TT&HĐ IV - 37/g
Henri Poincaré – “Con Quỷ Toán Học”, 51 Lần Được Đề Cử Giải Nobel Vật Lý
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi, lỡ đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc , chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi
CHƯƠNG V (XXXVII): KỲ HOA
“Chúng ta ngưỡng mộ Hy Lạp cổ đại như là cái nôi của nền khoa học
phương Tây. Ở đó, lần đầu tiên hình học Ơclit được xây dựng. Đó là sự kỳ
diệu của trí tuệ, là hệ thống logic mà những kết quả của nó suy ra cái
này từ cái kia một cách chính xác, đến nỗi không ai có thể nghi ngờ điều
gì”.
A. Anhxtanh
“Hình học có hai bảo vật, một là Định lý Pitago, bảo vật kia là Định
lý tích trung bằng tích ngoại. Ta có thể so sánh cái thứ nhất với một
lượng vàng và có thể gọi cái thứ hai là viên ngọc quí”.
J. Keple
...Theo một nghĩa nào đó, CƠ SỞ CỦA HÌNH HỌC
là quyển sách thuần túy toán học đầu tiên của nhân loại và là tờ giấy
khai sinh ra toán học như một bộ môn độc lập, tuy vẫn còn là một bộ phận
của triết học. Cách Euclid xây dựng một hệ thống kiến thức cao vút dựa
trên số ít tiên đề nền và lấy luật logic làm chất gắn kết, đã là hình
mẫu cho sự phát triển của toán học đến ngày nay"
Ngô Bảo Châu
(Tiếp theo)
Tuy
nhiên, cái gọi là “tất nhiên” chưa hẳn đã là duy nhất. Vì như chúng ta
từng nói, một đoạn thẳng chỉ trở nên vô tỷ nếu nhìn nó ở một góc độ nhất
định nào đó, hay khi so sánh nó với “ai đó” mà phải thông qua phép khai
căn không được phép thực hiện trong thế giới số hữu tỷ. Nếu nhìn ở góc
độ khác hoặc trong sự so sánh phù hợp nhất định nào đó thì đoạn thẳng đó
là hữu tỷ, nguyên hay tự nhiên. Chẳng hạn, nếu chúng ta chọn a2n là hữu tỷ thì đường kính của đường tròn ngoại tiếp của đa giác đều 2n cạnh phải vô tỷ, vì giữa chúng là sự vô ước, thế nhưng
lúc này lại là số hữu tỷ, thậm chí là số tự nhiên.
Công thức tính số
ở
trên, thoạt nhìn thì thấy đẹp như một cô gái tuổi trăng tròn với mái
tóc dài thướt tha trong gió. Nhưng nhìn kỹ thì thấy hơi… bực mình. Chúng
ta rất thích người thiếu nữ để tóc dài vì nó làm tăng thêm phần dịu
hiền và duyên dáng. Song một mái tóc dài đến vô tận thì lại hóa ra… quá
kỳ dị. Sẽ không bao giờ hiểu nổi một người con gái có mái tóc dài bất
tận và hình như chưa bao giờ được chải chuốt cho bớt rối, lại có thể lả
lướt khoe duyên khắp Vũ Trụ như thế.
Nhưng
không, hãy “nhìn” kỹ lại đi, hình như mái tóc ấy không đến nỗi dài như
thế. Có thể đó chỉ là cái bóng của một mái tóc khác ngắn hơn nhiều và
đẹp hơn nhiều chăng? Tương tự như mặt trời chiếu bóng của một cái cột
lên mặt đất ở góc độ rất xiên: độ dài cột là hữu hạn nhưng bóng của nó
lại có thể dài đến vô định.
Trong công thức tính
ấy, chúng ta đã đặt điều kiện rằng chỉ khi
thì vế phải mới bằng vế trái. Nhưng đặt điều kiện như thế có đúng không và sao không đặt điều kiện
? Nếu đặt
thì vẫn chưa vô hạn vì
do
đó liên căn thức của vế phải phải kết thúc trước khi còn khả năng khai
triển và vì vậy nó sẽ trở nên hữu tỷ. Do đó đặt điều kiện
vẫn
hợp lý hơn. Thế nhưng nếu đặt điều kiện như vậy thì liên căn thức,
tương tự như trường hợp kia, cũng phải kết thúc ở n-1, nghĩa là bị chặn
trước khi đạt tới vô hạn, và trong trường hợp này, cũng phải hữu tỷ.
Sẽ
cảm nhận rõ hơn vấn đề trên nếu qui ước lại rằng đường kính đường tròn
ngoại tiếp đa giác đều không phải bằng 2 mà chỉ bằng 1 đơn vị độ dài.
Lúc này chúng ta có phương trình:
Giải ra với a2n<1 sẽ có nghiệm:
Qua biện luận, chúng ta đạt được:
với n-1 căn thức bậc 2
Để cho khỏi rườm rà, ở đây chúng ta viết công thức tính
theo a2n, và như vậy:
với a2n là một dạng liên căn thức có n-1 căn thức bậc 2
Rõ ràng, bằng bất cứ giá nào thì a2n cũng phải hữu hạn vì nó bị chặn trước khi đạt tới vô hạn. Vậy a2n phải hữu tỷ không lặp lại và do đó
không thể vô tỷ!
Mặt khác, nếu quan niệm rằng các
đường thẳng hay cong đều do tập hợp các điểm “xếp” liên tiếp nhau tạo
nên thì đường tròn không thể ngoại lệ. Vì đường tròn là đường cong khép
kín nên n không thể bằng
mà
phải hữu hạn. (Nếu muốn cho n là vô hạn thì phải tính đến vô vàn các
điểm ảo trong nội tại của các điểm tạo nên đường tròn, rồi vô vàn điểm
trong nội tại các điểm ảo tạo nên điểm thực, cứ thế mãi mãi cho đến khi
vỡ lẽ ra rằng thực ra là sự đếm lặp lại giữa ảo và thực để chẳng thể xác
định được cái gì hết. Số
vô tỷ là vì thế chăng?!).
Vì
sao một liên căn thức khi không được tiếp tục tiến triển nữa thì nó trở
thành hữu tỷ? Chúng ta đã nói điều lố bịch chăng khi chỉ với
thôi,
chẳng tiến triển gì cả, cũng chẳng thể nào hữu tỷ được? Có thể trong Vũ
Trụ số học, tình hình là “bi đát” như thế. Nhưng ở đây là Vũ Trụ hình
học được bộ não hoang tưởng “thái quá” của chúng ta nhận thức. Chúng ta
cho rằng khi liên căn thức dừng tiến triển thì cũng có nghĩa
dừng
vận động. Khi một đoạn thẳng nằm bất động thì dù có bị đánh giá thế nào
cũng mặc, nó vẫn hiển hiện chắc nịch là một đoạn thẳng xác định được.
Nói
về sự hoang tưởng bạt mạng thì hoang tưởng sau đây cũng thuộc dạng
“siêu quần”: Nếu xét ở tầng các điểm làm nên một đường tròn là nhỏ nhất
tuyệt đối (điểm KG) thì không phải bất cứ loại đa giác đều nào cũng nội
tiếp được tùy ý đường tròn có qui mô tương xứng nào, mà phải tùy thuộc
vào số lượng, sự chẵn lẻ của tập hợp điểm đó, chỉ có loại đa giác đều
phù hợp mới nội tiếp được và tùy tình hình, mới có thể phát triển được
lên thành đa giác đều có 2n cạnh.
Ghê chưa?!
Chưa ghê lắm đâu! Những suy đoán tiếp theo có lẽ còn ghê hơn nữa!
Trong
tất cả những đa giác đều nội tiếp đường tròn thì đa giác 6 cạnh đều
(lục giác đều) có một tính chất phi thường hơn cả, đó là độ dài một cạnh
của nó bằng độ dài bán kính (nửa độ dài đường kính) đường tròn ngoại
tiếp, hay nếu gọi độ dài đường kính là D, độ dài cạnh lục giác đều nội
tiếp là a6, thì có thể biểu diễn:
Đẳng thức đó có tuyệt đối chính xác không? Nếu chúng ta quan niệm rằng
là số vô tỷ thì nó không chính xác, còn nếu chúng ta quan niệm
là hữu tỷ thì có thể nó chính xác đến thậm chí là tuyệt đối.
Nhưng
hiện tượng một cạnh của đa giác đều bằng với bán kính đường tròn ngoại
tiếp nó là ngẫu nhiên vô ý hay định mệnh hữu tình. Có thể là cả hai. Tạo
hóa buộc phải cho điều đó xảy ra để đảm bảo tính đầy đủ của Tự Nhiên
Tồn Tại và cũng chính vì thế mà điều xảy ra đó cũng là hy hữu. Một sự hy
hữu tất yếu bao giờ cũng hàm chứa sự tinh túy để trở thành quí giá và
tuyệt đẹp. Nếu Tạo Hóa đã không vô tình bày ra hiện tượng một cạnh của
lục giác đều bằng với bán kính đường tròn ngoại tiếp nó thì “tội vạ” gì
không làm cho nó đạt đến chính xác tuyệt đối? Chúng ta cho rằng đẳng
thức nêu trên là tuyệt đối chính xác và nằm ngoài quan sát trực giác.
Chỉ khi bị con người “soi mói” và nhận thức (thông qua khái niệm), nó
mới trở nên “phập phù”.
Bản
chất của Tự Nhiên Tồn Tại ẩn hiện úp úp mở mở ở khắp nơi, lởn vởn ở
khắp mọi tầng nấc qui mô của Vũ Trụ. Nếu chỉ cần hiểu bản chất của Tự
Nhiên Tồn Tại một cách định tính thôi thì có lẽ nghiền ngẫm cho thấu
được Triết học Hoàng - Lão cũng đã là đủ. Và một khi đã thừa nhận triết
học ấy thì ngay trong hình học sơ cấp cũng có thể thấy được những nguyên
lý cơ bản nhất của Tự Nhiên Tồn Tại và ngược lại, có thể dùng hình học
sơ cấp để minh chứng cho triết thuyết về tự nhiên của Lão Tử. Cùng một
chân lý thì đi tìm nó ở nơi đơn giản là dễ dàng hơn ở chốn phức tạp.
Toán học phát triển lên trình độ ngày một cao thì cũng ngày một phức
tạp. Nhu cầu tìm kiếm chân lý đã buộc nó phải như vậy. Phải thừa nhận
rằng nhờ sự phát triển đó mà toán học đã gặt hái được những thành tựu vĩ
đại về nhận thức Tự Nhiên. Tuy vậy, mặt trái của sự phát triển toán học
lại gây ra khó khăn chồng chất cho đám hậu thế trong việc nhận thức nội
dung của nó, thậm chí là bất khả. Sự phát triển tư duy nhận thức từ
thấp đến cao là một qui luật, vì vậy mà loài người không phải không muốn
mà là không biết, không thể phát hiện được những chân lý cao vời vợi
của Tự Nhiên ẩn chứa trong những sự việc đơn giản nhất, và nếu có một
vài bậc tài giỏi đi tiên phong có ý kiến cảm tính về những hiện tượng
đại loại như thế thì lại chẳng có ai tin được. Loài người tất yếu phải
đi trên một con đường vòng gập ghềnh, chông gai, đầy gian khổ để nhận
thức thực tại khách quan và chỉ khi đạt đến trình độ nào đó thì mới phát
hiện ra được một chân lý nào đó. Chỉ đến lúc đó, ngoái nhìn lại quá
khứ, họ mới “té ngửa” ra rằng cái chân lý mà họ vừa phát hiện với biết
bao nhiêu mồ hôi nước mắt, hóa ra đã xuất đầu lộ diện từ lâu lắm rồi, có
khi ở tận buổi đầu tiên của tư duy nhận thức khoa học.
Hiện
tượng có tính hy hữu nhưng tất yếu ở lục giác đều nội tiếp đường tròn
làm cho chúng ta có linh cảm rằng hình như đó là một sự gợi mở của Tạo
Hóa, hay nói cách khác, đó là một mắt xích dễ tháo gỡ nhất của một rào
cản để tiếp cận những bí ẩn vẫn còn bị che dấu trong nền tảng của Tự
Nhiên Tồn Tại. Thế thì cần phải “đột kích” ngay cái mắt xích này!.
Cái gốc của lục giác đều nội tiếp đường tròn là tam giác đều. Khi đã dựng được tam giác đều nội tiếp đường tròn có chu vi là
, thì cũng có thể dựng được loại đa giác đều có độ dài một cạnh là a2n cũng nội tiếp đường tròn ấy, và chu vi của đa giác này là:
(với
là số cạnh của nó). Có thể thiết lập được mối quan hệ sau:
Tuy
nhiên, theo góc độ quan sát (hoang tưởng tới mức nhiều người cho là
điên loạn!) của chúng ta thì n không thể tiến đến vô hạn độ mà chỉ có
thể đạt đến trạng thái tạm gọi là “tới hạn”, và đường tròn là biểu hiện
của trạng thái tới hạn đó. Theo như quan niệm (có thể là hơi lếu láo) mà
chúng ta đã trình bày ở phía trên, khi n đạt đến tới hạn thì đa giác
đều
cạnh
đã “dừng sự tăng trưởng” số cạnh ở trước tới hạn một “khoảng” xác định
nào đó mà nếu “nhảy” qua khoảng đó, nó không còn là đa giác nữa mà biến
thành chính đường tròn mà nó nội tiếp. Cái đa giác đều cuối cùng này
được gọi là “đa giác tới hạn”.
Ở trạng thái tới hạn, a2n
là đoạn thẳng nhỏ nhất, đóng vai trò là đơn vị độ dài làm nên hệ thống
các đa giác đều hình thành trên cơ sở tam giác đều, nên có thể chọn a2n=1. Vì a2n
có mối quan hệ “sống còn” với cạnh của tam giác đều, mà cạnh của tam
giác đều lại có mối quan hệ “ruột thịt” với D, cho nên giữa 3.2n.a2n và
cũng
phải có mối quan hệ “keo sơn” và liên thông. Khi đa giác đều phát triển
đến trạng thái tới hạn của nó thì nó đã rất gần với đường tròn ngoại
tiếp nên viết được:
Chúng ta phán đoán theo cảm tính rằng nếu 3 là độ dài ba đơn vị của một đoạn thẳng trên đường thẳng thì tương ứng với nó,
là độ dài ba đơn vị của một đoạn cong trên đường tròn có mối quan hệ gắn bó nào đó với đường thẳng đó. Lúc này phải có
tương ứng với D, nghĩa là D có thể được phân tích thành:
với aD3 là đơn vị độ dài nhỏ nhất của đường kính D, và aD3 phải nhỏ hơn 1 sao cho:
Suy ra:
Vì 3 là nguyên, aD3 so với 3 không thể vô tỷ, nên
phải hữu tỷ.
Đến
đây thì trái tim chúng ta bỗng đập loạn xạ và điên cuồng như muốn phá
tan lồng ngực. Hình như sự hoang tưởng của chúng ta cũng đã đạt đến
trạng thái tới hạn. Không biết trong tâm hồn chúng ta đang ngự trị điều
gì trong lúc này: sự mãn nguyện hoàn toàn hay sự hoang mang tột độ? Có
thể là cả hai chăng?
Dù là trong Thực tại ảo thì toán học cũng vĩnh viễn không bao giờ tính ra được một số
hữu
tỷ bằng con đường truyền thống. Trong thực tiễn, khi chúng ta dùng
compa vẽ lên mặt phẳng một đường tròn thì chưa chắc đường tròn đó là
tròn thực sự, vì chúng ta đang sống trong một tầng nấc qui mô có không
gian không phải thuần Ơclít hay thuần cong mà là đa tạp. Ngay cả một
đoạn thẳng Ơclít cũng khó lòng nếu không muốn nói là không thể hiện hữu
trong hiện thực khách quan mà con người đang sống. Chính vì vậy mà không
thể tìm thấy số
hữu tỷ (một cách tự nhiên) và cũng không thể ứng dụng nó trong đời sống…
Bình tĩnh lại, chúng ta vẫn cứ tin rằng số
hữu
tỷ tồn tại. Nhưng vì không thể tìm thấy trong hiện thực của con người
nên cần phải tìm nó ở thế giới hoang đường. Chúng ta cho rằng thế giới
hoang đường vẫn có thể là thực tại khách quan, thậm chí là mức độ khách
quan của nó còn hơn hẳn mức độ khách quan của Thực tại khách quan mà con
người quan sát được. Nó mang tên Hoang đường bởi vì con người đã không
thể tiếp cận nó nên chối bỏ nó. Một sự tư duy lôgíc chặt chẽ đến cứng đờ
sẽ giết chết những vận hội lớn lao. Trong khi chờ đợi cho tâm thần bớt
rối loạn để đi tìm số
hữu tỷ, chúng ta ngâm lên một bài thơ mà hồi còn ở nhà, trong một lần chơi trò xếp chữ cho đỡ buồn, chúng ta đã có được:
NGƯỜI CON GÁI TÊN PI
Em có thật không, hỡi cô gái tên Pi
Mà nhan sắc nổi ghen Thần Vệ Nữ
Mãi trinh nguyên cho lòng người ái mộ
Nâng niu tên em trong tiềm thức của mình
Em hiện ra từ chân lý khách quan
Ngực nở, eo thon, hông tròn mạnh khỏe
Sao mái tóc em lại lê thê vô tỷ?
Ngồ ngộ làm sao, bối rối cả Nhân gian
Cứ mỗi lần chăm chú ngắm nhìn em
Lại ngờ ngợ Tạo Hóa nào muốn thế
Đã kỳ quan thì đâu cần diêm dúa
Tuyệt mỹ rồi thì hằng số làm gì!
Em là ai, hỡi cô gái tên Pi
Mà huyền diệu như vòng tròn Thái Cực
Và kỳ ảo trong cõi đời rất thực
Hay từ Hoang Đường hắt xuống bóng em thôi?
Đúng không Pi, ở nơi ấy xa vời
Em xinh đẹp trong gọn gàng bình dị
Em duyên dáng bởi vì em hữu tỷ
Có quê hương là Thế giới N?
Em tên là Pi, có tiên tổ là 3?!
Tại sao lại nói: tổ tiên của số
là số 3? Vì trong Vũ Trụ số; không có số nào không có gốc tự nhiên. Mọi con số đều có nguồn cội là số tự nhiên, cho nên vì
gần 3 hơn cả nên chúng ta cho rằng số
“ra đời” từ số 3. Đơn giản vậy thôi!
Để tìm
, chúng ta viết lại:
Muốn
hữu tỷ thì aD3 phải hữu tỷ. Vì không thể tính toán trực tiếp ra
được (sẽ gặp số vô tỷ) nên chỉ có thể tìm và chọn nó. Muốn tìm nó thì trước hết phải tìm và chọn aD3. Do đó, cần phải viết lại biểu thức trên thành:
Tìm aD3
bằng cách nào? Bằng cách áp dụng lại một phương pháp cổ xưa mà có lần
chúng ta đã nhắc tới khi kể về số nguyên tố, đó là “phương pháp sàng”
của Ơratôxten.
Đầu tiên, chúng ta chia 3 cho số
vô tỷ:
Vì số
hữu tỷ cũng phải lớn hơn 3 và nó chỉ có thể quanh quẩn đâu đó gần số
vô tỷ nên aD3
cũng có thể quanh quẩn đâu đó gần số 0,9549… Vậy, chúng ta sẽ tạm thời
“sàng” các số từ 0,950 đến 0,961 xem sao. Cách “sàng” ở đây là lấy số 3
chia cho các số từ 0,950 đến 0,961 để tìm ra một số hữu tỷ nhất chọn làm
số
và đồng thời là số aD3. Chúng ta bắt đầu:
Công
việc sàng lọc đã xong và kết quả cho chúng ta thấy ngay một hy hữu lạ
lùng: nếu cái sàng chỉ giữ lại số hữu tỷ “tròn trịa” nhất thôi thì duy
nhất chỉ có một số ở lại, đó là số 3,125. Chẳng còn gì để nói nữa, chúng
ta “đành phải” chọn số đó làm số
hữu tỷ và số 0,96 cho aD3.
Từ nay chúng ta ký hiệu số Pi hữu tỷ là
, gọi là số “Pi vàng”, và có được mối liên hệ tuyệt đẹp của sự bình dị:
Nếu
là
một chân lý đích thực thì nó đã từng xuất hiện trước mắt con người từ
thời cổ đại, mà công đầu theo sách vở ngày nay đã xác nhận, là thuộc về
các nhà thông thái babylon. Không biết bằng cách nào mà họ đã đề xuất
được:
Nói
đến người ta, lại chợt nhớ đến mình. Chúng ta vẫn canh cánh bên lòng về
cái vành tròn mô tả lần lượt 6 con chim, đến 10 con hươu, rồi tiếp tục
đến 8 con chim và cuối cùng trở lại 10 con hươu, trên trống đồng Ngọc Lũ
của người việt cổ thời Hùng Vương. Đành rằng, như chúng ta đã kể trong
dân gian Việt Nam còn lưu truyền cách tính số
và
trị của nó là bằng 3,2, nhưng đó là quan niệm sau này hoặc rất có thể
là hậu thế đã hiều lầm bậc tiền bối. Về mặt toán học thì cái vành trên
trống đồng Ngọc Lũ đó thể hiện bộ 4 số lần lượt là: 6, 10, 8, 10. Nếu
cho đó là những độ dài của những đoạn thẳng thì khi dựng hình lần lượt
theo những đoạn thẳng đó, chúng ta sẽ có được một hình thang cân ABCD
trên hình 15 (vẽ minh họa ước lệ chứ không đúng tỷ lệ!)
Hình 15: Dựng hình thang cân theo bộ 4 số của người Việt cổ
Gọi
là bộ 4 số nhưng thực ra chỉ có 3 số khác nhau hợp thành bộ 3 số Pitago
là 6, 8, 10… Việc người Việt cổ liệt kê thêm một số 10 nữa đã gợi chúng
ta về một hình thang cân mà cạnh đáy nhỏ là 6, đáy lớn là 8, và hai
cạnh bên là 10.
Nhưng nếu thực sự người Việt cổ đã từng dựng hình thang đó thì họ dựng với mục đích gì? Phải chăng là để tính số
?
Khó lòng mà tin vào điều đó được. Tuy nhiên, với kiến thức ngày nay,
chúng ta thấy có nhiều điều thú vị đối với hình thang này. Nếu kéo dài
hai cạnh bên của hình thang là AB và DC, chúng sẽ cắt nhau tại O. O
chính là tâm của đường tròn đi qua hai điềm A và D của hình thang cân.
Dựa
vào tính chất của 2 tam giác đồng dạng, có thể tính được ra bán kính
của đường tròn tâm O là 40, hay nếu gọi đường kính của nó là D thì D =
80 và như vậy, chu vi của đường tròn là:
Nhưng nếu dùng số Pi vàng thì:
Tỷ số
làm cho trong thực tiễn, nhất là vào thời cổ đại khó phân biệt được là dùng số
nào thì đúng.
Giả
sử rằng chúng ta có nhiều hình tam giác cân y hệt tam giác AOD và sắp
xếp chúng nằm kề nhau sao cho đỉnh nhìn cạnh đáy của chúng trùng nhau
tại điểm O. Hỏi, kết quả của việc sắp xếp ấy có vừa vặn khít khao (không
dư, không hụt) để tạo được một đa giác đều nội tiếp đường tròn 0 hay
không?
Ở
hình 15 chúng ta thấy đoạn thẳng AD chặn trên đường tròn 0 một cung AD.
Nếu biết độ dài cung ấy thì chỉ cần lấy chu vi đường tròn chia cho cung
ấy là sẽ trả lời được câu hỏi trên. Vì không có cách nào tính được ra
cung ấy nên chúng ta phải lụy đến lượng giác. Góc
được tính là:
Tra bảng sẽ có 
Vậy số hình tam giác AOD có thể xếp được trong đường tròn tâm O là:
360 : 11,47834… = 31,36342…
Nghĩa là gồm 31 hình nguyên và một phần (vô tỷ!) của hình nguyên.
Cũng
chỉ giả sử thôi, nếu người Việt cổ thời Hùng Vương đã từng xếp các hình
tam giác nói trên để tìm cách tính chu vi đường tròn thì có thể do mức
độ chính xác của đo đạc thời bấy giờ mà họ biết được số hình tam giác
xếp vừa khít trong vòng tròn tâm O giao động từ 31 đến khoảng 31,5 hình,
và nếu lấy trung bình thì khoảng 31,25 hình.
Nếu lấy số hình đó nhân với 8 (AD), chia cho 80 (D) thì sẽ nhận được số Pi vàng:
Có thể người xưa làm cách khác. Họ nhân 31 với 8 để có 248. Còn 0,25 (có nghĩa là
hình)
thì họ đơn giản lấy 8 chia cho 4 để được 2. Cộng hai kết quả ấy được
250 và họ cho rằng đó là chu vi đường tròn O. Lấy 250 chia cho 80 (đường
kính D) cũng sẽ nhận được số Pi vàng:
Chúng
ta biết đa giác đều 30 cạnh có đặc tính rất hay là nếu đặt chúng “chồng
lên” một cách thích hợp trên một hình lục giác nội tiếp chung trong một
đường tròn thì cứ 5 cạnh liên tiếp của đa giác đều 30 cạnh nằm lọt vừa
vặn “trong” một cạnh của lục giác đều.
Nếu chúng ta muốn xếp chỉ với 30 hình tam giác “kiểu” AOD nhưng vừa khít trong vòng tròn 0, thì cần phải tăng độ dài đoạn thẳng
, đồng nghĩa với việc tăng độ dài cung
. Và chính xác là phải tăng lên:
Thú vị là, nếu muốn tìm lại độ dài đoạn AD ban đầu, thì lấy (
)’ nhân với 0,96:
Trước đây không lâu, trong một lần giới thiệu sơ lược lịch sử tìm tòi trị số đúng của
,
chúng ta có dẫn ra từ một cuốn sách rằng trong dân gian Việt Nam còn
lưu truyền cách xác định đường kính khi biết chu vi đường tròn của nó
là: “Quân bát, phát tam, tồn ngũ, quân nhị” và mô tả:
Nghĩ
lại, thấy thật bất cập. Trong thực tế cuộc sống, thông thường vẫn là
tính chu vi đường tròn, hay vẽ đường tròn khi đã biết đường kính. Khi đã
biết chu vi đường tròn và biết
thì đơn giản là chỉ việc lấy chu vi chia cho
là
có ngay độ dài của đường kính, việc gì phải dùng câu trên chi cho rườm
rà. Con số quan trọng nhất có liên quan tới mọi đường tròn, từ chu vi
cho đến đường kính và không được quên, đó là số
. Vậy thì theo chúng ta, câu truyền khẩu dân gian trên phải là câu ghi nhớ nằm lòng chỉ cách tính ra số
có thể mô tả lại như sau:
Và phát biểu: “(Lấy 10) chia 8 phần, bỏ 3 phần, lấy 5 phần rồi chia cho 2”.
Bàn
luận như thế về ông cha mình không biết là đúng hay sai nhưng bất luận
là gì đi chăng nữa thì trong tâm tưởng, chúng ta tin tưởng sâu sắc rằng,
tổ tiên chúng ta thật vô cùng tài giỏi.
Thôi, chúng ta hãy quay lại công việc chính!
Chúng
ta viết lại mối quan hệ hoang đường mà nhờ nó, chúng ta đã “sàng” được
số Pi Vàng và số 0,96 (từ nay chúng ta tặng cho nó cái tên: “Số qui đổi
vàng”; vì hầu hết các số thập phân vô hạn tuần hoàn một chữ số khi nhân
với nó đều phải chấm dứt sự vô hạn, và còn vì nhiều điều khác nữa).
Mối
quan hệ đó là đặc trưng cho đa giác 3 cạnh đều. Để cho “công bằng” thì
phải cho rằng mọi đa giác đều đều có mối quan hệ dạng đó, nghĩa là phải
có:
Từ đó chúng ta có được một dãy số có quan hệ mật thiết với
là:
…, và viết dưới dạng con số là:
Qui
luật tăng trưởng của dãy này là muốn biết số hạng tại vị trí nào đó thì
chỉ việc lấy số thứ tự của nó nhân với số hạng đầu tiên (tức số 0,32).
Một hệ quả suy ra từ qui luật này là tổng của hai số hạng bất kỳ trong
dãy bằng số hạng có số thứ tự bằng tổng số thứ tự của hai số hạng đó.
Chẳng hạn cho hai số trong dãy là 0,96 và 1,28. Tổng của chúng là:
0,96 + 1,28 = 2,24
Đó là số hạng có số thứ tự bằng:
3 + 4 = 7
Chúng
ta đề xuất dãy số đó ra chỉ vì cảm giác thấy nó đẹp chứ không biết nó
có ích lợi gì không nữa. Dù sao thì chúng ta cũng cứ đặt tên cho nó là
“Dãy số của Pi Vàng”.
Đã
là vàng thì phải quí báu. Đã gọi là số Pi Vàng mà từ nãy giờ chẳng thấy
nó quí báu ở chỗ nào có cả. Sự hữu tỷ của nó kể cũng đẹp đấy. Nhưng
thiên hạ ngày nay đã quen tôn vinh sự vô tỷ mất rồi nên chẳng ai còn cần
tới nó. Công lao của nó đến nay là cho ra đời một dãy số hữu tỷ mà chưa
ai kiểm chứng được và chúng ta cũng chưa biết dùng vào việc gì.
Nói
vui thế thôi, chứ thực ra khi đặt cho con số 3,125 cái tên là Pi Vàng,
chúng ta đã nhìn thấy ở nó một điều kỳ diệu. Không ai có thể tin nổi số
Pi vàng lại là kết quả tác thành từ một số được mệnh danh là “vô tỷ nhất
trong các số vô tỷ”. Nhưng rồi mọi người sẽ phải tin thôi khi thấy đẳng
thức sau đây:
Chính
mối quan hệ này, một mối quan hệ mà ngay cả thần thánh lẫn Thượng Đế
cũng không thể sáng tạo ra được, đã củng cố niềm tin của chúng ta rằng
số Pi vô tỷ chỉ là cái bóng của số Pi Vàng, hay có thể nói: số Pi Vàng
mới đích thị là chân lý tuyệt đối khách quan và khi “bị” quan sát lẫn
nhận thức “lũng đoạn”, nó chỉ còn biểu hiện ra như một chân lý tương đối
là số Pi vô tỷ.
Với quan niệm trên, vậy thì phải chăng số
vô tỷ cũng chỉ là cái bóng của một số
hữu
tỷ nào đó? Chúng ta không phản bội lại niềm tin của mình nên dõng dạc
trả lời: “Vâng, thưa quí ngài, phải có một con số như thế!”.
(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------------
(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét