TT&HĐ IV - 37/a
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi, lỡ đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc , chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi
CHƯƠNG V (XXXVII): KỲ HOA
“Chúng ta ngưỡng mộ Hy Lạp cổ đại như là cái nôi của nền khoa học
phương Tây. Ở đó, lần đầu tiên hình học Ơclit được xây dựng. Đó là sự kỳ
diệu của trí tuệ, là hệ thống logic mà những kết quả của nó suy ra cái
này từ cái kia một cách chính xác, đến nỗi không ai có thể nghi ngờ điều
gì”.
A. Anhxtanh
“Hình học có hai bảo vật, một là Định lý Pitago, bảo vật kia là Định
lý tích trung bằng tích ngoại. Ta có thể so sánh cái thứ nhất với một
lượng vàng và có thể gọi cái thứ hai là viên ngọc quí”.
J. Keple
...Theo một nghĩa nào đó, CƠ SỞ CỦA HÌNH HỌC
là quyển sách thuần túy toán học đầu tiên của nhân loại và là tờ giấy
khai sinh ra toán học như một bộ môn độc lập, tuy vẫn còn là một bộ phận
của triết học. Cách Euclid xây dựng một hệ thống kiến thức cao vút dựa
trên số ít tiên đề nền và lấy luật logic làm chất gắn kết, đã là hình
mẫu cho sự phát triển của toán học đến ngày nay"
Ngô Bảo Châu
Định
lý Pitago phát biểu rằng: “Đối với một tam giác vuông thì tổng bình
phương hai cạnh góc vuông bằng bình phương của cạnh huyền”.
Định
lý này tuy gắn liền với tên tuổi nhà toán học Pitago nhưng đã được
người Babylon cổ và người Trung Hoa cổ sử dụng hơn 1000 năm trước đó.
Chúng ta còn cho rằng người Việt cổ thời Hùng Vương cũng đã biết nó từ
lâu.
Để chứng minh định lý này, chúng ta hãy xem hình 1 với những ký hiệu các cạnh dưới đây:
Hình1: Minh họa chứng minh Định lý Pitago
Có thể tính diện tích hình vuông lớn bằng hai cách là:
Với S1 và S2 đều là diện tích hình vuông lớn nên:
Do đó: 
Trong
Vũ Trụ số, chúng ta thấy rằng biểu thức trên không phải bao giờ cũng
đúng đối với số tự nhiên, nhưng ở đây, trong Vũ Trụ hình học, thì biểu
thức đúng với tất cả mọi tam giác vuông được xác định chắc chắn bằng
thước kẻ và compa.
Có
thể rằng người châu Á cổ đại đã đụng chạm đến số vô tỷ nhưng chưa đủ
năng lực trí tuệ để nhận thức nên đã “tránh xa” và không “dám” nhắc tới
nó. Do đó mà mãi đến thế kỷ V TCN, nó mới chính thức được phát hiện bởi
nhà toán học Hy Lạp tên là Hippasus. Trước sự phát hiện này, các đồ đệ
của trường phái Pitago đã vô cùng sửng sốt và khiếp đảm, bởi vì nó đe
dọa một sự phá hoại ghê gớm đến quan niệm về một thế giới được xây dựng
trên nền tảng của những con số nguyên cùng với những mối quan hệ tỷ lệ
nào đó giữa chúng. Họ đã không thể nào “nuốt trôi” được sự hiện diện của
số vô tỷ nên đã giấu nhẹm sự phát hiện ra nó, hoàn toàn giữ bí mật và
cho rằng đó chỉ là một thứ hỏng hóc của Vũ Trụ.
Sự
phát hiện ra số vô tỷ dẫn đến sự khám phá ra tính vô ước (tính không có
ước số chung, tính không so sánh được với nhau giữa các đoạn thẳng).
Vào khoảng năm 300, nhà triết học kiêm sử học Iamblichus đã mô tả sự
phản ứng dữ dội trong trường phái Pitago đối với khám phá này: “Họ bảo
rằng người đầu tiên hé mở về tính thông ước và tính vô ước cho những ai
không xứng đáng để sẻ chia lý thuyết ấy, người đó sẽ bị ghét bỏ đến nỗi
không chỉ bị trục xuất khỏi hội đoàn mà thậm chí nấm mồ của hắn ta cũng
bị dựng lên như thể kẻ đó đã bị tách khỏi cuộc sống giữa loài người”.
Điều kỳ diệu nhất là không làm sao viết ra một số vô tỷ cho chính xác và minh bạch được thì trong khi đó có thể biểu thị số
vô tỷ đó dưới dạng đoạn thẳng hình học một cách hoàn toàn xác đáng và
trực quan “không chê vào đâu được”. Đường chéo của một hình vuông bao
giờ cũng hàm chứa số vô tỷ là
,
song phải cho rằng nó hoàn toàn hữu hạn và xác định, vì nếu không, sẽ
không dựng được nó bằng thước kẻ và compa, thậm chí là bằng bất cứ
phương tiện nào. Tuy nhiên điều kỳ dị đó sẽ bị “lu mờ” đi nếu chúng ta
đã “thấm nhuần” sự biểu hiện nước đôi của Tự nhiên Tồn tại: sự hàm chứa
tính vô hạn trong cái hữu hạn và sự hàm chứa tính hữu hạn trong cái vô
hạn.
Ở
buổi bình minh của tư duy nhận thức, đi liền với cảm giác về tính rời
rạc là cảm giác về tính khác biệt hình dạng cũng như kích cỡ to, nhỏ so
với nhau của vạn vật - hiện tượng. Đòi hỏi khách quan của cuộc sống đã
yêu cầu nhận thức phải định lượng, định hình, định vị toàn bộ các sự vật
- hiện tượng mà nó quan sát được. Nguyên nhân ra đời của số học và hình
học có nguồn gốc như vậy. Có thể nói số học và hình học là hai góc độ
quan sát và nhận thức khác nhau về cùng một thực tại khách quan. Từ hai
góc độ quan sát và nhận thức đó, con người đã xây dựng được hai thực tại
ảo là Vũ Trụ số học và Vũ Trụ hình học. Hai Vũ Trụ đó cũng chính là hai
hình ảnh khiếm khuyết và méo mó của Thực tại khách quan, do không thể
loại bỏ được cơ sở của tư duy nhận thức là hệ thống các khái niệm và qui
ước đầy tính chủ quan, bị động, phiến diện và siêu hình. Do không thể
cùng một lúc quan sát được hai hay nhiều sự vật - hiện tượng trong Thực tại khách quan một cách trung thực và cũng do còn thiếu thốn
những quan sát hồi ức trong buổi đầu nhận thức của con người mà hai Vũ
Trụ ảo đó tồn tại một cách độc lập tương đối so với nhau là một tất yếu.
Trong
khi Vũ Trụ số chủ yếu quan tâm tới số lượng và sự chuyển hóa giữa các
số lượng của vạn vật - hiện tượng thì Vũ Trụ hình lại chủ yếu quan tâm
tới hình dạng, phương vị và sự chuyển hóa giữa các hình dạng - phương vị
của vạn vật - hiện tượng. Quá trình khảo sát và nghiên cứu đó đã ngày
một tích lũy được nhiều kinh nghiệm cũng như tri thức làm cho đối tượng
của quan sát hồi ức ngày càng được mở rộng và phong phú, làm điểm tựa
kích thích, tạo khả năng cho nhận thức phát triển không ngừng. Sự nâng
cao của nhận thức đã dẫn đến động thái hoàn toàn tự nhiên: đào sâu và mở
rộng nhận thức về Vũ Trụ hình và ngược lại, bằng cách xâm nhập Vũ Trụ
số và Vũ Trụ hình. Nhận thức không thể không làm điều đó nếu muốn tìm
hiểu triệt để Thực tại ảo và thông qua đó là Thực tại Khách quan, và có
thể làm được điều đó vì Vũ Trụ số và Vũ Trụ hình, dù là hai hình ảnh có
những nét đặc thù do góc độ quan sát khác nhau mang lại thì thực ra đều
là sự mô tả về một Thực tại có bản chất duy nhất, làm cho những qui
luật, những nguyên lý chung nhất, có tính nền tảng của hai Vũ Trụ ảo đó,
khi “bị lột bỏ bộ cánh ngụy trang là đặc thù” đi, sẽ trở nên đồng nhất.
Có
thể tạm nói rằng Vũ Trụ hình học, khi chưa được “thổi hồn” Vũ Trụ số
vào, thì chỉ là một Vũ Trụ đơn thuần của cảm giác lý tính, hay nói cách
khác, là một Vũ Trụ ảo câm nín. Khi được “lồng” Vũ Trụ số vào, Vũ Trụ
hình trở nên bừng sáng, lung linh và ngân lên hết cung bậc huyền ảo của
nó. Nhờ có Vũ Trụ hình - số học mà nhận thức của con người đã có những
hiểu biết lớn lao và ngày càng sắc sảo hơn về bản chất đích thực của
Không gian, thứ duy nhất làm nên Vũ Trụ Khách quan.
Khi
đã được trang bị “kỹ thuật số”, thì Vũ Trụ hình cũng thể hiện tương tự
như Vũ Trụ số, theo cách đặc trưng của nó, nghĩa là nó cũng bao gồm Thế
giới (hình) tự nhiên, nguyên, hữu tỷ, vô tỷ, thực… và nguyên nhân xuất
hiện ra các thế giới ấy, sự chuyển hóa giữa các thế giới ấy thông qua
các phép toán cũng tương tự như có tính minh họa trực quan và minh tường
hơn Vũ Trụ số. Có những biểu hiện của Thực tại khách quan mà dù có muốn
thì Vũ Trụ số cũng khó lòng lột tả được, trong khi Vũ Trụ hình lại làm
được điều đó một cách dễ dàng.
Bây giờ chúng ta đi xem xét một vài vấn đề sơ đẳng của Vũ Trụ hình.
Chúng
ta biết rằng không một Vũ Trụ nào có thể được xây dựng nên từ Hư Vô
tuyệt đối và Vũ Trụ nào cũng thể hiện đồng thời hai mặt tương phản của
nó là cái nền tảng chìm khuất và cái hiện hữu nổi trội. Nền tảng của Vũ
Trụ hình học là Không Gian. Không Gian có cấu tạo như một khối mạng từ
vô vàn điểm Không Gian. Điểm KG là đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của Vũ Trụ
hình học và lấp đầy Vũ Trụ ấy. Trong cái Vũ Trụ hình học vừa ảo vừa siêu
hình thì do “tác động” từ bên ngoài (và “ông chủ” của những tác động ấy
chính là con người tư duy nhận thức!), mà các điểm (tương đối), đường,
mặt, khối xuất hiện, tạo nên bộ phận hiện hữu trên cái nền tảng Không
Gian của nó. Chúng ta nói rằng, dù có mô tả tốt đến mấy bản chất Không
gian của Vũ Trụ khách quan thì Vũ Trụ hình học vẫn là một cơ thể siêu
hình ghê gớm và vẫn không bao giờ “đủ sức” mô phỏng được “linh hồn” của
Không Gian vì nó vẫn còn thiếu một biểu hiện cơ bản của Thực Tại Khách
Quan là Thời Gian.
Giả
sử rằng trong Vũ Trụ hình học, chúng ta thấy một đường thẳng a (xem
hình 2). Đường thẳng a chính là tập hợp của vô vàn điểm KG dã được làm
cho hiện hữu và được sắp xếp theo một phương xác định nào đó.
Sau
khi quan sát thấy thế thì rồi sớm muộn gì chúng ta cũng phải hồn nhiên
tự hỏi: có bao nhiêu điểm KG làm nên đường thẳng a? Hỏi nhưng không bao
giờ trả lời được vì hai đầu mút của a đã vượt ra ngoài tầm quan sát của
chúng ta và có vẻ như mỗi đầu mút đi về hai phía ngược nhau và ở đâu đó
tại “hai đầu nỗi nhớ” của sự vô tận.
Thực
ra, vì điểm KG tuyệt đối là vô cùng nhỏ so với năng lực cảm nhận của
con người nên nó luôn ở ngoài tầm quan sát của chúng ta và chìm khuất -
rất “sâu” đến có vẻ như vô tận. Chúng ta thấy được đường thẳng a vì nó
là tập hợp của những thực thể tạm gọi là “điểm KG tương đối”. Điểm KG
tương đối là tập hợp một số lượng nào đó những điểm KG tuyệt đối, và
chúng ta từ nay gọi nó một cách gọn lại là “điểm”.
Hình 2: Đôi điều về Vũ Trụ hình học
Dù
chúng ta không thể đếm hết được điểm của đường thẳng a thì vẫn có thể
đếm được n điểm trong một khoảng nào đó của a. Khoảng đó được gọi là
“đoạn thẳng”. Giả sử chúng ta có đoạn thẳng OA (gồm n điểm) của đường
thẳng a hiện hữu ở hình 2. Rõ ràng, đơn vị nhỏ nhất làm nên đoạn thẳng
ấy là “bề dày” của điểm. Có thể nói, bề dày của điểm trên a (hay OA)
cũng chính là khoảng cách hoặc đoạn thẳng nhỏ nhất tự nhiên (không theo
qui ước) của a (hay OA). Vậy thì khoảng cách giữa điểm O và A là bao
nhiêu? Nếu qui ước tính luôn cả bản thân hai điểm ấy thì nó là:

Nếu chúng ta chọn thứ nguyên nào đó cho
thì
còn được gọi là “đơn vị đo khoảng cách (hay độ dài) tự nhiên” của đường thẳng a. Vậy
cũng là độ dài của đoạn thẳng
.
Tuy nhiên trong thực tế, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên
cứu, khảo sát và tính toán, người ta thường chọn một đoạn thẳng nhất
định nào đó làm đơn vị độ dài và gọi là “đơn vị đo độ dài theo qui ước”.
Chẳng hạn trên hình 2, chúng ta đã chọn đơn vị độ dài của đường thẳng a
là
và như vậy, độ dài của đoạn thẳng OA là bằng 7 đơn vị.
Hiển
nhiên là khi đã có được đơn vị độ dài rồi thì chúng ta có thể xác lập
được mọi đoạn thẳng có độ dài ngắn khác nhau để xây dựng nên một dãy các
đoạn thẳng có độ dài tương đương với dãy số đếm tự nhiên trong Vũ trụ
số.
Vì
Vũ trụ hình học có tính vô tận nên cũng có vô vàn các đường thẳng cùng
phương với đường thẳng a để xây dựng được vô vàn dãy các đoạn thẳng tự
nhiên. Vô vàn những đường thẳng đồng phương với a còn được gọi là những
đường thẳng song song với nó và với nhau. (Thực ra, khái niệm “đồng
phương” là rất “bấp bênh”. Ở đây, chúng ta tạm hiểu: các đường thẳng
đồng phương là các đường thẳng song song với nhau; mặt phẳng đồng phương
chỉ chứa các đường thẳng song song và nếu 2 tập hợp đường thẳng của 2
mặt phẳng đồng phương cũng song song với nhau thì 2 mặt phẳng đó đồng
phương với nhau). Vô vàn những đường thẳng đồng phương sẽ tạo lập được
vô vàn những mặt phẳng đồng phương và từ đó mà cũng hình thành nên một
không gian đồng phương. Trong không gian đồng phương, tất cả các đoạn
thẳng đều đồng phương và chỉ có các đoạn thẳng đồng phương mới thuộc về
nó. Trong không gian đó, nếu các phép toán được thực hiện tự do thì
chúng ta sẽ có đủ các lực lượng đoạn thẳng: tự nhiên, nguyên, hữu tỷ, vô
tỷ và phức hợp. Có thể nói không gian đồng phương là “hình ảnh trực
quan” của Vũ trụ số và tương đương với Vũ trụ số về mặt lực lượng.
Trong
không gian đồng phương, khi đã xuất hiện những đoạn thẳng nguyên thì
coi như bản thân nó cũng phân thành hai chiều tương phản âm - dương. Lúc
này, các đoạn thẳng được gọi là các “véc tơ” và những véc tơ cùng chiều
được gọi là “những véc tơ cùng phương chiều” hay “những véc tơ đồng
hướng”. Chúng ta cho rằng không gian đồng phương chỉ có hai chiều tương
phản âm - dương.
(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------
(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét