết luận rằng khối lượng nghỉ của
một vật là bất biến và trên cơ sở đó dẫn đến nhận định khối lượng của
một vật tăng theo sự tăng vận tốc. Do đó mà một vật chuyển động bao giờ
cũng phải thỏa mãn:
m>mo
Quan
niệm đó dẫn đến một “phi thường” là, vì thành phần trong dấu căn hai có
thể cho phép nhỏ đến bao nhiêu cũng được miễn là không bằng 0, cho nên
có thể “cho phép” khối lượng của bất cứ vật nào, kể cả những hạt vi mô,
tăng lên “xấp xỉ” vô hạn. Trong hiện thực khách quan có thấy được hiện
tượng đó không?
Theo
Niutơn, khối lượng m của một vật là biểu thị lượng vật chất của vật đó,
làm nên vật đó. Khi lượng vật chất đó chuyển động với vận tốc v thì
được gọi là “động lượng”. Nếu ký hiệu động lượng là P thì cũng theo
Niutơn, động lượng của một vật là một đại lượng véctơ mà biểu diễn toán
học của nó là:
Nếu không chú ý tới phương chiều chuyển động thì có thể viết:
P = mv
Nên
hiểu động lượng như thế nào? Rõ ràng khi một vật đứng yên thì vì v=0
nên không có động lượng (nhưng vẫn có khối lượng). Muốn có động lượng
thì nó phải chuyển động. Nhưng làm gì có chuyện một vật đang đứng yên tự
dưng chuyển động được? Vậy thì phải có cái gì đó từ bên ngoài tác động
đến nó. “Cái gì đó” ấy được Niutơn qui kết về một mối và gọi chung là
“lực”. Khi bị lực tác động thì có thể có một trong hai hiện tượng xảy
ra. Nếu lực được cho là “chẳng thấm thía gì” so với khối lượng m (khả
năng bảo toàn trạng thái chuyển động hay cũng còn gọi là số đo quán
tính) của vật thì vật vẫn đứng yên, thậm chí là không hề nhúc nhích.
(Chúng ta cho rằng không có tác động nào lại không gây ra “hậu quả”. Tuy
nhiên, trong trường hợp này, phải nhìn “hậu quả” ở một góc độ khác,
trên một bình diện khác và coi như đối với tình trạng động học của vật
có khối lượng m đang xét ở đây, tác động lực là “hoài công, vô ích”).
Nếu lực tác động mạnh đến nỗi vận động nội tại vật không còn khả năng tự
điều chỉnh thích nghi để bảo toàn trạng thái trong điều kiện mới (nghĩa
là “sức ì” hay quán tính của vật đã “chào thua” trước tác động lực), và
nếu vật không bị biến dạng hay phá vỡ thì nó phải chuyển động với vận
tốc v nào đó. Vì sự chuyển biến từ O đến v không phải tức thời (không có
thời gian!) mà là một quá trình “kéo dài” làm xuất hiện ý niệm “thời
gian” đối với quan sát và như thế cũng coi như xảy ra “trong” thời gian,
cho nên một cách trung bình, như Niutơn chỉ ra, có thể viết:
Với: là lực
T là thời gian để vật đạt vận tốc
là gia tốc: độ tăng vận tốc trong thời gian t
Từ đó có thể suy ra:
Vế
trái của biểu diễn được gọi là xung lực (hay xung lượng). Có thể phát
biểu: độ lớn của xung lượng bằng tích của cường độ lực và khoảng thời
gian tác động lực.
Vậy
để làm xuất hiện một động lượng thì điều kiện tiên quyết là phải có một
xung lực. Theo nguyên lý tác động - phản ứng, khi xung lực tác động vật
thì vật phản ứng nhằm duy trì sự cân bằng vận động nội tại vốn có của
nó theo xu thế “cố gắng” trở về trạng thái vận động ban đầu, trước khi
bị tác động bởi xung lực. Trong trường hợp khả năng phản ứng không thể
“chịu nổi” xung lực tác động thì vật phải bị biến đổi dưới nhiều hình
thức như bị biến dạng không phục hồi, bị xuyên thủng, bị phá vỡ, bị di
dời (chuyển động)… Sự biến đổi của vật do tác động của xung lực có thể
xảy ra theo một hay hai hình thức ấy hay cũng có thể theo tất cả các
hình thức ấy cùng một lúc. Giả sử rằng dưới tác động của xung lực, vật
không biến đổi theo hình thức nào khác ngoài hình thức chuyển động (hoặc
có thể qui những biến đổi khác nhau, về thành lượng chuyển động) thì về
mặt lý thuyết, biểu diễn toán học giữa xung lực và động lượng viết ở
trên là hoàn toàn chính xác.
Nhưng
làm thế nào để có được xung lực, hay hỏi cách khác là xung lực được
hình thành như thế nào? Nhớ đến cú đấm của vị thiền sư, chúng ta cho
rằng một trong những cách tạo ra lực để cho mũi anh chàng nọ phải chịu
một xung lực, là dù thế nào thì cũng phải có một lượng vật chất (khối
lượng) nào đó chuyển động đóng vai trò như một vật “mang” lực đến đối
tượng bị tác động lực (vật khác). Nghĩa là có thể biểu diễn xung lực như
động lượng của vật chuyển động nhưng giữa hai đại lượng ấy là có sự
khác nhau, không thể đồng nhất được.
Khi
có một xung lực tác động vào vật đứng yên có khối lượng m, làm cho nó
chuyển động với vận tốc v thì như đã nói, vật đó từ không có động lượng
sẽ biến đổi thành có động lượng mv. Quá trình đó cho thấy, để có được
một động lượng mv thì phải tiêu tốn một lượng xung lực là F.t, hay có
thể nói một lượng F.t đã chuyển biến thành động lượng mv. Động lượng
này là một đại lượng thể hiện theo phương chiều nên cũng hàm chứa một
“mầm mống” lực (chứ không phải lực thực sự) theo phương chiều ấy và khi
va chạm với một vật khác thì làm xuất hiện lực và tạo nên một xung lực
nào đó mà trong trường hợp chuyển biến hoàn toàn thì có lượng đúng bằng
F.t (dù cường độ lực và thời gian tác động lực này là có thể khác).
Vậy điều kiện tiên quyết để làm cho vật có động lượng mv trở về trạng
thái đứng yên như cũ là phải chặn trực diện nó lại. Nhưng chặn như thế
nào? Có thể dùng một bức tường đứng yên để chặn nó được không? Trong
hiện thực, khi bị bức tường gây ra một lực tác động trong thời gian,
nghĩa là một xung lực vào bức tường. Khi vật tác động vào bức trường
thì quá trình chuyển biến động lượng của vật thành xung lực cũng xuất
hiện. Quá trình này không những tác động đến trạng thái vận động nội tại
của bức tường mà còn tác động đến chính bản thân trạng thái vận động
nội tại của vật chuyển động. Trong sự biểu hiện tính tương đối của mối
quan hệ đứng yên - chuyển động thì nếu vật chuyển động vận tốc v so với
bức tường thì cũng có thể coi bức tường chuyển động vận tốc -v với
vật, và nếu vật tác động đến bức tường một xung lực Ft thì đồng thời
bức tường cũng tác động đến vật một xung lực –Ft. Trong biểu hiện tính
tuyệt đối của mối quan hệ đứng yên - chuyển động thì độ lớn của xung lực
ấy phải bằng chính xác là Ft (hay –Ft) chứ không thể là một lượng nào
đó bằng Mv (với M là khối lượng của bức tường) được. Đó chính là nguyên
lý tác động - phản ứng của vận động vật chất biểu hiện cụ thể trong
tương tác cơ học là Niutơn đã phát hiện ra và phát biểu thành định luật
tác động tương hỗ về lực (định luật III Niutơn). Khi vật chuyển hóa
hết động lượng của nó thành Ft và truyền trọn vẹn cho bức tường (làm
ảnh hưởng không nhiều thì ít đến nội tại bức tường) thì vì v=0 nên nó
lúc này được cho là đứng yên. Song, vì bức tường đồng thời cũng tác động
đến vật chất xung lực là –Ft nên, nếu không bị bất cứ sự hủy hoại nào
thì nó phải chuyển động ngược lại với vận tốc –v. Nếu so với giá trị
động lượng lúc đầu (trước khi va chạm với bức tường) thì động lượng lúc
này của vật có giá trị âm còn nếu không chú ý đến phương chiều thì coi
như động lượng của nó vẫn bảo toàn sau khi xảy ra va chạm với bức
tường. Do đó, nếu quan niệm trên là đúng thì trong hiện thực không thể
dùng một bức tường đứng yên để “tiêu diệt” động lượng của một vật
chuyển động. Hay nói thỏa đáng hơn: bức tường đúng thực đã “tiêu hóa”
hết động lượng của vật nhưng đồng thời cũng “sản sinh” ra một động lượng
khác (cùng độ lớn nhưng trái chiều so với động lượng cũ) cho vật. Nếu
vật đâm vào bức tường theo một phương không vuông góc với mặt tường và
có sự đàn hồi hoàn toàn thì nó sẽ bị bật trở lại theo phương mà về
hình thức, hoàn toàn tương tự như trong hiện tượng phản xạ ánh sáng
(góc phản xạ bằng góc tới).
Tình
hình sẽ như thế nào nếu chúng ta thay bức tường bằng một vật đứng yên,
cũng có khối lượng m, để chặn trực diện vật có động lượng mv? (Ở
đây luôn có sự ngầm qui ước, vật đứng yên nhưng không bị cố định luôn
có thể chuyển động khi có tác động lực; khi xảy ra tác động lực thì
phương chiều của lực luôn hướng đến trọng tâm vật; những ảnh hưởng ngoại
lai như ma sát, lực hút Trái Đất… đều bị loại trừ). Khi vật có động
lượng mv va chạm với vật chặn thì vật chặn bị chịu một xung lực tác động
làm cho nó phải chuyển động và đồng thời nó cũng tác động lại một xung
lực làm biến đổi trạng thái chuyển động của vật chủ động theo hướng giảm
dần động lượng mv. Xung lực ấy có đúng bằng Ft (hay –Ft) không, hay hỏi
cách khác là mv có chuyển hóa trọn vẹn thành xung lực hay không? Không
thể ! Bởi vì đây là quá trình phát sinh và tăng dần vận tốc ở vật chặn
đồng thời với sự giảm dần vận tốc v của vật chủ động. V hay vận tốc là
cùng phương chiều nên đến một thời điểm nào đó, khi mà sự giảm và tăng
vận tốc đạt đến cùng một giá trị nào đó thì tương tác lực giữa hai vật
sẽ chấm dứt. Dễ suy ra được rằng, giá trị vận tốc đó chính bằng
và như vậy chỉ có một nửa động lượng mv chuyển biến thành xung lực. Rõ
ràng là chặn theo kiểu này cũng không làm cho vật có động lượng mv
chuyển sang đứng yên được mà chỉ làm giảm vận tốc của nó (trong trường
hợp chặn bằng bức tường, vận tốc của vật coi như không giảm mà chỉ đổi
chiều).
Có
thể coi hai vật có khối lượng m nêu trên hợp thành một hệ cô lập (nghĩa
là không có bất cứ sự tương tác với “bên ngoài” nào). Theo định luật
bảo toàn động lượng trong cơ học cổ điển (suy ra từ các định luật
Niutơn): tổng động lượng của các vật trong một lượng của hai vật là:
nên sau khi va chạm, dù có sự phân phối lại động lượng, chỉ có thể là:
và
(Vật
có động lượng mv không thể truyền hết động lượng cho vật đứng yên được
chính là vì phải tuân theo định luật tác động tương hỗ)
Khi thay vật chặn có khối lượng m đứng yên bằng vật chặn có động lượng thì lúc này, tổng động lượng của chúng trước khi va chạm là:
Theo
định luật bào toàn động lượng, tổng động lượng của chúng sau khi va
chạm cũng phải bằng 0. Nhưng quá trình đó diễn ra như thế nào? Nếu có hai
quan sát đặt ở hai vật thì do có sự chi phối của tính tương đối trong
mối quan hệ chuyển động - đứng yên giữa hai vật thì tùy vào quan sát từ
vật nào mà có thể thấy tổng động lượng của hai vật đó là hoặc và
trong hai vật đó phải có một vật được đánh giá là đứng yên so với vật
kia. Như vậy, sau khi va chạm, do có sự phân bố lại động lượng, nên phải
thấy:
Nghĩa
là theo tính toán của một trong hai quan sát ấy, khi hai vật va chạm
nhau, đã xuất hiện hai xung lực trực đối đồng thời tác động lên hai vật
là và - (với ).
Tuy nhiên, kết quả đó chỉ là sự ngộ nhận, vì lúc đầu chúng ta đã nói hai vật chuyển động có vận tốc lần lượt là và - .
Nói như vậy có nghĩa chuyển động của chúng là so với quan sát đứng yên
so với cả hai vật ấy và theo quan sát đứng yên thì tổng động lượng của
chúng bằng 0. Chúng ta đã từng nói trước một hiện tượng duy nhất trong
thực tại, quan sát ở những góc độ khác nhau sẽ thấy khác nhau, nhưng đều
có thể qui về một mối.
Trong
hiện thực có xảy ra hiện tượng đó không? Khi hai vật va chạm nhau thì
sẽ xuất hiện quá trình từ động lượng mv của vật này chuyển biến thành
một xung lực nào đó tác động đến vật kia và vật này cũng bị vật kia tác
động lại một xung lực bằng như thế nhưng trái dấu. Cùng lúc đó, từ động
lượng m(-v) của vật kia chuyển biến thành một lượng xung lực đúng bằng
xung lực của vật này, tác động lên vật này, và đồng thời cũng bị vật này
tác động lên nó một lượng xung lực bằng xung lực của nó nhưng trái dấu.
Sự chuyển biến từ động lượng (hay )
thành xung lực có thể nói là: triệt để, hoàn toàn, vì một khi không
hoàn toàn triệt để thì hai vật đó vẫn còn động lượng và vẫn còn khả năng
“tiến lên phía trước”. Hai “đòi hỏi tiến lên phía trước” bằng nhau thì
rốt cuộc phải triệt tiêu nhau và cùng đứng yên. Từ sự phân tích đó có
thể thấy, khi xảy ra va chạm giữa hai vật đang xét, mỗi vật sẽ phải chịu
một xung lực là tác
động. Kể cả hai vật, khi một vật phải chịu một xung lực tương đương với
hai lần động lượng của nó thì trước hết một nửa lượng xung lực đó sẽ
làm triệt tiêu động lượng vốn có của vật và vật vẫn còn phải chịu tác
động của một nửa lượng xung lực còn lại. Ngay tại thời điểm đứng yên “tế
nhị” đó; cả hai vật đều phải “lựa chọn” một trong hai cách, đứng yên
tại chỗ hay chuyển động ngược lại với chiều chuyển động trước khi va
chạm hoặc cũng có thể là đồng thời cả hai cách ấy, sao cho định luật bảo
toàn động lượng không bị vi phạm. Với qui ước hai vật là giống hệt nhau
về khối lượng và cấu tạo vật chất thì khi vật này “chọn” một cách nào
đó, vật còn lại cũng “chọn” cách ấy. Giả sử hai vật “chọn” cách “biến”
xung lực còn lại ( hay - ) thành động lượng hoàn toàn ( hay ) thì chúng ta viết lại tổng động lượng của chúng trước khi va chạm:
Do đó mà sau khi va chạm sẽ là:
(Về
mặt toán học, quá trình đó chỉ như một sự giao hoán của phép cộng. Xét
về mặt vật lý thì ở đây, muốn thực hiện được phép giao hoán ấy phải có
điều kiện, hay phải có một lời giải thích rõ ràng. Nếu tổng trên mô tả
hai vật tiến đến nhau làm xuất hiện va chạm thì tổng dưới (đã giao hoán)
lại mô tả hai vật rời xa nhau sau khi va chạm. Như vậy, không phải lúc
nào giao hoán trong phép cộng cũng thực hiện được!)
Nếu hai vật đó chọn cách đứng yên “luôn” ở đó thì có thể biểu diễn:
m.0+m.0=0
Muốn
được đứng yên như thế trước một xung lực tác động thì cả hai vật phải
“trừ khử” được xung lực đó mà không gây chuyển động cho chúng, hay nói
đúng hơn là không gây chuyển động đối với điểm trọng tâm của chúng. Điều
đó chỉ có thể xảy ra bằng cách vận động nội tại vật tiếp thu trọn vẹn
xung lực đó và biến đổi một cách không hồi phục được (biểu hiện ra như
vật biến dạng không đàn hồi, tăng nhiệt độ, phân rã…)
Chú
ý đến vận động nội tại vật, có thể thấy quá trình hai vật đứng yên do
va chạm rồi sau đó chuyển động với vận tốc ban đầu nhưng ngược chiều là
kết quả và cũng là bộ phận của quá trình va chạm. Khi hai vật va chạm và
đạt đến trạng thái đứng yên (tạm thời) thì nội tại của chúng đã buộc
phải biến đổi cho phù hợp với tình trạng ấy. Nếu sự biến đổi nội tại ấy
vẫn trong giới hạn phục hồi lại được như cũ, nghĩa là mối liên kết nội
tại chỉ bị “làm căng”, tạo nên một cái tạm gọi là “thế lực” tác động trở
lại vật gây tác động để trở về trạng thái cũ (hiện tượng đàn hồi hoàn
toàn), thì vật gây tác động, từ trạng thái đứng yên tạm thời sẽ chuyển
sang chuyển động và sẽ đạt một động lượng có độ lớn bằng với động lượng
ban đầu của nó nhưng ngược chiều.
Trong
hiện thực, hai vật đó chẳng chọn lựa gì cả mà thông thường, tùy thuộc
vào bản chất của chúng, sau khi va chạm, chúng vừa phải chuyển động
ngược lại, vừa phải biến dạng không hồi phục (hoặc hồi phục không hoàn
toàn) theo “tỷ lệ” nào đó để không xâm phạm đến định luật bảo toàn động
lượng.
Dựa
trên tinh thần “cổ điển”, chúng ta đã huyên thuyên “một lèo văng mạng”
nào là khối lượng, động lượng, nào là lực, xung lực… cứ như một nhà vật
lý “chính qui”, nhưng đến đây, thực ra chúng ta vẫn “ầu ơ ví dầu”, vẫn…
chẳng hiểu gì cả. Nhắc đến từ “chính qui” lại nhớ đến câu: “Dốt như
chuyên tu, ngu như tại chức”. Chúng ta đã từng là kẻ “tại chức” là bạn
của mấy gã “chuyên tu”, và vì thế mà trở thành hoang tưởng lẩm cẩm, đầu
óc rối mù như canh hẹ chăng?
Thôi
kệ, dù có thể những ai đó sẽ gọi chúng ta là “lũ lẩm cẩm rỗi hơi”, thì
chúng ta cũng phải trở lại từ đầu cái công việc “bới lông tìm vết” vừa
làm nhưng chắc “bới lông” còn chưa kỹ nên vẫn chưa thấy “vết” nào cả. Có lẽ chúng ta đã trở thành “lũ lẩm cẩm rỗi hơi” đang chờ bác sĩ tâm thần cho uống thuốc rồi cũng nên!
(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét