Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TT&HĐ IV - 38/d
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
#97 Bức Ảnh Hố Đen Vũ Trụ "Thật 100%" ĐẦU TIÊN Trong Lịch Sử Nhân Loại!!!
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi, lỡ đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc , chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..." NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
“Một
chân lý mới của khoa học thường thắng lợi không phải bằng cách những kẻ
chống đối nó sẽ được thuyết phục và tuyên bố mình được dạy dỗ, mà đúng
hơn bằng cách những kẻ chống đối dần dần chết hết và thế hệ mới ngay từ
đầu được làm quen với nó”.
“Nền
văn minh của chúng ta chẳng qua là sự tích lũy của tất cả những niềm mơ
ước đã được thể hiện trong thực tế qua hàng bao thế kỷ và nếu như loài
người không ước mơ, quay lưng lại với sự kỳ diệu của Vũ Trụ, thì đó là
dấu hiệu suy thoái của loài người”.
Clac
"Điều chủ yếu cản trở nhận thức chân lý không phải là sai lầm mà là chân lý như đúng như sai." Lev Tolstoy (Nga)
"Người không yêu tự do và chân lý, có thể trở thành người mạnh mẽ nhất, nhưng tuyệt đối không thể trở thành người vĩ đại". Voltaire (Pháp)
"Nghịch cảnh là một con đường đạt đến chân lý". Byron (Anh)
"Không
ai muốn chết cả, kể cả những người muốn lên thiên đường cũng không muốn
chết để có thể tới được đó. Cái chết là điểm đến cuối cùng mà chúng ta
gặp phải, không ai có thể thoát khỏi nó. Tuy nhiên, cái chết là điều
phải đến, nó là phát minh tuyệt vời nhất sau sự sống. Cái chết hoàn
thành những điều mà sự sống còn bỏ dở, nó dọn dẹp những thứ cũ để mở
đường cho nhiều thứ mới hơn. Những thứ mới hơn này chính là các bạn, tất
nhiên trong tương lai chúng ta sẽ đều già đi và dần bị loại bỏ. Xin lỗi
nếu như điều này quá bất ngờ, nhưng nó là sự thật" Steve Jobs
"Nhà khoa học phải tìm kiếm chân lý, phải quý trọng chân lý hơn những ước mơ hay những mối quan hệ của riêng của mình"
Khuyết danh
"Toán
học là khoa học của lớp trẻ. Không thể khác được. Nghiên cứu toán học
là thứ thể dục của trí tuệ, đòi hỏi phải có tính dẻo dai và bền bỉ của
thanh niên".
Khuyết danh
(Tiếp theo)
Giáo
trình hình học của N. Lôbasépxki ngay lập tức gây ra một cuộc tranh cãi
dữ dội trong Trường đại học Cadan. Hầu hết các giáo sư toán học của
trường đều tỏ ý nghi ngờ tính chân lý đối với những luận điểm của vị
giáo sư trẻ Lôbasépxki, và ai cũng khẳng định rằng đem những điều kỳ dị
đó giảng dạy cho sinh viên là điều không thể chấp nhận được, bởi vì ngay
các giáo sư cũng chưa chắc đã hiểu những gì đề cập trong giáo trình đó.
Không ai phủ nhận tài năng của N. Lôbasépxki, song giảng dạy những điều
chưa bao giờ thấy trong lĩnh vực được coi là kinh điển như hình học thì
quả thực khó mà chấp nhận. Ông hiệu trưởng của trường quyết định chuyển
giáo trình hình học của N. Lôbasépxki lên quan Đốc học để xin ý kiến
đánh giá. Ông này không phải nhà toán học nên chuyển tiếp nó cho viện sĩ
toán học N. I. Fútxơ, học trò của nhà toán học thiên tài Ơle, thẩm
định.
Viện
sĩ Fútxơ đọc thấy ngỡ ngàng: tác giả bắt đầu trình bày môn hình học
không phải bằng các khái niệm điểm, đường thẳng, mặt phẳng như truyền
thống, mà lại bằng các khái niệm tiếp xúc và cắt nhau của các vật thể.
Ngay ở những trang đầu đã thấy định lý của Ơle về sự phụ thuộc giữa số
lượng của các mặt, các cạnh và các đỉnh của các hình đa diện. Điều lạ
lùng nhất là tác giả đã áp dụng hệ thống mét để đo và chia một phần tư
đường tròn thành 100 phần. Thế là viện sĩ Fútxơ không cần đắn đo, viết
luôn lời thẩm định:
“Ai
cũng biết là cách phân chia này được nghĩ ra vào thời Cách mạng Pháp,
khi mà sự điên cuồng của cả một dân tộc đã hủy hoại tất thảy những gì
được truyền bá từ trước, kể cả lịch và phép phân chia đường tròn. Nhưng
cái mới mẻ đó chẳng được ở đâu thừa nhận và ngay tại nước Pháp, nó cũng
đã bị gạt bỏ vì lý do bất tiện thấy rõ. Mặc dù tác giả của cuốn sách này
đã gọi tác phẩm của anh ta là hình học, nhưng có lẽ ngay chính bản thân
anh ta cũng khó lòng có thể nghĩ rằng, anh ta đã viết ra một cuốn sách
giáo khoa về cái môn hình học đó”.
Giáo
trình hình học của N. Lôbasépxki vì lời thẩm định đó, đã không được
chấp thuận. Nó bị quẳng vào hồ sơ lưu của quan Đốc học và phải đợi sau
khi tác giả của nó đã qua đời 42 năm mới được người ta tìm thấy.
Trong
giáo trình hình học đó, N. Lôbasépxki chưa đề cập gì đến hình học phi
Ơclít vì ông chỉ mới bắt đầu sáng tạo nó. Có lẽ xuất phát điểm của quá
trình sáng tạo đó là lập luận sau đây của N. Lôbasépxki:
Công
nhận định đề 5 là một tiên đề, sẽ không thỏa đáng. Trong một mặt phẳng,
nếu qua một điểm ở ngoài một đường thẳng cho trước chỉ có một đường
thẳng không cắt đường thẳng đã cho thì tưởng tượng rằng cũng có một
đường thẳng qua điểm đó và tạo thành với đường song song Ơclít của đường
thẳng đã cho, một góc vô cùng nhỏ. Thử hỏi đường thẳng thứ hai này có
cắt đường thẳng đã cho không và cắt ở đâu? Không thể quan sát được sự
kiện xảy ra ở vô tận thì làm sao dám chắc rằng đường thẳng đã cho chỉ có
duy nhất một đường thẳng qua điểm cho trước, song song với nó?
Đến
đầu năm 1826 thì bản thân sáng tạo mới của N. Lôbasépxki hoàn tất. Đó
là công trình hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử toán học về hình học phi
Ơclít. Ngoài bìa tập bản thảo, N. Lôbasépxki viết:
“Kính gửi bộ môn khoa học Toán - Lý
Tôi
giữ công trình của mình với nhan đề “Trình bày ngắn gọn về cơ sở hình
học với sự chứng minh chặt chẽ định lý về các đường song song.
Tôi muốn biết ý kiến của các nhà khoa học và những người đồng nghiệp của tôi về công trình này…”.
Ngày
11-2-1826, N. Lôbasépxki trình bày công trình sáng tạo của mình tại
Trường Đại học Cadan, trước khi gửi nó lên Viện Hàn lâm khoa học
Pêtécbua. Căn phòng không nhiều người dự lắm nhưng ngay cả những người
không viện được lý do để phải có mặt cũng lơ đãng nghe đọc báo cáo. Ngay
ngài hiệu trưởng khi giới thiệu diễn giả bước lên bục xong cũng phải
lẩm bẩm “Xin Chúa tha thứ cho những lỗi lầm của chúng ta”. Không một ai
biết được rằng ngày hôm đó chính là ngày khai sinh ra môn hình học phi
Ơclít.
N. Lôbasépxki bước lên diễn đàn và nói những lời đầu tiên đại loại như thế này:
Tôi
xin bắt đầu bản báo cáo của mình bằng lời kết luận chủ yếu mà tôi muốn
quí vị chú ý tới là, tôi sẽ dựa trên sự giả định rằng có một sự phụ
thuộc của các đường thẳng vào các góc để phải thừa nhận là có sự tồn tại
một môn hình học khác, bao quát hơn cái môn hình học mà Ơclít lần đầu
tiên đã cung cấp cho chúng ta. Tôi sẽ đặt tên cho cái môn hình học bao
quát hơn ấy là “Hình học trừu tượng”, mà trường hợp riêng của nó chính
là môn hình học mà chúng ta đang sử dụng với một sự hạn chế ở trong một
luận đề tổng quát đáng lẽ phải được đo lường, kiểm chứng… Tôi không thay
đổi điều gì trong cái gọi là “hình học tuyệt đối”, nhưng tôi đã thay
cái định đề thứ năm của Ơclít bằng một phản định đề, rằng là qua một
điểm nằm ngoài một đường thẳng cho trước, có thể vẽ một tập hợp những
đường thẳng không cắt đường thẳng đã cho.
Ơclít
coi hai khái niệm “các đường thẳng không cắt nhau” và “các đường thẳng
song song” là tương đương. N. Lôbasépxki trái lại, lại phân biệt hai
khái niệm ấy. Ông cho rằng trong số rất nhiều những đường thẳng không
cắt một đường thẳng cho trước vẽ qua một điểm nằm ngoài nó thì chỉ có
hai đường thẳng không cắt được gọi là song song với đường thẳng đã cho,
còn tất cả những đường thẳng không cắt đường thẳng đã cho mà nằm ngoài
hai đường song song kia thì đều không phải là song song với đường thẳng
đã cho. (Sau này người ta gọi các đường thẳng không cắt đường thẳng đã
cho này là những đường thẳng siêu song song).
Như
thế, N. Lôbasépxki đã dùng thuật ngữ đường thẳng song song để gọi những
đường thẳng phân tách những đường thẳng không cắt một đường thẳng cho
trước và các đường thẳng cắt nó. Theo N. Lôbasépxki thì khoảng cách giữa
đường thẳng đã cho và mỗi đường thẳng song song với nó không còn biến
đổi nữa mà sẽ giảm về phía của sự song song và tăng về phía ngược lại.
Các đường thẳng song song có thể tiến đến sát gần nhau nhưng không thể
cắt nhau. Mặt phẳng mà trong đó tồn tại những đường song song như thế,
sau này được gọi là mặt phẳng Lôbasépxki và mặt phẳng này hoàn toàn
không “phẳng” theo nghĩa của hình học Ơclít. Trong mặt phẳng Ơclít thì
góc của tính song song (góc hợp bởi đường vuông góc với đường đã cho và
đường thẳng qua điểm cho trước, song song với đường thẳng đã cho) là bất
biến và bằng 90o. Còn trong hình học Lôbasépxki thì góc đó có thể lấy mọi giá trị từ 0o cho đến 90o. Nghĩa là góc của tính song song có thể biến đổi và ở trường hợp đặc biệt (hình học Ơclít), nó bằng 90o.
Hơn
nữa, N. Lôbasépxki còn chỉ ra rằng, độ lớn hình học của góc song song
phụ thuộc vào chiều dài của đoạn thẳng vuông góc dựng trên đường thẳng
đã cho. Nếu đoạn thẳng vuông góc này giảm thì góc song song kia tăng và
tiến dần tới 90o. Như vậy là trong môn hình học mới mà N.
Lôbasépxki đề xuất, có sự phụ thuộc qua lại giữa góc và đường thẳng. Khi
góc song song bằng 90o thì sự phụ thuộc tương hỗ đó biến
mất. Chính từ sự phụ thuộc tương hỗ này mà Lôbasépxki đưa ra một công
thức cơ bản trong môn hình học mới của ông, trong đó có một đại lượng
được gọi là “hằng số tuyến tính” mà ngày nay được hiểu là bán kính của
độ cong không gian Lôbasépxki - một đại lượng phụ thuộc vào các điều
kiện vật lý cụ thể trong phần không gian vũ trụ đã cho. Khi hằng số này
có giá trị rất lớn thì độ cong của không gian trở nên rất nhỏ, có thể
tới gần bằng 0 và phần không gian này được coi là phẳng - không gian
Ơclít.
Vì
hằng số tuyến tính có thể mang những giá trị khác nhau nên cũng có vô
số “loại” không gian khác nhau ứng với chúng, nghĩa là có thể xây dựng
từ đó vô số hệ thống hình học tương đối khác nhau.
Trong
các không gian được sáng tạo ra bởi lý thuyết hình học có tính cách
mạng của N. Lôbasépxki, tổng hợp các góc trong của một tam giác luôn nhỏ
hơn 180o và càng tăng kích thước của tam giác lên thì tổng
đó càng giảm tới 0, nghĩa là giữa các góc và các cạnh của tam giác có
một sự phụ thuộc trực tiếp. Lôbasépxki đã nói về điều này như sau: “Nếu
như lực phụ thuộc vào khoảng cách là đúng thì đường thẳng cũng phụ thuộc
vào các góc. Sự khác nhau không phải ở khái niệm mà chính là ở chỗ
chúng ta biết được mối quan hệ trên từ thực nghiệm, còn đối với mối quan
hệ dưới thì vì thiếu sự quan sát, chúng ta phải giả thiết rằng nó tồn
tại hoặc là ở ngoài giới hạn của thế giới nhìn thấy được hoặc là trong
không gian bé nhỏ của thế giới phân tử. Điều đó không thể xảy ra trong
hình học Ơclít. Trong môn hình học mới này, các hệ thức đối với đường
tròn cũng sẽ khác so với trong hình học Ơclít. Một trong những hệ quả kỳ
lạ rút ra được từ hình học Lôbasépxki là trong đó, mặt phẳng và không
gian có độ cong…
N.
Lôbasépxki trình bày giới thiệu xong về hệ thống hình học mới của mình
và đề nghị các giáo sư có mặt tại phòng họp cho ý kiến. Tất cả đều im
lặng.
Sau
một thời gian tiếp tục sửa chữa, tu bổ công trình nghiên cứu khoa học
của mình đến mức hoàn chỉnh, cuối cùng thì N. Lôbasépxki (lúc này ông đã
34 tuổi và giữ chức Hiệu trưởng Trường đại học tổng hợp Cadan) cũng
hoàn thành xong tập kỷ yếu toán học có tựa đề “Bàn về các nguyên lý của
hình học” và với sự giúp đỡ của Muxin-Puskin (trước đây từng là học trò
rồi là bạn thân của N. Lôbasépxki, lúc này đã được Sa hoàng Nhicôlai I
bổ nhiệm làm quan Đốc học vùng Cadan), tập kỷ yếu toán học đó cũng được
gửi đến Viện hàn lâm khoa học Pêtécbua.
Tập
kỷ yếu đến tay viên thư ký của Viện Hàn lâm là P. N. Fútxơ, con trai
của người đã từng thẳng tay bác bỏ công trình đầu tiên của Lôbasépxki.
Viên thư ký này đã chuyển thẳng tập kỷ yếu đến cho nhà toán học được coi
là giỏi bậc nhất nước Nga thời ấy, người đặt nền móng cho lĩnh vực cơ
học giải tích, lừng danh là “con người kiệt xuất về cơ học và toán học”,
cùng một lúc làm viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Pêtécbua, viện sĩ Viện
Hàn lâm khoa học Hoa Kỳ, viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Pháp và viện sĩ
Viện Hàn lâm khoa học Rôma. Người đó có tên là M. V. Ôxtrôgrátxki.
Đọc
nhanh tập kỷ yếu của Lôbasépxki, nhà khoa học ưu tú của nước Nga chẳng
hiểu gì cả và thậm chí còn cho rằng trong đó toàn những điều quái gở.
Sau đó, không hề do dự, Ôxtrôgrátxki viết đánh giá về tập kỷ yếu như thế
này:
“Tác
giả Lôbasépxki này quả là một nhà toán học không tồi, có những lập luận
sắc bén. Song hiển nhiên rằng tác giả đã nhằm mục đích là viết thế nào
để cho không ai hiểu được anh ta viết cái gì. Tác giả quả là đã đạt được
mục đích, bởi vì phần lớn quyển sách đối với tôi là hoàn toàn xa lạ đến
mức dường như tôi chưa từng đọc nó lần nào…”.
Thật
là đáng tiếc! Có thể coi đây là một trường hợp điển hình minh chứng cho
nhận định rằng, để vượt lên khỏi nền tảng nhận thức khoa học đã “thâm
căn cố đế” của thời đại và đón nhận những tư tưởng khoa học mới có tính
cách mạng là khó khăn biết chừng nào!
Cuối
cùng, chẳng còn việc gì làm với tập kỷ yếu của N. Lôbasépxki, ngài viện
sĩ Ôxtrôgrátxki bèn gửi nó cho Ban biên tập tạp chí “Người con của Tổ
quốc”, kèm theo những nhận xét chẳng tốt đẹp gì, thậm chí là còn chế
giễu. Dưới tác động của ý kiến ngài viện sĩ đầy uy tín, tạp chí này
trong số 41 (năm 1834) đã đăng một bài đánh giá do một tác giả giấu tên
(và chắc chắn là có cái đầu thấp hơn ngài viện sĩ rất nhiều) viết đầy
tính đả kích:
“Có
những người khi đọc một quyển sách thường nói là sách viết quá đơn
giản, quá tầm thường, chẳng có gì khiến ta phải suy nghĩ cả. Chúng tôi
xin khuyên những người nghĩ như thế hãy đọc quyển kỷ yếu về hình học của
Lôbasépxki. Đó là một quyển sách thực sự có cái gì đó để suy nghĩ.
Nhiều người trong số những nhà toán học hàng đầu của chúng ta đã đọc
quyển sách ấy, đã suy nghĩ và đã chẳng hiểu gì cả. Thậm chí thật khó
lòng mà hiểu được, tại sao ông Lôbasépxki lại có thể làm cho cái lĩnh
vực dễ nhất, sáng tỏ nhất trong toán học như môn hình học, trở thành một
lý thuyết nặng nề, u tối và bí hiểm đến thế… Nhưng thử hỏi, để làm gì
mà lại đi viết và còn đi in ra những điều tưởng tượng điên rồ như thế?
Chúng tôi thừa nhận rằng rất khó trả lời câu hỏi này. Dù sao đi nữa thì
cũng xin cho phép chúng tôi đề cập đến vấn đề nhân cách. Ông giáo sư
thường kỳ Lôbasépxki có thể nghĩ như thế nào mà lại viết một cách nghiêm
túc một quyển sách họa may đem lại được một chút vinh dự cho một thầy
giáo xứ đạo hạng bét? Một thầy giáo nếu không uyên bác thì ít nhất cũng
phải có lương tri, ấy thế mà ở trong môn hình học mới ấy, ngay đến lương
tri cũng chẳng hề có. Căn cứ vào tất cả những điều đó, có thể kết luận
một cách khẳng định rằng mục đích đích thực mà ông Lôbaxépski muốn nhằm
tới khi viết và cho xuất bản môn hình học của ông ta chỉ đơn giản là một
sự đùa cợt, hay đúng hơn là sự nhạo báng các nhà bác học toán học và có
thể là nhạo báng các nhà bác học thời nay nói chung… Chúng ta khen ngợi
ông Lôbaxépski đã thông qua công trình của mình mà làm sáng tỏ được cả
sự gàn rỡ và trơ tráo của những nhà sáng chế giả mạo cũng như sự ngu dốt
ngây ngô của những kẻ đẻ ra các sáng chế ấy.
…
Tại sao thay vì tiêu đề “Bàn về những nguyên lý hình học”, ông ta lại
không viết chẳng hạn là “châm biếm hình học”, “hài hước hình học” hay
những cái tên tương tự như thế?...”
Để
đáp lại bài báo có tính đả kích và đầy ác ý đó, N. Lôbaxépski đã viết
bài trả lời gửi đến tạp chí “Người con của Tổ quốc” nhưng Ban biên tập
không thèm cho đăng. Còn viện sĩ Ôxttôgrátxki, sau này, trong một cuốn
sách giáo khoa do ông viết, tiếp tục đánh giá tập kỷ yếu toán học khác
(Đại số học) của Lôbaxépski như sau:
“Có
thể đạt được kết quả không ngờ và chấp nhận đọc một tập kỷ yếu biên tập
kém, nếu sự hao tốn thời gian được đền bù bằng sự nhận thức những chân
lý mới mẻ. Nhưng dù đọc một bản thảo không chứa đựng chân lý mới và khó
đọc không phải do các tư tưởng quá cao, mà lại do kết cấu câu cú kỳ
quặc, do những thiếu sót trong tiến trình lập luận và do những sự lạ
lùng cố ý thì thật là nặng nề hơn nhiều. Bản thảo của ông Lôbaxépski có
nét đặc trưng là luôn cố ý làm cho lạ so với những gì đã có. Tôi cho
rằng kỷ yếu của ông Lôbaxépski về tính hội tụ của các chuỗi không đáng
để Viện hàn lâm tán đồng”.
Dù
có thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cho rằng viện sĩ Ôxtrôgrátxki đã
hoàn toàn tỏ thái độ không thiện chí đối với Lôbaxépski. Hơn nữa, phải
chăng là sự khinh miệt, mất bình tĩnh dẫn đến đố kỵ khi ngài viện sĩ còn
đưa ra lời bình luận đầy hằn học: “Con chuột đẻ ra quả núi!”?
Than
ôi! Là bộ phận của lịch sử xã hội loài người nên trong lịch sử toán học
cũng lưu lại những vết nhơ đáng xấu hổ như thế. Và con người thật là lạ
lùng, bên cạnh những sáng suốt vượt bậc thường vẫn tồn tại những ngu
muội tới mức “không chê vào đâu được”. Có biết bao nhiêu bậc tài giỏi,
biết cách vượt qua mọi chướng ngại lớn lao một cách oai hùng để gặt hái
những vinh quang bất diệt nhưng đồng thời lại không vượt qua được những
cạm bẫy tầm thường nhất, những vũng lầy chỉ cỡ “lỗ chân trâu” nhưng đầy
hổ thẹn mà người bình thường nhất cũng khó mà sa vào được.
Phải
một năm sau khi tập kỷ yếu về hình học bị đả kích, N. Lôbaxépski mới có
dịp đăng lời đáp trong một tài liệu xuất bản hàng năm của Trường đại
học Cadan có tên là “Kỷ yếu khoa học của Trường đại học Cadan” với những
lời thật chừng mực, thường có ở những con người cao thượng:
“Trong
số 41 của tạp chí “Người con của Tổ quốc” năm 1834, có đăng bài phê
bình lăng mạ tôi mà tôi cho rằng hoàn toàn không có căn cứ. Người phê
bình đã đưa ra nhận xét như vậy là vì không hiểu lý thuyết của tôi và
cho nó là sai lầm… Trong tháng 11 năm ngoái, tôi có gửi cho tòa soạn bài
trả lời, nhưng không hiểu sao cho đến nay, đã năm tháng trôi qua mà nó
vẫn chưa được đăng”.
Bất
chấp những ghẻ lạnh, đố kỵ và dèm pha, N. Lôbaxépski vẫn tràn đầy niềm
tin tưởng vào công trình sáng tạo toán học của mình. Sau khi tác phẩm
“bàn về những nguyên lý hình học” xuất bản vào năm 1929, ông tiếp tục
nghiên cứu sâu hơn về lý thuyết đó. Ông không những xây dựng phần hình
học cơ sở và phần lượng giác của không gian phi Ơclít như J. Bôia đã
làm, mà còn đi xa hơn rất nhiều. Trong những công trình nghiên cứu đó,
có cả hình học giải tích phi Ơclít và hình học vi phân phi Ơclít. Nhờ
các công thức hình học mới của mình, N. Lôbaxépski đã tìm ra ý nghĩa
một số tích phân mà trước đó đã được tính bằng những cách khác hoặc là
vẫn chưa tính được. Việc giải các bài toán tích phân đó cũng là một
cách kiểm tra lại tính đúng đắn của hệ thống hình học mới.
Một
người học trò của N. Lôbaxépski tên là Mikhailốp có nói: “Lôbaxépski đã
đi thẳng đến đích một cách cô độc, giống như một người khổng lồ đã đeo
lá chắn và một bọn tí hon thi nhau bắn tên vào mà không chọc thủng
được”.
Sự
kiên định của Lôbaxépski vào hệ thống hình học mà ông đã sáng tạo còn
biểu hiện ra ngay cả khi đã bắt đầu bị mù lòa, đớn đau và đứng trước
ngưỡng cửa của cái chết. Lúc đó, ông đã “viết” cuốn sách bằng tiếng Pháp
có tựa đề “Hình học tổng quát”, nhưng vì bị mù nên đã “viết” bằng cách
đọc cho học trò của mình chép lại.
Ngày
17-10-1855, N. Lôbaxépski nhận được quyết định chính thức và dứt khoát
của Bộ trưởng Nôrốp cho nghỉ hưu với đồng lương 800 rúp một năm, ngôi
nhà đang ở phải trả lại cho nhà nước. Bị đẩy vào đường cùng, ngày
2-12-1855, nhà toán học thiên tài đã mù lòa phải buộc lòng làm một việc
chưa từng làm trong suốt cuộc đời: gửi một bức thư cho bộ trưởng Nôrốp
để trình bày hoàn cảnh khó khăn và cầu mong một sự giúp đỡ. Lời kêu cứu
này trở thành nỗi tuyệt vọng vì chẳng bao giờ có hồi âm. Sự bỏ rơi một
cách bội bạc và tàn nhẫn đó đã làm cho tâm hồn N. Lôbaxépski tan nát và
là một cú hích mạnh “giúp” ông đến cái chết nhanh hơn. Ngày 12-2-1856,
N. Lôbaxépski qua đời vì bị liệt phổi. Bốn năm sau, người đồng thời cũng
làm một cuộc cách mạng về hình học tương tự như Lôbaxépski, nhà toán
học có số phận bị bạc đãi J. Bôia cũng qua đời. Còn “Ông hoàng toán học” Gauxơ
thì đã “đi trước" Lôbaxépski một năm.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét