Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TT&HĐ IV - 36/h
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
Top 6 đứa trẻ phi thường nhất thế giới
Hoán vị - Chỉnh hợp - Tổ hợp -
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi, lỡ đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc , chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..." NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
“Người
biết suy nghĩ tự thích ứng với thế giới; người không biết suy nghĩ cứ
khăng khăng làm cho thế giới thích ứng với mình. Vì vậy, mọi tiến bộ đều
tùy thuộc vào người không biết suy nghĩ”.
"Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy lôgic” Albert Einstein
"Nếu
tôi cảm thấy không hạnh phúc, tôi làm toán để cảm thấy hạnh phúc. Nếu
tôi cảm thấy hạnh phúc, tôi làm toán để luôn được hạnh phúc" Turán Pál "Trong
quá trình mưu sinh của con người, toán học tất nhiên xuất hiện. Khi đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong thực tiễn ứng dụng, khi đã
"đủ lông đủ cánh" và do "nhiễm" tính tò mò cố hữu của tư duy trừu tượng,
nó tiếp tục bay bổng lung tung, dần rời xa thực tại, lạc vào cõi hoang
đường, ngổn ngang nghịch lý. Rồi đây, vật lý học sẽ phải đính chính rất
nhiều, nếu còn muốn sử dụng nó làm ngôn ngữ giải thích Vũ Trụ" Ba Đá
(Tiếp theo)
Vào
cuối những năm 60 của thế kỷ XX, cả một đội quân các nhà toán học tiến
hành kiểm tra một cách có hệ thống giả thuyết Taniyama - Shimura. Rất
nhiều bằng chứng nữa xuất hiện và đều củng cố thêm cho giả thuyết này.
Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là giả thuyết đã được chứng minh. Chừng
nào chưa có ai chứng minh được một cách chặt chẽ về mặt logic thì sự
khẳng định về mối quan hệ khăng khít và nhất quán giữa các dạng modular
và các phương trình eliptic vẫn chỉ đơn thuần là một giả thuyết.
Vào
những năm 1970, mặc dù vẫn chưa được chứng minh nhưng giả thuyết
Taniyama - Shimura đã được nhắc tới trong hàng trăm bài báo khoa học bàn
về những điều gì sẽ xảy ra nếu như nó được chứng minh. Những bài báo
này thường bắt đầu với dòng chữ: “Giả sử rằng giả thuyết Taniyama -
Shimura là đúng…”, và sau đó tiếp tục là sự trình bày lời giải của một
bài toán vẫn chưa giải được nào đó. Kết quả thu được, dựa trên cơ sở một
giả thuyết, cũng chỉ mang tính giả thuyết. Đến lượt những kết quả mới
thu được đó lại là cơ sở cho những kết quả mới khác nữa. Vô hình dung,
giả thuyết Taniyama - Shimura trở thành nền tảng của một tòa lâu đài mới
của toán học và tòa lâu đài này có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào một
khi giả thuyết nền tảng bị chứng thực là sai.
Andrew
Wiles khi đó còn đang là nghiên cứu sinh của trường đại học Cambridge
và sau này ông vẫn còn nhớ rõ nỗi lo lắng đè nặng lên cộng đồng các nhà
toán học: “Chúng tôi ngày càng xây dựng nhiều giả thuyết cứ trải dần mãi
vào tương lai, nhưng tất cả chúng sẽ trở nên lố bịch nếu như giả thuyết
Taniyama-Shimura không đúng. Vì vậy, chúng tôi cần phải chứng minh được
giả thuyết đó để chứng tỏ rằng toàn bộ thiết kế mà chúng tôi hoạch định
một cách đầy hy vọng cho tương lai là hoàn toàn đúng đắn”.
Mùa
thu năm 1984, một nhóm chọn lọc các nhà lý thuyết số tổ chức một hội
nghị tại một thị trấn ở giữa “Khu đồng đen” của nước Đức để bàn luận về
những đột phá mới trong việc nghiên cứu các phương trình eliptic và
chứng minh giả thuyết Taniyama-Shimura. Một trong số những báo cáo tham
luận là của Gerhard Frey. Mặc dù Frey không đưa ra được một ý tưởng mới
nào giúp chứng minh giả thuyết, nhưng đã nêu một khẳng định rất đáng chú
ý. Khẳng định này nói rằng nếu ai chứng minh được giả thuyết
Taniyama-Shimura thì người đó cũng ngay lập tức chứng minh được Định lý
lớn Fecma.
Theo sự trình bày của Frey thì ông đã giả định rằng phương trình:
xn + yn +zn, trong đó n > 2
Có ít nhất một nghiệm là A, B, C và viết được đẳng thức:
AN + BN = CN
Sau
đó Frey tiến hành một quá trình biến đổi phương trình một cách hết sức
chặt chẽ về mặt toán học và đạt được một hình thức biểu hiện mới của
phương trình gốc:
y2 = x3 + (AN – BN)x2 – ANBN
Điều này có nghĩa: nếu phương trình Fecma có nghiệm (Định lý lớn Fecma là sai) thì phương trình trên phải tồn tại.
Nếu đặt:
a = AN – BN
b = 0
c = -AN.BN
Thì phương trình trên cũng là một phương trình eliptic.
Bằng
cách biến phương trình Fecma thành một phương trình eliptic, Frey đã
kết nối được Định lý lớn Fecma với giả thuyết Taniyama-Shimura.
Tiếp
theo Frey chỉ ra rằng phương trình eliptic mà ông xây dựng nên từ
nghiệm giả định của phương trình Fecma là rất kỳ quặc, đến nỗi nó không
thể chấp nhận giả thuyết Taniyama-Shimura và nếu giả thuyết này được
chứng minh thì phương trình không thể tồn tại (nghĩa là Định lý lớn
Fecma cũng được chứng minh).
Có
một sai lầm sơ đẳng trong logic của Frey. Sai lầm đó nhỏ thôi nhưng vẫn
làm cho công trình xuất sắc của Frey chưa hoàn chỉnh, chưa đủ kỳ quặc
để không thể là một dạng modular.
Sau
hội nghị, các nhà toán học đã hối hả tìm cách sửa sai sót đó của Frey.
Nhưng một tuần, một tháng rồi thời gian cứ thế trôi qua mà chẳng có động
tĩnh gì. Sai lầm dường như sơ đẳng của Frey đã thực sự làm bối rối các
nhà toán học. Fecma vẫn còn chọc tức, hành hạ đám hậu thế.
Một
trong những người lao tâm khổ trí để chứng minh phương trình của Frey
quá ư kỳ quặc, tới mức không thể là modular, là nhà toán học Ken Ribet,
giáo sư trường Đại học California ở Berkeley. Sau 18 tháng nỗ lực, ông
vẫn chưa đi đến đâu cả. Vào mùa hè năm 1986, một đồng nghiệp của Ribet
là giáo sư Barry Mazur tới Berkeley để tham dự một hội nghị toán học
quốc tế. Hai người bạn gặp nhau bên ly cà phê. Chuyện phiếm qua lại rồi
họ cũng quay sang bàn luận về những vấn đề toán học nóng hổi nhất. Ribet
nhớ lại: “Tôi ngồi xuống cạnh Barry và kể cho ông nghe về cái mà tôi
đang làm. Tôi nói rằng tôi đã chứng minh được một trường hợp rất đặc
biệt nhưng chưa biết tổng quát hóa nó như thế nào để nhận được chứng
minh hoàn chỉnh”.
Giáo
sư Mazur ngồi nhấm nháp cà phê và lắng nghe Ribet trình bày ý tưởng của
mình. Đột nhiên Mazur nhìn chằm chằm Ribet một cách ngạc nhiên: “Lẽ nào
anh không thấy sao? Thì chính anh đã làm được rồi đó! Tất cả công việc
mà anh còn phải làm bây giờ chỉ là thêm một không điểm gamma của cấu
trúc M trong chứng minh của anh là xong. Nó sẽ cho anh mọi thứ anh cần”.
Ribet
hết nhìn Mazur rồi nhìn lại ly cà phê của ông với vẻ kinh ngạc. Đó là
thời điểm quan trọng nhất trong sự nghiệp của Ribet. Sau này ông nói:
“Tôi đã hết sức kinh ngạc bởi vì tôi chưa bao giờ nảy ra trong đầu ý
định thêm vào một không điểm gamma nữa của cấu trúc M, một điểm xem ra
quá ư đơn giản.”, và: “Đó là một mắt xích rất quan trọng mà tôi còn
thiếu, mặc dù nó sờ sờ ở ngay trước mắt tôi. Tôi lâng lâng như đi trên
mây trở về căn hộ của mình, lòng vẫn băn khoăn tự hỏi: lạy Chúa, liệu
điều này có thực đúng như thế không? Tôi hoàn toàn như mê, ngồi vào bàn
và bắt đầu tính toán. Sau một hai giờ gì đấy tôi đã viết tất cả ra giấy
và xác nhận được rằng tôi đã biết tất cả những bước then chốt và tất cả
đều ăn khớp với nhau. Tôi đã kiểm tra lại toàn bộ chứng minh và thấy
rằng mọi chuyện đều ổn cả…”.
Cũng
cần lưu ý rằng việc thêm vào một không điểm gamma của cấu trúc M, nghe
tưởng đơn giản thế nhưng chỉ đơn giản đối với Ribet thôi, chứ đây là cả
một bước lôgic rất phức tạp mà chỉ một số ít nhà toán học trên thế giới
mới có thể hình dung được bên ly cà phê.
Như
vậy, Định lý lớn Fecma giờ đã gắn liền không thể tách rời khỏi giả
thuyết Taniyama-Shimura. Trong hơn ba thế kỷ Định lý lớn Fecma chỉ là
một bài toán biệt lập, một câu đố lạ lùng và “cô đơn” trong toán học.
Nhưng giờ đây, nhờ Gerhard Frey truyền cảm hứng mà Ken Ribet đã đưa nó
về vị trí trung tâm. Bài toán hóc búa nhất ra đời từ thế kỷ XVII giờ đây
đã gắn kết với một bài toán có tầm quan trọng bậc nhất của thế kỷ XX.
Nhưng
làm sao chứng minh được giả thuyết Taniyama-Shimura khi sau 30 năm làm
việc cật lực của các nhà toán học, nó vẫn chưa được chứng minh và tình
hình có vẻ vẫn dậm chân tại chỗ, hơn nữa lịch sử đã để lại bài học rằng
bất kỳ cái gì có thể dẫn tới lời giải của bài toán Fecma đều là không
thể làm được?
***
Sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ, Andrew Wiles trở thành giáo sư của trường Đại học Princeton ở Mỹ.
Khi
tình cờ nghe được tin Ribet đã chứng minh được mối liên hệ giữa giả
thuyết Taniyama-Shimura và Định lý lớn Fecma, Wiles đã như bị điện giật:
“Tôi biết rằng từ thời điểm này dòng đời của tôi sẽ thay đổi, bởi vì để
chứng minh được Định lý cuối cùng của Fecma thì tất cả những gì cần làm
là phải chứng minh được giả thuyết Taniyama-Shimura. Những điều này có
nghĩa là ước mơ thời thơ ấu của tôi giờ đây đã là một điều hết sức
nghiêm túc mà tôi phải thực sự làm”.
Wiles
đã ý thức được rằng ông có rất ít cơ may để thành công. Ông nói: “Tất
nhiên, giả thuyết Taniyama-Shimura đã để mở nhiều năm. Chưa ai có một ý
niệm gì về cách tiếp cận nó, nhưng ít nhất nó cũng thuộc dòng chính của
toán học. Bởi vậy, tôi cứ thử chứng minh những kết quả mà ngay cả khi
không nhận được chứng minh tổng thể, thì những kết quả ấy cũng quí giá
về mặt toán học. Tôi không hề cảm thấy mình tiêu phí thời gian. Và như
vậy là bản tình ca của Fecma vốn đã ám ảnh tôi suốt cả cuộc đời, nay lại
được kết hợp với một bài toán có thể chấp nhận được về mặt nghề
nghiệp”.
Từ
thời điểm bắt tay vào chứng minh, Wiles đã quyết định là sẽ làm việc
đơn độc và bí mật hoàn toàn. Wiles giải thích rằng một phần nguyên nhân
dẫn đến quyết định đó là do ông không muốn bị phân tán tư tưởng, “tôi
nhận thấy rằng bất cứ điều gì có liên quan đến Định lý cuối cùng của
Fecma đều gây ra rất nhiều sự chú ý”. Nhưng một động cơ khác khiến ông
quyết định như vậy có lẽ là niềm khao khát vinh quang.
Trong
những năm tiếp sau, Wiles sẽ phải làm một loạt những phát minh xuất
sắc, nhưng không có cái nào được đưa ra thảo luận hoặc công bố trước khi
chứng minh được hoàn tất. Ngay cả những đồng nghiệp gần gũi của Wiles
cũng không hề hay biết về các nghiên cứu của ông. Người duy nhất được
biết về bí mật của Wiles là bà Nada, vợ ông.
Sau
một năm nghiền ngẫm, Wiles quyết định chọn chiến lược là dùng phép qui
nạp làm cơ sở cho những chứng minh của mình. Chứng minh bằng qui nạp
toán học về cơ bản là chứng minh đối với một trường hợp được cho là đơn
giản đã chọn; rồi sau đó lập luận rằng nếu trường hợp đầu là đúng thì
trường hợp thứ hai cũng đúng và suy ra trường hợp bất kỳ cũng đúng.
Thách
thức đối với Wiles là phải xây dựng được lập luận qui nạp chứng tỏ được
rằng, mỗi phương trình eliptic trong số vô hạn các phương trình đó phải
tương ứng với một dạng modular (cũng có số lượng vô hạn). Rồi bằng cách
nào đó, ông phải phân ra các trường hợp và tiến hành chứng minh trường
hợp đầu tiên. Khi trường hợp đầu tiên bị đánh đổ thì các trường hợp tiếp
theo cũng sẽ đổ một cách dây chuyền giống như những quân cờ đôminô. Quá
trình tư duy toán học rốt cuộc đã đưa Wiles đến sự phát hiện bước đột
kích đầu tiên trong phép chứng minh bằng qui nạp của mình đang ẩn giấu
trong công trình của một thiên tài toán học có cuộc đời rất ngắn ngủi
nhưng đầy bi kịch của nước Pháp ở thể kỷ XIX.
Galoa (Evariste Galois) sinh tại Bourg-la-Reine, một làng nhỏ ở phía nam
Pari, vào ngày 25-10-1811. Năm 12 tuổi, Galoa vào học tại trường trung
học Louis-le-Grand, một trường rất có uy tín nhưng kỷ luật cũng rất khắc
nghiệt. Ban đầu chưa được học toán, thành tích học tập của ông cũng
cao, nhưng không thật xuất sắc. Chỉ đến năm 16 tuổi, Galoa mới ghi danh
theo học lớp toán đầu tiên. Dưới con mắt của các thầy giáo thì chính lớp
toán này đã biến Galoa từ một học sinh rất có ý thức thành một học sinh
vô kỷ luật. Galoa bỏ bê tất cả những môn khác, chỉ tập trung vào toán
học, môn học đã làm bộc phát nên niềm đam mê mãnh liệt trong ông. Nhận
xét của nhà trường còn ghi lại: “Học sinh này chỉ học những lĩnh vực cao
cấp nhất của toán học. Sự điên rồ toán học đã chiếm lĩnh hoàn toàn cậu
bé này. Theo tôi, tốt nhất là bố mẹ cậu bé nên cho phép nó không phải
học gì khác ngoài môn toán. Nếu không chỉ làm phí thời gian của nó ở đây
và nó sẽ chẳng làm được điều gì khác ngoài việc tra tấn các thầy giáo
và làm khổ mình vì những hình phạt”.
Sự
khao khát toán học của Galoa chẳng bao lâu đã vượt ra ngoài khả năng
đáp ứng của các thầy giáo nên ông phải học trực tiếp từ những cuốn sách
mới nhất do các bậc thầy của thời đại đó viết ra. Mới 17 tuổi, ông đã có
công trình công bố trên tạp chí Annales de Gergone. Con đường phía
trước tưởng như rộng mở đối với cậu bé thần đồng này, nhưng oái oăm
thay, chính sự xuất sắc kỳ lạ của Galoa lại là trở ngại lớn nhất cho sự
tiến bộ của ông. Mặc dù các kiến thức về toán của Galoa thừa sức để vượt
qua các kỳ thi ở trường Louis-le-Grand, nhưng các lời giải của ông
thường là mới mẻ và tinh xảo tới mức các vị giám khảo không đánh giá hết
được giá trị của chúng. Tình hình còn tồi tệ hơn nữa vì Galoa thường
thực hiện quá nhiều những tính toán trong đầu, nên ông không bận tâm tới
việc phải trình bày rõ ràng những lập luận của mình trên giấy, làm cho
các vị giám khảo lúng túng và thậm chí là thất vọng. Ngoài ra, tính khí
nóng nảy và hấp tấp của thiên tài trẻ tuổi này đã làm cho ông không được
lòng các thầy giáo cũng như bất kỳ ai đã từng có quan hệ với ông.
Khi
Galoa nộp đơn thi vào trường Đại học Bách khoa Pari, một trường có uy
tín nhất nước Pháp thời bấy giờ, những câu trả lời ngắn ngủn, thiếu giải
thích rõ ràng trong kỳ thi vấn đáp của Galoa đã khiến ông không được
nhận vào trường. Galoa khao khát vào được trường Đại học Bách khoa không
phải chỉ bởi vì danh tiếng của nó mà còn bởi vì niềm say mê toán học
của ông nữa. Một năm sau, Galoa lại nộp đơn thi lại, nhưng lần này, cũng
vẫn những suy luận được trả lời kiểu nhảy cóc của ông đã làm cho vị
giám khảo tên là Dinét phải bối rối. Khi cảm thấy mình chắc chắn bị rớt
lần thứ hai, do bản tính nóng nảy cộng thêm nỗi uất ức và tuyệt vọng,
Galoa đã mất hết bình tĩnh, cầm chiếc giẻ lau bảng ném thẳng vào mặt
Dinét. Từ đó, Galoa vĩnh viễn không bao giờ trở lại những căn phòng đầy
tôn kính của trường Đại học Bách khoa Pari nữa. Ông hướng tới trường Sư
phạm, một trường có uy tín chỉ kém trường Đại học Bách khoa đôi chút, và
trở thành sinh viên ở đó.
Vào
thời Galoa, người ta đã tìm được công thức tính nghiệm của các phương
trình đa thức bậc 1, 2, 3, 4, và các nhà toán học đang đua nhau đi tìm
công thức để tính nghiệm cho phương trình đa thức bậc 5 mà dạng tổng
quát của nó là:
ax5 + bx4 + cx3 + dx2 + ex + f = 0
(Thực ra dạng nguyên thủy của nó là:
(x – x1)(x – x2)(x – x3)(x – x4)(x – x5) = 0
với x1, x2, x3, x4, x5 là những biến số độc lập, và “ông tổ” của nó là phương trình đa thức tổng quát bậc n!).
Đây
là một thách thức rất lớn của các nhà toán học thời đó và nó đã ám ảnh
Galoa để vào tuổi 17, ông đã gửi hai bài báo nghiên cứu cho Viện Hàn lâm
khoa học Pháp. Cauchy, người được chỉ định làm phản biện hai bài báo đã
đánh giá rất cao về công trình của Galoa và xem nó đáng được tham gia
cuộc thi giành Giải thưởng lớn về toán học của Viện Hàn lâm. Để qua được
vòng loại, hai bài báo của Galoa phải được viết và trình bày dưới dạng
một tiểu luận, vì vậy Cauchy đã gửi trả lại cho Galoa và chờ ông nộp
lại.
Augustin Louis Cauchy
Augustin Louis Cauchy
Sinh
21 tháng 8, 1789
Paris, Pháp
Mất
23 tháng 5, 1857 (67 tuổi)
Sceaux, Pháp
Nơi cư trú
Pháp
Nổi tiếng vì
Tích phân Cauchy
Đến
đây thì một sự kiện xảy ra vừa là bi kịch, vừa là một trong những
nguyên nhân chủ yếu gây nên những bi kịch sau này của Galoa. Vào tháng
7-1829, một linh mục mới thuộc dòng Jesuit đã tới làng Bourg-le-Reine,
nơi mà cha của Galoa đang làm thị trưởng. Bực tức trước sự cảm tình của
những người có tư tưởng cộng hòa đối với ngài thị trưởng, viên linh mục
này ngấm ngầm mở chiến dịch tung tin đồn bôi nhọ uy tín ngài thị trưởng
nhằm làm mất chức ông. Đặc biệt, linh mục hèn hạ này đã viết một loạt
những bài thơ thô tục, chế nhạo các thành viên của cộng đồng và tất cả
đều ký tên ngài thị trưởng. Cha của Galoa đã không thể chịu nổi sự xấu
hổ và đã tự sát. Galoa về chịu tang cha, đã tận mắt chứng kiến cảnh chia
rẽ trong làng do gã linh mục gây ra và có thể cũng đã biết chính xác
nguyên nhân cha của ông tự sát. Việc chứng kiến cảnh hệ thống nhà thờ đã
hạ nhục và hủy hoại cha mình đã củng cố thêm tinh thần ủng hộ nhiệt
thành của Galoa với sự nghiệp của những người cộng hòa mà ông vốn đã có
cảm tình.
Trở
lại Pari, Galoa đã viết gộp hai bài báo thành một tiểu luận và gửi đi
trước thời hạn khá lâu. Joseph Fourier, thư ký của Viện Hàn lâm, đã nhận
được bài tiểu luận này và cũng đã chuyển nó cho ban giám khảo. Ý tưởng
xuất sắc của bài tiểu luận được nhiều nhà toán học và cả Cauchy cho rằng
nó đáng nhận được giải thưởng. Nhưng điều oái oăm lạ lùng nhất đã xảy
ra. Fourier qua đời một ít tuần trước khi xét giải, và mặc dù chồng các
tiểu luận dự thi đã được chuyển cho Hội đồng, nhưng trong đó lại không
có tiểu luận của Galoa. Bài tiểu luận này đã không bao giờ được tìm thấy
nữa. Một nhà báo Pháp đã ghi lại: “Bài tiểu luận này lẽ ra đã tham gia
cuộc thi giành Giải thưởng lớn về toán học. Nó xứng đáng được giải vì đã
giải quyết được một số khó khăn mà nhà toán học Lagrange đã không làm
được. Ông Cauchy đã có những đánh giá rất cao về tác giả của tiểu luận
này. Nhưng điều gì đã xảy ra? Bản tiểu luận bị mất và giải thưởng cũng
đã được trao mà không có sự tham gia của nhà toán học trẻ tuổi”.
Galoa
cảm giác rằng bài tiểu luận của ông bị thủ tiêu vì sự thiên kiến về
chính trị. Cảm giác này càng được củng cố khi năm sau, Viện Hàn lâm lại
từ chối một bản thảo tiếp theo của ông với khẳng định rằng “những lập
luận của ông không đủ rõ ràng cũng như chưa được phát triển đầy đủ để
cho phép chúng tôi có thể đánh giá được sự chặt chẽ của nó”.
Joseph Fourier
Jean Baptiste Joseph Fourier
Sinh
21 tháng 3, 1768
Auxerre, Yonne, Pháp
Mất
16 tháng 5, 1830 (62 tuổi)
Paris, Pháp
Nơi cư trú
France
Nổi tiếng vì
Biến đổi Fourier
Joseph Lagrange
Joseph Louis Lagrange
Sinh
25 tháng 1 năm 1736
Torino, Ý
Mất
10 tháng 4 năm 1813
Paris, Pháp
Nơi cư trú
Ý
Pháp
Phổ
Nổi tiếng vì
Cơ học giải tích
Cơ học thiên thể
Giải tích toán học
Lý thuyết số
Sự
kiện đó đã làm cho Galoa phẫn uất, cộng với tính khí nóng nảy và có
phần bộp chộp của tuổi trẻ, ông đã bỏ bê, sao lãng việc nghiên cứu toán
học, quay sang giành thời gian và sức lực làm những việc kích động mà
ông cho là ủng hộ và phục vụ phái cộng hòa. Sự quá khích đó đã làm cho
Galoa bị đuổi khỏi trường Sư phạm, phải ra tòa nhưng được xử trắng án,
để rồi lại bị bắt giam một tháng vì bị buộc tội đe dọa tính mạng nhà
vua, và rồi lại bị kết tội 6 tháng tù giam vì những hành vi chống đối.
Nhà
nữ toán học Sophia Germain lúc đó đã nói với một người bạn: “Quả thật
là có sự bất hạnh liên quan tới tất cả những gì có dính líu đến toán
học. Cái chết của Fourier đã là đòn kết thúc giáng xuống chàng sinh viên
Galoa này, người mà mặc dù tính tình rất bướng bỉnh, nhưng đã tỏ ra là
có tài năng thực sự. Cậu ấy đã bị đuổi khỏi trường Sư phạm và hiện trong
túi không có một xu. Mẹ cậu ấy rất nghèo, vì vậy cậu ấy hiện vẫn đang
tiếp tục thói quen hay xúc phạm của mình. Người ta nói rằng cậu ấy sắp
điên đến nơi. Tôi sợ rằng điều đó sẽ là sự thật”.
Tháng
3-1832, một nạn dịch tả bùng phát ở Pari và các tù nhân ở
Sainte-Pélagic đều được thả, trong đó có Galoa. Điều gì đã xảy ra đối
với Galoa trong những tuần tiếp theo thì cho đến nay vẫn còn chưa rõ
ràng. Không ai biết chắc chắn mối quan hệ giữa Galoa và Stéphanie, cô
con gái của một bác sĩ đáng kính ở Pari, là một thiên tình sử thực sự
hay chỉ là một cái bẫy tình đối với Galoa. Theo dư luận công khai thì
Stéphanie trước đó đã có hứa hôn với Herbinville, một xạ thủ cừ khôi vào
loại nhất nhì nước Pháp. Phát hiện vợ chưa cưới không chung tình, người
đàn ông này đã thách Galoa đấu súng.
Trong
buổi tối trước ngày ra đấu trường, ông đã viết thư cho bạn bè giải
thích hoàn cảnh của mình: “Tôi đề nghị những người yêu nước, các bạn bè
của tôi, đừng nên trách móc tôi vì đã chết không phải cho Tổ quốc. Tôi
chết vì là nạn nhân của một mụ đàn bà bỉ ổi và hai cú lừa của nó. Tôi đã
kết liễu cuộc đời mình trong một trò vu cáo khốn nạn. Trời ơi! Tại sao
tôi phải chết vì một thứ vớ vẩn và ghê tởm thế này? Cầu trời chứng giám
cho là tôi phải chấp nhận khiêu khích chẳng qua chỉ là do sự thúc ép,
một sự khiêu khích mà tôi đã cố gắng lảng tránh bằng mọi cách”.
Cũng
trong đêm định mệnh đó, Galoa đã hối hả làm việc suốt đêm, viết lại các
định lý mà ông tin là đã giải thích đầy đủ câu đố về các phương trình
bậc 5, những ý tưởng mà ông đã gửi cho Cauchy. Vào lúc tàn đêm thì những
ghi chép toán học của Galoa hoàn tất, ông vội viết tiếp một bức thư cho
bạn mình để gửi gắm:
“Bạn thân mến.
Tôi
đã có một số phát minh mới trong giải tích. Phát minh đầu tiên có liên
quan tới lý thuyết các phương trình bậc 5 và những phát minh khác có
liên quan tới các hàm tích phân.
Trong
lý thuyết các phương trình, tôi đã nghiên cứu những điều kiện khả giải
bằng căn thức. Điều đó đã cho phép tôi đào sâu lý thuyết này và mô tả
tất cả những phép biến đổi khả dĩ trên một phương trình ngay cả khi nó
không giải được bằng căn thức. Tất cả đều có thể tìm thấy ở đây trong ba
tiểu luận…
Trong
đời tôi, tôi thường mạnh dạn đưa ra những mệnh đề mà tôi chưa thật tin
chắc lắm. Nhưng tất cả những gì tôi viết ra ở đây đều hết sức rõ ràng
trong đầu tôi hơn một năm nay. Vì lợi ích của mình, tôi không muốn để
lại một mối nghi ngờ nào cho rằng tôi phát biểu các định lý mà lại không
có một chứng minh hoàn chỉnh.
Hãy
yêu cầu một cách công khai các ông Jacobi hoặc Gauxơ cho ý kiến của họ,
không phải chuyện đúng sai, mà là về tầm quan trọng của các định lý đó.
Sau hết, tôi hy vọng một số người sẽ tìm thấy trong mớ lộn xộn này
những điều hữu ích cho mình.
E. Galoa”
Bình
minh sáng hôm sau, ngày 30-5-1832, trên một cánh đồng vắng vẻ, Galoa và
tay thiện xạ đứng đối diện cách nhau 25 bước chân. Tay thiện xạ đi với
người làm chứng còn Galoa thì đi một mình. Ông không hề cho ai hay biết
trước về cuộc đấu súng này.
Hai
khẩu súng phát hỏa. Galoa bị bắn trúng bụng, ngã xuống đất. Tay thiện
xạ không hề hấn gì đã cùng người làm chứng bình thản bỏ đi. Vài giờ sau,
nghe được hung tin, anh trai của Galoa là Alfred vội lao tới hiện
trường và đưa em mình tới bệnh viện Cochin. Nhưng đã quá muộn, màng bụng
Galoa đã bị viêm. Ngày hôm sau thì Galoa qua đời.
Mặc
dù người bạn của Galoa đã làm tròn bổn phận mà ông gửi gắm là gửi các
bản thảo toán học mà ông đã ghi chép cho Jacobi, Gauxơ và nhiều người
khác, nhưng hơn mười năm sau. Công trình của Galoa vẫn không được công
nhận. Mãi tới năm 1846, khi bản thảo đó rơi vào tay Joseph Liouvilie thì
ông này mới hiểu ra được những phát kiến toán học có tính cách mạng của
một thiên tài, bèn bỏ ra nhiều tháng để cố gắng giải thích hết ý nghĩa
của nó, rồi biên soạn lại và cho công bố trên tạp chí “Toán học thuần
túy và ứng dụng” rất có uy tín của ông. Tuy nhiên, phải đợi đến năm
1870, công trình của Galoa mới được giải thích đầy đủ trong tác phẩm
“Nghiên cứu các phép thế” của nhà toán học xuất chúng C. Jordan
(1838-1922).
Công
lao của Galoa đóng góp cho toán học là rất lớn lao. Kể từ thời Phục
Hưng, đã hình thành một trào lưu các nhà toán học xuyên qua nhiều thế kỷ
đi tìm công thức tính nghiệm phương trình bậc 5. Đến những năm đầu thế
kỷ XIX, hầu như cùng lúc định mệnh đã làm xuất hiện hai thiên tài toán
học trẻ tuổi nhưng yểu mệnh là Galoa và N. Abel (1802-1829). Bằng hai
hướng tiếp cận khác nhau, cả hai ông đều đạt tới kết luận: không thể tìm
được công thức tính nghiệm cho các phương trình đa thức tổng quát có
bậc lớn hơn 4.
Thành quả của Galoa là xây dựng được một lý thuyết nhằm xác định được:
- Khi nào thì một phương trình đa thức tổng quát giải được bằng căn thức.
- Phương thức tìm nghiệm của phương trình giải được.
- Xác định những bài toán dựng hình được bằng thước kẻ và compa.
Trung tâm lý thuyết Galoa là lý thuyết nhóm, công trình tạo dựng nên những cấu trúc mà ông gọi là “Nhóm các phép thế”.
Chúng
ta có thể hiểu “loáng thoáng” cách lập luận để xác định một phương
trình đa thức tổng quát là không giải được như thế này: Từ một trường E
cho trước, qua một số hữu hạn phép khai căn, cộng, trừ, nhân, chia, tạo
ra một trường mới F, rồi chỉ ra cấu trúc nhóm Galoa của các nghiệm của
phương trình đa thức tổng quát trên E khác với cấu trúc nhóm Galoa của
F. Đây là một dấu hiệu phân biệt vô cùng độc đáo.
Camille Jordan
Sinh
5 tháng 1 năm 1838
Lyon, Pháp
Mất
22 tháng 1, 1922 (84 tuổi)
Paris, Pháp
Ngành
Toán học
Nổi tiếng vì
Định lý đường cong Jordan
Định lý Jordan về đa giác đơn
Niels Henrik Abel
Niels Henrik Abel (1802-1829)
Sinh
5 tháng 8, 1802
Nedstrand, Na Uy
Mất
6 tháng 4, 1829
Froland, Na Uy
Nơi cư trú
Na Uy
Nổi tiếng vì
hàm số Abelian
nhóm Abelian
định lý Abel
Lý
thuyết nhóm của Galoa là một kỳ tích trong lịch sử toán học. Chính vì
vậy mà ông đã được mệnh danh là người sáng lập ra Đại số hiện đại. Vì
phát kiến của Galoa đi trước thời đại quá xa, cùng với việc ông từ bỏ
thế giới này quá sớm nên những nhà toán học thời kỳ đó chưa cảm nhận
được tư tưởng toán học thiên tài của ông.
Một
tính chất quan trọng trong định nghĩa của Nhóm là: khi hai phần tử của
một nhóm tổ hợp với nhau thông qua phép toán thì kết quả là một phần tử
cũng thuộc nhóm đó và nhóm được gọi là “đóng” đối với phép toán đó.
Chẳng hạn có thể nói “Tập hợp các số nguyên là đóng đối với phép cộng”,
vì tổng của 2 hay nhiều số nguyên bao giờ cũng là một số nguyên.
Một thế kỷ rưỡi sau, Wiles đã dùng công trình của Galoa làm nền tảng cho chứng minh giả thuyết Taniyama-Shimura của ông.
Bước
đầu tiên, Wiles đã đạt được khi ông nhận thấy sức mạnh của các nhóm
Galoa. Một số các nghiệm của mỗi phương trình eliptic có thể được dùng
để tạo nên một nhóm. Sau nhiều tháng phân tích, Wiles đã chứng minh được
rằng nhóm này dẫn tới một kết luận không thể phủ nhận được: phần tử đầu
tiên của mỗi dãy E đều thực sự kết đôi với phần tử đầu tiên của mỗi dãy
M.
Đó là một đột phá toán học xuất sắc, nhưng để đạt được điều đó, Wiles đã phải mất đứt hai năm rưỡi.
Ngày
8-3-1988, Wiles đã điếng người khi đọc thấy những hàng tít lớn trên
trang nhất các báo loan tin rằng Định lý lớn Fecma đã được chứng minh,
và giải được bài toán hóc búa này là một người Nhật tên là Yoichi
Miyaoka. Tuy nhiên vào thời điểm đó Miyaoka còn chưa công bố chứng minh
của mình, mà mới chỉ mô tả những đường nét chính của nó. Đó là cách tiếp
cận bài toán một cách hoàn toàn mới: Hình học vi phân.
Hai
tuần sau khi mô tả đường nét chính, Miyaoka đã chính thức công bố 5
trang tính toán đại số trình bày chi tiết chứng minh của ông. Sự săm soi
của các nhà lý thuyết số và hình học vi phân bắt đầu và chỉ sau ít
ngày, một số nhà toán học đã tìm ra mâu thuẫn trong chứng minh.
Một
đội quân các nhà lý thuyết số đã ra sức giúp nhà hình học vi phân sửa
lại sai sót, nhưng mọi nỗ lực của họ đều dẫn đến thất bại.
Cũng
như một số chứng minh khác đã thất bại trong quá khứ, chứng minh của
Miyaoka đã cho nhiều kết quả toán học mới và lý thú. Một số đoạn riêng
rẽ trong chứng minh đó vẫn được công nhận và được xem là những ứng dụng
của hình học vi phân trong lý thuyết số, và nhiều năm sau, dựa trên kết
quả đó, các nhà toán học đã chứng minh được những định lý khác.
Sự xôn xao quanh Fecma rồi cũng lắng xuống. Wiles cũng thở phào nhẹ nhõm và lại tiếp tục cuộc chiến đấu của mình.
Sau 3 năm nỗ lực không ngơi nghỉ, Wiles đã có được một loạt các đột phá mới.
Năm
1990, Wiles có cảm giác như mình đang ở trong một căn phòng tối tăm
nhất. Ông nhớ lại: “Tôi thực sự tin rằng tôi đã đi đúng hướng, nhưng
điều đó không có nghĩa là tôi nhất thiết sẽ đạt được mục đích. Rất có
thể những phương pháp cần thiết để giải bài toán này còn là điều bí ẩn
đối với toán học hiện tại. Có thể 100 năm nữa những phương pháp mà tôi
cần để hoàn chỉnh chứng minh cũng còn chưa được phát minh ra. Vì vậy,
ngay cả khi tôi đã đi đúng hướng, tôi vẫn có thể rơi vào cảnh sống nhầm
thế kỷ”
Vào
năm 1991, trước sự bế tắc, Wiles đã tiến hành một cuộc săn lùng rộng
khắp trên các sách báo khoa học để may ra tìm được một kỹ thuật nào đó
có thể giúp ông thực hiệnmột
cú đột phá mà ông cần, nhưng chẳng được gì. Sau suốt 5 năm ròng miệt mài
làm việc một cách biệt lập, lúc này, ông thấy cần phải quay trở lại
cuộc sống với cộng đồng các nhà toán học để có thể nắm bắt được những
thông tin mới nhất, vì biết đâu chừng có người đã tìm ra một kỹ thuật
mới mà vì một nguyên nhân nào đó chưa công bố. Có một cuộc hội nghị lớn
về các phương trình eliptic mở ra ở Boston, và Wiles đã tới đó dự.
Wiles
đã được các đồng nghiệp trên khắp thế giới chào đón. Họ rất vui mừng
được gặp lại ông sau một thời gian dài ông vắng mặt ở hầu hết các hội
nghị. Nhưng họ vẫn không hề hay biết tí gì về điều ông đang nung nấu khi
ông hỏi những thông tin mới nhất có liên quan đến các phương trình
eliptic. Trong số các thông tin đó, không có thông nào làm ông quan tâm.
Cuộc gặp gỡ của Wiles với người thầy cũ của mình là giáo sư Coates có
lẽ đã là một tình cờ mang tính định mệnh. Wiles kể: “Coates có nhắc với
tôi rằng một nghiên cứu sinh của ông là Matheus Flach đang viết một bài
báo rất hay, trong đó có phân tích về các phương trình eliptic. Flach
dựa trên một phương pháp mới do Kolyvagin đề xuất và có vẻ như phương
pháp của anh ta đã “dọn đường” sẵn cho vấn đề của tôi. Dường như đó
chính là cái tôi đang cần, mặc dù tôi biết rằng sẽ còn phải phát triển
hơn nữa phương pháp Kolyvagin-Flach đó. Tôi đã vứt bỏ hoàn toàn cách
tiếp cận cũ và giành nhiều ngày đêm để mở rộng phương pháp này”.
Wiles
trở lại Princeton và giành hẳn vài tháng để làm quen với kỹ thuật mà
ông vừa mới phát hiện, rồi sau đó bắt tay vào một nhiệm vụ khổng lồ là
áp dụng và thực hiện nó. Chẳng bao lâu sau, ông đã thực hiện được chứng
minh bằng qui nạp đối với một phương trình eliptic. Thật không may là
phương pháp Kolyvagin-Flach chỉ áp dụng đúng đối phương trình eliptic đó
chứ không đúng với phương trình eliptic khác. Cuối cùng Wiles nhận thấy
rằng các phương trình eliptic có thể phân loại thành những họ khác
nhau. Một khi đã được sửa đổi để đúng với phương trình này thì phương
pháp cũng đúng với phương trình khác trong cùng một họ. Thách thức ở đây
là phải cải tiến sao cho phương pháp đó luôn đúng đối với tất cả các
họ.
Sau
6 năm nỗ lực không mệt mỏi, Wiles tin rằng mình đã nhìn thấy đích. Tuần
nào ông cũng tiến bộ hơn. Ông đã chứng minh được rằng những họ phương
trình eliptic mới và lớn hơn đều phải là modular, và việc ông chinh phục
được những phương trình eliptic còn lại chỉ là vấn đề thời gian. Trong
giai đoạn chứng minh cuối cùng này, Wiles chợt nhận ra rằng phương pháp
Kolyvagin-Flach mà ông sử dụng là chưa được kiểm tra chặt chẽ. Điều đó
làm ông rất lo lắng: “Trong năm đó tôi đã làm việc cực kỳ căng thẳng, cố
để làm cho phương pháp Kolyvagin-Flach vận hành được. Nhưng phương pháp
này lại liên quan đến cả một bộ máy rất tinh xảo mà tôi thực sự chưa
thông thạo lắm. Có rất nhiều vấn đề đại số rất khó, đòi hỏi tôi phải học
thêm nhiều kiến thức toán học mới. Sau đó, vào khoảng tháng 1-1993, tôi
quyết định phải tiết lộ với một ai đó là chuyên gia của những kỹ thuật
hình học mà tôi đang sử dụng. Tôi muốn chọn một cách cẩn thận người mà
tôi sẽ tiết lộ bởi vì người đó phải giữ bí mật mọi chuyện. Và tôi đã
chọn sẽ nói với Nick Katz”. Giáo sư Katz cũng làm việc ở khoa toán
trường Đại học Princeton và quen biết Wiles đã vài ba năm.
Vậy
là sau 6 năm làm việc độc lập hoàn toàn, Wiles đã đành phải tiết lộ bí
mật của mình. Bây giờ công việc của Kátz là phải đào bới trong cả núi
những tính toán đồ sộ dựa trên phương pháp Kolyvagin-Flach. Thực sự, tất
cả những điều mà Wiles đã làm được đều có tính cách mạng và Kátz đã
phải suy nghĩ rất lâu để tìm cách kiểm tra tốt nhất: “Cái mà Andrew cần
phải giải thích là rất lớn và dài, do vậy không thể thông qua những cuộc
nói chuyện không chính thức trong phòng làm việc của anh ấy được. Đối
với một cái gì đó lớn lao như vậy cần phải có một chuyên đề giảng dạy
chính thức, có lịch làm việc hẳn hoi mỗi tuần, nếu không, mọi chuyện
không thể thành công được. Điều này giải thích tại sao chúng tôi đã
quyết định lập một lớp chuyên đề”.
Thế
là họ thông báo mở một lớp chuyên đề cho các nghiên cứu sinh trong
khoa. Wiles sẽ giảng và Kátz ngồi nghe chung với sinh viên. Lớp chuyên
đề thực chất là đề cập tới phần chứng minh cần phải kiểm tra, nhưng các
sinh viên tới nghe sẽ không biết gì về chuyện đó. Cách ngụy trang như
thế cũng sẽ không gây một chút nghi ngờ nào trong khoa.
Kátz đã xác nhận rằng phương pháp Kolyvagin-Flach vận hành tốt.
Sau
khi kết thúc lớp chuyên đề, Wiles tập trung tất cả sức lực để hoàn tất
chứng minh. Vào tháng 5-1993, Wiles tin chắc rằng ông đã có một chứng
minh trọn vẹn Định lý lớn Fecma trong tay.
Cuối
tháng 6 năm ấy một hội nghị toán học được tổ chức tại Viện Isaac
Newton, ở thành phố Cambridge, quê hương của Wiles. Tại hội nghị này
Wiles đã đọc 3 báo cáo về công trình chứng minh đồ sộ của mình.
Coates
nhớ lại: “Ngày 23-6-1993, Andrew bắt đầu bản báo cáo thứ ba và cũng là
cuối cùng. Điều thú vị là tất cả những người đã có đóng góp cho những ý
tưởng nằm sau chứng minh này đều có mặt trong phòng hội nghị: “Mazur,
Ribet, Kolyvagin và nhiều, nhiều người khác nữa”. Còn Ken Ribet thì nói:
“Tôi tới tương đối sớm và ngồi ngay hàng ghế trước với Mazur. Tôi có
mang theo cả camera để ghi lại thời điểm lịch sử này. Có một không khí
náo nức, mọi người rất hồi hộp chờ đợi. Chắc chắn chúng tôi đều có cảm
giác rằng mình đang được tham gia vào một thời điểm lịch sử…”. Mặc dù đã
có bản photocopy chứng minh của Wiles trong tay, nhưng Mazur lúc đó vẫn
cảm thấy ngạc nhiên: “Tôi chưa bao giờ được chứng kiến một báo cáo vẻ
vang như vậy, một bản báo cáo đầy những ý tưởng tuyệt vời…”.
Sau
7 năm nỗ lực và căng thẳng, Wiles đã thông báo chứng minh của ông cho
toàn thế giới. Sau này Wiles không nhớ được chi tiết những thời điểm
cuối cùng của buổi báo cáo mà chỉ nhớ bầu không khí lúc đó: “… Nhưng có
rất nhiều người trong phòng hội nghị mang theo máy ảnh và họ đã chụp tới
tấp vào lúc gần kết thúc… Có một sự im lặng đầy trang trọng khi tôi đọc
chứng minh và khi tôi viết lên bảng phát biểu Định lý cuối cùng của
Fecma. Đoạn tôi nói: “Có lẽ, tôi xin phép dừng ở đây” và sau đó là những
tràng vỗ tay không ngớt”.
Câu chuyện về Định lý lớn Fecma đến đây tưởng đã hết, nào ngờ (mấy ai thuộc được chữ ngờ?) vẫn… chưa hết.
Cũng
như với bất cứ một bộ môn khoa học nào khác, mỗi một công trình toán
học đều phải được kiểm tra một cách kỹ lưỡng trước khi được công nhận là
chính xác. Thủ tục học thuật đòi hỏi rằng bất kỳ một nhà toán học nào
gửi bản thảo hoàn chỉnh tới một tạp chí có uy tín, thì biên tập viên của
tạp chí đó phải gửi nó cho một nhóm những người phản biện để kiểm tra
kỹ lưỡng từng dòng một. Chứng minh của Wiles cũng phải đưa cho phản biện
kiểm tra một cách gắt gao. Ông đã phải trải qua một mùa hè chờ đợi đầy
lo âu với hy vọng cuối cùng ông cũng sẽ nhận được sự tán đồng của họ.
Wiles
đã gửi bản thảo cho tạp chí Inventions Mathematicae. Biên tập viên của
tạp chí đó là Barry Mazur bắt đầu chọn lọc, tổ chức nhóm phản biện. Theo
thông lệ thì chỉ cần chọn hai hoặc ba phản biện, nhưng lần này Mazur
quyết định chọn sáu phản biện. Bản chứng minh của Wiles gồm 200 trang,
chia ra làm 6 phần, mỗi phản biện chịu trách nhiệm một phần.
Phản biện chương III của bản chứng minh là Kátz, người đã tiến hành kiểm tra phần này cùng với Wiles một năm trước.
Thật
bất ngờ, trong phần chứng minh mà Kátz chịu trách nhiệm phản biện xuất
hiện một lỗi mà lúc đầu ông nghĩ chỉ là một vấn đề nhỏ và thông tin cho
Wiles biết để sớm sửa chữa. Wiles cũng nghĩ như vậy nhưng khi xem xét
lại một cách nghiêm túc thì: “Tôi không thể trả lời được ngay lập tức
cái câu hỏi có vẻ đơn giản này. Một thời gian tôi nghĩ nó cũng đại loại
như những câu hỏi khác thôi. Nhưng rồi đến tháng 9, tôi bắt đầu nhận ra
rằng nó không chỉ là một khó khăn tầm thường, mà còn là một lỗi rất cơ
bản. Đó là một sai lầm trong phần quan trọng của hệ thống suy diễn có
liên quan tới phương pháp Kolyvagin-Flach, nhưng do nó khá tinh tế nên
tôi không nhận ra…”.
Khi
Kátz nhận ra tầm quan trọng của sai sót mà ông phát hiện ra, ông đã tự
trách móc mình là tại sao vào hồi mùa xuân, khi Wiles giảng cho lớp
chuyên đề với mục đích duy nhất là nhằm phát hiện ra những sai sót, thế
mà ông đã để lọt qua.
Chỉ
mới ít tuần trước, báo chí trên toàn cầu còn ca ngợi Wiles như một nhà
toán học xuất sắc nhất thế giới, nhưng lúc này, Wiles đang đối mặt với
sự nhục nhã, và sự thừa nhận sai lầm. Không chấp nhận ê chề, lại một lần
nữa Wiles tập trung mọi nỗ lực để vá lại vết thủng đó: “Tôi không thể
đầu hàng được. Tôi đã bị ám ảnh bởi bài toán này và tôi vẫn còn tin rằng
phương pháp Kolyvagin-Flach chỉ cần một sửa đổi nhỏ là nó sẽ lại vận
hành tốt”.
Wiles
hy vọng rằng có thể sửa chữa được sai lầm trước khi cộng đồng các nhà
toán học ý thức được rằng đã có sai lầm. Đối với Kátz, đó cũng là một
thời kỳ rất căng thẳng: “Vào tháng 10, về nguyên tắc, chỉ có tôi,
Illusie (phó phản biện của Kátz) những người phản biện các chương khác
của Andrew, là tất cả những ai biết về sai sót này”.
Việc
chờ đợi sự công bố bản thảo chứng minh của Wiles khá lâu khiến cho tình
hình dư luận ngày một căng thẳng, nhiều tin đồn, nhiều nghi vấn theo
hướng bất lợi cho Wiles dần được tung ra. Người ta nhớ lại thất bại của
Miyaoka năm 1988 và nghĩ rằng lịch sử có thể đã lặp lại… Tuy nhiên cũng
có rất nhiều nhà lý thuyết số trên khắp thế giới rất thông cảm với tình
thế của Wiles.
Vào
giữa mùa đông, những hy vọng về một đột phá mới đã tàn dần, và ngày
càng có nhiều nhà toán học lý sự rằng Wiles phải có trách nhiệm công
khai hóa bản thảo. Những tin đồn thổi vẫn tiếp tục và có một bài báo
thậm chí còn khẳng định rằng Wiles đã đầu hàng và chứng minh của ông đã
sụp đổ không thể cứu vãn nổi. Chính Wiles cũng đã thừa nhận với người
bạn thân và cũng là đồng nghiệp tên là Peter Sanark rằng tình hình đang
ngày một tuyệt vọng và ông sắp đến lúc phải chấp nhận thất bại. Sanark
gợi ý rằng Wiles hãy tìm một người tin cẩn để thử khắc phục sai sót một
lần nữa xem sao. Cân nhắc khá lâu, Wiles đã quyết định mời Richard
Taylor, giảng viên thuộc trường Đại học Cambridge, tới Princeton để cùng
làm việc với mình.
Vào
tháng giêng, với sự trợ giúp của Taylor, Wiles một lần nữa lại xông vào
khám phá phương pháp Kolyvagin-Flach, cố gắng tìm ra con đường để đưa
bài toán ra khỏi bế tắc.
Mùa
hè đó, Wiles và Taylor không tiến bộ được một chút nào. Sau 8 tháng nỗ
lực và bị ám ảnh liên tục, Wiles lại chuẩn bị chấp nhận đầu hàng. Vì
Taylor đã có kế hoạch ở Princeton cho đến hết tháng 9, nên anh đề nghị
Wiles hãy cố thêm một tháng nữa. Dù rất thất vọng, Wiles cũng đồng ý.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét