TT&HĐ IV - 38/c
Những Địa Điểm Trên Trái Đất Dường Như Phá Vỡ Mọi Định Luật Về Trọng Lực | Top 10 Kinh Điển
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi, lỡ đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc , chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi
CHƯƠNG VI (XXXVIII): BÍCH LẠC
“Một
chân lý mới của khoa học thường thắng lợi không phải bằng cách những kẻ
chống đối nó sẽ được thuyết phục và tuyên bố mình được dạy dỗ, mà đúng
hơn bằng cách những kẻ chống đối dần dần chết hết và thế hệ mới ngay từ
đầu được làm quen với nó”.
“Nền
văn minh của chúng ta chẳng qua là sự tích lũy của tất cả những niềm mơ
ước đã được thể hiện trong thực tế qua hàng bao thế kỷ và nếu như loài
người không ước mơ, quay lưng lại với sự kỳ diệu của Vũ Trụ, thì đó là
dấu hiệu suy thoái của loài người”.
Clac
"Điều chủ yếu cản trở nhận thức chân lý không phải là sai lầm mà là chân lý như đúng như sai."
Lev Tolstoy (Nga)
Lev Tolstoy (Nga)
"Người không yêu tự do và chân lý, có thể trở thành người mạnh mẽ nhất, nhưng tuyệt đối không thể trở thành người vĩ đại".
Voltaire (Pháp)
Voltaire (Pháp)
"Không ai muốn chết cả, kể cả những người muốn lên thiên đường cũng không muốn chết để có thể tới được đó. Cái chết là điểm đến cuối cùng mà chúng ta gặp phải, không ai có thể thoát khỏi nó. Tuy nhiên, cái chết là điều phải đến, nó là phát minh tuyệt vời nhất sau sự sống. Cái chết hoàn thành những điều mà sự sống còn bỏ dở, nó dọn dẹp những thứ cũ để mở đường cho nhiều thứ mới hơn. Những thứ mới hơn này chính là các bạn, tất nhiên trong tương lai chúng ta sẽ đều già đi và dần bị loại bỏ. Xin lỗi nếu như điều này quá bất ngờ, nhưng nó là sự thật""Nhà khoa học phải tìm kiếm chân lý, phải quý trọng chân lý hơn những ước mơ hay những mối quan hệ của riêng của mình"
Steve Jobs
Khuyết danh
"Toán học là khoa học của lớp trẻ. Không thể khác được. Nghiên cứu toán học là thứ thể dục của trí tuệ, đòi hỏi phải có tính dẻo dai và bền bỉ của thanh niên".
Khuyết danh
(Tiếp theo)
***
Qua
một điểm nằm ngoài một đường thẳng cho trước chỉ có thể vẽ được duy
nhất một đường thẳng song song với đường thẳng đã cho. Đó là cách phát
biểu của nhà toán học Scôtlen tên là John Playfair (1748-1819) về định
đề 5 (mà người đầu tiên nêu ra là Ptolemy I). Cách phát biểu này sau đó
trở nên phổ biến và định đề 5 cũng thường được gọi là “tiên đề về đường
song song”.
Vào
cuối thế kỷ XVIII, một nhà toán học Đức tên là Cliugen, trong luận án
tiến sĩ: “Tổng quan về những ý đồ chứng minh định lý về đường song song”
của mình tại trường Đại học tổng hợp Gottinghen danh tiếng, đã viết:
“Mọi
khoa học đều chứa đựng trong lòng nó những điều bí ẩn. Không có gì đáng
ngạc nhiên cả khi trí tuệ của chúng ta nằm trong một giới hạn nhất định
và vì thế, chưa thể khám phá được nguồn gốc và nguyên nhân của hàng bao
nhiêu hiện tượng.
…
Trong hình học, những điều có thể chứng minh được mà không cần đến định
lý về các đường song song không nhiều lắm, nhưng những điều có thể sử
dụng để chứng minh cho cái định lý đó còn ít hơn nữa. Do đó, nếu như
không có sự hiểu biết rõ ràng về các đường thẳng và các đường cong thì
chúng ta không thể nào chứng minh được điều đó dựa trên cơ sở định nghĩa
chung. Với những điều kiện như vậy, không nên đổ lỗi cho môn hình học
nếu như nó có đưa vào trong các cơ sở của nó một giả thiết mà tính hiển
nhiên của giả thiết ấy lại không được xác lập bằng một lập luận rõ ràng,
mà chỉ bằng sự nhận biết trực tiếp nhờ những khái niệm trực quan của
chúng ta về các đường thẳng. Định đề 5 của Ơclít là như vậy đấy”.
Sau
khi nghiên cứu gần 30 phương pháp chứng minh định đề 5 mà Chingen cho
là khá nhất mà vẫn dẫn tới thất bại, ông kết luận: “Như vậy, nếu nhìn
bao quát tất cả các ý đồ, thì rõ ràng việc Ơclít liệt cái giả thiết đó
vào danh sách các tiên đề là hoàn toàn đúng”.
Thời
còn là sinh viên khoa toán của trường Đại học Gottinghen, K. Gauxơ và
F. Bôia (1775-1856) đã kết thành bạn thân với nhau. Cả hai người đều
dành nhiều thời gian để thử chứng minh định đề 5 của Ơclít. Năm 1804, F.
Bôia nghĩ rằng ông đã tìm ra một chứng minh và viết nó thành một bản
thảo ngắn, gửi cho K. Gauxơ, bạn học cũ của mình. Tuy nhiên Gauxơ đã
nhanh chóng tìm ra sai lầm trong chứng minh này. Không chịu khuất phục,
F. Bôia tiếp tục những nỗ lực không mệt mỏi và vài năm sau lại gửi cho
Gauxơ một chứng minh khác. Chứng minh này cũng phạm sai lầm nốt.
Ngày
15-12-1802, con trai của F. Bôia chào đời, đó là J. Bôia (Janos Bolyai,
1802-1860). Đầy phấn khởi, F. Bôia viết thư cho Gauxơ: “May thay, đây
là một đứa bé khỏe mạnh và rất xinh xắn, với mái tóc và hàng lông mày
đen nhánh, đôi mắt lanh lợi, xanh biếc như hai viên ngọc”.
J.
Bôia lớn lên và được bố dạy toán từ rất sớm. Cũng rất sớm, J. Bôia đã
bắt đầu làm quen với những khái niệm trừu tượng của toán học. F. Bôia
viết thư khoe với Gauxơ: “Mới 5 tuổi, con tôi đã thuộc một cách dễ dàng
các dạng hình học và biết phân biệt các chòm sao của thế giới thiên hà”.
Dần
dà, J. Bôia nhận ra mối bận tâm sâu sắc của người bố về định đề 5 và sự
khao khát chứng minh định đề ấy của người bố đã truyền sang người con.
Khi J. Bôia bước sang tuổi 16 và đã học xong trung học, thì F. Bôia viết
thư cho Gauxơ, người bạn thâm niên, lúc này đã là chủ nhiệm khoa toán -
thiên văn của trường Đại học tổng hợp Gottinghen, để gửi gắm, nhờ đào
tạo và bồi dưỡng cho con mình. Trong thư, ông thổ lộ nỗi lo con mình khi
lần đầu tiên ra sống ở thành phố lớn mà không có người đỡ đầu. Tuy
nhiên ông cũng nói rõ rằng mọi phí tổn cho J. Bôia trong thời gian ở nhà
Gauxơ, ông nhận sẽ trả lại hoàn toàn. “Thời gian và sức lực của Janôs
sẽ không bị hoài phí, tài năng và nhiệt tình say sưa của nó đối với toán
học sẽ là sự đảm bảo cho điều đó”, đó là nguyên văn câu F. Bôia viết
cho Gauxơ.
Thời
gian lần lượt trôi đi hết tháng này sang tháng khác mà không thấy bức
thư hồi âm của Gauxơ. Sau một năm khắc khoải thì cha con nhà Bôia hiểu
rằng chờ đợi nữa cũng chỉ là vô vọng.
Biết
rằng Gauxơ đã từ chối giúp đỡ, F. Bôia quyết định cho con mình một
hướng khác. Năm 1817, J. Bôia thi đậu vào Học viện kỹ thuật hoàng gia ở
Viên - thủ đô nước Áo. Để có thể cho con mình được học ở đó, phải cần có
một số tiền gấp trăm lần tài sản của gia đình mình, nhưng vì tình yêu
và hy vọng đối với người con, F. Bôia đã quyết định như vậy. Ông đã phải
gõ cửa khắp các nhà giàu trong vùng để cậy nhờ sự giúp đỡ. Trong giới
quý phái lúc bấy giờ thịnh hành một cái mốt là nhận trả tiền học cho
những thanh niên học giỏi nhưng vì nghèo mà không thể tiếp tục con đường
học vấn của mình. Sau khi tốt nghiệp những thanh niên này phải ở lại
phục vụ cho nhà nước hoặc làm việc trong những gia đình đã đỡ đầu cho
họ. Chính J. Bôia sau khi tốt nghiệp, đã buộc phải phục vụ nhiều năm
trong quân đội là vì thế. Sau này J. Bôia có lần thổ lộ: “Sở dĩ bố tôi
cho tôi đi học được là nhờ có tiền của một số nhà đại quý tộc. Số tiền
này thật ra đối với họ chẳng đáng là bao, hàng ngàn lần ít hơn so với số
tiền mà họ có thể phóng tay tiêu phí cho những canh bạc hoặc cho những
sự xa hoa đài các của họ”.
Thế
nhưng Học viện kỹ thuật hoàng gia Viên đã cung cấp cho J. Bôia một số
kiến thức về toán rất hạn chế. Khoảng 40 năm sau, vào năm 1856, khi
người bố thân yêu của mình qua đời, J. Bôia có tâm sự: “Với cái năng
khiếu mà tôi thấy được ở mình, giá như bố cứ để tôi ở nhà và đích thân
hướng dẫn thì sẽ tốt hơn bao nhiêu. Dù bất cứ trường hợp nào, nếu như
tôi được may mắn có một đứa con như vậy, tôi nhất thiết không để nó đi
đâu”.
Tại
Viên, J. Bôia đã cống hiến rất nhiều thời gian theo đuổi niềm say đắm
của bố mình truyền sang là chứng minh định đề 5. Thời gian đầu, khi chưa
biết con mình đang chìm đắm trong vấn đề đó nên F. Bôia luôn động viên
và tìm mọi cách khuyến khích lòng ham mê toán học của J. Bôia. Ông viết
thư cho con: “Bố ngày càng tin tưởng rằng con có thể trở thành nhà toán
học vĩ đại nếu biết đạt tới sự hoàn mỹ bằng sức lao động lâu dài và
không mệt mỏi”. Nhưng đến khi biết được con trai mình đã bị thu hút bởi
lý thuyết các đường song song thì ông tỏ ra hoảng sợ, liên tiếp gửi
những bức thư khuyên can đến Viên. Một trong những bức thư đó có đoạn
viết:
“Con
không nên bỏ sức đi vào lý thuyết các đường song song. Bố đã biết cái
con đường đó và đã đi qua đến tận cùng. Bố đã trải qua cái đêm dài vô
tận đó và tất cả hy vọng, tất cả niềm tin của cuộc đời bố đã bị chôn vùi
ở đó. Bố khẩn thiết yêu cầu con hãy gác lại cái lý thuyết về các đường
song song sang một bên. Con nên khiếp sợ như là khiếp sợ sự ngu muội. Nó
sẽ cướp hết sinh lực, sự yên tĩnh và thanh thản của con. Cái bóng tối
dày đặc và sâu thẳm đó có thể làm mất hút hàng ngàn thiên tài như
Niutơn…
Hãy học lấy bài học của bố: vì muốn đạt được lý thuyết các đường song song mà cuối cùng bố trở nên vô danh…”
Nhưng
những lời khuyên can của người bố đã không ngăn cản được ý chí và niềm
đam mê chứng minh định đề 5 của người con. J. Bôia vẫn cuồng nhiệt lao
vào nghiên cứu điều bí ẩn lớn nhất của hình học Ơclít mà bố mình đã từng
phải chịu thảm bại và thất vọng ê chề; mà ngay cả “Ông hoàng toán học”
Gauxơ cũng phải bó tay.
Sau
khi tốt nghiệp, mùa thu năm 1823, thiếu úy J. Bôia lên đường phục vụ
tại một nơi đồn trú gần Chemexva. Tháng 11 năm 1823, J. Bôia viết thư về
cho bố:
“Bố
rất tốt và yêu quý của con! Con thấy cần phải kể nhiều về một khám phá
mới của con… Hiện tại, con có một quyết tâm sắt đá trong việc xuất bản
công trình về các đường song song… Dù chưa đến được mục tiêu nhưng con
đã phát hiện được những điều rất trứ danh, đến nỗi bản thân con cũng vô
cùng ngạc nhiên. Con sẽ ân hận suốt đời nếu như những khám phá này bị
mất đi. Bố yêu quý của con, khi nào thấy công trình của con, bố nhất
định phải công nhận nó… Tất cả những bản thảo mà con đã gửi cho bố từ
trước tới giờ so với những cái này chẳng khác nào một ngôi nhà bằng
các-tông đặt bên cạnh một cái tháp bằng đá…”
Nhiều
sự kiện dẫn đến nhận định rằng ngay từ năm 1820, sự nghiền ngẫm suy tư
của J. Bôia về lý thuyết các đường song song đã có một bước ngoặt lớn
lao. Lấy tiên đề về đường song song làm xuất phát điểm, J. Bôia cũng áp
dụng phương pháp phản chứng, đưa ra giả thiết rằng tiên đề này sai,
nghĩa là phải xảy ra 2 trường hợp giả định, hoặc không có đường thẳng
nào song song với đường thẳng đã cho, hoặc có nhiều hơn một đường thẳng
song song với đường thẳng đã cho (tại một điểm bên ngoài đường thẳng
đó). Định đề 1 của Ơclít ngụ ý rằng qua một điểm bất kỳ có vô vàn đường
thẳng đi qua nó. Do đó mà nếu điểm đó nằm ngoài một đường thẳng cho
trước thì phải tìm được ít nhất một đường thẳng song song với đường
thẳng đã cho. Điều này dẫn đến phải loại bỏ trường hợp giả định thứ
nhất, chỉ còn trường hợp giả định thứ hai là một biến đổi khả dĩ đối với
định đề 5. Hơn nữa, nếu qua một điểm bất kỳ không nằm trên một đường
thẳng cho trước mà có ít nhất hai đường thẳng song song với đường thẳng
đã cho thì cũng sẽ có vô số đường thẳng như thế.
Rốt
cuộc thì J. Bôia cũng đã đến được bến bờ mà Saccheri đã từng đến. Tuy
nhiên sự khác biệt giữa hai người là trong khi Saccheri đành chịu bất
lực vì chưa đủ sức vượt qua cái đại dương định kiến thời đại mình thì J.
Bôia, do sự hối thúc của tình thế thời đại đã có nhiều biến đổi về định
kiến trong ngót nghét 100 năm kể từ thời Saccheri, mà đã mạnh dạn làm
một cuộc bứt phá để đến bờ bến mới. Có thể nói, sau ngót 100 năm với
biết bao nhiêu những bàn luận sâu sắc, với biết bao nhiêu những ý tưởng
táo bạo chợt lóe lên rồi tắt của nhiều nhà toán học về định đề 5, đã làm
hình thành nên vào thời J. Bôia một hiệu ứng bức xúc cao độ và đang
chín muồi, kích thích một bước nhảy vọt về tư duy nhận thức hình học nói
riêng và khoa học nói chung. Nhờ có tài năng toán học nổi trội mà J.
Bôia đã là một trong hai người được định mệnh chọn để thực hiện nhiệm vụ
giải quyết ổn thỏa vấn đế của định đề 5, đồng thời qua đó mà tạo tiền
đề cho một cuộc cách mạng vũ bão trong hình học.
Chứng
minh bằng phản chứng mở ra trước mắt Saccheri một sai lạc dị thường thì
lại mở ra trước mắt J. Bôia một cảnh sắc không gian kỳ diệu mà như
chính J. Bôia đã gọi là “một khoa học tuyệt đối về không gian”, trong đó
hình học Ơclít chỉ còn là một trường hợp đặc biệt. Năm 1823, J. Bôia đã
gửi cho bố mình bức thư, trong đó có câu: “Con đã sáng tạo ra một vũ
trụ mới, kỳ lạ từ con số 0”.
Có
thể rằng sự dâng hiến hết những năm tháng của tuổi thanh xuân cho việc
chứng minh tiên đề về các đường song song để rồi phải chuốc lấy những
thất bại đắng cay đã làm F. Bôia không mấy tin vào những thông báo “đao
to búa lớn” có vẻ cường điệu của con trai mình. Dù không mặn mà lắm tới
những điều mà J. Bôia đã giãi bày có liên quan tới tiên đề song song,
nhưng F. Bôia cũng biểu hiện sự ủng hộ bằng lời hứa sẽ cho công bố công
trình khai phá của con mình khi nó được hoàn tất, dưới dạng một phụ lục
trong cuốn sách có tựa đề “Tentamen” (Kinh nghiệm) mà ông đã soạn thảo
trong suốt 20 năm và chuẩn bị xuất bản trong nay mai (thực tế, cuốn sách
được xuất bản vào năm 1832).
Sự
ủng hộ biểu lộ một cách không nhiệt thành và thiếu hẳn những động viên,
khích lệ đó của F. Bôia là trái ngược với ý kiến chí lý mà ông đã từng
bộc bạch ra để khuyên người con trai của mình:
“…
Nếu thực sự con đã chứng minh thành công được điều gì đó, thì vấn đề
quan trọng là phải kịp thời công bố. Bởi vì, thứ nhất là các ý đồ rất dễ
truyền đạt từ người này sang người khác và có thể có ai đó sẽ công bố
về chúng trước trên báo chí; thứ hai là có một số cái đã là mối bận tâm
phổ biến, có tính thời sự, và việc chứng minh được chúng chỉ còn là vấn
đề thời gian, cho nên nếu kết quả đó xuất hiện thì có thể sẽ xuất hiện
cùng một lúc ở nhiều nơi, hoàn toàn giống như loài hoa tím vẫn thường nở
rộ ở khắp mọi nơi vào đầu mùa xuân”.
János Bolyai (15 December 1802 – 27 January 1860)
Phải nói rằng ý kiến của F. Bôia thật xác đáng ít ra là đối với công cuộc đi tìm lời giải đáp cho sự tồn tại của định đề 5 - được coi là bài toán hóc búa nhất và có tầm quan trọng đặc biệt của hình học qua mọi thời đại. Hơn nữa ý kiến đó còn tạo cho chúng ta, khi kể câu chuyện lịch sử này, có cảm giác như là điềm báo của một linh cảm, vì gần như đồng thời với J. Bôia hoặc có thể sớm hơn một chút, ở một phương trời khác của châu Âu cũng có một con người ưu tú khác của toán học đang công phá bí ẩn của định đề 5 và cũng như J. Bôia, đã bắt đầu thấy được một cảnh sắc không gian dị thường, choáng ngợp những điều kỳ diệu. Đó là Nhicôlai Ivanôvich Lôbasépxki (1793-1856), nhà toán học trẻ người Nga, người mà nhờ những thành quả đạt được trong nghiên cứu của mình, đã được hậu thế vinh danh là “Côpecnic của hình học”.
Phải nói rằng ý kiến của F. Bôia thật xác đáng ít ra là đối với công cuộc đi tìm lời giải đáp cho sự tồn tại của định đề 5 - được coi là bài toán hóc búa nhất và có tầm quan trọng đặc biệt của hình học qua mọi thời đại. Hơn nữa ý kiến đó còn tạo cho chúng ta, khi kể câu chuyện lịch sử này, có cảm giác như là điềm báo của một linh cảm, vì gần như đồng thời với J. Bôia hoặc có thể sớm hơn một chút, ở một phương trời khác của châu Âu cũng có một con người ưu tú khác của toán học đang công phá bí ẩn của định đề 5 và cũng như J. Bôia, đã bắt đầu thấy được một cảnh sắc không gian dị thường, choáng ngợp những điều kỳ diệu. Đó là Nhicôlai Ivanôvich Lôbasépxki (1793-1856), nhà toán học trẻ người Nga, người mà nhờ những thành quả đạt được trong nghiên cứu của mình, đã được hậu thế vinh danh là “Côpecnic của hình học”.
Những
phát kiến thiên tài không bao giờ từ trên trời rơi xuống, hay nói cách
khác là không thể xuất hiện từ Hư Vô, mà phải từ sự kế thừa tri thức của
quá khứ, tại một nấc thang của trình độ nhận thức nào đó và trong một
tình thế đã được hun đúc lên đến độ gọi là bắt đầu chín muồi. Nói chung,
phát kiến khoa học là một tất yếu khách quan có tính thời đại, bao gồm
cả phát kiến thông thường và phát kiến thiên tài. Phát kiến thiên tài là
một phát kiến khoa học nên nó cũng mang tính thời đại nhưng nhờ những
tài năng thiên phú và xuất chúng mà nó xuất hiện rất sớm, thậm chí là
quá sớm, vượt trội hơn hẳn bình độ nhận thức khoa học, hay có thể gọi là
nền tảng nhận thức khoa học của đương thời, nên cũng có tính tiên
phong, đi trước thời đại. Chính vì thế mà những phát kiến thiên tài,
trong khoảng thời gian đầu xuất hiện, thường phải chịu nỗi cô đơn bởi sự
ghẻ lạnh, lãng quên, thậm chí là ruồng bỏ, phỉ báng của người đời, mà
trong nhiều trường hợp còn bị cho là sự biểu hiện của điên khùng, dị
hợm. Tuy nhiên, nhờ được soi rọi bởi những tia sáng chói lọi của những
phát kiến thiên tài đó mà thiên hạ dần dần thức tỉnh, nhận ra được những
chân lý kỳ diệu ẩn chứa trong chúng, để rồi đến lượt chúng được thiên
hạ tôn vinh, ca ngợi hết lời.
Có
thể nói phát kiến thiên tài là sự gặp gỡ “định mệnh” (vừa tất yếu vừa
ngẫu nhiên, hay nói cách khác là vừa cố ý vừa tình cờ) giữa một bên là
một tình thế bức xúc căng thẳng đến độ chín, đòi hỏi phải xử lý, cũng
như đã hé ra gợi ý về cách xử lý của khoa học, và một bên là một con
người, tràn đầy nhiệt huyết, có tài năng thiên phú, siêu phàm.
Về khái niệm “thiên tài”, nhận định sau đây của Lôbasépxki gợi ra nhiều suy ngẫm:
“Có
nhiều định nghĩa về tài năng, nhưng phần lớn những định nghĩa này không
đạt, vì rằng bản thân những người viết ra những định nghĩa ấy không
phải là thiên tài. Buphôn khẳng định rằng thiên tài chính là sự kiên
nhẫn và chỉ có bằng lao động không ngừng, con người mới đạt được những
kết quả mong muốn. Nhưng định nghĩa này không đúng. Về phần mình, tôi
thấy định nghĩa sau đây của Laplaxơ đúng hơn: Thiên tài là sự nhạy cảm”.
Cũng
như J. Bôia, N. Lôbasépxki xuất thân trong một gia đình không lấy gì
làm sung túc, thậm chí là có phần túng thiếu. Cha của N. Lôbasépxki là
một viên chức đạc điền (đo đạc ruộng đất) bình thường, tuy cũng thuộc
dòng dõi quí tộc nhưng nghèo vì bị phá sản. Ông này mất sớm làm cho hoàn
cảnh gia đình lâm vào tình thế khó khăn và ba đứa con còn nhỏ của ông,
trong đó có N. Lôbasépxki có nguy cơ bị đình trệ học tập.
May
thay, có một thầy giáo tốt bụng đã khuyên mẹ của anh em nhà Lôbasépxki
là bà Praxcôvia Alêxanđrốpna Lôbaxepskaia rằng nên gửi các con vào học
nội trú tại trường trung học hoàng gia Cadan mới thành lập được hai năm
trước đó. Không những chỉ khuyên mà người giáo viên này còn viết giúp
một bức thư thỉnh cầu đến hiệu trưởng và Hội đồng giáo viên của trường
xin cho ba đứa trẻ được thi vào trường theo diện do nhà nước đài thọ
toàn bộ chi phí ăn học. Những học sinh được nhà nước đài thọ mọi chi phí
suốt quá trình ăn học, sau khi tốt nghiệp bắt buộc phải làm việc cho
nhà nước. Lôbasépxki cha trước đây cũng đã từng là học sinh được đào tạo
theo diện này. Nếu thi vào trường mà không đạt tiêu chuẩn thì gia đình
phải tự trang trải mọi chi phí ăn học của con em mình cho nhà trường.
Nếu phải tự túc thì bà Praxcôvia chỉ riêng tiền học phí và may sắm đồng
phục cho các con đã phải cần đến một khoản tiền khoảng 500 rúp (tiền
Nga) mỗi năm. Đó là một số tiền quá lớn đối với một gia đình luôn túng
thiếu. Người thầy giáo tốt bụng kia, tin tưởng vào năng lực học tập của
ba đứa trẻ, nhất là vào N. Lôbasépxki nên đã động viên, khích lệ bà
Praxcôvia.
Năm
1802, bà Praxcôvia chuyển gia đình từ Nốpgôrốt đến Cadan và sau một
thời gian ngắn chờ đợi thì nhận được quyết định của trường trung học
Cadan:
“Theo
quyết định của hội đồng giáo viên Trường trung học hoàng gia Cadan,
ngày 5-10-1802, sau khi đã xem xét yêu cầu của bà Praxcôvia
Alêxandrốpna, vợ ông Lôbasépxki về việc nhận ba đứa con là Alexandrơ 11
tuổi, Nhicôlai 9 tuổi và Alếchxây 7 tuổi, con của ông I. M. Lôbasépxki,
nhà trường quyết định dạy và bảo dưỡng theo chế độ nhà nước đài thọ hoàn
toàn việc ăn học…”
May
mắn là N. Lôbasépxki sớm được một thầy giáo dạy toán giỏi và còn trẻ
tên là G. I. Catasepxki phát hiện ra tài năng toán nổi bật và nhiệt tình
kèm cặp.
Ngày
14-2-1805, Trường đại học tổng hợp Cadan được thành lập, ghép chung với
Trường trung học hoàng gia Cadan. Ngày 9-1-1807, N. Lôbasépxki được
chính thức công nhận là sinh viên năm thứ nhất của trường đại học này.
Có
một sự kiện bi kịch suýt chút nữa làm thui chột một tài năng toán học
và là niềm tự hào của nước Nga trong tương lai. Ngày 19-7-1807,
Alexandrơ, anh trai của N. Lôbasépxki đi tắm sông và bị chết đuối. Sự
tiếc thương người anh của mình đã làm cho N. Lôbasépxki suy sụp tinh
thần. Với ý nghĩ ám ảnh rằng nếu y học giỏi giang hơn thì người anh trai
đã có thể được cứu sống làm cho N. Lôbasépxki quyết định bỏ toán để
theo học y khoa, với quyết tâm khám phá bí mật của sự sống và cái chết,
của bệnh tật và tai họa… “Cái chết giống như một vực thẳm nuốt chửng mọi
thứ chẳng biết lúc nào đầy. Đó là mối tai họa ập đến bất ngờ chẳng gì
so sánh nổi. Thế nhưng tại sao cái chết cứ nhất thiết phải là đại họa?”,
N. Lôbasépxki đã viết trong nhật ký những dòng như vậy.
Giữa
lúc N. Lôbasépxki bắt đầu lao vào tìm hiểu y học và chuẩn bị tích cực
để xin chuyển qua khoa y thì Trường đại học Cadan được đón nhà toán học
Đức tên là Martin Crixchan Bartenx do Viện Hàn lâm khoa học Petecbua mời
sang giảng dạy tại Cadan. Ông này đã từng là thầy dạy của “Ông hoàng
toán học” Gauxơ tại Trường Đại học Cottinghen. Vì không biết tiếng Nga
nên N. Lôbasépxki, người sinh viên giỏi toán nhất trường, được phân công
làm phiên dịch kiêm trợ lý cho vị giáo sư này. Nhờ vậy mà tình yêu toán
học lại trỗi dậy mãnh liệt trong tâm hồn nhà toán học kiệt xuất của
tương lai.
Tháng
5-1811, N. Lôbasépxki tốt nghiệp và sau đó được giữ lại trường làm phụ
giảng, bắt đầu bước vào giai đoạn hoạt động khoa học và giảng dạy.
Nhicôlai
Ivanôvich Lôbasépxki (1793-1856)
N.
Lôbasépxki sáng tạo ra cơ sở hình học của mình trong khoảng từ năm 1823
đến năm 1826, nhưng sự suy tư nghiền ngẫm đối với định đề 5 thì có lẽ
được bắt đầu sớm hơn nhiều. Ông đã từng nghiên cứu các công trình nhằm
chứng minh định đề 5 của các nhà toán học đi trước của thế giới và bản
thân cũng đã từng xây dựng một chứng minh dài dằng dặc tưởng chừng như
đã đạt tới thành công. Tuy nhiên, ngay sau đó, ông phát hiện chứng minh
đó là lẩn quẩn và phạm sai lầm, để rồi dần dần hiểu rằng đi theo con
đường của các bậc toán học tiền bối nhằm mưu toan chứng minh định đề 5
là khó lòng mà đạt được thành quả.
Tại
Trường đại học Cadan, tất cả các giáo sư đều phải soạn riêng giáo trình
giảng dạy cho sinh viên. N. Lôbasépxki, khi đã là giáo sư cũng phải làm
như vậy. Ông đã dồn hết công sức vào việc xây dựng một hệ thống hình
học theo quan niệm của mình để dùng giảng dạy. Đây là một giáo trình
hình học không được xây dựng theo phương pháp tiên đề vì N. Lôbasépxki
cho rằng hệ tiên đề của Ơclít là chỗ yếu nhất và dễ bị
tổn thương nhất. Theo ông thì hoàn toàn không cần phải dùng đến các
tiên đề làm cơ sở cho môn hình học, không cần phải tạo ra ảo tưởng rằng
hình học chỉ có thể xây dựng được nhờ phương pháp tiên đề. Ông đã xây
dựng hệ thống hình học của mình theo quan điểm coi sự chuyển động, sự
đặt chồng lên nhau làm phương tiện chủ yếu tạo thành các nguyên lý của
hình học. Ông là người đầu tiên trong lịch sử đề xuất tư tưởng về sự phụ
thuộc của hình học vào hình thức chuyển động của các vật thể vật chất.
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------------
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét