TT&HĐ V - 43/r
Định luật bảo toàn năng lượng toàn phần và Định luật bản toàn động lượng
PHẦN V: THỐNG NHẤT
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG IV (XXXXIII): ÊTE
“Một con người có thể thành công trong bất cứ việc gì nếu anh ta đổ vào đó một lòng nhiệt thành vô hạn”.
Charles Schwab
“Nếu
toán học quắc thước, ngạo nghễ và hùng vĩ như những kim tự tháp Ai Cập
thì vật lý học uyển chuyển, lúc điềm tĩnh lúc cuồn cuộn dâng trào như
dòng sông Nin và chúng hợp thành một quang cảnh hiện thực khách quan vô
cùng sinh động, vừa sáng lạn, vừa kỳ bí, được tạo dựng bởi thiên nhiên
hoang dã và sự cộng tác sáng tạo của lý trí loài người”.
Thầy Cãi
“Đôi lúc cuộc sống thật khắc nghiệt, rắn như thép đã tôi. Nó có những lúc ảm đạm và đau đớn. Như bất cứ một dòng chảy nào của một con sông, cuộc sống có những lúc khô cạn và những khi triều cường. Cũng như sự thay đổi theo chu kỳ từ trước đến nay của các mùa, cuộc sống có cái ấm áp dễ chịu của những mùa hè và cái rét buốt của những mùa đông…Nhưng chúng ta có thể tự nâng mình lên khỏi nỗi chán chường và tuyệt vọng, vươn đến sự vui vẻ của hy vọng và biến đổi các thung lũng hoang vắng, tăm tối thành những lối đi chan hoà ánh nắng của sự thanh bình sâu lắng”.
MARTIN LUTHER KING
"Sai lầm lớn nhất của Anhxtanh là tin theo quan niệm coi thời gian như vật chất, có thể co giãn được và hòa quyện vào không gian được. Do đó nếu ngày nay học thuyết tương đối trở thành cơ sở chủ yếu cho nhận thức vật lý học về Vũ Trụ, thì tương lai nó chỉ còn là một huyền thoại của một thời ảo mộng. Có thể coi không gian và thời gian quan hệ khăng khít như hình với bóng, như thể xác với linh hồn, nhưng phải được phân biệt dứt khoát với điều kiện tiên quyết: không có hình thì không có bóng, không có thể xác thì tuyệt đối không có linh hồn".
NTT
"Tất cả mọi điều trên thế giới này đều được hy vọng làm nên".
(Tiếp theo)
Triết
học duy vật biện chứng là công trình của C. Mác với F. Angghen là người
trợ thủ đắc lực và V. I. Lênin là người phát triển đến mức hoàn thiện.
về mặt nhận thức tự nhiên, triết học này là sự kế thừa một cách chọn
lọc, có phê phán và sáng tạo thế giới quan của triết học khai sáng Pháp
và của triết học cổ điển Đức (nhất là phép biện chứng của G. F. Hêghen).
Quan
niệm vô thần, duy vật về tự nhiên của triết học khai sáng được các nhà
sáng lập triết học duy vật biện chứng thừa nhận là xác đáng và tiếp thu
nó. Tuy nhiên, “gót chân Asin” của quan niệm ấy là ở chỗ nếu coi vận
động là thuộc tính của vật chất thì hiểu như thế nào về những thành tố
nhỏ nhất, không thể phân chia được, chứa một nội lực vĩnh cửu, được gọi
là những nguyên tử làm hình thành nên vật chất? Chúng là gì, hay có thể
hỏi, chúng mang nội dung gì, vật chất thuần túy, vận động thuần túy, hay
vẫn là vật chất vận động, hay chỉ là tiềm năng của vật chất vận động
chứ chưa thực sự là vật chất vận động? Nếu đặt niềm tin vào cơ học
Niutơn (cái mà thực chứng cho thấy không thể không tin được!) thì vì
chúng hợp thành lượng vật chất, nghĩa là khối lượng, nên chúng chỉ mang
tính vật chất đơn thuần. Nếu bác bỏ khái niệm khối lượng trong cơ học
Niutơn (thật là khó khăn khi muốn như vậy!), để bảo vệ quan niệm vận
động là thuộc tính cơ bản của vật chất, là phương thức tồn tại của vật
chất, thì vì vận động thực ra là biến đổi cho nên những thành tố gọi là
nguyên tử nhỏ đến mức không thể phân chia được nữa ấy vẫn còn có thể…
phân chia được và từ đó mà sự phân chia phải là một quá trình vô hạn.
Còn nếu quan niệm đó là những thứ có tính tiềm năng hợp thành vật chất
vận động chứ chưa có tính vật chất vận động thực sự thì rõ ràng là phải
vứt bỏ toàn bộ cái quan niệm vô thần, duy vật về tự nhiên đi để trở lại
với sự bao bọc, cứu rỗi nơi Thiên Chúa (chứ còn cách nào khác nữa
đâu?!).
Các
nhà sáng lập triết học duy vật biện chứng đã thấy được vấn đề mâu thuẫn
ấy và để tiếp thu cái quan niệm mà họ cho về cơ bản là đúng đắn ấy thì
phải tìm cách biện hộ, khắc phục nhược điểm ấy. Ăngghen chính là người
trực tiếp đứng ra giải quyết vấn đề. Nhưng ông giải quyết như thế nào?
Có thể trả lời câu hỏi đó bằng những tiên đoán khoa học trong tác phẩm
“Biện chứng của tự nhiên” (tuy đây là tác phẩm còn dở dang, chưa hoàn
tất, nhưng rất nổi tiếng và cũng quan trọng nhất của ông). Tác phẩm này
được Ăngghen viết ra trong khoảng thời gian ở nửa cuối thế kỷ XIX cho
nên những suy lý, tiên đoán khoa học của ông, về mặt lý luận là dựa trên
phép biện chứng đã tiếp thu được của Hêghen, còn về mặt thực tiễn thì
hoàn toàn dựa trên cơ sở những khám phá mà khoa học có được từ trước cho
đến thời kỳ đó. Chính vì thế và một phần cũng vì còn dở dang, chưa được
chỉnh lý, bổ sung đến hoàn thiện, mà trong nội dung của nó, dù có nhiều
sắc sảo, xác đáng thì cũng không ít những bối rối, hạn chế. Tuy nhiên,
nổi bật lên trên tất cả là một tư duy thực sự uyên bác về nhiều mặt. Sau
đây, chúng ta sẽ trích một số đoạn tiêu biểu nói về vật chất, vận động
và mối quan hệ giữa chúng của Ăngghen trong “Biện chứng của tự nhiên”
theo trình tự đã được chúng ta sắp xếp lại cho dễ bề tìm hiểu hơn đối
với bản thân chúng ta.
Lẽ
đương nhiên, vấn đề đầu tiên mà triết học duy vật phải giải quyết là
xây dựng hoàn chỉnh một cách có lý luận khái niệm vật chất. Bởi vì trong
bất cứ một công cuộc kiến thiết lý luận nào đều không thể bắt đầu từ
nóc mà phải từ cơ sở đóng vai trò nền tảng và đó cũng là tiến trình tất
yếu của mọi tư duy. Chưa hiểu được “vật chất” thì chưa thể nói đến “duy
vật” và ngược lại, muốn nói đến “duy vật” thì trước tiên phải nói đến
“vật chất” và sự hình thành một cách cụ thể, tự nhiên, phi huyền bí hóa của "vật chất".
Vào
thời Ăngghen có một bộ phận không ít nhà triết học, khoa học tin rằng
không thể nhận thức được “cái vô hạn”. Nguồn gốc trực tiếp của tư tưởng
này có thể là từ triết thuyết của Đềcác hoặc của Spinôda. Trong số những
người tin vào điều đó có C. Nêgơli. Ngày 20-9-1877, tại đại hội lần thứ
50, các bác sĩ và các nhà tự nhiên học Đức, Nêgơli đã đọc bản báo cáo:
“Những giới hạn của nhận thức khoa học tự nhiên”. Theo ông này thì “chất
lượng” là cái không thể nhận thức được vì nó thuộc về sự vô hạn, hơn
nữa, những (cái gọi là) chất lượng cũng không tồn tại mà chỉ những sự
vật có chất lượng, thậm chí là có vô vàn chất lượng mới tồn tại. Nêgơli
viết: “Chúng ta chỉ có thể nhận thức được cái hữu hạn”.
Phê phán quan niệm “bất khả tri” của Nêgơli, Ăngghen viết:
“Điều
đó chỉ hoàn toàn đúng khi mà chỉ có những vật hữu hạn rơi vào trong
phạm vi nhận thức của chúng ta. Nhưng luận điểm ấy (luận điểm vừa nêu ở
trên - NV) cần được bổ sung: “Về căn bản, chúng ta chỉ nhận thức được
cái vô hạn thôi”. Thật vậy, mọi nhận thức thực sự, thấu đáo chỉ là ở
chỗ: trong tư duy, chúng ta nâng cái đơn nhất đến tính đặc thù và tính
đặc thù lên tính phổ biến; là ở chỗ chúng ta tìm ra và xác định cái vô
hạn, cái tạm thời, trong cái hữu hạn, cái vĩnh viễn. Nhưng hình thức của
tính phổ biến là hình thức của vô hạn, nó là sự tổng hợp của nhiều cái
hữu hạn thành cái vô hạn (…). Mọi nhận thức thực sự về tự nhiên đều là
sự nhận thức về cái vĩnh viễn, cái vô hạn và vì thế mà về căn bản, nó là
tuyệt đối”.
“Nêgơli
cũng nói điều đó một cách buồn cười: “Chúng ta chỉ có thể nhận thức
được cái hữu hạn, nhưng chúng ta cũng có thể nhận thức được “mọi cái hữu
hạn” rơi vào trong phạm vi tri giác cảm tính của chúng ta”.
Cái
hữu hạn, rơi vào trong phạm vi, và…, cộng lại thành cái vô hạn, vì rằng
chính là dựa trên tổng số những hữu hạn ấy mà Nêgơli đã tạo ra cho mình
quan niệm về cái vô hạn! Nếu không có những cái hữu hạn ấy, và…, thì
ông ta sẽ tuyệt nhiên không có một quan điềm gì về vô hạn cả”.
“Thoạt
tiên, từ những vật hữu hình, người ta tạo nên những trừu tượng, rồi lại
muốn nhận thức, những trừu tượng ấy bằng cảm tính, muốn nhìn thấy thời
gian và ngửi thấy không gian. Nhà kinh nghiệm chủ nghĩa đã đi sâu vào
thói quen của nhận thức kinh nghiệm đến nỗi là khi anh ta sử dụng trừu
tượng mà vẫn tưởng rằng mình còn ở trong lĩnh vực của nhận thức cảm
tính. Chúng ta biết thế nào là một giờ, một mét, nhưng không biết thế
nào là thời gian và không gian! Làm như thể thời gian là cái gì khác chứ
không phaỉ là tổng số những gìờ, còn không gian là cái gì khác chứ
không phải là tổng số những mét khối! Tất nhiên là không có vật chất thì
cả hai hình thức tồn tại đó của vật chất đều chẳng là cái gì cả, đều
chỉ là những khái niệm rỗng tuếch, những sự trừu tượng, chỉ tồn tại
trong đầu óc chúng ta thôi: Nhưng có người bảo rằng chúng ta cũng không
biết thế nào là vật chất và vận động kia mà! Dĩ nhiên là chúng ta không
biết vì chưa có ai nhìn được và cảm thấy vật chất với tính cách là vật
chất và vận động với tính cách là vận động bằng con đường cảm tính nào
khác; người ta chỉ tiếp xúc với những vật thể khác nhau và những hình
thức khác nhau tồn tại thực sự của vận động. Thực thể, vật chất không
phải cái gì khác hơn là tổng số những hình thức vận động có thể cảm biết
được bằng các giác quan; những từ như “vật chất” và “vận động” chỉ là
những sự tóm tắt, trong đó, chúng ta tập hợp theo những thuộc tính chung
của chúng, rất nhiều sự vật khác nhau có thể cảm biết được bằng các
giác quan. Vì thế, chỉ có thể nhận thức được vật chất và vận động bằng
cách nghiên cứu những vật thể riêng biệt và những hình thức riêng lẻ của
vận động, và khi chúng ta nhận thức được những cái ấy thì chúng ta cũng
nhận thức được cả vật chất và vận động với tính cách là vật chất và vận
động. Vậy khi Nêgơli nói rằng chúng ta không biết thời gian, không
gian, vật chất, vận động, nguyên nhân và kết quả là gì thì như thế có
nghĩa là ông ta chỉ khẳng định rằng thoạt tiên, chúng ta tạo ra trong
đầu óc mình những sự trừu tượng từ thế giới hiện thực và sau đó chúng ta
lại không thể nhận thức được những sự trừu tượng do chính chúng ta tạo
ra ấy vì chúng là những vật của tư duy chứ không phải là những vật có
thể cảm thấy, song theo Nêgơli, mọi nhận thức lại đều là sự đo lường do
cảm tính mà có kia! Thật đúng như khó khăn mà Hêghen đã chỉ ra: Chúng ta
rất có thể ăn được trái anh đào và trái mận, nhưng chúng ta không thể
ăn được trái cây vì chưa có ai ăn được trái cây với tính cách là trái
cây”.
Ngoài
những trích đoạn trên đây, chúng ta còn có thể “sưu tầm” được rất nhiều
những trích đoạn nói về vật chất và vận động nằm rải rác khắp trong
“Biện chứng của tự nhiên”, vì không có gì lạ, nội dung trung tâm của tác
phẩm chính là bàn về vật chất và vận động cùng những vấn đề liên quan
tới chúng. Sau đây là một số trích đoạn nữa:
“Cơ
học - dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp - chỉ biết có số lượng, chỉ sử
dụng những tốc độ và những khối lượng, nhiều lắm là những thể tích (…).
Còn trong vật lý học, và hơn nữa trong hóa học, không những chỉ có những
thay đổi liên tục về số lượng, tức là sự chuyển hóa của số lượng thành
chất lượng, mà còn phải xét đến rất nhiều những biến đổi về chất lượng
mà người ta hoàn toàn chưa xác minh được là do sự biến đổi về số lượng
mà ra.
Quan
niệm của triết học cơ giới “giải thích mọi sự biến đổi vị trí, giải
thích tất cả mọi sự khác nhau về chất lượng bằng những sự khác nhau về
số lượng và không thấy rằng quan hệ giữa số lượng và chất lượng là một
quan hệ qua lại, rằng chất lượng có thể chuyển hóa thành số lượng cũng
như số lượng có thể chuyển hóa thành chất lượng (…). Nếu tất cả những sự
khác nhau và những sự biến đổi về chất lượng đều có thể qui thành những
sự khác nhau và sự biến đổi về số lượng, thành một sự thay đổi cơ giới
về vị trí, thì tất nhiên chúng ta sẽ đi đến một nguyên lý cho rằng vật
chất là gồm những hạt nhỏ đồng nhất và tất cả những sự khác nhau về chất
lượng của những nguyên tố hóa học của vật chất đều được gây ra bởi
những sự khác nhau về số lượng, về cách sắp xếp những hạt nhỏ ấy trong
không gian…”
“Vật
chất, với tính cách là vật chất, là một sáng tạo thuần túy của tư duy
và là một trừu tượng. Chúng ta bỏ qua những sự khác nhau về chất của
những sự vật, khi chúng ta gộp chúng, với tư cách là những vật tồn tại
hữu hình, vào khái niệm về chất. Do đó, khác với những vật chất nhất
định và đang tồn tại, vật chất với tính cách là vật chất, không có sự
tồn tại cảm tính. Khi hoa học tự nhiên hy vọng tìm ra vật chất có hình
dạng đồng nhất, và muốn qui tất cả những sự khác nhau về chất lượng
thành những sự khác nhau thuần túy về số lượng do sự kết hợp của những
hạt nhỏ đồng nhất tạo ra thì như thế là nó cũng hành động giống như khi
nó muốn coi trái cây với tính cách trái cây chứ không phải là trái anh
đào, trái lê, trái táo…”
“Như
Hêghen đã chứng minh (…), quan điểm ấy, cái “quan điểm toán học một
chiều” cho rằng vật chất là chỉ có thể qui định được về số lượng, còn về
chất lượng thì xưa nay đều giống, chỉ là quan điểm của chủ nghĩa duy
vật Pháp thế kỷ XVIII. Đó là một bước lùi về với Pitago, người đã quan
niệm rằng số, tính qui định về mặt số lượng, là bản chất của sự vật”.
“Như
thế là, nếu không thêm vào hoặc bớt đi một số vật chất hay vận động,
nghĩa là nếu không thay đổi một vật thể về mặt số lượng, thì không thể
thay đổi được chất lượng của vật thể ấy”.
“Như
vậy, chúng ta thấy rằng việc chia cắt thuần túy về số lượng có một giới
hạn nhất định, tới giới hạn đó thì nó biến thành một sự khác biệt về
chất lượng”.
“Trong
cơ học, ta không hề thấy có chất lượng; nhiều lắm, thì chúng ta cũng
chỉ gặp những trạng thái như trạng thái cân bằng, vận động, thế năng…
Tất cả những trạng thái ấy đều dựa trên sự truyền dẫn của vận động có
thể đo được và chính những trạng thái đó có thể biểu thị bằng số lượng.
Vì vậy, nếu có sự biến đổi nào về chất lượng thì sự biến đổi ấy phải do
một sự biến đổi tương ứng về số lượng quyết định”.
“Vận
động, hiểu theo nghĩa chung nhất - tức được hiểu là một phương thức tồn
tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất - thì bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong Vũ Trụ, kể từ sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
“Vận động, đem ứng dụng vào vật chất, thì có nghĩa là sự biến hóa nói chung”.
“Không thể tưởng tượng được vật chất mà không có vận động”.
“Các
hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được
thông qua vận động; thuộc tính của vật thể chỉ bộc lộ qua vận động; về
một vật thể không vận động thì không có gì mà nói cả…”
“Nhưng
các nguyên tử thì tuyệt nhiên không phải giản đơn hoặc nói chung không
phải là những hạt vật chất nhỏ nhất mà chúng ta biết. Không kể bản thân
hóa học là ngành ngày càng thiên về ý kiến cho rằng thành phần nguyên tử
là phức tạp, đa số các nhà vật lý đều khẳng định rằng ête vũ trụ, tức
là chất mang sức mạnh bức xạ ánh sáng và nhiệt, cũng gồm nhiều hạt nhỏ
gián đoạn nhưng nhỏ đến nỗi chúng so với những nguyên tử hóa học và
những phân tử vật lý, thì cũng giống như các nguyên tử hóa học và các
phân tử vật lý so với các khối lượng cơ học, nghĩa là d2x so với dx”.
“Ête
có tính vật chất không? Nếu ête nói chung tồn tại thì ête phải có tính
vật chất, nó phải nằm trong khái niệm vật chất. Nhưng nó hoàn tòan không
có trọng lượng”.
“Một
thời đại mới trong hóa học được mở ra với thuyết nguyên tử (…). Thuyết
nguyên tử mới khác với tất cả các thuyết nguyên tử trước đó vì nó không
chủ trương rằng vật chất chỉ là gián đoạn mà thừa nhận rằng những bộ
phận gián đoạn là những giai đoạn khác nhau (nguyên tử ête, nguyên tử
hóa học, khối lượng, thiên thể), là “những điểm nút” khác nhau, chúng
quyết định những phương thức tồn tại khác nhau về mặt chất lượng mà chỉ
có lực đẩy (có thể hiểu là năng lượng - NV) thôi”.
Sau
những trích đoạn vừa rồi, chúng ta có hiểu gì thêm về vật chất không?
Đồng ý rằng vận động là thuộc tính vốn dĩ của vật chất, nhưng không phải
vì thế mà không thể bàn luận vật chất một cách đơn thuần, không cần chú
ý đến vật chất. Thậm chí là trong quá trình nhận thức, chúng ta không
thể tư duy về chúng một cách đồng thời. Ăngghen sẽ không thể lý giải
được chút xíu gì về vật chất và vận động nếu không xem xét riêng rẽ từng
thứ một. Hơn nữa, Ăngghen, trên quan niệm "duy vật", sẽ không biết được
phương thức tồn tại ảo-thực của Vũ Trụ.
Một
cách tuyệt đối thì không có vật chất không vận động và không có vận
động phi vật chất; nhưng một cách tương đối, trong một phạm vi qui mô về
không gian và thời gian hạn định nào đấy mà trên cơ sở nhận biết cảm
tính hoặc là do qui ước, có thể cho rằng một vật chất cụ thể nào đó
không vận động và một vật chất vận động cụ thể nào đó (chẳng hạn sự
truyền tương tác hấp dẫn) là phi vật chất. Vận động thực chất là quá
trình chuyển hóa biến đổi vật chất từ dạng này sang dạng kia, nên khi
thấy một cốc nước ở trên bàn và sau một khoảng thời gian không thấy chút
biến đổi nào thì có thể nói “vật chất” cốc nước không vận động trong
suốt thời gian đó.
Tuy
nhiên, nếu quan sát ở góc độ khác, ở cấp độ qui mô phân tử chẳng hạn,
thì rõ ràng không còn thấy lượng vật chất đó thể hiện ra dưới dạng cốc
nước đứng yên nữa mà là một “quần thể” các hạt vật chất nào đó không
phải nước, nhỏ li ti chuyển động hỗn loạn trong tương tác hút - đẩy lẫn
nhau. Vì dù quan sát ở góc độ nào thì lượng vật chất vẫn không đổi, cho
nên một câu hỏi được đặt ra là lượng vật chất của cốc nước bằng lượng
vật chất của tổng số các phân tử thôi hay phải cộng thêm tổng lượng
chuyển động của chúng nữa? Theo Niutơn dù chuyển động hay không chuyển
động thì lượng vật chất của một vật (khối lượng) là bất biến. thế thì
lượng vật chất của cốc nước chỉ bằng lượng vật chất của tổng số các phân
tử làm nên cốc nước thôi. Nghĩa là một lượng vật chất cụ thể nào đó
nhìn ở góc độ vật chất đơn thuần chỉ là một lượng vật chất, nhìn ở góc
độ khác thì ngoài lượng vật chất đơn thuần còn thấy một động lượng nào
đó nữa. Từ đó mà có thể nghĩ rằng trong tự nhiên, ngoài vật chất ra phải
còn một cái gì đó nữa tạo nên lực hay động lượng, và xét đến cùng thì
cái gì đó ấy rất có thể là không có nguồn gốc vật chất, không phải là
vật chất và coi như ở bên ngoài vật chất xâm nhập vào làm “lũng đoạn”
vật chất. Còn nếu tin rằng vận động là thuộc tính của vật chất như
Ăngghen quan niệm thì vì chỉ là thuộc tính thôi nên nó không thể bộc lộ
ra thành một lực lượng có thực: do đó cần phải xét lại quan niệm cấu
thành lượng vật chất (khối lượng) của Niutơn, và hơn nữa vì vận động là
biến đổi cho nên để đảm bảo tuyệt đối khả năng đó, một lượng vật chất cụ
thể nào đó phải phân chia được đến vô tận.
Đến
thời Lênin, vật lý học đã có những đột phá rất sâu vào thế giới vi mô,
đã thấy được không những nội tại phân tử mà nội tại nguyên tử thực sự là
những miền không gian còn rất mênh mông so với những vi hạt còn nhỏ hơn
nữa, và vật lý học cũng đã bắt đầu “sờ” được đến hạt điện tử
(elektrôn). Bên cạnh đó Mac Planck đã đi đến một kết luận cực kỳ quan
trọng và được các nhà vật lý đương thời nhanh chóng thừa nhận là năng
lượng có tính gián đoạn, hợp thành từ những thành phần cực kỳ nhỏ bé gọi
là lượng tử năng lượng. Trên cơ sở đó Lênin đã đi đến một kết luận có
tính tiên đoán: “điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử; tự nhiên là vô
tận”. Các nhà triết học duy vật biện chứng sau này đã hết lời ca ngợi
kết luận đó và coi đó không những là một phát kiến mang tính tiên tri
thiên tài mà còn là một thắng lợi rực rỡ, khẳng định sự đúng đắn hoàn
toàn của triết học duy vật biện chứng về tự nhiên.
Lênin
là người nêu ra định nghĩa dứt khoát về vật chất cho triết học duy vật
biện chứng: “vật chất là một phạm trù (hiểu là khái niệm có tính chung,
bao quát) triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Tuy nhiên ông có thêm
rằng phạm trù vật chất là một phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng nhất, mà
cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được”. (Thực ra,
thuật ngữ “vật chất” ở đây, với nội hàm đã được mở rộng như vậy, phải
được hiểu như “tồn tại”, và có thể hiểu “triết học duy vật”, sau khi đã
“tân trang” lại, là “triết học duy tồn”).
Trong
quá trình nghiên cứu, tìm hiểu bản chất của vật chất và vận động, trên
cơ sở kế thừa có phê phán, chọn lọc và sáng tạo những thành tựu nhận
thức tự nhiên mà loài người đã đạt được đến lúc đó, các nhà sáng lập nên
triết học duy vật biện chứng đã rút ra ba luận điểm mà họ cho là ba
chân lý khách quan tối quan trọng và đồng thời coi đó là ba qui luật cơ
bản nhất về vận động trong tự nhiên. Qui luật được nêu ra đầu tiên là
qui luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại.
Trước khi đến với nội dung qui luật chúng ta nêu lại định nghĩa về chất và lượng của triết học duy vật biện chứng kinh điển:
-
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có
của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật
là nó chứ không phải là cái khác.
-
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có
của sự vật về mặt số lượng, qui mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động
và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Từ
đó mà nội dung qui luật được phát triển: mọi sự vật đều là sự thống
nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng sẽ dẫn đến sự thay
đổi về chất của sự vật, chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi
của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật
không ngừng phát triển, biến đổi.
Những
“tông đồ” của triết học duy tồn (là chúng ta chứ còn ai vào đây nữa!)
không thừa nhận qui luật trên và cho rằng nếu nó có đúng thì may ra chỉ
đúng được một nửa, còn nửa kia là sai lầm! Đơn giản là vì một vật (có
chất và lượng) bị nổ tung sẽ dẫn tới hai quan niệm, thứ nhất là không
còn vật nữa (vì bị phá hủy hoàn toàn) nên cũng không còn chất và lượng
của vật đó nữa, thứ hai, vật bị biến đổi thành một “vật” bao gồm các bộ
phận chuyển động ra tứ phía của nó, lúc này, chất của vật bị biến đổi
hoàn toàn nhưng thử hỏi lượng của nó có biến đổi không và nếu là có biến
đổi thì sự biến đổi về lượng ấy có xâm phạm vào một trong những định
luật cơ bản nhất về tự nhiên mà khoa học đã khám phá ra, đó là định luật
bảo toàn vật chất không? Hơn nữa sự thay đổi căn bản về chất ấy có làm
cho lượng của “vật mới” biến đổi không? Khó lòng mà quan niệm được!
Nếu
qui luật nêu trên là không thỏa đáng thì chúng ta phải quan niệm lại
như thế nào về lượng và chất của một vật? Đưa một vật có khối lượng m
vào trạng thái chuyển động với vận tốc v, hỏi rằng vật chuyển động so
với vật lúc đứng yên có khác gì nhau không? Tin theo quan niệm của
Niutơn thì về mặt lượng là không khác nhau (vì khối lượng là bất biến)
nhưng về mặt chất là khác nhau (khác nhau về trạng thái chuyển động),
nhưng nếu tin theo quan niệm của triết học duy vật biện chứng, khi vật
đứng yên chuyển sang trạng thái chuyển động thì đồng thời nó cũng biến
đổi thành một vật khác, có lượng mới và do đó cũng có chất mới. Điều
đáng chú ý nhất là thế này: vật đang chuyển động đó lại có thể là đang
đứng yên so với một hệ qui chiếu nào đấy, nghĩa là so với vật “lúc
trước” đứng yên ở đâu đó thì “lúc này”, nó vẫn chính là nó chứ chẳng
phải là vật nào khác, chẳng có sự biến đổi lượng hay chất nào ở đây cả.
Lẽ ra sự đánh giá một vật về mặt lượng và chất của nó cũng phải chịu sự
ảnh hưởng bởi tình thế, tính chủ quan của con người quan sát nó và nếu
dựa vào một trong hai quan niệm trên thì đều không thỏa đáng. Một viên
đạn đang bay trong không gian thì nó cứ việc… bay như thế thôi, chẳng
cần đến sự đánh giá nào và cũng chẳng chịu ảnh hưởng của bất cứ hệ quan
sát nào và mặc cho các hệ quan sát khác nhau đánh giá khác nhau đến cỡ
nào về trạng thái chuyển động của nó đi chăng nữa thì nó vẫn chính là
nó, duy nhất là bất biến đối với bản thân nó. Nghĩa là chắc chắn sẽ qui
được những đánh giá khác nhau nhưng hợp lý của các hệ quan sát khác nhau
đối với nó về một mối duy nhất. Cái bất hợp lý của biểu diễnđộng lượng
một cách độc lập là ở chỗ bằng con đường toán học, không thể qui kết quả
quan sát một vật đang chuyển động (mv) về kết quả quan sát thấy nó đứng
yên được (m), vì khi v bằng 0 thì:
mv = m.0 = 0 (chứ không phải bằng m!)
Đến đây, qua quá trình suy tư một cách mò mẫm và nhiều lộn xộn, chúng ta đã bắt đầu vỡ lẽ ra trước câu hỏi: khối lượng là gì?
Triết
học duy tồn khẳng định, nếu không có cảm giác mà thể hiện chủ đạo của
nó là sự quan sát thì cũng không thể có tư duy và do đó, đương nhiên là
cũng không có nhận thức. Đối với một chủ thể không có cảm giác, thì thế
giới này là không có gì, không có khách thể của nó và bản thân nó cũng
không có nốt. Nhờ có quan sát mà chúng ta thấy được hiện thực khách quan
của mình cũng như bản thân mình, nhờ có tư duy mà chúng ta phân biệt
được những thứ có trong hiện thực, và nhờ nhận thức mà chúng ta dần dần
hiểu biết ngày một sáng tỏ hiện thực ấy và thông qua đó hiểu hết được cả
bản thân mình. Như thế, trước quan sát và nhận thức không phải tuyệt
đối không có gì mà tuyệt đối phải có một cái gì đó vô cùng thiêng liêng,
vô cùng vĩ đại, vô thủy vô chung, vốn dĩ như thế, là nguyên nhân tạo
thành hiện thực khách quan, là cái bao hàm mọi cái. Cái đó được gọi là
Tự Nhiên Tồn Tại. Tự Nhiên Tồn Tại là tuyệt đối nên tuyệt đối không có
Hư Vô. Tự Nhiên Tồn Tại là tuyệt đối nên cũng tuyệt đối đầy đủ, và do đó
Nó hoàn hảo, tài năng thì đồng thời cũng tỏ ra khiếm khuyết, hạn chế.
Chính vì như thế mà trước quan sát và nhận thức, Tự Nhiên Tồn Tại thể
hiện ra đủ thứ tồn tại tương đối và hư vô tương đối, làm xuất hiện một
hiện thực khách quan phong phú và sinh động đến bất tuyệt.
Khả
năng, góc độ quan sát và mức độ tư duy có thể dẫn đến những hiện thực
khách quan khác nhau, từ đó có thể có những sự nhận thức khác nhau về
thực tại khách quan. Nhưng thực tại khách quan chỉ có một (và Tự Nhiên
Tồn Tại là duy nhất) nên nhận thức chân chính về nó cũng chỉ có một
không hai. Nhận thức chân chính trước sau gì cũng đi đến kết luận: các
hiện thực khách quan dù có khác nhau đến mấy, có đa dạng, phong phú đến
mấy chăng nữa thì cũng đều là sự thể hiện ra của duy nhất một thực tại
khách quan, đều thống nhất với nhau ở tính Tự Nhiên của chúng, đều đồng
nhất với nhau về nguồn gốc Tồn Tại và ở bản chất Tồn Tại của chúng. Có
thể nói thể hiện ra trước quan sát chỉ duy nhất cái gọi là Tồn tại chứ
không còn bất cứ cái gì khác nữa, và đối tượng của nhận thức, xét cho
đến cùng, là sự Tồn Tại duy nhất ấy.
Tự
Nhiên Tồn Tại thể hiện ra trước quan sát và nhận thức (luôn bị hạn chế
và khả năng) thành một hiện thực khách quan với đủ mọi hình
thức tồn tại tương đối và cũng nhiều huyền bí. Quá trình của nhận thức
là đi khám phá, tìm hiểu đủ thứ tồn tại ấy từ những điều đơn giản nhất
đến những điều phức tạp nhất. Muốn thế, trước hết là phải phân biệt
chúng bằng cách đặt tên cho chúng, qui ước, nêu khái niệm và định nghĩa
về chúng. Có thể nói nhận thức là quá trình “mò mẫm”của tư duy ngày một
sâu rộng trong hiện thực khách quan cho nên đó cũng là quá trình dễ phạm
sai lầm và thường xuyên bị vướng víu bởi những nhận thức bị “bó hẹp”,
bị “lạc hướng”, chưa thỏa đáng, thậm chí là hoàn toàn sai đã kế thừa
được từ quá khứ. Do đó nhận thức đi - nhận thức lại cũng là một biểu
hiện tất yếu của quá trình nhận thức.
Có
thể phân đủ thứ tồn tại trong hiện thực khách quan ra làm hai loại
chính là “tồn tại thực” và “tồn tại ảo”. Tồn tại thực gồm những thứ mà
tự thân vận động; tồn tại ảo gồm những thứ không có thể tích, không có
nội tại, là sự phản ánh của tồn tại thực, là “hình bóng” của tồn tại
thực và hoàn toàn lệ thuộc vào tồn tại thực. Tuy nhiên, sự phân loại ấy
chỉ là tương đối và phải đặt trong qui ước. Tóm lại, Không gian và vạn
vật là tồn tại thực và nếu không gian được coi là tồn tại thưc mang tính
tuyệt đối, vĩnh cửu thì vạn vật được coi là tồn tại tương đối, có tính
thường biến; còn những thứ khác đều thuộc tồn tại ảo và cũng có thể chia
tồn tại ảo ra thành hai bộ phận tương đối khách quan và chủ quan (như thời gian, nội tại hạt
KG, sự vận động, tiếng sấm, vật lý, toán học…).
(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét