TT&HĐ IV - 37/i
Kurt Gödel - Nhà Logic Học Vĩ Đại Đã Chứng Minh Toán Học Không Hoàn Hảo
PHẦN IV: BÁU VẬT
"Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi, lỡ đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc , chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng.
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.”
“Lạc vào cõi mộng Tự Nhiên
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thẫn thờ một bóng giữa miền Siêu Linh
Nhặt lên dáng ngọc bí huyền
Mắt ai thăm thẳm đắm nhìn mắt ai.”
Thầy Cãi
CHƯƠNG V (XXXVII): KỲ HOA
“Chúng ta ngưỡng mộ Hy Lạp cổ đại như là cái nôi của nền khoa học
phương Tây. Ở đó, lần đầu tiên hình học Ơclit được xây dựng. Đó là sự kỳ
diệu của trí tuệ, là hệ thống logic mà những kết quả của nó suy ra cái
này từ cái kia một cách chính xác, đến nỗi không ai có thể nghi ngờ điều
gì”.
A. Anhxtanh
“Hình học có hai bảo vật, một là Định lý Pitago, bảo vật kia là Định
lý tích trung bằng tích ngoại. Ta có thể so sánh cái thứ nhất với một
lượng vàng và có thể gọi cái thứ hai là viên ngọc quí”.
J. Keple
...Theo một nghĩa nào đó, CƠ SỞ CỦA HÌNH HỌC
là quyển sách thuần túy toán học đầu tiên của nhân loại và là tờ giấy
khai sinh ra toán học như một bộ môn độc lập, tuy vẫn còn là một bộ phận
của triết học. Cách Euclid xây dựng một hệ thống kiến thức cao vút dựa
trên số ít tiên đề nền và lấy luật logic làm chất gắn kết, đã là hình
mẫu cho sự phát triển của toán học đến ngày nay"
Ngô Bảo Châu
(Tiếp theo)
Quá
trình nghiên cứu các biến đổi hình học đã chỉ ra rằng có những phép
biến đổi hoàn toàn không làm mất đi các tính chất ban đầu của hình hình
học sau khi biến đổi. Hai hình được gọi là “toàn đẳng” nếu chúng tương
đương nhau, nghĩa là có thể biến đổi hình nọ thành hình kia qua dời hình
- các biến đổi chỉ thay đổi vị trí của hình mà không làm thay đổi số đo
của các đại lượng như độ dài cạnh, góc, diện tích… có liên quan với
hình đó. Nhưng cũng có những phép biến đổi làm mất đi một số tính chất
đặc thù của một hình sau khi đã biến dạng sang một hình khác và hình
này, ngoài những tính chất đặc thù mới xuất hiện, vẫn còn bảo tồn được
những tính chất nào đó của hình ban đầu (có tính chất “phổ biến” cho cả
hai hình đó). Một hiện tượng có vẻ độc đáo nhưng cùng hoàn toàn tự nhiên
là có một số tính chất của hình học ẩn sâu (hay phổ quát) đến nỗi luôn
bất biến cho dù hình ban đầu phải chịu những biến dạng mạnh mẽ và hoàn
toàn tùy ý.
Có
một loại phép biến đổi “mạnh hơn” phép dời hình nhưng “nhẹ hơn” phép
biến đổi gần như tùy ý, được các nhà toán học nghiên cứu từ lâu và gọi
là môn “Hình học xạ ảnh”.
Bài
toán “phối cảnh” đã được các họa sĩ thời phục hưng ở Châu Âu mà tiêu
biểu là Lêonard đơ Vanhxi và Albert Đuyne đề cập đến và đã gợi ý cho các
nhà toán học thời đó nghiên cứu. Hình vẽ do họa sĩ vẽ ra được xem như
hình chiếu của vật mẫu trên mặt phẳng mà tâm chiếu là mắt của họa sĩ.
Trong phép chiếu, tùy thuộc vào các vị trí khác nhau của các sự vật cần
vẽ, mà độ dài đoạn thẳng và các góc không thể tránh được một sự thay đổi
nhất định. Tuy nhiên, thường thì vẫn nhận ra được cấu trúc hình học của
vật mẫu thông qua hình vẽ một cách dễ dàng. Hình ảnh được chụp qua máy
ảnh là một dẫn chứng tuyệt vời về tính tự nhiên của phép chiếu xạ ảnh
này. Điều có thể nhận thấy rõ ràng trong lĩnh vực hình học này là nó
không đề cập đến sự bằng nhau của các hình mà lại chú trọng nhiều đến tỷ
lệ của chúng.
Leonardo da Vinci | |
---|---|
![]()
Chân dung tự họa khoảng 1512-1515
|
|
Sinh | Leonardo di ser Piero da Vinci 15 tháng 4, 1452 Vinci, Cộng hòa Fiorentina (Ý ngày nay) |
Mất | 2 tháng 5, 1519 (67 tuổi) Amboise, Pháp |
Quốc gia | Ý |
Nổi tiếng vì | Nhiều lĩnh vực khoa học và nghệ thuật |
Tác phẩm nổi bật | |
Loại | Phục Hưng |
Chữ ký | |
![]() |
Những
sự kiện rời rạc trong toán học có liên quan đến các tính chất xạ ảnh đã
được biết đến từ thế kỷ XVIII (cũng có một vài đề cập xuất hiện từ rất
xa xưa như “định lý Menelaux” chẳng hạn). Song mãi đến cuối thế kỷ
XVIII, khi trường bách khoa nổi tiếng ở Pari củng cố lại tình hình
nghiên cứu toán học, nhất là hình học thì mới làm xuất hiện những công
trình nghiên cứu có tính hệ thống thực sự trong lĩnh vực hình học xạ
ảnh. Trường học này được các nhà cách mạng Pháp sử dụng để đào tạo ra
một số lớn sĩ quan phục vụ xuất sắc cho nước cộng hòa của họ. Trong số
đó có Jăng Victor Pôngxơliê (1788 - 1867), người đã viết bản “Luận văn
về các tính chất xạ ảnh của các hình” khi bị bắt làm tù binh ở nước Nga.
Đến
thế kỷ XIX, hình học xạ ảnh đã trở thành một trong những đối tượng được
nghiên cứu nhiều trong toán học do ảnh hưởng của Stâyner, Stauat, Salơ
và một số nhà toán học khác. Tính phổ cập của môn hình học này, một phần
khác là do khả năng soi sáng khoa học hình học nói chung và có những
liên hệ bên trong sâu sắc với hình học phi Ơclit cũng như với đại số
học.
Để hiểu được sơ bộ khái niệm “biến đổi xạ ảnh”, chúng ta giả sử rằng, cho trước hai mặt phẳng
và
trong không gian, song song hoặc không song song với nhau. Sau đó, chúng ta thực hiện một “phép chiếu xuyên tâm”
lên
với tâm O (tâm chiếu) cho trước không nằm trên
và
để ứng với mỗi điểm P trên
là một điểm P’ trên
,
sao cho P và P’ nằm trên cùng một đường thẳng đi qua O. Tương tự, chúng
ta cũng có thể thực hiện được “phép chiếu song song” nếu các đường
thẳng chiếu không xuất phát từ tâm O mà song song với nhau. Như vậy, chúng ta có thể dùng phép chiếu xuyên tâm hay song song chiếu bất cứ hình nào trên
lên
để
có được một hình mới và hình đó được gọi là ảnh xạ. Mọi ánh xạ của một
hình lên một mặt phẳng để thu được một ảnh xạ qua một phép chiếu song
song hay xuyên tâm, hoặc qua một dãy hữu hạn các phép chiếu như vậy gọi
là biến đổi xạ ảnh (Nếu hai hình chỉ liên hệ với nhau bằng duy nhất một
phép chiếu thì người ta nói rằng chúng “phối cảnh” nhau. Hình học xạ ảnh
của mặt phẳng gồm một hệ thống các định lý hình học được bảo toàn trong
các biến đổi xạ ảnh bất kỳ các hình tương ứng. Nó khác hẳn với “hình
học mêtric” là một hình học bao gồm hệ thống các định lý xác lập mối
quan giữa các đại lượng trong các hình được xét chỉ là bất biến đối với
lớp (hay dãy) các phép dời hình. Có thể nêu ra vài tính chất xạ ảnh:
- Một điểm được chiếu thành một điểm.
- Một đường thẳng được chiếu thành đường thẳng.
- Tính hiện thực của một điểm và một đường thẳng là bất biến đối với nhóm các biến đổi xạ ảnh.
- Nếu ba điểm là cộng tuyến, tức là liên thuộc với cùng một đường thẳng thì các ảnh xạ của chúng cũng cộng tuyến.
- Nếu ba đường thẳng đồng qui, tức là liên thuộc với cùng một điểm thì ảnh xạ của chúng cũng là những đường thẳng đồng qui.
Quá
trình nghiên cứu, xem xét các tính chất hình học trong hình học xạ ảnh
đã cho các nhà toán học thấy rằng trong nhiều trường hợp, những luận cứ
đưa ra sẽ mất hiệu lực nếu những giao điểm phải dựng của những đường
thẳng nào đó lại song song với nhau. Do các đường thẳng song song không
có điểm chung nên trong các lập luận, buộc phải phân biệt và giải thích
ra hai trường hợp chiếu xuyên tâm và chiếu song song. Nếu không thoát ra
khỏi tình trạng đó thì hình học xạ ảnh sẽ trở nên cực kỳ phức tạp do
phải nghiên cứu một cách chi tiết các ngoại lệ và trường hợp riêng. Yêu
cầu phải khái quát hóa các khái niệm cơ bản để “tinh giản” lý thuyết
hình học xạ ảnh, do đó mà cũng được đặt ra một cách hoàn toàn tự nhiên
trước các nhà toán học.
Để
giải quyết vấn đề đó, có lẽ cũng tự nhiên không kém, một suy nghĩ đã
bật ra trong đầu các nhà toán học là có thể nào gộp hai phép chiếu xuyên
tâm và song song vào một phép chiếu duy nhất? Muốn thế, phải biện giải
được phép chiếu song song là trường hợp đặc biệt của phép chiếu xuyên
tâm, khi tâm chiếu ở xa vô tận. Nhưng có thể sự gợi ý mạnh mẽ cho suy
nghĩ này bắt nguồn từ hiện tượng biến đổi nghịch đảo qua đường tròn, khi
ảnh của tâm O được cho là điểm ở xa vô tận, và sự minh họa trực giác
của các hình vẽ phối cảnh, trong đó có các đường thẳng song song có vẻ
như gặp nhau ở xa vô tận và nhiều cặp đường thẳng song song gặp nhau ở
xa vô tận tạo nên một tập hợp điểm làm hình thành nên một đường thẳng
song song gặp nhau ở xa vô tận gọi là “đường chân trời”. Đường chân trời
trong hình học phối cảnh là đường có thể thấy được nhưng không tiếp cận
được.
Quan
niệm về các đường song song cắt nhau ở điểm xa vô tận, tưởng chừng như
nghịch lý ấy, hóa ra là hết sức hợp lý vì các nhà toán học đã phát hiện
ra rằng sự tồn tại của các điểm xa vô tận đó và những yếu tố mới nảy
sinh kèm theo có mối quan hệ tương hỗ giữa chúng với nhau và với các
điểm “thông thường” là hoàn toàn rõ ràng và không gây ra bất cứ mâu
thuẫn nào. Từ đó, các nhà toán học đã đưa ra qui ước rằng một đường
thẳng bất kỳ, ngoài các điểm thông thường còn có một điểm nữa ở xa vô
tận và được gọi là “điểm lý tưởng”. Điểm lý tưởng là điểm chung của tất
cả các đường thẳng song song với đường thẳng đã cho. Các nhà toán học
còn quy ước bổ sung thêm vào tập hợp các đường thẳng một đường thẳng nữa
gọi là “đường thẳng ở xa vô tận” và cho rằng đường thẳng ở xa vô tận là
tập hợp các điểm lý tưởng.
Với
những quy ước nêu trên thì tiên đề “qua hai điểm cho trước chỉ dựng
được duy nhất một đường thẳng” vẫn được bảo toàn và một định lý được mở
rộng là “bất kỳ hai đường thẳng nào cũng cắt nhau tại một điểm”. Thật
vậy, qua hai điểm lý tưởng bất kỳ, chỉ có thể vẽ được một đường thẳng
duy nhất là đường thẳng ở xa vô tận hay còn gọi là đường thẳng lý tưởng,
bởi vì theo qui ước mỗi đường thẳng thông thường chỉ có một điểm lý
tưởng. Đường thẳng lý tưởng phải “chứa” toàn bộ các điểm lý tưởng và
không chứa bất kỳ một điểm thông thường nào. Giả sử đường thẳng lý tưởng
chứa một điểm thông thường thôi thì vì qua một điểm lý tưởng và một
điểm thông thường tất yếu phải dựng được một đường thẳng thông thường mà
đường thẳng thông thường lại chỉ được phép chứa một điểm lý tưởng thôi
nên điều giả sử là cực kỳ phi lý. Ở đây chúng ta thấy, với những suy lý bởi tư duy trừu tượng vô tiền khoáng hậu của trí não con người bên cạnh khả năng quan sát thực tại bị hạn chế, con người đã làm cho vũ trụ hình học trở thành ảo hóa. Sao không giả sử rằng, chỗ chúng ta mới là cõi vô tận so với "ở đó", và như thế làm gì có điểm lý tưởng và hai đường song song rõ ràng là không bao giờ cắt nhau?
Nhờ
những qui ước bổ sung đó, hình học xạ ảnh đã giải quyết được mỹ mãn
nhiều vấn đề nan giải nảy sinh của nó. Chẳng hạn việc đưa vào các điểm
xa vô tận và đường thẳng xa vô tận trên mặt phẳng giúp các nhà toán học
xem xét phép chiếu của mặt phẳng này trên mặt phẳng khác một cách đầy đủ
hơn.
Quá
trình nghiên cứu những biến đổi hình học đã dẫn các nhà toán học đạt
được hết thành tựu này đến thành tựu khác để xây dựng nên những lý
thuyết tương đối chuyên biệt ngày một sâu sắc và kỳ thú. Lý thuyết Tôpô
là một trong những số đó.
Hiện
tượng biến đổi hình học được gọi là Tôpô chính thức được phát hiện vào
khoảng đầu thế kỷ XIX, làm phát sinh một trào lưu mới trong nghiên cứu
hình học, và sau này trở thành một trong những động lực chính của toán
học hiện đại. Phép biến đổi Tôpô rất mạnh, nó làm mất tất cả các tính
chất mêtric và xạ ảnh của các hình hình học.
Một
trong những người đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu lý thuyết
Tôpô là A. F. Miôbiux (1790-1868). Ông là nhà thiên văn học, làm việc
trong một đài thiên văn hạng xoàng ở Đức, do tính quá khiêm nhường và
cũng có thể là rụt rè mà không đạt được may mắn trên con đường công danh
- khoa học. Mãi đến năm 68 tuổi, Miôbiux mới trình lên viện Hàn lâm
Pari tập hồi ký về các mặt “một phía”, ghi lại những sự kiện tuyệt vời
nhất trong lĩnh vực hình học mới này. Cũng như nhiều công trình khoa học
quan trọng khác, bản thảo của ông đã bị vứt lăn lóc nhiều năm trên giá
sách của Viện Hàn lâm cho đến khi nó được bản thân tác giả công bố.
Độc
lập với Miôbiux, nhà thiên văn ở Gơttingen là I. Lixting (1808-1882)
cũng đã có những phát minh tương tự và nhờ sự giúp đỡ của Gaux, năm 1847
ông cho xuất bản cuốn sách nhỏ có tựa đề “Khảo cứu đầu tiên về Tôpô”.
Khi
Bergard Riman (1826-1866) đến Gơttingen học đại học ở đó thì không khí ở
đó đã tràn đầy sự hiếu kỳ đối với hiện tượng hình học mới lạ và nó đã
ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhà toán học kiệt xuất trong tương lai không xa
này. Những đóng góp lớn lao của Riman đối với lý thuyết Tôpô là không
thể phủ nhận được.
Tuy
hiện tượng Tôpô được phát hiện một cách chính thức vào thế kỷ XIX và
trở thành một lý thuyết hoàn chỉnh vào thế kỷ XX, nhưng cần phải nói
rằng từ rất sớm, đã có những phát minh toán học gần gũi với Tôpô. Trong
số đó, nổi lên hàng đầu là việc xác lập công thức liên hệ số đỉnh, số
cạnh và số mặt của một khối đa diện đơn giản: nó đã được Đềcác phát hiện
năm 1640, được Ơle phát hiện lại và sử dụng năm 1752. Những nét đặc
trưng của khẳng định Tôpô trong công thức này đã trở nên rất hiển nhiên
khi mà về sau này, Poancarê nhận ra một trong những định lý trung tâm
của Tôpô ở trong công thức Ơle và những công thức mở rộng của nó.
Có
thể hiểu khối đa diện là một vật thể không gian gồm một số hữu hạn các
mặt có hình đa giác. Trong các khối đa diện đều thì mọi đa giác đều bằng
nhau và mọi góc phẳng ở đỉnh đều bằng nhau. Khối đa diện gọi là đơn
giản nếu nó không có “những lỗ thủng”, để cho sau một biến dạng liên tục
thì mặt của nó có thể biến đổi thành mặt cầu. Tuy rằng trong hình học
cổ xưa, việc nghiên cứu các khối đa diện chiếm vị trí trung tâm, nhưng
chỉ có Đềcác và Ơle mới phát hiện được mệnh đề sau đây: nếu gọi V là số
đỉnh, E là số cạnh, F là số mặt của một khối đa diện đơn giản thì
.
Một
ứng dụng hết sức thú vị của công thức Ơle là nhờ nó, có thể chứng minh
được sự tồn tại của không quá 5 loại đa diện đều. Sơ lược của chứng minh
đó như sau:
Giả sử một khối đa diện đều có thể có
mặt mà mỗi mặt là một đa giác đều có n cạnh và mỗi đỉnh có r cạnh, nếu tính số cạnh của đa giác ấy theo các mặt thì có:
Còn nếu tính theo các đỉnh, thì có:
Từ đó suy ra:
Áp dụng công thức Ơle thì được:
Vì số cạnh của một đa giác không thể nhỏ hơn 3 nên
và đỉnh của một đa diện không thể hiện hữu với số mặt ít hơn 3 (có số cạnh nhỏ hơn 3) nên
.
Mặt khác n và r không thể đồng thời lớn hơn 3 vì nếu xảy ra như thế thì
số cạnh E sẽ mang dấu âm, trái với quan sát thông thường, do đó cũng
không thể hình dung được. (Tuy nhiên sự hoang tưởng tự do của chúng ta
mách bảo rằng, biết đâu chừng trong tương lai, một nhà toán học nghiệp
dư “điên rồ” nào đó lại khăng khăng về sự tồn tại của một số E âm và
“kích hoạt” một ngành hình học mới ra đời!). Như vậy, chỉ còn phải làm
sáng tỏ xem có thể thừa nhận những giá trị nào của r nếu n=3 và những
giá trị nào của n nếu r=3, là thỏa mãn đẳng thức trên.
Khi n=3, đẳng thức trên có dạng:
Và
suy ra r có thể bằng 3, 4 hoặc 5 (r không thể lớn hơn 5 vì như đã nói ở
trên, E phải là một số nguyên dương). Nghĩa là chỉ có khả năng tồn tại
các đa diện đều 4 mặt, 8 mặt và 20 mặt.
Tương tự, khi r=3, đẳng thức được viết:
Suy
ra n bằng 3, 4 hoặc 5 và do đó trong trường hợp này cũng chỉ có khả
năng tồn tại các khối đa diện đều: 4 mặt, 6 mặt và 12 mặt.
Tổng kết cả 2 trường hợp, chúng ta thấy rằng chỉ có thể tồn tại được các khối đa diện đều là:
Khối 4 mặt (còn gọi là khối tứ diện tam giác đều)
Khối 6 mặt (còn gọi là khối lập phương)
Khối 8 mặt
Khối 12 mặt
Khối 20 mặt.
Cột số trên có 2 tính chất kể ra cũng khá ngạc nhiên là:
Nhưng tại sao Vũ Trụ hình học lại chỉ cho phép dựng được vỏn vẹn có năm khối đa diện đều? Thật khó lòng hiểu nổi?!
Chúng
ta biết rằng luôn luôn có thể dựng được khối cầu ngoại tiếp “khít khao”
năm khối đa diện đều và bằng cách nào đó, có thể chuyển hóa năm khối ấy
thành khối cầu mà chúng nội tiếp. Điều đó dẫn đến ý niệm rằng trên mặt
một khối cầu chỉ có thể chia điều hòa và đều đặn theo năm cách để có thể
có được 4, 6, 8, 12 hoặc 20 phần diện tích bằng nhau.
Có
thể nào mở rộng khái niệm “khối đa diện” và qua đó là cả khái niệm
“khối đa diện đều” để làm cho khối đa diện đều trở nên vô kể về “chủng
loại” được không?
Kinh
nghiệm trực giác đã đưa toán học đến việc phải qui ước n và r không
được nhỏ hơn 3 và đồng thời không được lớn hơn 5. Rõ ràng là không thể
hình dung được một khối đa diện đều nào lại không tuân thủ qui ước ấy.
Tuy nhiên, biết đâu chừng vẫn có thể tồn tại những khối đa diện như vậy ở
đâu đó mà do tính đa tạp của cấu trúc không gian, chúng đã bị biến dạng
đi hoặc còn có thể là do nhận thức của chúng ta còn chưa “rốt ráo” nên
đã không thấy được chúng hoặc liệt kê chúng thành một loại khác. Chúng
ta hãy xem thử tình hình ra sao nếu chỉ qui ước rằng n, r và E phải
nguyên dương và thỏa mãn đẳng thức:
Ngoài ra, không còn qui ước nào khác.
Một
cách trực quan thì khối tứ diện là có số mặt ít nhất (4 mặt) trong các
khối đa diện. Tuy nhiên, chúng ta “ngoan cố”, cứ cho rằng vẫn có thể tồn
tại khối đa diện có số mặt ít hơn 4. Giả sử có khối đa diện đều mà số
cạnh của nó là
. Lúc này có thể viết:
Suy ra ở vế trái hoặc n = 2 và r = 3, hoặc n = 3 và r = 2. Ở trường hợp đầu, chúng ta có:
Nghĩa
là chúng ta sẽ có một khối đa diện đều với số cạnh là 3, số đỉnh là 2
và số mặt là 3. Có thể hình dung được đây là một khối “tam diện đều”, có
ba cạnh cùng độ cong và bằng nhau về độ dài, có hai đỉnh đối nhau tạm
gọi là “hai cực” của khối.
Ở trường hợp thứ hai, thì
.
Một
khối đa diện đều mà chỉ có số cạnh là 3, số đỉnh là 3, số mặt là 2 thì
kể cũng kỳ dị! Tuy nhiên, nếu kết hợp với “thông tin” số cạnh đa giác
của nó bằng 3 và số cạnh ở mỗi đỉnh là 2 thì “hầu như” chỉ là… tam giác
đều. Đã là tam giác đều thì làm sao có hai mặt và hơn nữa lại gọi là
“khối” được? Thế mà có thể đấy! Chúng ta đã quan niệm rằng không tồn tại
Hư Vô vì Hư Vô cũng phải là Tồn Tại, do đó không có mặt (phẳng) nào lại
được tạo dựng từ Hư Vô cả mà phải từ ít ra là các hạt KG và có “độ dày”
ít ra cũng bằng “bề dày” của hạt KG. Vì lẽ đó mà bất cứ mặt (phẳng) nào
cũng có hai mặt tạm gọi là trái và phải hay bên này và bên kia. Tam
giác đều là một mặt phẳng nên nó cũng phải có hai mặt và thành một khối
là điều hiển nhiên.
Nếu
tam giác đều được coi là một khối nhị diện đều thì tất cả các đa giác
đều đều phải được coi là các nhị diện đều cùng chung một tính chất
.
Có khối “nhất diện” (một mặt) không? Chúng ta cho rằng có, vì khi
thì
. Lúc này, vì:
Suy ra có thể:
Vì r không thể lớn hơn E nên có thể biện luận được:
và r = 1 là trường hợp duy nhất để thỏa mãn đẳng thức. Do đó:
Như vậy, chúng ta có được kết quả:
Một
khối “nhất diện” có 2 đỉnh, 1 cạnh, 1 mặt, số cạnh đa giác là 1, số
cạnh tại mỗi đỉnh là 1 chỉ có thể là một đoạn thẳng mà 2 đầu mút của nó
chính là 2 đỉnh. Ở phía nào “nhìn vào” cũng chỉ thấy một mặt duy nhất và
là mặt đã từng thấy ở những phía khác. Đó là hiện tượng tạm gọi là “mặt
mọi phía” và là “tiền thân” của mặt một phía (được nhà thiên văn học
kiêm toán học Miobiux phát hiện vào buổi đầu của lý thuyết Tôpô).
Đó
chính là khối nhị diện trên mặt phẳng có hai cạnh là 2 cung cùng độ
cong và cùng độ dài gặp nhau tại 2 điểm (đóng vai trò là hai đỉnh của
khối). Trường hợp đặc biệt của khối này là “khối” hình tròn. Hình tròn
cũng là giới hạn của các khối nhị diện. Khi số cạnh của chúng tăng lên
vô hạn (hay tới hạn) thì chúng biến thành “khối tròn phẳng”
Còn một khối đều cơ bản nhất mà chúng ta chưa nhắc tới, đó là khối cầu.
Có
thể quan niệm (và cũng chính là qui ước) rằng khối cầu là một khối nhất
diện đều vì sự “tròn quay”của nó và vì nó chỉ có một mặt gọi là mặt
“mọi phía” (mặt trái ở bên trong nội tại nó, vì bị cách ly khỏi “thế
giới bên ngoài” nên chỉ có thể được coi là mặt của nội tại và, không
đồng nhất với mặt bên ngoài của nó).
Vì
chỉ có duy nhất một mặt mọi phía nên khối cầu không có cạnh. Tuy nhiên
vì mặt của nó là tập hợp của vô số điểm KG “bình đẳng” nhau nên có thể
chọn bất cứ điểm KG nào làm “chuẩn mốc” khảo sát mặt cầu và chúng ta gọi
đó là đỉnh của khối cầu. Khối cầu chỉ có một đỉnh duy nhất.
Chúng ta quan niệm như thế để cho thỏa mãn:
Nghĩa là số cạnh tại đỉnh là không có.
nghĩa là chỉ có điểm KG thôi chứ chẳng có đa giác nào cả.
Nếu để làm thỏa mãn biểu thức:
thì cũng có thể chọn
. Thế nhưng chọn như thế thì trở lại trường hợp “khối” là một đoạn thẳng.
Xét
ở khía cạnh khác, thì điểm KG cũng phải là một “khối” không gian cho
nên khi chúng liên kết với nhau để tạo nên mặt cầu thì mỗi một phần bề
mặt của một điểm KG cũng phải được coi như một “đa giác” làm nên mặt
cầu. Vậy những “đa giác” đó là loại đa giác nào và chúng có giống nhau
không để mà có thể gọi khối cầu do chúng hợp thành cũng được gọi là khối
đa diện đều?
Dù
có hoang tưởng giỏi đến mấy thì chúng ta cũng không sao mường tượng ra
được cảnh ngộ đó để có thể trả lời câu hỏi trên. Rất có thể rằng, ở tầng
qui mô như thực tại mà chúng ta đang thấy sự hiện hữu của các khối đa
diện đều với những kiểu dáng “mày râu nhẵn nhụi” và “quắc thước” là hiển
nhiên, nhưng ở tầng sâu vi mô, bức tranh thực tại sẽ hoàn toàn khác và
có thể những khối đa diện đều đó bị tuyệt đối cấm không được tồn tại.
Thậm chí là trong khoảng không bao la của Vũ trụ mà con người còn quan
sát được, cũng chẳng thấy 5 khối đa diện đều “có quyền” được tồn tại nói
trên xuất hiện. Cấu trúc hình thể của tất cả các vì sao, các thiên hà,
hình như đều “chê” năm cái hình hài đều đặn và sắc sảo đến mức “khô
cứng”, đầy vẻ giả tạo ấy. Ngay cả con người, dù có thể “đẽo tạc” dễ dàng
ra chúng thì ngoài khối lập phương ra (dùng làm hộp đựng), người ta hầu
như chẳng thèm tạo ra chúng và chẳng biết dùng vào việc gì.
Ấy
thế mà ở khoảng giữa hai tầng vĩ mô và vi mô, có một tầng gọi là tầng
“phân tử”, sự hiện diện các hình khối đa diện đều hay cân xứng, đóng vai
trò là những khối mạng liên kết giữa các phân tử với nhau lại trở nên
phổ biến lạ thường. Loài người sẽ không xuất hiện được nếu không hiện
hữu những hình thể hình học ấy. Phải chăng Tự Nhiên đã sinh ra chúng và
giành riêng cho chúng “một cõi” ấy?
Chen
vào vài ý kiến có phần phản biện và vài thắc mắc ngây ngô như thế để
vui vẻ chút thôi. Bây giờ, chúng ta lại quay về lý thuyết Tôpô.
Đối
tượng của công thức Ơle là những khối đa diện đơn giản. Nhưng công thức
ấy vẫn không mất ý nghĩa khi áp dụng cho những trường hợp tổng quát hơn
nhiều, chẳng hạn là cho các “khối đa diện” đơn giản có mặt là mặt cong,
có cạnh là cạnh cong… Có như thế, một phần là vì công thức Ơle chỉ đề
cập đến số lượng đỉnh, mặt, cạnh của khối hình học. Ở đây, độ dài, diện
tích, độ cong… cũng như các khái niệm khác của hình học sơ cấp và hình
học xạ ảnh không có vai trò gì cả. Có thể hình dung bề mặt của một khối
đa diện hoặc hình cầu được làm bằng một lớp cao su mỏng và bị làm biến
dạng bằng mọi cách như uốn, nén, giãn… miễn không làm rách lớp cao su,
thì công thức Ơle vẫn được bảo toàn.
Phép
biến đổi tôpô mang tính tổng quát cao độ mà các phép dời hình và biến
đổi xạ ảnh chỉ là những trường hợp rất đặc biệt của nó. Biến đổi tôpô từ
một hình hình học A thành hình hình học A’, được định nghĩa như là một
tương ứng bất kỳ giữa các điểm p của hình A và các điểm p’ của hình A’,
thỏa mãn 2 điều kiện:
-
Điều kiện “một - một” (đơn trị hai chiều): nghĩa là mỗi điểm p của hình
A được cho tương ứng với một và chỉ một điểm p’ của hình A’ và ngược
lại.
-
Điều kiện “liên tục hai phía”: nghĩa là, nếu lấy hai điểm p và q của A
và “di dời” p sao cho khoảng cách giữa p và q giảm dần vô hạn thì khoảng
cách giữa các điểm p’ và q’ của hình A’ cũng giảm dần vô hạn, và ngược
lại.
Những
tính chất nào của hình A, sau khi chịu một biến đổi tôpô, vẫn còn được
bảo toàn thì người ta gọi chúng là những tính chất tôpô của hình A.
Chẳng hạn, bề mặt của một khối đa diện đều, sau một biến đổi tôpô, bị
chịu những biến dạng như: các góc sai lệch, các cạnh bị uốn cong và độ
dài thay đổi, diện tích thay đổi…, nhưng nếu số lượng các cạnh, các
đỉnh… không thay đổi thì người ta gọi những tính chất vẫn còn được bảo
lưu trên hình đã biến dạng ấy là những tính chất tôpô. Qua biến đổi
tôpô, tam giác có thể biến dạng thành tam giác khác, cũng có khi thành
một hình tròn hay elip. Vì thế các hình nói trên có những tính chất tôpô
giống nhau. Thế nhưng không phải hình nào cũng thế: không thể biến dạng
hình tròn thành đoạn thẳng hoặc làm biến dạng mặt cầu thành mặt xung
quanh của hình trụ.
Biến đổi tôpô không chỉ có làm biến dạng. Phép biến dạng chỉ là một bộ phận của phép biến đổi tôpô.
Khi
nói đến quan sát, chúng ta thường nghĩ ngay đến đôi mắt với cái nhìn
trực giác. Quả thật, quan sát thực tại bằng mắt để rồi suy tư trên những
điều đã thấy được, là một phương thức chủ yếu, có tính “truyền thống”
(và có tính bản năng) từ xưa tới nay. Nhưng quan sát đâu phải chỉ có
vậy. Lắng tai nghe rõ ràng cũng là một dạng quan sát, cảm giác bằng xúc
giác cũng là quan sát. Tuy nhiên, trên nền tảng ấy, có một phương thức
quan sát tối quan trọng mà nếu không có nó thì nhiều “viễn cảnh” sẽ
không thể nhìn thấy được, dù tai, mắt có tinh tường tới đâu chăng nữa.
Phương thức quan sát ấy được gọi là “cái nhìn của sự suy tư”. Chẳng hạn,
nếu không có cái nhìn của hồi ức đi tiên phong thì dứt khoát cái nhìn
bằng mắt và cả bằng tai sẽ chẳng bao giờ “thấy” được những hoạt cảnh
sống động của một thời quá khứ xa vời nào đó (dù rằng chỉ là sự dàn dựng
lại!), khi chưa có phát minh về phim ảnh. Đa phần những hình hình học
trong hình học tôpô sau những biến đổi tôpô mạnh mẽ chỉ có thể tồn tại
trong thực tại của Vũ trụ hình học (thực tại ảo). Nhưng tồn tại là một
chuyện còn hiện hữu lại là chuyện khác. Chỉ bằng cái nhìn suy tưởng chăm
chú trên một trình độ nhận thức nhất định, các nhà toán học mới “nhìn
thấy” chúng và cố gắng minh họa ra trang giấy để cho cái nhìn bằng mắt
được chiêm quan một cách khó nhọc và ít khi mà tỏ tường được. Bởi vì
rằng nhiều hình tượng mà sự suy tưởng quan sát được, chỉ tồn tại thực
trong một thế giới đa tạp nào đó khác với thế giới cảm giác thông thường
của chúng ta, ở tầng vĩ mô, cũng như ở tầng sâu thẳm vi mô. Nói như thế
đồng thời chúng ta cũng muốn nói lên ý này: Cấu trúc hình học của Vũ
trụ quả thật là đa tạp và sự đa tạp ấy quả thực đã được Vũ trụ hình học
phản ánh và một trong những phản ánh ấy chính là hình học tôpô. Các nhà
toán học đã đi xa được biết bao nhiêu trên con đường nhận thức Tự Nhiên
Tồn Tại!
Có
một đề tài nảy sinh trong quá trình xây dựng nên lý thuyết tôpô và đã
từng một thời nổi tiếng lẫy lừng trong giới toán học. Đề tài này về mặt
trực giác có vẻ rất đơn giản, dễ chứng minh, song cho đến nay, toán học
vẫn còn lấn cấn, chưa trả lời dứt khoát được. Đó là “bài toán 4 màu”.
Nội
dung của Bài toán 4 màu có thể được phát biểu đơn giản như sau. Người
ta dùng cách tô màu để phân biệt giữa các nước trên một tấm bản đồ với
nhau, giữa đất liền và biển. Vậy phải cần đến tối thiểu là bao nhiêu màu
đối với một tấm bản đồ bất kỳ vẽ trên mặt phẳng? (Bản đồ được vẽ trên
một mặt cầu là trường hợp tương đương với trường hợp vẽ trên mặt phẳng).
Vấn
đề của Bài toán 4 màu được Miôbiux nêu lên lần đầu tiên vào năm 1840.
Tháng 10-1852, một người thợ tô màu bản đồ tên là Francis Guthrie, người
Anh, đã phỏng đoán: tất cả bản đồ đều chỉ cần dùng 4 màu là đủ. Sau đó,
anh trai của người thợ này đã đến hỏi thầy giáo của mình là nhà toán
học nổi tiếng August de Mogan (1806-1871), cũng người Anh. Mogan đã
nghiên cứu nghiêm túc vấn đề nhưng không chứng minh được mà cũng chỉ tin
rằng phỏng đoán đó là đúng. Ngày 23-10-1852, Mogan viết thư cho người
bạn thân là nhà toán học cũng nổi tiếng không kém tên là W. R.
Halmilton, nhưng ông này cho là vấn đề đơn giản nên không quan tâm.
Ngày
13-6-1878, nhà toán học người Anh là Arthur Cayley (1821-1895) đã nêu
lại vấn đề 4 màu tại Hội nghị toán học ở London và năm 1879, người ta đã
trưng cầu lời giải cho bài toán 4 màu. Sau đó, A. B. Kempe đã chứng
minh được mệnh đề có tính chất mấu chốt: trong một bản đồ bất kỳ, nếu số
vùng n>6 thì phải có số biên giới của mỗi vùng không vượt quá 5.
Cũng năm đó, ông này đã đăng bài “Tô bản đồ bằng 4 màu như thế nào?”
trên Tạp chí “Tự Nhiên”, và vấn đề 4 màu xem như được giải quyết vào
ngày 17-7-1879.
Thế
nhưng, năm 1890, P. J. Hint (1861-1955), người Anh, đã chỉ ra những sai
lầm trong chứng minh của Kempe. Hint cũng là người đã chứng minh được
rằng: bất cứ bản đồ nào cũng đều có thể chỉ cần dùng tối đa là 5 màu để
tô.
Năm
1922, Franklin chứng minh được nếu bản đồ có không quá 25 vùng thì có
thể dùng 4 màu. Tương tự, năm 1926, Renotr chứng minh được, nếu số vùng
không quá 27 thì cũng chỉ cần 4 màu để tô. Tiếp tục, năm 1938, Franklin
chứng minh số vùng tối đa có thể tô 4 màu là 32, rồi đến năm 1940, Wim
chứng minh số vùng tối đa là 35. Năm 1969, một người NaUy tên là O. Ore
chứng minh số vùng tối đa để có thể tô được chỉ với 4 màu là 45. Năm
1975, người ta nâng số vùng lên được 52.
Nhờ
máy tính, năm 1974, Kele công bố đã chứng minh được định lý 4 màu
(nghĩa là bài toán 4 màu được giải quyết về mặt lý thuyết). Tháng
9-1976, ba nhà toán học dạy ở Trường đại học Ilinoi (Mỹ) là K. I. Appel,
A. W. Haken và J. Kock đã xây dựng cách giải và dùng 3 máy tính có tốc
độ tính toán 4 triệu phép tính trong 1 giây và tính trong 1200 giờ để
giải xong bài toán 4 màu. Lúc đó, công trình này được coi như một kỳ
tích chưa từng có trong lịch sử toán học và hôm tuyên bố giải được bài
toán 4 màu, bưu cục của Trường đại học Ilinoi đã đóng dấu bốn chữ đầy tự
hào: “Bốn màu kết thúc!” (“Four Cloro Suffice”!). Năm 1977, F. Allairic cũng công bố kết quả của bài toán 4 màu bằng máy tính.
Dù
sao thì vẫn còn nhiều nhà toán học nghi ngờ đối với cách giải bài toán 4
màu bằng máy tính và càng nghi ngờ cách giải này hơn nữa khi vào năm
1981, một nhà toán học người Mỹ tên là Smith đã kiểm tra lại 40% trình
tự tính toán của nhóm ba nhà toán học của Trường đại học Ilinoi nói
trên, và đã phát hiện 14 chỗ sai nhỏ 1 chỗ sai lớn. Điều này làm cho các
nhà toán học mong muốn tìm được một chứng minh cho vấn đề 4 màu theo
cách lý giải thông thường. Cần nói thêm rằng toán học cận đại đã đánh
giá Bài toán 4 màu là một trong ba bài toán khó tiêu biểu. Hai bài toán
kia, như chúng ta đã biết, là “Bài toán Gônbách” và “Bài toán Fecma”.
Thực
sự là có thể giải được bài toán 4 màu theo lối thông thường không? Dù
không đủ năng lực để tìm ra lời giải ấy nhưng với quan niệm triết học về
Tự nhiên Tồn Tại đã “bị” tiêm nhiễm bởi NTT và cảm thức hồn nhiên của
mình, chúng ta cho rằng lời giải ấy tồn tại và không những chỉ “thông
thường” mà có khi còn giản dị đến bất ngờ nữa. Hơn nữa, cũng dựa hoàn
toàn vào cảm thức mà chúng ta thấy hình như, lời giải “thông thường và
giản dị” của bài toán 4 màu, nếu tồn tại, phải bắt đầu từ “điểm tựa” là
định lý Jordan.
Kamil
Jordan (1830-1922) là người đầu tiên phát biểu định lý này và nội dung
của nó như sau: Một đường cong kín c (không tự cắt nó) trên mặt phẳng sẽ
chia mặt phẳng ra đúng hai miền gọi là miền trong và miền ngoài. Có thể
mở rộng định lý áp dụng cho một mặt cong kín trong không gian, không tự
cắt nó, chia không gian thành “phía” trong và “phía” ngoài!).
Thoạt
nhìn, định lý Jordan có vẻ hoàn toàn hiển nhiên. Ấy vậy mà do sự đòi
hỏi phải chặt chẽ của toán học về mặt lôgíc, việc chứng minh định lý này
không phải dễ dàng. Chứng minh của Jordan không hề ngắn gọn và chưa
hoàn tất, cần phải điều chỉnh bổ sung nhiều nữa mới khắc phục được những
thiếu sót của nó. Những chứng minh chặt chẽ đầu tiên của định lý Jordan
là rất phức tạp và khó hiểu ngay cả đối với những người có trình độ
toán học tốt. Những chứng minh tương đối đơn giản sau này mới được tìm
ra.
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét