TT&HĐ V - 44/d
Tìm kiếm nền Văn minh tiên tiến trước Văn minh chúng ta | Khoa học vũ trụ - Khoa học và Khám phá
PHẦN V: THỐNG NHẤT
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG V (XXXXVI): CHIÊM BÁI
“Bằng
cách ở mỗi hiện tượng tự nhiên của cái riêng lẻ, cái qui ước và ngẫu
nhiên, chúng ta hướng mắt đến cái phổ quát, cái khách quan và tất yếu,
thì đó là chúng ta tìm cái độc lập đằng sau cái lệ thuộc, cái tuyệt đối
đằng sau cái tương đối, cái vĩnh cửu đằng sau cái vô thường. Và như tôi
nhìn thấy, cái khuynh hướng này biểu lộ không những trong vật lý học, mà
còn trong mỗi ngành khoa học, vâng, không chỉ trên lĩnh vực khoa học,
mà còn trên lĩnh vực của cái thiện và cái mỹ”.
“Cái
huyền diệu là trong tất cả các hiện tượng của tự nhiên, có một tính qui
luật phổ quát ngự trị mà ở mức độ nào đó, có thể nhận thức được đối với
chúng ta”.
Max Planck
Albert Einstein
Albert Einstein
(Tiếp theo)
Câu
hỏi về thân phận loài người làm tôi cảm thấy nôn nao rất khó chịu, cứ
bồn chồn, bứt rứt làm sao ấy! Tôi không còn thể nào ngồi yên được nữa,
đành đứng dậy đi qua đi lại, đi lòng vòng trong căn phòng "rộng" đến những
7,5 m2. Đi như thế mà cũng chẳng khuây khỏa là mấy! Hay là
đi chơi quách cho rồi, rủ mấy thằng bạn nghèo ra quán thịt chó của ông
Tư Râu đánh chén, nhậu nhẹt cho tưng đời? Tôi nhìn lên đồng hồ treo
tường: mới hai giờ rưỡi chiều. Giờ này chắc là chẳng có ai trong số những bạn
nhậu của tôi rảnh cả. Họ đều đang phải làm việc để kiếm sống. Phải nói
rằng, tất cả những bạn nhậu mà tôi thân nhất, thích nhậu với họ nhất và
thậm chí là không bao giờ chủ động rủ những người không phải họ đi nhậu
vì muốn được vui thú, đều là những người thuộc tầng lớp mạt hạng của cư
dân thành phố (nghĩa là nghèo nhưng chưa phải ở đáy xã hội, chưa nằm
trong diện “xóa đói giảm nghèo”. Họ có chút học hành nhưng chẳng có danh
phận gì, lúc trẻ đi làm không thuộc diện “biên chế” (chính thức được
nhà nước thừa nhận là nhân viên “của mình”, được bảo hộ, có chế độ hưởng
thụ ưu ái hơn và lâu dài so với “ngoài biên chế”), hoặc giữa chừng bỏ
cơ quan nhà nước ra ngoài tự nhận làm (nghĩa là bị loại khỏi “biên chế”
nhà nước như tôi đây) nên về già không được hưởng lương hưu. Do qui luật
đào thải của nền kinh tế thị trường phải cạnh tranh gay gắt mà bây giờ,
khi đã cao tuổi, nguy cơ thất nghiệp luôn đe dọa họ. Thường thì họ chỉ
xin được việc làm ở những cơ sở làm ăn có qui mô nhỏ lẻ với hợp đồng
ngắn hạn, hoặc công việc bấp bênh lúc có lúc không, mức lượng thấp, thậm
chí là đi theo những đám thợ chuyên nhận làm khoán, nhận lương bằng
người phụ việc, mà được nhận vào làm chủ yếu là do thương tình. Đó là
nói về những người bạn nhậu thân của tôi, chứ xung vào lực lượng mạt
hạng do nhiều nguyên nhân khác nữa: chẳng hạn người sạt nghiệp do bị đổ
vỡ trong kinh doanh (do thời thế, lừa đảo), không gượng dậy nổi nên trở
thành mạt hạng, vướng vào tứ đổ tường đến tán gia bại sản mà thành mạt
hạng, lười lao động, dựa hơi vào sự tần tảo “buôn thúng bán mẹt” (bán
nhỏ lẻ) của vợ mà sống nên thành ra mạt hạng… Tôi thực ra cũng là một kẻ
mạt hạng mà nguyên nhân dẫn đến bỏ bê làm ăn bởi phần vì chán nản cái
thời cuộc chộp giật, quịt lường quá xá cỡ trơ tráo, phần vì muốn tập
trung viết cho xong câu chuyện hoang đường về Tự Nhiên Tồn Tại.
Loài người đã phải trải qua một giai đoạn tiến hóa dài lâu. Có vô
số những bí ẩn xung quanh quá trình tiến hóa để con người có được hình
dáng, cấu tạo cơ thể hoàn thiện như hiện nay.
Dù có tiến hóa về mặt thể chất nhưng tình mẫu tử vẫn được lưu truyền. Cùng ngắm nhìn chân dung những "người Mẹ" thời tiền sử theo tổng hợp của trang Discovery News dưới đây.
1. Plesiadapis
Plesiadapis
là một trong những loài động vật có vú giống như linh trưởng cổ xưa
nhất được biết, đã tồn tại khoảng 58 triệu năm trước đây ở Bắc Mỹ và
châu Âu. Plesiadapis được phát hiện lần đầu bởi một nhà khảo cổ người
Pháp năm 1877.
Qua
nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy, hộp sọ của Plesiadapis tương
đối rộng và bằng phẳng, cùng cái mõm, hàm khá dài. Các nhà khoa học đã
tranh luận trong thời gian dài về thói quen sống trên cây hay dưới mặt
đất của chúng.
Tuy
nhiên, các cuộc điều tra gần đây đã chỉ ra Plesiadapis là một nhà leo
núi chuyên nghiệp. Với chân, tay mạnh mẽ, chiếc móng dài, cứng giúp dễ
dàng cắm chặt vào thân cây cùng chiếc đuôi rậm rạp đã chứng tỏ chúng là
động vật bốn chân sống trên cây.
Nhờ
sự nhanh nhẹn trong di chuyển mà những "bà mẹ" này có thể dễ dàng tìm
kiếm thức ăn về chăm con. Khối lượng cơ thể của loài Plesiadapis ước
tính vào khoảng 2,1kg.
2. Ardipithecus ramidus
Năm
2009, tại vùng sa mạc Afar tại miền Trung Awash, Ethiopia, các nhà khoa
học Mỹ đã phát hiện bộ xương hóa thạch xa xưa nhất của tổ tiên loài
người tên là Ardi.
Ardi
thuộc chủng loại Ardipithecus ramidus, có tuổi đến 4,4 triệu năm. Ardi
cân nặng khoảng 50kg, cao 1,2m, có bộ não nhỏ, xương răng giống với loài
người hơn linh trưởng và thuộc giới tính nữ.
Các
nhà khoa học cho rằng, rất có thể con người và các loài khỉ đang tồn
tại trên Trái đất có cùng một tổ tiên, chứ không phải là các mắt xích
nối tiếp nhau trong quá trình tiến hóa.
Theo
các nhà khoa học, Ardi đứng thẳng và di chuyển bằng hai chân khi ở dưới
đất, nhưng ở trên cây vẫn sử dụng cả chân lẫn tay. Nghiên cứu sâu hơn,
các nhà khảo cổ nhận thấy, những bà mẹ sẽ nhường việc chăm sóc, nuôi
dưỡng con cho các ông bố.
3. Australopithecus afarensis
Được
phát hiện vào năm 1974 ở Ethiopia, các nhà khoa học đã đặt tên cho hóa
thạch này là Lucy. Lucy thuộc họ Australopithecus afarensis, sống cách
đây khoảng 3,9 triệu năm, thân hình mảnh mai, nhiều răng, não khá nhỏ.
Có
khoảng hơn 300 hóa thạch cùng loại đã được phát hiện, vì thế với các
nhà nghiên cứu, Australopithecus afarensis trở thành một trong những
nguồn dữ liệu về người cổ dồi dào nhất.
Hóa
thạch này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì vào thời điểm được khai
quật, Lucy là đại diện đầu tiên cho việc di chuyển bằng 2 chân của tổ
tiên chúng ta, mặc dù "cô nàng" vẫn giỏi leo trèo và có cấu trúc khuôn
mặt cũng như kích thước bộ não nhỏ như loài khỉ không đuôi. Lucy được
xem là “mẹ của loài người” và là mối liên lạc đứt đoạn giữa loài người
với tinh tinh.
Qua
nghiên cứu, nhà khoa học Zeresenay Alemseged cho biết, Lucy vô cùng
"đảm đang", mọi việc chăm sóc con đều được người mẹ này thực hiện hàng
ngày.
4. Homo habilis
Homo
habilis (hay người khéo léo) có niên đại khoảng 2,3 triệu năm trước
đây. Người Homo habilis nhỏ và mảnh dẻ, cao khoảng 1 - 1,5m, nặng từ 25 -
50kg, có sự phân hóa hình thái giới tính rõ ràng, có cá thể đực lớn gấp
đôi cá thể cái.
Đa
số mẫu hóa thạch thu được của người Homo habilis khoảng 20 tuổi, não bộ
đạt tới 600 - 800cm3. Hàm và răng người Homo habilis nhỏ, chi trước
dài, các ngón tay có khả năng cầm nắm chặt, bàn chân đã giống người hiện
đại. Homo habilis ít lông, da có màu đen hoặc nâu.
Qua
nghiên cứu, các nhà khảo cổ nhận thấy, có sự xuất hiện phân công lao
động sơ khai, như các cá thể nam to khỏe đi săn bắt, còn cá thể nữ ở
"nhà" nuôi con. Một nhiệm vụ tối quan trọng của con cái là phải bảo vệ
con con bởi chúng luôn là tầm ngắm của các loài ăn thịt hung dữ khác.
5. Homo erectus
Homo
erectus (hay người đứng thẳng) có niên đại khoảng 1,8 triệu năm trước
đây. Qua phân tích, Homo erectus có chiều cao từ 1,4 - 1,8m, sọ não
khoảng 750 - 1.400cm3 và cột sống thể hiện rõ khả năng đi thẳng đứng.
Các
di chỉ khảo cổ cho thấy, hoạt động chính của người Homo erectus là săn
bắt động vật, hái lượm. Nhiều công cụ bằng đá đã được chế tạo đơn giản,
như đập vỡ, ghè hoặc mài những hòn đá lên nhau.
Một
sự kiện cực kỳ quan trọng và có ý nghĩa lớn trong cuộc sống loài người
nguyên thủy, đó là sự kiện người Homo erectus biết dùng lửa. Có những
dấu hiệu chỉ ra, các bà mẹ H. erectus dành cả ngày ngồi bên đống lửa để
chăm sóc con và quây quần cùng gia đình.
6. Homo antecessor
Homo
antecessor là một trong những giống người được biết đến đầu tiên ở châu
Âu, có niên đại khoảng 1,2 triệu năm trước. Homo antecessor cao khoảng
1,6 - 1,8m, nặng 90kg, kích thước sọ não khoảng 1.000 - 1.500cm3.
Bằng
phương pháp chụp cắt lớp, nhà nhân chủng học Juan Luis Arsuaga cho
rằng, loài này có thể đã sử dụng một loại ngôn ngữ nói phức tạp, bởi cấu
tạo của thanh quản cho thấy có khả năng phát ra những âm thanh phức tạp
(tiếng nói). Do đó, mà các bà mẹ H. antecessor đã có thể "mắng" các
con.
7. Người Neanderthal
Qua
nghiên cứu, người Neanderthal (Homo neanderthalensis) xuất hiện vào
khoảng 250 - 300.000 năm trước đây, được coi là họ hàng gần gũi nhất của
loài người.
Người
Neanderthal cao khoảng 1,65m, có bộ não nhỏ hơn người hiện đại, đã biết
dùng các công cụ đá để đánh lửa, sống thành các nhóm xã hội, hình thành
tập tục chôn người chết và mặc áo lông.
Một
vài nghiên cứu di truyền còn phát hiện thấy người Neanderthal từng giao
phối với người hiện đại. Ngoài ra, nhiều bằng chứng đã được tìm thấy
chỉ ra rằng, người Neanderthal đã cùng gia đình quây quần trong hang
động cho ấm áp và cùng chăm sóc con.
8. Homo sapiens
Homo
sapiens (hay người cận đại) có nguồn gốc từ châu Phi khoảng 200.000 năm
trước đây. Tiến hành nghiên cứu, các nhà khảo cổ học nhận thấy, người
cận đại Homo sapiens quần tụ thành nhóm nhỏ từ 30- 50 cá thể, thiết lập
các lãnh thổ riêng.
Giữa
các nhóm đã hình thành "ngôn ngữ" để giao tiếp với nhau, người cha sẽ
cùng nhau phối hợp trong săn bắt, tìm kiếm và dự trữ thức ăn. Còn việc
chăm sóc và bảo vệ con là nhiệm vụ chính của người mẹ. Vào thời kỳ này,
các loại dụng cụ đồ đá khác nhau đã được chế tạo để dùng cho săn bắt, mổ
xẻ con mồi...
Ngoài
ra, các nhà khoa học còn tìm thấy bằng cớ chứng minh người Homo sapiens
thường tụ tập trong các hang động để tránh lạnh, bắt đầu có đời sống
văn hóa tinh thần như nhảy múa...
8. Người lùn "Hobbit"
Người
"Hobbit" (tên khoa học là Homo floresiensis - tên Hobbit chỉ mới được
đặt lại gần đây dựa theo giống người lùn có trong tác phẩm văn học "The
Hobbit" của nhà văn J. R. R. Tolkien) có mặt trên Trái đất khoảng 12.000
năm trước đây. Hình ảnh về người Hobbit là những người ăn hang ở lỗ,
hình thể giống như người nhưng chỉ cao khoảng 1,06m, được tìm thấy ở đảo
Flores thuộc Indonesia.
Họ
giống người hiện đại ở nhiều mặt, chẳng hạn như đi trên 2 chân, có răng
nanh nhỏ, và sống trong hang động. Bên cạnh đó, những công cụ bằng đá
và dấu vết sử dụng lửa được tìm thấy bên trong hang, cùng với các phần
còn lại của thịt động vật.
Tạm kết: Cũng
giống như tổ tiên của chúng ta, việc chăm sóc và nuôi dạy con là nghĩa
vụ thiêng liêng, niềm hạnh phúc của cha mẹ. Dù cho trải qua bao nhiêu
thiên niên kỷ, qua nhiều giai đoạn tiến hóa của loài người thì việc chăm
lo cho gia đình, bảo vệ con cái vẫn do người mẹ đảm nhiệm.
Nhắc
đến hai từ “lao động” lại nhớ tới dĩ vãng. Thời niên thiếu, nhà trường
thường hay tổ chức những buổi làm việc công ích như trồng cây, vệ sinh
trường trại, đào hố ủ lá làm phân xanh giúp nông dân, đắp đê chống lũ
lụt…, mà hối đó gọi là “lao động xã hội chủ nghĩa”. Trong nhiều buổi
làm việc ấy, người ta giăng ra cái băng rôn to tướng đề câu khẩu hiệu
“Lao động là vinh quang!”. Lúc đó, tôi tin mù quáng vào điều đó. Lớn
lên thành thanh niên, tôi vẫn tin như vậy với lý trí: lao động vừa tự
nuôi sống mình, vừa làm ra của cải vật chất cho xã hội hoặc tạo ra những
công trình ích lợi cho cộng đồng nên vì thế mà vinh quang. Bây giờ
nghĩ lại, tôi cho rằng khẩu hiệu đó không chính xác, mà đúng hơn có lẽ
phải là "Lao động Xã hội chủ nghĩa là vinh quang!" chứ không phải bất
cứ lao động nào cũng vinh quang, hay lao động nói chung là vinh quang. Lao động không mang lại thành quả gì cho bản thân thì chỉ là lao động bắt buộc! Bè lũ tham nhũng, "tư sản đỏ" có thấy lao động là vinh quang không?
Mục đích phục vụ sự sống còn chính đáng của loài người, đem lại lợi ích
cho cộng đồng xã hội một cách phù hợp với Đức Huyền Diệu mới gọi là vinh
quang.
Nhưng
lao động là gì? Theo quan niệm của triết học duy vật biện chứng thì, xã
hội loài người là một kết cấu vật chất đặc thù, hình thành trong quá
trình phát triển và chuyển hóa lâu dài của tự nhiên, từ giới vô sinh đến
hữu sinh, từ động vật đến loài người. Từ một loài động vật cao đẳng -
vượn người - chuyển biến thành loài người là cả một quá trình biến đổi
lâu dài thông qua lao động. Lao động là hình thức hoạt động đặc thù của
con người nhằm sống còn, nhằm cải tạo tự nhiên để thỏa mãn nhu cầu của mình, đồng thời
cũng cải tạo bản thân con người nhằm tự giác tiến hóa, thích nghi. Phải nói rằng loài người vượn tiến hóa
thành người nhờ lao động sáng tạo.
Có lẽ vì quan niệm như vậy cho nên những người theo chủ nghĩa cộng sản mới coi lao động nói chung là vinh quang.
Tôi
cho rằng cái quan niệm ấy cũng có phần đúng nhưng còn khiếm khuyết, chưa
“rõ ràng và sáng sủa”, nghĩa là vẫn phạm sai lầm, hàm chứa mâu thuẫn
nội tại.
Trong
“Biện chứng của tự nhiên”, Ăngghen viết thế này: “Các nhà kinh tế chính
trị khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động
đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cái cung cấp những vật
liệu cho lao động biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì
vô cùng lớn lao hơn thế nữa. Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của
toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa
nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”.
Vậy
thì trước tiên cần phải làm sáng tỏ tính đặc thù của lao động thể hiện
ra như thế nào. Cũng theo triết học duy vật biện chứng thì, quá trình
lao động sản xuất là quá trình trao đổi vật chất giữa con người và tự
nhiên, quá trình con người chinh phục tự nhiên, cải biến tự nhiên, trên
cơ sở đó mà sáng tạo ra những điều kiện sinh tồn cho bản thân mình.
Những sản phẩm lao động của con người thể hiện cụ thể sự thống nhất giữa
xã hội và tự nhiên. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người không
phải làm với tư cách là những cá nhân riêng lẻ mà là những thành viên
tập thể, quan hệ với nhau, trao đổi hoạt động với nhau, nhất là trong
lao động sản xuất. Cũng trong “Biện chứng của tự nhiên”, Ăngghen viết:
“Nhưng khi các loài vật tác động đến hoàn cảnh chung quanh của chúng
trong một thời gian lâu dài, thì chúng hoàn toàn không có ý định trước
về việc đó, và đối với bản thân chúng, tác động ấy chỉ là một việc ngẫu
nhiên mà thôi. Trái lại, loài người càng cách xa loài vật thì tác động
của con người vào tự nhiên càng mang tính chất của một hoạt động có tính
toán trước, có kế hoạch hướng vào những mục đích nhất định, được biết
trước. Loài vật phá sạch thực vật trong một vùng nào đó mà không hiểu gì
về việc làm của chúng cả. Còn con người, khi phá như thế để dùng dải
đất đã dọn sạch đó mà gieo ngũ cốc hoặc trồng nho, thì đã biết trước
rằng, mùa đến, các giống cây ấy sẽ đem lại cho họ một số thu hoạch biết
bao nhiêu lần nhiều hơn số hạt giống mà họ đã gieo”, “Ở các loài vật,
cùng với hệ thống thần kinh phát triển, thì khả năng hành động một cách
có ý thức, có hệ thống cũng phát triển theo… Tuy nhiên, toàn bộ hành
động có hệ thống mà tất cả các loài vật đã tiến hành đều không in lại
dấu vết ý chí của chúng trên mặt đất. Chỉ có loài người mới làm được
việc đó mà thôi”, “Tóm lại, loài vật chỉ bị lợi dụng giới tự nhiên bên
ngoài và gây ra những biến đổi trong tự nhiên chỉ đơn thuần do sự có mặt
của nó thôi, còn con người thì do đã tạo ra những biến đổi đó mà bắt
giới tự nhiên phải phục vụ những mục đích của mình, mà thống trị giới tự
nhiên. Và chính đó là sự khác nhau chủ yếu cuối cùng giữa con người và
các loài vật khác, và một lần nữa, chính cũng là nhờ có lao động mà con
người mới có được sự khác nhau đó”.
Để
đến với luận điểm coi lao động có vai trò quyết định đối với sự hình
thành loài người, Ăngghen đã nêu ra những suy lý, giải thích khá cụ thể
và cũng được trình bày trong tác phẩm nói trên. Ông cho rằng, bước quyết
định đầu tiên, có ý nghĩa tiền đề là đứng thẳng được trên mặt đất, di
chuyển thường xuyên bằng hai chân (hai chi sau) và hai tay (hai chi
trước) được tự do hoạt động. Theo ông, “… bàn tay đã được giải phóng, từ
đấy, nó có thể đạt được ngày càng nhiều những sự khéo léo mới, và sự
mềm mại hơn đã đạt được di truyền lại và cứ tăng lên mãi từ thế hệ này
sang thế hệ khác”, “Như vậy, bàn tay không những là khí quan của lao
động mà còn là sản phẩm của lao động nữa. Chỉ nhờ có lao động, nhờ thích
ứng được với những động tác ngày càng mới, nhờ sự di truyền của sự phát
triển đặc biệt đã đạt được bằng cách đó của các cơ, của các gân, và sau
những khoảng thời gian dài hơn, cả của xương nữa, và cuối cùng, nhờ
luôn luôn áp dụng lại sự tinh luyện thừa hưởng được đó vào động tác mới,
ngày càng phức tạp hơn, mà bàn tay con người mới đạt được trình độ hoàn
thiện rất cao…”, “Sự phát triển của bàn tay đã tác động trở lại, một
cách trực tiếp và có thể chứng minh được, đến những bộ phận khác của cơ
thể, đó là điều quan trọng hơn rất nhiều”, “Dần dần với sự phát triển
của bàn tay và với quá trình lao động, con người bắt đầu thống trị tự
nhiên và cứ mỗi lần sự thống trị đó tiến lên một bước, là mỗi lần nó mở
rộng thêm tầm mắt của con người… Mặt khác, sự phát triển của lao động đã
đưa đến kết quả tất yếu là thắt chặt thêm những mối quan hệ giữa các
thành viên của xã hội, bằng cách tạo ra rất nhiều trường hợp để cho con
người giúp đỡ lẫn nhau, hợp tác với nhau, và làm cho con người càng ngày
càng có ý thức rõ rệt về lợi ích của sự hợp tác ấy đối với mỗi thành
viên riêng rẽ. Tóm lại, những con người đang hình thành ấy đã phát triển
đến mức là họ thấy cần thiết phải nói với nhau một cái gì đây”, “Đem so
sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt
nguồn từ lao động và cũng phát triển với lao động, đó là cách giải thích
duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”. Cuối cùng, Ăngghen kết luận:
“Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn
ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ não của con
vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người”,
và “Lao động bắt đầu cùng với việc chế tạo ra công cụ”.
Kết luận như thế dễ gây ngộ nhận rằng lao động có vai trò tuyệt đối trong việc làm cho não vượn chuyển hóa thành não người. Nghĩa là quá trình lao động là có trước sự xuất hiện của não người và như thế cũng là có trước con người, loài người. Trong khi đó, lao động là hoạt động đặc thù của con người, chỉ loài người mới có và nếu cho rằng chế tác công cụ là hoạt động lao động đầu tiên thì cũng có thể coi đó là thời điểm vượn chuyển hóa xong và những con người đầu tiên xuất hiện. Nhưng nếu lao động và con người đồng thời xuất hiện thì làm sao lao động lại sáng tạo ra con người được, hay nói cách khác con người làm sao có thể tự sáng tạo ra mình được? Khảo cổ học đã chứng tỏ rằng sự chuyển biến từ vượn cổ (ngày nay, nhiều ý kiến cho là từ một loài khác, hai chi dưới có màng như chân vịt, có cùng tổ tiên với vượn cổ) thành con người nguyên thủy biết chế tạo công cụ, là một quá trình tiến hóa rất lâu dài chứ không thể ngày một ngày hai hay đột biến được. Vậy thì trong suốt quá trình tiến hóa lâu dài đó, những hoạt động tác động đến thiên nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu sống của mình của những giống loài trung gian giữa vượn cổ và người nguyên thủy biết chế tạo công cụ, có được gọi là lao động không? Nếu lao động sáng tạo ra loài người thì phải thừa nhận đó cũng là lao động hoặc ít ra cũng là lao động kiểu “nửa vời” và cũng có thể là gồm một phần hoạt động gọi là không phải lao động và phần kia đúng là lao động và loài có hoạt động kiểu đó tạm gọi là loài “nửa người nửa ngợm” (nửa người nửa vượn). Rốt cuộc thì phải nghĩ rằng, để sinh tồn, chính loài vượn cổ là “kẻ” đã sáng tạo ra hoạt động dưới hình thức lao động và thông qua lao động mà tự cải tạo mình thành người. Nhưng bằng cách nào hay động lực nào đã làm cho loài vượn cổ còn chìm đắm trong bản năng và mê muội lại có thể sáng tạo ra hoạt động có tính tự giác cao độ là lao động được? Chỉ có thể là do cái quá trình đấu tranh sinh tồn và tiến hóa thích nghi thôi thúc mà loài vượn cổ, một cách tự nhiên đã tăng cường hiệu quả của hoạt động kiếm sống với trình độ ngày một cao để “thoát xác, hóa thân” thành loài người. Như thế thì phải nói chính loài vượn cổ sáng tạo ra loài người từ bản thân chúng chứ không phải trực tiếp từ lao động và hơn nữa, lao động không phải là hình thức hoạt động sống chỉ riêng loài người mới có. Còn nếu vẫn khăng khăng cho rằng, lao động là hình thức hoạt động sống chỉ ở loài người mới có, và hành động theo hình thức lao động xuất hiện lần đầu tiên là chế tạo ra công cụ, thì phải quan niệm chính con người đã sáng tạo ra lao động chứ không phải lao động đã sáng tạo ra con người và trước khi có hiện tượng chế tác công cụ thì loài vượn cổ đã thành người nguyên thủy thậm chí là rất lâu rồi.
Kết luận như thế dễ gây ngộ nhận rằng lao động có vai trò tuyệt đối trong việc làm cho não vượn chuyển hóa thành não người. Nghĩa là quá trình lao động là có trước sự xuất hiện của não người và như thế cũng là có trước con người, loài người. Trong khi đó, lao động là hoạt động đặc thù của con người, chỉ loài người mới có và nếu cho rằng chế tác công cụ là hoạt động lao động đầu tiên thì cũng có thể coi đó là thời điểm vượn chuyển hóa xong và những con người đầu tiên xuất hiện. Nhưng nếu lao động và con người đồng thời xuất hiện thì làm sao lao động lại sáng tạo ra con người được, hay nói cách khác con người làm sao có thể tự sáng tạo ra mình được? Khảo cổ học đã chứng tỏ rằng sự chuyển biến từ vượn cổ (ngày nay, nhiều ý kiến cho là từ một loài khác, hai chi dưới có màng như chân vịt, có cùng tổ tiên với vượn cổ) thành con người nguyên thủy biết chế tạo công cụ, là một quá trình tiến hóa rất lâu dài chứ không thể ngày một ngày hai hay đột biến được. Vậy thì trong suốt quá trình tiến hóa lâu dài đó, những hoạt động tác động đến thiên nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu sống của mình của những giống loài trung gian giữa vượn cổ và người nguyên thủy biết chế tạo công cụ, có được gọi là lao động không? Nếu lao động sáng tạo ra loài người thì phải thừa nhận đó cũng là lao động hoặc ít ra cũng là lao động kiểu “nửa vời” và cũng có thể là gồm một phần hoạt động gọi là không phải lao động và phần kia đúng là lao động và loài có hoạt động kiểu đó tạm gọi là loài “nửa người nửa ngợm” (nửa người nửa vượn). Rốt cuộc thì phải nghĩ rằng, để sinh tồn, chính loài vượn cổ là “kẻ” đã sáng tạo ra hoạt động dưới hình thức lao động và thông qua lao động mà tự cải tạo mình thành người. Nhưng bằng cách nào hay động lực nào đã làm cho loài vượn cổ còn chìm đắm trong bản năng và mê muội lại có thể sáng tạo ra hoạt động có tính tự giác cao độ là lao động được? Chỉ có thể là do cái quá trình đấu tranh sinh tồn và tiến hóa thích nghi thôi thúc mà loài vượn cổ, một cách tự nhiên đã tăng cường hiệu quả của hoạt động kiếm sống với trình độ ngày một cao để “thoát xác, hóa thân” thành loài người. Như thế thì phải nói chính loài vượn cổ sáng tạo ra loài người từ bản thân chúng chứ không phải trực tiếp từ lao động và hơn nữa, lao động không phải là hình thức hoạt động sống chỉ riêng loài người mới có. Còn nếu vẫn khăng khăng cho rằng, lao động là hình thức hoạt động sống chỉ ở loài người mới có, và hành động theo hình thức lao động xuất hiện lần đầu tiên là chế tạo ra công cụ, thì phải quan niệm chính con người đã sáng tạo ra lao động chứ không phải lao động đã sáng tạo ra con người và trước khi có hiện tượng chế tác công cụ thì loài vượn cổ đã thành người nguyên thủy thậm chí là rất lâu rồi.
Xét
ở góc độ nhất định, tôi cũng đồng ý rằng lao động là một hình thức hoạt
động mà chỉ ở loài người mới có, nhưng không đồng ý hoàn toàn với những
biểu hiện đặc thù của lao động mà triết học duy vật biện chứng nêu ra
và Ăngghen là người đề xướng, vì chúng chưa thỏa đáng. Theo dõi lịch sử
cũng như nhìn vào thực tiễn, dễ dàng thấy lao động biểu hiện ra với
nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như lao động cưỡng bức và lao động
tình nguyện, lao động trí óc và lao động chân tay, lao động cá thể và
lao động tập thể… Vậy thì trước những cặp hình thức lao động tương phản
ấy, điểm chung nhất của lao động là gì? Có phải là tính tác động làm
biến đổi thiên nhiên, tính hợp tác xã hội, tính sáng tạo, tính tạo ra
của cải vật chất (khác với làm phong phú thêm về mặt tinh thần)… không?
Chắc là không rồi! Vậy thì đó là gì? Rõ ràng chỉ có thể thấy điều đó ở
tính mục đích của lao động. Dù đối tượng tác động của lao động có là gì
đi chăng nữa thì mục đích chung nhất của mọi hình thức lao động đều là
đảm bảo, thỏa mãn những nhu cầu vật chất lẫn tinh thần vốn có và cả mới
nảy sinh của con người nhằm duy trì và cải thiện cuộc sống ở mỗi cá nhân
hoặc cho cả cộng đồng xã hội, nói cách khác là nhằm phụng sự sống còn,
mà tuy hình thức lao động, có thể của riêng cá nhân nào đó hay của toàn
xã hội (về mặt này, dù có vẻ rất khiên cưỡng thì cũng phải thừa nhận rằng hình thức lao động cực đoan nhất chính là chiến tranh, hay có thể nói chiến tranh là hình thức lao động đặc biệt!).
Có
chuyện kể về một người tên là Rôbinxơn không may lạc đến hòn đảo hoang
vắng, tịch không một bóng người, ở giữa đại dương mênh mông, cách ly
hoàn toàn với xã hội loài người. Anh ta đã phải hành động một mình để cố
gắng sống sót mà hy vọng có ngày được trở về đất liền. Khó lòng chối
cãi được hành động ấy của Rôbinxơn cũng là lao động. Nhưng lao động ấy
có mang tính đặc thù như triết học duy vật biện chứng nêu ra không? Có
và cũng không! Có là có ý đồ, có hoạch định, có tác động đến thiên
nhiên, có tạo ra của cải vật chất, còn không là không có tính xã hội, do
đó mà cũng không có sự hợp tác, không có sự trao đổi lao động. Điều
đáng nói là ở mức độ như thế, một cách tương đối và hình thức, có thể
thấy lao động của Rôbinxơn chẳng khác gì mấy so với hoạt động sống của
con vật ở nhiều giống loài muông thú. Chẳng hạn như con báo, nó cũng
biết chọn chỗ trú ngụ thuận tiện, cũng biết chọn khu vực thường xuất
hiện con mồi, cũng biết ưu tiên chọn con mồi dễ khuất phục nhất trong
bầy đàn con mồi, cũng biết nấp, rình ở chỗ tối ưu nhất có thể, cũng biết
chờ đợi đến thời điểm thuận lợi nhất cho việc vồ bắt con mồi, cũng biết
cất giấu phần xác còn lại của con mồi sau khi ăn để đến lúc nào đó ăn
tiếp. Nghĩa là hành động mưu sinh của con báo, ở mức độ cũng thể hiện
tính có ý đồ, có hoạch định, cũng tác động đến thiên nhiên và tạo ra của
cải vật chất. Vậy, tại sao không gọi được hành động đó là lao động?
Theo quan niệm của triết học duy tồn thì có thể tạm hiểu: Lao động là hành động tác động vào ngoại vật hay ngoại cảnh một cách tự phát bản năng, đôi khi do cưỡng bức nhằm mục đích sống còn. Còn lao động sáng tạo là hành động tác động vào ngoại vật hay ngoại cảnh, có sự tham gia tích cực và mạnh mẽ của trí tuệ nhằm mục đích sống còn, tăng cường khả năng sống còn, cải thiện cuộc sống.
Thêm
một câu hỏi khác: lao động có tạo ra ngôn ngữ không? Tôi cho rằng ngôn
ngữ xuất hiện và hoàn thiện trong quá trình lao động nhưng bản thân lao
động không thể tạo ra ngôn ngữ. Có thể đoán rằng trong thời kỳ đầu tiên
của lịch sử loài người, khi mà phương thức kiếm ăn của con người chỉ là
săn bắt, hái lượm, thì dù là ở dạng sơ khai, ngôn ngữ đã xuất hiện và đó
là thứ ngôn ngữ duy nhất, chung cho cả loài người. Cùng với quá trình
tăng trưởng, về số lượng và đặc tính tích cực đi tìm kiếm nguồn cũng như
chủng loại thức ăn mới, là quá trình lan tỏa dân cư ra khắp thế giới
của loài người. Sự lan tỏa ấy và có thể cả sự bắt đầu xuất hiện phương
thức kiếm ăn mới là trồng trọt chăn nuôi đã tất yếu dẫn đến xuất hiện
những quần thể dân cư mang tính xã hội ngày càng rõ rệt, chiếm lĩnh
những khu vực tương đối rộng lớn mà về mặt địa lý là tương đối tách biệt
nhau. Rất có thể rằng, hiện tượng đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho thứ
ngôn ngữ duy nhất, chung cho cả loài người đã nói ở trên trở nên bị
phân hóa chuyển biến theo nhiều hướng khác nhau, xa dần gốc gác ban đầu
dẫn đến tình trạng những quần thể dân cư khác nhau thì có ngôn ngữ khác
nhau. Nếu cho là lao động tạo ra ngôn ngữ thì tại sao lúc đó, trong khi
cấu trúc sinh học cơ thể và do đó mà cấu tạo thanh quản của con người ở
các quần thể xã hội khác nhau, nói chung là đồng nhất và hơn nữa, mục
đích và cách thức lao động nói chung là hoàn toàn như nhau, thì ngôn ngữ
ở các quần thể dân cư ấy lại khác nhau? Một lao động duy nhất lại “chế
tác” ra nhiều ngôn ngữ có cùng một công dụng duy nhất, thỏa mãn cùng một
nhu cầu cho duy nhất một loài người là điều hoàn toàn bất tường, hoàn
toàn phi tự nhiên và không thể hình dung được. Sự duy lý rốt cuộc phải
dẫn đến ý nghĩ: không phải là cái gì khác mà chính là bộ não người đã
đóng vai trò quyết định, cùng với điều kiện hoàn cảnh của khu vực sống
đóng vai trò thứ yếu, làm xuất hiện hiện tượng sai biệt, khác biệt về
mặt ngôn ngữ giữa các quần thể người ấy. Nếu ý nghĩ này hợp lý và đáng
tin cậy, thì phải đi đến một kết luận, quan điểm của Ăngghen về lao động
vẫn còn khiếm khuyết…
Phải
chăng con người tạo ra ngôn ngữ trước hết là để phục vụ đòi hỏi trong
hành động mưu sinh của mình và vì thế mà sự sử dụng ngôn ngữ trong lao
động cũng chính là nét đặc thù của lao động? Không đúng! Lao động không
nhất thiết và không phải lúc nào cũng cần đến ngôn ngữ, hơn nữa con
người tạo ra ngôn ngữ là để thỏa mãn nhu cầu sống nói chung chứ không
riêng gì đối với lao động. Lao động chỉ có thể tăng cường sự phong phú của ngôn ngữ và là nguyên nhân chính của quá trình hợp quần xã hội.
Lá thư tìm thấy ở Telloh của thầy tế Lu'enna gửi nhà vua (có lẽ tên là) Urukagina của thành Lagash, Lưỡng Hà, thông báo con ngài đã chết trận, khoảng năm 2.400 TCN.
Lá thư tìm thấy ở Telloh của thầy tế Lu'enna gửi nhà vua (có lẽ tên là) Urukagina của thành Lagash, Lưỡng Hà, thông báo con ngài đã chết trận, khoảng năm 2.400 TCN.
Không
thể phủ nhận được ngôn ngữ là nguồn gốc nhân tạo, do chính con người
tạo ra và vì thế mà chỉ ở loài người mới có: Nhưng không phải vì thế mà
nó không có nguồn gốc tự nhiên. Xét cho cùng thì chính cái quá trình
tiến hóa thích nghi tự nhiên trong đấu tranh sinh tồn đã làm xuất hiện
ngôn ngữ của loài người. Vậy thì nguồn gốc tự nhiên dẫn đến ngôn ngữ của
loài người là cái gì? Đó chính là sự truyền thụ và tiếp thu tín hiệu, thông
tin giữa cá thể sinh vật và môi trường chứa nó (gồm cả đồng loại của
nó). Có thể thấy ngôn ngữ của con người chỉ là một dạng, một cách thức
có tính đặc thù, truyền thụ thông tin cho nhau trong vô vàn dạng, cách
thức cũng có tính đặc thù khác, tồn tại trong thế giới sinh vật. Với góc
độ nhìn nhận ấy thì ở các giống loài muông thú và thậm chí là ở nhiều
giống loài thực vật, cũng có “ngôn ngữ” theo kiểu của chúng và phù hợp
với chúng. Chẳng hạn như ở loài ong, loài kiến, phải cho rằng ở mức độ
nào đó, chúng cũng có ngôn ngữ đặc thù để truyền thụ thông tin cho nhau.
Nhiều hành vi của loài ong cho thấy có thể hiện tính ý đồ hoạch định,
tính tổ chức, phân công phân nhiệm mà nếu giữa chúng không có sự truyền
thụ thông tin cho nhau thì rất khó mà thực hiện được. Ở loài kiến cũng
vậy. Khi một con kiến phát hiện ra thức ăn ở nơi nào đó thì nó lập tức
quay về với ý đồ thông báo cho đồng loại và làm xuất hiện một đoàn kiến
dài dằng dặc với những con kiến hối hả đi ngược về xuôi tha lôi thức ăn
về tổ. Đối với những mẩu thức ăn quá lớn so với cơ thể của chúng thì
nhiều con kiến sẽ hợp sức lại, cùng nhau vận chuyển mẩu thức ăn về tổ.
Nếu những con kiến đó không có cùng một ý đồ, không biết phối hợp nhịp
nhàng, không biết phân công tổ chức, không biết đồng tâm hiệp lực tác
động vào theo cùng một hướng, thì chắc chắn chúng không thể vận chuyển
được về tổ mẩu thức ăn đó. Nhưng làm sao chúng hiểu được nhau để cùng
thực hiện tất cả những điều đó một cách đồng bộ nếu như chúng không có
một “tiếng nói chung” kiểu gì đó để báo hiệu cho nhau, để “dặn dò” nhau?
Như thế, trên cơ sở quan niệm của triết học duy vật biện chứng, một
cách hình thức và ở một mức độ nhất định nào đó, phải cho rằng, hoạt
động của đoàn kiến cũng như của từng con kiến trong việc tha lôi thức ăn
về tổ, cũng là lao động, là một hình thức của lao động. Vì đã thừa nhận
và trong hiện thực cũng dễ dàng phân biệt được lao động của con người
và “lao động” của con vật, nghĩa là lao động của con người đúng là có
tính đặc thù tính riêng, chỉ ở loài người mới có, cho nên phải trả lời
câu hỏi: vậy thì lao động của con người và “lao động” của con thú thực
sự khác nhau ở điểm nào nếu không thừa nhận những nét khác biệt mà triết
học duy vật biện chứng đã nêu ra?
Không
Gian (tuyệt đối) hay Thể Tích (tuyệt đối) là vốn dĩ thế. Vì chúng ta có
mặt trong đó và cảm nhận được Nó là một sự thực không thể chối cãi được
nên rõ ràng Nó là một cái gì đó chứ không phải không có gì. Hoạt
động sống của chúng ta mách bảo với bản thân chúng ta một cách hồn nhiên
rằng, chúng ta là một thực thể hẳn hoi, bằng chứng là chúng ta đang
quan sát thấy vạn vật - hiện tượng và sự vận động, biến đổi ở xung
quanh, chúng ta đang cảm giác được những tác động từ bên ngoài đến,
chúng ta đang nghĩ suy về điều này, điều nọ… Nghĩa là chúng ta cũng là
một cái gì đó chứ không phải không là gì, và chúng ta gọi đó là tồn tại,
cũng như gọi cái “không là gì”, cái mà chúng ta không thấy được là hư
vô. Xưa kia, do nhận thức còn nông cạn mà tổ tiên chúng ta cho rằng chỉ
có bản thân họ và những thứ học nhìn thấy được mới tồn tại, còn lại là
hư vô, là thực sự không có gì. Họ đâu biết quan niệm như thế là hoàn
toàn chủ quan, sai lầm. Họ đâu biết rằng bản thân họ cũng như những thứ
họ quan sát thấy, cảm nhận được trong phạm vi năng lực của họ, thực ra
nên gọi là những hiện hữu (và toàn cảnh mà họ thấy được gọi là hiện
thực). Họ đâu biết rằng hiện hữu là thể hiện của tồn tại trước quan sát,
hiện thực chỉ là một bộ phận nhỏ nhoi của thực tại khách quan, nên cũng
hiểu lầm phần phi hiện thực - phần hiện thực khách quan bao gồm vô vàn
tồn tại mà họ không thấy được, là hư vô, thậm chí là Hư Vô (hư vô tuyệt
đối) - Không cái gì tuyệt đối. Vì họ không thấy, không cảm nhận được
không khí nên họ cho rằng đó là một khoảng không, một thinh không hay
một hư không, trong khi không khí vẫn hiển hiện đầy ắp và vận động sôi
nổi trong chốn hư không đó, nghĩa là không khí chỉ hư vô đối với họ thôi
chứ thực ra vẫn đang tồn tại. Bây giờ, nhờ có sự khai sáng của triết
học duy tồn mà chúng ta biết được ta không thấy tồn tại vĩ đại chìm
khuất trước mắt chúng ta làm chúng ta không thấy gì hết và cho là hư vô,
phi hiện thực ấy thực ra là những cái gì đó hợp thành một tổng thể hiện
thực mênh mông, rộng lớn phi thường đang “sờ sờ” ở trước mắt chúng ta
mà chúng ta gọi là Không Gian và từng tưởng lầm đó là chân không tuyệt
đối, là sự thể hiện của Hư Vô (hư vô tuyệt đối). Bây giờ, chúng ta đã
biết được cái Không Gian vĩ đại ấy bao gồm cả hiện thực của chúng ta và
bản thân chúng ta và giờ đây trước mắt chúng ta, không chỉ là cái hiện
thực tầm thường và eo hẹp nữa mà là cả một Hiện Thực vĩ đại phi thường,
một thực thể Tồn Tại (tồn tại tuyệt đối) vô cùng biến ảo và huyền diệu.
Bây giờ chúng ta đã biết được chúng ta và vạn vật hiện tượng chỉ là
những tồn tại tương đối có nguồn gốc là Tồn Tại, nảy sinh, hiện hữu ra
từ đó và khi không còn tồn tại nữa thì tiêu vong, tan biến vào đó,
nhường chỗ cho những tồn tại tương đối, mới ra đời. Bây giờ chúng ta còn
biết rằng không thể có Hư Vô bên cạnh Tồn Tại vì nếu Hư Vô thể hiện ra
trước Tồn Tại như một hiện thực thì nó phải là Tồn Tại chứ không thể Hư
Vô được. Tồn Tại là vốn dĩ và duy nhất! Đó là điều mà hôm nay chúng ta
đã nhận thức được.
Đã
là Tồn Tại thì phải thể hiện đến “chân tơ kẽ tóc”, đến cùng cực vì nếu
không như thế thì cũng coi như Hư Vô - tuyệt đối không có gì - tình
trạng không thể có thực được khi chúng ta đang “ở đây” và tồn tại thực
sự, không thể phủ nhận được. Muốn thể hiện ra được ra như thế, Tồn Tại
phải biến hóa một cách toàn diện, liên tục không ngừng nghỉ đến bất tận,
và đó chính là vận động. Tồn Tại là vốn dĩ thì vận động toàn diện đến
tận “chân tơ kẽ tóc”, đến cùng cực, đến vĩnh cửu cũng là một vốn dĩ. Vận
động là vốn dĩ như thế để thể hiện Tồn Tại, bảo toàn Tồn Tại hay có thể
nói vận động là tự nhiên và chúng ta nói: Tự Nhiên Tồn Tại. Như vậy khi
nói Tự Nhiên Tồn Tại thì có nghĩa rằng Tồn Tại phải vận động một cách
tự nhiên nhằm thể hiện đến cùng cực sự Tồn Tại ấy đồng thời nhằm bảo
toàn tuyệt đối sự Tồn Tại ấy. Đây cũng chính là Nguyên Lý Tự Nhiên,
nguyên lý đóng vai trò tuyệt đối, tối thượng, là ngọn nguồn, là cội gốc
của mọi nguyên lý, qui luật có tính tương đối và đặc thù khác. Vì thực
thể trong thực tại khách quan luôn liên tục, không ngừng nghỉ biến đổi
một cách tuyệt đối, nhưng trong hiện thực khách quan của một quan sát
nào đấy, thì tùy thuộc vào cảm nhận cũng như qui định chủ quan của quan
sát ấy mà vạn vật, mọi thực thể được thấy tồn tại trong những khoảng
thời gian xác định nào đó với tư cách là chính nó chứ không phải cái gì
khác. Cũng vì phải tuân thủ Nguyên Lý Tự Nhiên mà vạn vật, mọi thực thể
không thể tuyệt đối tự thân biến đối, vận động được mà phải thông qua,
phải tương tác, phải trao đổi vật chất vớ môi trường chứa chúng, qui
định và “dung dưỡng” sự tồn tại của chúng để cùng nhau vận động, cùng
nhau biến đổi. Điều đó cho thấy ngay trong thế giới vô sinh đã hàm chứa
hiện tượng, truyền thụ và xứ lý thông tin, và như thế cũng tiềm ẩn cái
tạm gọi là mầm mống của tính tích cực, tự giác duy trì tồn tại của vạn
vật mà sau này, những tích ấy thể hiện nổi bật, nhất là ở loài người,
trong thế giới sinh vật.
Thực
thể sống xuất hiện đầu tiên trong môi trường thiên nhiên của Trái Đất
là đơn bào. Khi đơn bào mới xuất hiện thì môi trường dung dưỡng nó (đại
dương) dồi dào chất đặc thù mà nó cần trao đổi để duy trì sự tồn tại hay
còn gọi là sự sống của nó. Lúc đó, nó chẳng phải làm gì khác ngoài việc
chỉ ăn thôi, nghĩa là chỉ việc hấp thụ chất được gọi là thức ăn từ môi
trường chuyển hóa để nuôi sống cơ thể rồi trả lại môi trường một chất
khác gọi là chất thải hay “phân”, và được nước biển cho đi rong chơi đây
đó. Sự ăn đó làm cho đơn bào lớn lên nhưng do qui định nào đó có thể có
từ sự trao đổi chất đặc thù của đơn bào và môi trường mà sự lớn lên của
đơn bào là có hạn độ. Nhưng đơn bào vẫn cứ ăn một cách mù quáng trong
môi trường đầy ắp thức ăn, làm cho nó “phát phì”, sự cân bằng nội tại
của nó không thể duy trì được nữa và thế là nó vỡ ra, “chết tươi”, nghĩa
là nó tự chấm dứt cuộc sống của nó chỉ vì tham lam quá độ! Có lẽ đơn
bào ở thời kỳ đầu tiên chưa hẳn là đơn bào mà chỉ mới là một thực thể
trung gian giữa vô sinh và hữu sinh, tạm gọi là tiền đơn bào. Tiền đơn
bào tồn tại được một thời gian rồi chết đi, phân hủy, tan hòa trở lại vào môi trường
vô sinh. Có nhiều quá trình như thế xảy ra đồng thời và lặp đi lặp lại
khắp nơi trong môi trường. Thế giới sinh vật trong buổi đầu hình thành
chắc là chỉ như thế thôi.
Thời
gian trôi đi một đêm dài và rất có thể cái mầm mống tích cực duy trì
tồn tại đã thôi thúc làm xuất hiện một quá trình chuyển hóa trong cái
thế giới sinh vật bán khai ấy theo hướng phức tạp hóa cấu trúc nội tại
của một bộ phận tiền đơn bào, làm chúng trở thành đơn bào thực thụ. Đơn
bào cũng ăn, lớn lên, phát phì rồi chết như tiền đơn bào. Nhưng cách
chết của nó khác với của tiền đơn bào ở chỗ tự phân đôi ra, làm cho một
“cái tôi” thành hai “cái tôi” mới, nghĩa là nó chết mà như không chết,
chết để phụng sự, tôn vinh, phát triển sự sống. Đó cũng chính là hình
thức sinh sản đầu tiên trong thế giới sinh vật. Từ đây, trong cái môi
trường còn rất dồi dào thức ăn, xuất hiện một quá trình tăng trưởng
nhanh, có tính lạm phát về số lượng đơn bào. Quá trình này, theo thời
gian làm biến đổi môi trường sinh thái theo hướng nguồn thức ăn cung cấp
cho sự sống suy giảm đến mức nghiêm trọng, không đủ cung ứng cho số
lượng đơn bào đã tăng trưởng lên mức thái quá. Để cân bằng sinh thái,
hàng loạt đơn bào phải chịu chết đói để tái tạo, bổ sung nguồn thức ăn
đang suy kiệt. Đồng thời với quá trình đó là quá trình làm xuất hiện đa
bào, quá trình phân định sự sống thành giống đực, giống cái, làm xuất
hiện hình thức sinh sản mới, quá trình làm xuất hiện những hình thức
truyền thụ và lưu giữ thông tin mới để đáp ứng cho những cách thức trao
đổi chất mới, để lựa chọn, phát hiện thức ăn đã tương đối khan hiếm
trong môi trường, quá trình cải tạo cơ thể về mặt hình dạng để lợi dụng
môi trường chủ động di chuyển tìm thức ăn… Tất cả các quá trình ấy diễn
ra nhằm cố gắng cân bằng môi trường sinh thái, duy trì sự sống ở mỗi tập
hợp cá thể sống có cấu trúc nội tại và lối sống giống nhau và được gọi
là đồng loại, làm xuất hiện mâu
thuẫn về quyền lợi và như thế cũng làm xuất hiện sự cạnh tranh nhau để
sống còn không những giữa những tập hợp cá thể khác nhau và cả giống
nhau về cấu trúc sinh học và lối sống. Quá trình hình thành và cũng là
giai đoạn mở đầu cho cuộc đấu tranh sinh tồn và tiến hóa thích nghi
trong thế giới sinh vật có thể đã là như vậy. Và cũng bắt đầu từ đây,
thế giới sinh vật tăng trưởng theo hướng đa dạng hóa giống loài, nhiều
giống loài tuyệt chủng thì đồng thời cũng xuất hiện nhiều giống loài
mới, theo hướng mở rộng môi trường sinh thái của nó, chiếm lĩnh môi
trường thiên nhiên đến tận cùng khả năng của nó, làm cho sự sống có mặt ở
khắp nơi, từ biển cả đến mặt đất, trong lòng đất, trên núi cao và cả
trong không trung, đồng thời qua đó mà cũng tăng trưởng về mặt lực
lượng.
Trong
lịch sử hình thành và tiến triển của sự sống, có thể thấy một điều
giản dị này: lúc đầu chỉ là ăn (trao đổi chất), rồi đến phải tìm mà ăn
và cuối cùng phải làm mới có ăn, lúc đầu chỉ cần một loại thức ăn vô
sinh cho sự sống, sau là nhiều loại thức ăn vô sinh cho sự sống, thế
rồi đến lúc bên cạnh thức ăn vô sinh còn xuất hiện thức ăn hữu sinh,
thế rồi xuất hiện hiện tượng giống loài tiến hóa hơn ăn sống nuốt tươi
giống loài chậm tiến hóa hơn và cả ăn thịt lẫn nhau, lúc đầu đối với
một giống loài chỉ có một vài chủng loại thức ăn, sau là nhiều chủng
loại thức ăn, cả từ thực vật lẫn động vật, và cuối cùng, nếu thức ăn
hiểu theo nghĩa mở rộng, gồm cả những thứ phục vụ cho tiêu dùng phi
thực phẩm thì coi như loài người là loài hầu như ăn được mọi thứ có
trong môi trường thiên nhiên, kể cả máu thịt đồng loại, kể cả phân do
bản thân loài người thải ra. Đó cũng chính là thành quả “đáng nể” nhất,
đáng kể nhất của cuộc đấu tranh sinh tồn căng thẳng bền bỉ và lâu dài.
Mở rộng ra, một cách phổ biến, vạn vật trong Vũ Trụ, nói tương đối,
đều trao đổi chất theo một trong hai hoặc cả hai cách trong suốt quá
trình tồn tại của chúng, một là thụ động chịu sự trao đổi chất với môi
trường, hai là chủ động trao đổi chất với môi trường, trong đó cách thứ
nhất thuộc tầng nền tảng vi mô, cách thứ hai thuộc tầng Vũ Trụ vĩ mô.
Nói
chung là như vậy, nhưng phải hỏi rằng, cuộc đấu tranh sinh tồn và tiến
hóa thích nghi ấy cụ thể đã tác động trực tiếp vào yếu tố nào, vào khâu
then chốt nào trong quá trình vận động của thế giới sinh vật để nó tiến
triển theo chiều hướng sinh ra loài người và chiều hướng ấy có phải là
duy nhất, tất yếu hay không? Có thể khẳng định: không riêng gì thế giới
sinh vật ở Trái Đất mà bất cứ thế giới sinh vật nào đã từng hoặc sẽ xuất
hiện trên những hành tinh khác trong Vũ Trụ, đều phải có quá trình tiến
triển theo chiều hướng làm hình thành nên giống loài biết tư duy sâu
sắc, nếu không bị chấm dứt đột ngột bởi một tai nạn vũ trụ nào đó. Tồn
tại và đồng thời không tồn tại là một tất yếu khách quan, nhưng trước
một quan sát chủ quan thì tồn tại và không tồn tại được phân định tương
đối thành hai, nghĩa là khi một thực thể nào đó đang tồn tại thì nó
không thể không tồn tại, và ngược lại. Khi nói đến sự tồn tại của một
thực thể vô sinh nào đó thì sự tồn tại đó chỉ có thể là ở trong môi
trường chứa nó. Vận động, chuyển hóa là bất tuyệt và đồng thời cũng là
sự thể hiện của tồn tại cho nên khi nói một thực thể đang tồn tại thì
cũng có nghĩa đó là một lực lượng vật chất đặc thù so với môi trường
chứa nó, đang vận động và phải liên tục vận động để duy trì sự biểu hiện
đặc thù ấy. Nghĩa là nội tại của lực lượng vật chất đặc thù ấy phải
luôn luôn biến đổi đến hết khả năng để duy trì cân bằng nội tại trước
nguy cơ bị mất thế cân bằng, bị chấm dứt tồn tại. Tự Nhiên Tồn Tại là
vốn dĩ, mà xét trên nguyên lý nhân quả thì là nguyên nhân và đồng thời
kết quả của chính nó. Ngoài ra, mọi tồn tại (tương đối) khác, từ sự nảy
sinh, hiện hữu, tiêu vong đều phải nằm trong mối quan hệ nhân - quả, đều
là những kết quả của những nguyên nhân xác định. Qua đó mà thấy, một
thực thể không thể hoàn toàn tự thân vận động để duy trì sự tồn tại của
nó được mà phải thông qua sự tương tác theo nguyên lý tác động - phản
ứng và sự trao đổi vật chất giữa nó với môi trường chứa nó, làm biến đổi
bản thân nó và đồng thời cả môi trường chứa nó, chi phối nó. Giềng mối
của mọi tương tác và trao đổi vật chất là cảm ứng - kích thích và chuyển
hóa của các hạt KG. Từ đó mà có hiện tượng thu - phát bức xạ. Thu -
phát bức xạ là hình thức trao đổi vật chất thống nhất và duy nhất nhằm
duy trì tồn tại của mọi thực thể vô sinh. Trong một môi trường có điều
kiện, hoàn cảnh phù hợp thì sự sống xuất hiện. Khi sự sống xuất hiện thì
bên cạnh hình thức trao đổi vật chất đóng vai trò nền tảng duy trì tồn
tại, còn xuất hiện hình thức trao đổi vật chất đóng vai trò thiết yếu
duy trì sự sống đối với mọi cơ thể sống là tiêu thụ trực tiếp những loại
vật chất cần thiết có trong môi trường và thải ra môi trường những vật
chất đã bị chuyển hóa hoặc dư thừa trở nên không còn cần thiết nữa, thậm
chí là bất lợi đối với cơ thể ấy. Ở Trái Đất, một cách phổ biến thì một
cơ thể sống, muốn sống được, phải thở, uống và ăn. Ôxy luôn được tái
tạo và coi như vô tận đối với thế giới sinh vật, nước cũng tương đối
được coi giống như vậy, còn thức ăn thì bấp bênh, lúc khan hiếm, lúc dồi
dào, nhưng phổ biến là bị hạn chế, gây ra tình trạng phải tranh giành,
cưỡng đoạt giữa các giống loài sinh vật, do sự tăng trưởng tự phát,
thiên tai gây ra. Chính vì vậy mà thức ăn trở thành nhu cầu bức thiết
hàng đầu đối với sự sống, không ăn thì không thể sống được. Mâu thuẫn
gay gắt có tính thường xuyên giữa nguồn thức ăn bị hạn chế bởi sự tăng
trưởng mù quáng cũng như thiên tai gây ra và những lực lượng sống đã làm
xuất hiện xu hướng đa dạng hóa nguồn thức ăn, mở rộng môi trường sống,
tăng cường khả năng tìm thấy thức ăn, khả năng tạo ra thức ăn và cả khả
năng đề kháng, tự vệ, lẫn tránh tai họa để sống còn ở thế giới sinh vật.
Đó cũng chính là xu hướng tự nhiên, tất yếu và vì vậy mà cũng là duy
nhất của quá trình tiến hóa thích nghi ở bất kỳ thế giới sinh vật nào
trong Vũ Trụ.
Nhưng
sự tiến hóa thích nghi và làm xuất hiện phong phú, đa dạng giống loài
sinh vật bắt đầu như thế nào, trên cơ sở cốt lõi nào và đối tượng đầu
tiên mà nó tác động có tính xuyên suốt làm chuyển hóa giống loài sinh
vật là ở khâu nào của sự sống? Không thể khác được, bắt đầu là ở khâu
thu - phát bức xạ, làm xuất hiện hiện tượng truyền - nhận và lưu giữ
thông tin, tín hiệu và đây cũng là đối tượng bị tác động xuyên suốt và
thông qua đó mà có sự tiến hóa nói chung. Thủa ban đầu, khi sự sống mới
xuất hiện thì vì thức ăn là vô cùng dồi dào cho nên khả năng nhận biết
thức ăn có lẽ ở mức độ hầu như chưa có. Khi thức ăn không còn dồi dào
nữa thì khả năng phân biệt, nhận biết thức ăn được tăng cường lên, phản
ứng trong nội tại cơ thể sống đã có dấu hiệu của cảm giác, bức xạ từ bên
ngoài vào đã bắt đầu có ý nghĩa thông tin. Không ăn thì chết, thiếu
thức ăn thì phải chờ đợi thức ăn “đến”, chờ không được thì phải di
chuyển, “đi” tìm cho ra thức ăn, không có thức ăn “truyền thống” thì thử
chất có tính tương tự, không có thức ăn vô sinh thì thử ăn thức ăn hữu
sinh, ăn cơ thể sống khác, cơ thể sống khác cũng “muốn” sống còn nên
phải tránh né hoặc chống cự lại, hết thức ăn gần thì tìm thức ăn xa,
thức ăn trực tiếp không có thì phải làm ra miếng ăn mà ăn, con mồi nhanh
mạnh thì phải nhanh mạnh và khéo léo hơn để mà vồ chụp được… Nhưng muốn
được như vậy thì trước hết và trên hết phải tăng cường mức độ sắc sảo,
nhạy bén ở khâu đầu tiên là truyền - nhận, lưu giữ và giải mã tín hiệu
thông tin. Quá trình đó tất yếu dẫn đến sự xuất hiện hệ thống thần kinh,
các giác quan để cảm nhận ngày một tinh tế những tín hiệu thông báo đến
từ môi trường sống, từ đó mà cấu trúc sinh học cơ thể cũng dần được cải
tạo theo hướng có lợi hơn cho lối sống đặc thù đang có, giành được ưu
thế hơn trong cuộc đấu tranh sinh tồn gay gắt. Cũng nhờ thế mà xuất hiện
muông thú, những giống loài có hệ thần kinh đạt đến độ tinh vi, gồm một
đầu não (bộ não) đóng vai trò trung tâm xử lý thông tin, điều hành hoạt
động sống và một mạng lưới “chằng chịt” những dây cùng những đầu mối
thần kinh đóng vai trò thu nhận, truyền dẫn thông tin, nhờ thế mà hoạt
động sống của chúng đã có nhiều hành vi thể hiện rõ tính tích cực, chủ
động và đôi khi cả tính sáng tạo. Nói chung, nếu ở các giống loài thực
vật, sự tìm ăn hầu như là thụ động, mù quáng, thì ở các giống loài động
vật, sự tìm ăn đã có tính chủ động hơn rất nhiều, nhất là ở bộ phận động
vật ăn thịt, không những phải tích cực lùng sục cho ra con mồi mà còn
phải săn, rình rập, kiên trì chờ cơ hội thuận lợi để vồ cho được con
mồi, nghĩa là đối với chúng, không “làm việc” thì không có miếng ăn,
thậm chí là phải làm việc cật lực một cách có tinh thần hợp tác, đồng
tâm hiệp lực mới may ra có được miếng ăn. Đừng tưởng con người là giống
loài đầu tiên và cũng là duy nhất chế tạo ra phương tiện, công cụ cũng
như vũ khí để hỗ trợ cho đời sống, làm ăn, sự tự vệ của mình được thuận
lợi hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Ngay từ khi xuất hiện cuộc đấu tranh sinh
tồn, sinh vật, bị môi trường thiên nhiên thôi thúc và định hướng, thông
qua quá trình tiến hóa thích nghi đã phải “tự tạo” ra và hoàn thiện
những bộ phận cơ thể để làm công cụ, phương tiện sử dụng trong sinh hoạt
tăng cường khả năng tìm kiếm và làm ăn cũng như khả năng tự vệ, trốn
tránh kẻ thù. Chỉ có điều những công cụ, phương tiện ấy hình thành một
cách hồn nhiên, tự phát và do đó mà cũng không có tính nổi trội, bị chìm
khuất, con người khó thấy được. Không thể phủ nhận được tính công cụ,
phương tiện phục vụ cho sự làm ăn, sự tự vệ đối với những thứ như móng
vuốt, răng nanh ở loài hổ, báo, những thứ như nọc độc ở loài rắn, như
sừng ở loài trâu, bò…
Có
thể loài người là từ một loài có cùng một tổ tiên với loài vượn cổ tiến
hóa lên. Loài tổ tiên này đã thích nghi với cuộc sống thường xuyên ở
trên cây. Sau một thời kỳ sống nói chung là thuận lợi và bình ổn thì do
nhiều nguyên nhân tự nhiên đã đề cập ở trên mà môi trường sống của chúng
biến đổi theo xu thế ngày càng bất lợi, khắc nghiệt làm chúng bị phân
liệt, chuyển hóa theo nhiều hướng khác nhau để thích nghi trong điều
kiện hoàn cảnh môi trường mới. Có thể rằng một nhánh là tổ tiên trực
tiếp của loài người đã phải lần hồi xuống mặt đất kiếm ăn, tìm những
loại thức ăn mới như rau củ, dần dần là xác chết động vật, rồi thịt động
vật sống, và theo thời gian, thích nghi luôn với đời sống thường xuyên ở
đó. Cũng rất có thể rằng, lúc đầu thì sống trong rừng rậm, sau thì lần
mò ra sống tập trung chủ yếu ở vùng duyên hải nhiệt đới, ưu tiên là ở
những vùng gần cửa sông. Có lẽ tổ tiên của loài người đã sống ở đó khá
lâu nhờ môi trường sinh thái ở đó thuận lợi nổi bật đối với họ như khí
hậu, thời tiết ôn hòa hơn, thức ăn dồi dào hơn (cây trái, rau củ nhiều,
thịt, cá, sò ốc cũng lắm…). Thời gian lâu dài đó đã biến đổi hình hài
cũng như cấu trúc sinh học cơ thể và cả thói quen ăn uống, sinh hoạt.
Chúng ta hình dung ra như thế vì phỏng đoán rằng loài người ngày nay hầu
như đã trần trụi lông lá và ăn mặn, ăn nhiều muối hơn hẳn các giống
loài muông thú khác là do tổ tiên của loài người đã từng sống lâu dài và
đã tiến hóa thích nghi trong môi trường duyên hải đó, môi trường dồi
dào những thực phẩm có hàm lượng muối cao, có nhiều ao hồ, đầm lầy xen
kẽ. Hơn nữa, còn có thể phỏng đoán rằng chính cái địa hình đa tạp nói
trên của miền duyên hải thời tối cổ nguyên thủy đã là yếu tố tối quan
trọng, thậm chí là quyết định trong việc thúc giục tổ tiên của loài
người từ bỏ lối đi đứng bằng bốn chi, chuyển sang đứng thẳng, đi bằng
hai chân và đôi tay được giải phóng để đảm nhận một chức năng mới: làm
phương tiện, công cụ hỗ trợ đắc lực cho họ trong cuộc đấu tranh sinh
tồn. Để di chuyển một cách có hiệu quả trên một địa hình phức tạp rừng
núi, sông ngòi, đầm lầy, ao hồ, đồng bằng xen kẽ thì cấu tạo cơ thể phải
đáp ứng được nhiều hình thức vận động là bơi nhanh được, lội nhanh
được, chạy nhanh được, leo trèo thoăn thoắt được và trong khi vận động
vẫn có thể quan sát, phát hiện được tai họa hay thức ăn, con mồi từ xa,
thì tư thế đứng thẳng và chân tay linh hoạt là tối ưu hơn cả.
Như
đã nói thì có nhiều hướng, nhiều cách thức tiến hóa thích nghi khác
nhau tùy thuộc vào địa hình cụ thể của sự biến đổi môi trường sống, vào
lối sống và cấu tạo sinh học đang có, nhưng hướng tiến hóa có tính phổ
biến, xuyên suốt và đóng vai trò như cơ sở, tiền đề cho mọi tiến hóa
thích nghi chính là tăng cường khả năng truyền nhận thông tin, giải mã
tín hiệu và lưu giữ thông tin về mặt thời gian cũng như số lượng dẫn đến
sự hình thành hệ thần kinh có trung tâm xử lý thông tin, chỉ huy và
điều hành là bộ não. Điều đó cũng là một gợi ý cho chúng ta phỏng đoán
tổ tiên loài người không phải là loài vượn cổ. Nếu loài người và loài
vượn ngày nay cùng xuất thân từ loài vượn cổ thì tại sao loài vượn ngày
nay cũng khôn nhưng còn thua kém rất xa so với trí khôn ở loài người, vì
sao không thể đi thẳng thường xuyên bằng hai chân như loài người, vì
sao chúng có nhiều lông trong khi loài người lại hiếm lông, và vì sao
chúng ăn lạt còn loài người lại ăn mặn? Có thể nghĩ rằng thuở đầu tiên,
loài vượn cổ và tổ tiên loài người rất gần nhau về mặt họ hàng, cùng
chung sống trong một môi trường, thậm chí là những thế hệ đầu tiên khi
rời bỏ lối sống thường xuyên trên cây xuống sống ở cả trên mặt đất vẫn
là một loài duy nhất. Sự lan tỏa dân cư đã làm cho một bộ phận đi dọc
theo những dòng suối rồi sông và cuối cùng thì “định cư” lâu dài ở miền
duyên hải trù phú. Dần dà bộ phận này chuyển biến thành tổ tiên loài
người còn bộ phận “ở lại” trở thành loài vượn cổ.
Lúc
mới đặt chân lên địa bàn miền duyên hải, có lẽ trí khôn của tổ tiên
loài người còn thua cả loài khỉ ngày nay và về mặt sức vóc cũng chỉ lớn
hơn con khỉ không nhiều và chủng loại thức ăn vẫn là từ thực vật do hái
lượm mà có. Lúc đầu là hoa quả nhưng những thứ ấy nhiều khi cũng hiếm
nên sau là đến rau củ, rồi đến lúc đi lượm sò ốc ven sông, trong ao, hồ,
vũng, ven biển để ăn. Rất có thể việc ăn những “quả” sò, ốc đã mở đường
cho tổ tiên loài người mở rộng chủng loại thức ăn sang thịt động vật,
trở thành loài ăn tạp nhất và mặn nhất trong thế giới sinh vật. Sau khi
sò, ốc đã thành thức ăn “hợp khẩu vị” rồi thì đến lượt những động vật
nhỏ, chậm chạp, dễ bắt đại loại như tôm, cua, ếch nhái, cá trong vũng,
ao hồ cạn nước lúc nắng hạn… và cuối cùng là cả muông thú chạy nhanh,
khỏe, dữ tợn cũng đến lượt trở thành nguồn thức ăn cho thủy tổ loài
người. Sự mở rộng chủng loại thức ăn sang cá, thịt đồng thời làm xuất
hiện một phương thức kiếm ăn mới, đó là săn bắt.
Khi
chuyển sang ăn cả cá thịt thì cũng là lúc tổ tiên loài người bắt đầu
bước đi những bước rất dài trên con đường tiến hóa thích nghi của mình,
không những là về mặt cải thiện sức vóc, hình dáng mà còn cải thiện cả
về mặt chức năng hoạt động của các bộ phận cơ thể, nhưng trước hết và
cũng quan trọng hơn cả là sự tăng cường thể chất của bộ não, tạo điều
kiện làm xuất hiện những yếu tố quyết định để bộ não ấy chuyển biến
thành bộ não người nguyên thủy, biết chủ động thích nghi trong chừng mực
có thể.
Sự
tăng trưởng nhanh chóng về mặt số lượng trong điều kiện thức ăn dồi dào
của tổ tiên loài người làm xuất hiện ngày một nhiều bầy đàn đông đảo
giống loài ấy, làm mất cân bằng sinh thái theo chiều hướng ngày một bất
lợi đối với đời sống của chúng, gây ra sự thiếu hụt thức ăn, dẫn đến một
yêu cầu có tính cấp bách là làm sao phải tìm kiếm và làm ra cái ăn (săn
bắt) hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn trong những điều kiện và tình thế
mỗi lúc càng khó khăn hơn, cạnh tranh gay gắt hơn giữa các bầy đàn, và
cả giữa các cá thể tương đối xa lạ với nhau. Chính cái yêu cầu đó đã làm
cho tổ tiên loài người chuyển dần sang đứng, đi, chạy nhảy bằng hai
chân (chuyển biến để đảm nhận chức năng chủ yếu là di chuyển cơ thể
nhanh chóng trên mặt đất cũng như dưới nước), làm cho đôi tay chỉ còn
chức năng hỗ trợ cho di chuyển trong những trường hợp như leo trèo, bơi
và hoàn toàn được giải phóng khi đi, đứng, chạy, nhảy, và vì thế mà dần
dần chuyển biến, có chức năng chủ yếu là công cụ đắc lực trong việc tạo
ra miếng ăn, thậm chí còn là một vũ khí lợi hại để tự vệ và trấn áp lẫn
nhau bằng bạo lực. Bên cạnh quá trình phân hóa chức năng chủ yếu cho đôi
chân và đôi tay ở tổ tiên loài người là quá trình tăng cường truyền tin
cho nhau trong nội bộ giống loài (cố gắng tạo ra nhiều tín hiệu âm
thanh hơn, qua đó mà hệ thống thanh quản - phát âm được cải tạo và ngược
lại), nhằm hợp tác kịp thời hơn, đồng tâm hiệp lực hơn, hiệu quả hơn
trong làm ăn. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, còn một quá trình thứ ba
xảy ra song song và có quan hệ mật thiết với hai quá trình trên, nhưng
có tính đi tiên phong, là cơ sở tiền đề làm diễn tiến hai quá trình đó,
đó là quá trình làm cho hoạt động bộ não đã được chuẩn bị đầy đủ những
tố chất cần thiết, ngày càng mạnh mẽ, tích cực, ngày càng tinh tế, làm
cho những biểu hiện như: có ấn tượng, nhớ, suy diễn còn ở tình trạng hời
hợt, bất ổn, mờ nhạt của bộ não ấy trở nên ngày càng sâu sắc, bền vững,
rõ ràng và đóng vai trò như là những đặc tính nổi trội, vốn có.
Trong
công cuộc mưu sinh lâu dài của tổ tiên loài người có nhiều hiện tượng
thiên nhiên cứ như là sự lặp đi lặp lại đã tác động đến bộ não của họ,
làm cho cái phản xạ ở hình thức là “sự nhớ lại” dần dần được củng cố và
do đó mà “sự ấn tượng” còn mù mờ thuở ban đầu cũng dần trở nên rành
mạch, rõ ràng. Trong số những hiện tượng lặp đi lặp lại ấy, có nhiều
hiện tượng liên quan trực tiếp đến sự sống còn, có tính gợi ý, báo hiệu
trước về những an nguy sắp xảy ra mà tổ tiên loài người phải đối mặt,
hơn nữa, cũng có nhiều hiện tượng trong khi họ kiếm ăn chỉ thị rằng lẩn
khuất đâu đó hoặc xa hoặc gần, có thể có thức ăn, có thể có con mồi.
Những hiện tượng đó, cùng với sự ấn tượng đã tương đối ổn định làm cho
sự phản xạ dưới hình thức “phán đoán” còn sơ khai của bộ não tổ tiên
loài người dần dần đạt đến trình độ cao hơn, tạm gọi là “dự đoán” - hình
thức đầu tiên và đơn giản của suy đoán, suy diễn, mà ở cao độ là suy lý
lôgic. Chẳng hạn, sẽ đến một giai đoạn mà tổ tiên loài người khi thấy
trên mặt hồ đang phẳng lặng tự nhiên nổi tăm thì họ biết được ngay bên
dưới đó có cá, thậm chí còn biết cá to hay nhỏ, nhiều hay ít cá, sẽ biết
truy đuổi một con mồi theo cách nào đó thì có thể dồn nó đến cùng đường
và sẽ bắt được. Như vậy, sau một thời gian dài tiến hóa, tổ tiên loài
người đã sở hữu được bộ não đã nảy mầm, đâm chồi tất cả các đặc tính mà
bộ não người hiện có và bắt đầu những bước đi cuối cùng, vững chãi, dứt
khoát để thành người.
Chính
bộ não đã trưởng thành đó làm cho tổ tiên loài người, trong nội bộ từng
bầy đàn, xích lại gần nhau hơn để hợp tác chặt chẽ hơn, phối hợp nhịp
nhàng hơn trong công cuộc mưu sinh, trong những quá trình tìm kiếm, phát
hiện, hái lượm, săn bắt, tạo ra miếng ăn. Muốn thế, phải tăng cường số
lượng tín hiệu chủ yếu là bằng âm thanh phát ra từ hệ thanh quản - phát
âm để thông tin cho nhau nhằm phân công, phối hợp, hỗ trợ nhau trong làm
ăn. Sự tăng lên ngày một nhiều tín hiệu đã tác động trở lại bộ não làm
tăng cường trí nhớ cũng như sự hồi ức của nó và qua đó cũng kéo theo sự
tăng cường các đặc tính khác. Lúc đầu những tín hiệu thông tin đó chỉ là
đơn âm, hoàn toàn rời rạc, đóng vai trò như là những tên gọi về những
hành động nào đó, những đối tượng nào đó hiện hữu trong môi trường thiên
nhiên. Về sau, do cái đòi hỏi phải mưu sinh ngày càng hiệu quả hơn, nảy
sinh ra trong cuộc đấu tranh sinh tồn giữa tổ tiên loài người với đại
bộ phận còn lại của thế giới sinh vật, cũng như giữa các bầy đàn trong
nội bộ tổ tiên loài người thôi thúc, mà chính bộ não ấy chứ không phải
cái gì khác, vừa tiếp tục phát triển tín hiệu đơn âm, vừa làm hình thành
những tín hiệu đơn âm rồi “tìm cách” liên kết chúng lại thành, lúc đầu
là những đoạn thông tin ngắn, rồi sau là những đoạn thông tin ngày càng
dài hơn, mang những ý nghĩa nào đó có tính thông báo cho nhau giữa các
cá thể của nội bộ bầy đàn, giống loài về một hiện tượng nào đó, một biến
cố nào đó, một hành vi nào đó, một cách cụ thể hơn, tường tận hơn, rành
mạch hơn và cũng chính xác hơn, Thế là trước những đòi hỏi khách quan,
trước tiên là sự tiến hóa của bộ não, rồi do hối thúc cần phải phát ra
thường xuyên ngày một nhiều những tín hiệu thông tin khác nhau mà đến
lượt hệ thống thanh quản và cơ quan phát âm của tổ tiên loài người được
cải tạo để bắt đầu làm xuất hiện một hình thức truyền đạt thông tin mới
trong thế giới sinh vật, có tính đặc thù, chỉ ở những thế hệ cuối cùng
của tổ tiên loài người mới có, và tạm gọi là “tiền ngôn ngữ”. Đi đôi với
quá trình hình thành tiền thân của ngôn ngữ là quá trình các đặc tính
tiền đề làm hình thành nên sự suy nghĩ của bộ não tổ tiên loài người
được làm cho sâu sắc hơn nữa. Một đứa trẻ ở độ tuổi chưa biết nói và
cũng chưa hiểu được ngôn ngữ thì trong não của nó đã hình thành sự suy
nghĩ chưa? Tất nhiên là chưa! Bởi vì điều dễ dàng thấy được là một bộ
não biết suy nghĩ thì sự suy nghĩ ấy phải có ngôn ngữ làm nền tảng, phải
sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện để giãi bày, suy diễn, lập luận và
đúc kết. Từ nhận định đó có thể cho rằng, trong thời kỳ tiền ngôn ngữ,
nghĩa là trong thời kỳ mà các đoạn thông tin còn tương đối ngắn, chưa có
bất cứ một mối quan hệ nào với nhau, còn sơ sài, tương tự như những ý niệm đơn sơ, tương tự như thành ngữ, khẩu hiệu, khẩu lệnh, thông
báo ngắn ngủi…, thì bộ não của tổ tiên loài người cũng chưa có khả năng tư duy trừu tượng thực thụ, hay có thể nói là mới có khả năng “tiền suy nghĩ”,
nghĩa là chỉ mới nghĩ được một cách mơ hồ và gián đoạn, chưa “suy ra”
được, cũng có nghĩa là mới có khả năng hồi ức, hình dung, làm xuất hiện
bên trong nó những hình ảnh còn nhạt nhòa, những hoạt cảnh như những
đoạn phim ngắn và bị nhòe, không khác gì những giấc mơ câm nín mà con
người hiện nay thấy được trong giấc ngủ của mình.
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét