MUÔN NẺO MƯU SINH 16
(ĐC sưu tầm trên NET)
“Bà con người Việt mình kéo về đây sống mà không có giấy tờ gì cả.
Tôi cũng vậy. Ở trên đất nước mình nhưng không có quốc tịch thì đi tới
đi lui thiếu tự tin. Tôi muốn trước khi chết mình được cấp quốc tịch
Việt Nam” - cụ Trần Minh Diện, 90 tuổi, nói.
Cụ Diện cho biết ông nội cụ sinh ra ở Việt Nam nhưng trôi dạt qua Biển Hồ (Campuchia). Từ đó đến nay nhiều thế hệ nhà cụ sinh ra và phiêu dạt trên Biển Hồ. Nhưng rồi nắng nóng cùng cực, Biển Hồ khô cạn hơn, nghề đánh bắt cá liên tục mất mùa. Nhiều người gốc Việt bên Capuchia bị thu thuế đánh bắt cá, xử phạt vì không giấy tờ tùy thân nên cả nhà cụ kéo về nước dựng chòi sống bám gần lòng hồ Dầu Tiếng (xã Tân Thành, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh).
UBND tỉnh Tây Ninh cho biết đến nay đã có hơn 5.000 Việt kiều di cư
tự do từ Campuchia về nước trong đó chỉ hơn 20 người có giấy tờ tùy
thân. Theo tìm hiểu của chúng tôi, một lượng lớn Việt kiều Campuchia
cũng đã tìm về cố quốc. Họ sống lay lắt tại Long An, An Giang, Đồng Nai,
Đồng Tháp.
Nếu di cư bằng đường bộ thì rất nhanh nhưng nhiều người chọn cách đi ghe. Lý do là họ tiếc những chiếc xe cũ – “căn nhà nổi” của họ ở xứ Biển Hồ. Trong ghe có cả bàn thờ tổ tiên và bao ký ức đầy sóng gió, họ không dễ vứt bỏ. Từ Biển Hồ về Tây Ninh phải mất 7 ngày. Nhiều ghe thủng mục, họ phải thức đêm tát nước ghe mới khỏi chìm.
Mang danh là Việt kiều nhưng hàng loạt hộ hồi hương mà không có nổi
tiền để mua cái giường để ngủ. Như anh Hai Ngọc cùng vợ và 4 con phải
mượn người quen chiếc giường kê tạm bên mép hồ Dầu Tiếng để ngủ qua đêm.
Những gia đình hồi hương trước anh Ngọc thì được chỗ khô ráo hơn để
dựng nhà ở tạm. Nơi đây gọi là xóm Việt kiều, đầu xóm luôn treo cờ tổ
quốc – dù họ chưa hề được cấp quốc tịch Việt Nam!
Việt kiều nơi đây kiếm sống chủ yếu bằng cách đi đánh bắt cá trên hồ
Dầu Tiếng. Hàng ngàn người bám vào hồ mà sống khiến con cá thưa dần
nhưng mỗi kg cá được bán chỉ với giá tầm 15 ngàn đồng! Bình quân một
ngày mỗi người chỉ kiếm được khoảng vài chục ngàn, nhiều nhất là 200
ngàn đồng.
Thu nhập thấp nên bữa cơm của Việt kiều rất đạm bạc. Nhiều đứa trẻ vì vậy mà bị chứng còi xương, suy dinh dưỡng, bệnh tật
Nghèo khó đến cùng cực nhưng người Việt lưu lạc xứ Biển Hồ lại “đẻ
như cái máy”. Bà Nguyễn Thị Hoang, 68 tuổi, vừa trở về từ Biển Hồ cho
biết con gái bà đẻ 9 đứa con. Nhưng chẳng thấm tháp gì vì cụ biết có
người Việt sinh đến 25 con! Nuôi không nổi, nhiều cha mẹ phải cho con!
Đau lòng nhất là cảnh nhiều đứa trẻ té ghe chết trên Biển Hồ. Chúng
đang tuổi tập bò, tập đi nhưng xung quanh toàn sông nước còn ba mẹ chúng
thì mải miết mưu sinh.
Những đứa trẻ về từ xứ Biển Hồ hầu hết thất học. Ban ngày, chúng giữ
em cho ba mẹ đi đánh cá. Ban đêm là lúc chúng nô đùa. Do không học hành,
ít được chỉ bảo, nhiều trẻ không biết kiểm soát, chỉ cần một lời nói
khích là lao vào đánh nhau.
Mong ước của hàng ngàn Việt kiều lúc này là trẻ con được đến trường
miễn phí còn người lớn được cấp quốc tịch Việt Nam, CMND, hộ khẩu, để đi
làm công nhân nuôi đàn con!
Việt kiều không thể bám mãi vào sông nước mà sống. Họ cũng đã chán
cuộc sống rày đây mai đó như thời ở Biển Hồ. Họ quyết lên bờ mưu sinh
trên đất Việt.
Việt kiều đang tràn đầy hy vọng được nhập quốc tịch vì vừa qua Thủ
tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tư pháp làm việc với các địa phương để xem
xét giải quyết vấn đề này. Cơ quan chức năng cũng đã đến Tây Ninh khảo
sát việc này.
Trả lời Báo Người Lao Động, ông Nguyễn Thanh Ngọc, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh, cho hay sắp tới, Bộ Tư pháp sẽ có hướng dẫn cụ thể. Khi đó, tỉnh sẽ áp dụng giải quyết cho các trường hợp chưa có quốc tịch, hộ khẩu, CMND.
Ông Ngọc cho biết thêm trước khi có chỉ đạo của Thủ tướng, tỉnh cũng đã chủ động xác minh, làm rõ nguồn gốc của nhiều Việt Kiều và cũng đã cấp CMND, hộ khẩu, công nhận quốc tịch cho hàng chục Việt kiều.
Tâm sự rớt nước mắt của ngàn Việt kiều không quốc tịch
17/08/2016 14:51
(NLĐO) - "Tôi muốn trước khi chết mình được cấp quốc tịch Việt Nam" - Đó là mong cầu của một Việt kiều 90 tuổi sinh ra tại Biển Hồ (Campuchia) vừa về hồ Dầu Tiếng (Tây Ninh) định cư.
Cụ Diện cho biết ông nội cụ sinh ra ở Việt Nam nhưng trôi dạt qua Biển Hồ (Campuchia). Từ đó đến nay nhiều thế hệ nhà cụ sinh ra và phiêu dạt trên Biển Hồ. Nhưng rồi nắng nóng cùng cực, Biển Hồ khô cạn hơn, nghề đánh bắt cá liên tục mất mùa. Nhiều người gốc Việt bên Capuchia bị thu thuế đánh bắt cá, xử phạt vì không giấy tờ tùy thân nên cả nhà cụ kéo về nước dựng chòi sống bám gần lòng hồ Dầu Tiếng (xã Tân Thành, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh).
Cụ Diện 90 tuổi, vừa thấy phóng
viên cụ liền mặc áo vào để trò chuyện. Cụ bảo mong ước của mình là được
chính quyền cấp quốc tịch Việt Nam để tự tin sống những ngày cuối đời
tại cố hương
Nếu di cư bằng đường bộ thì rất nhanh nhưng nhiều người chọn cách đi ghe. Lý do là họ tiếc những chiếc xe cũ – “căn nhà nổi” của họ ở xứ Biển Hồ. Trong ghe có cả bàn thờ tổ tiên và bao ký ức đầy sóng gió, họ không dễ vứt bỏ. Từ Biển Hồ về Tây Ninh phải mất 7 ngày. Nhiều ghe thủng mục, họ phải thức đêm tát nước ghe mới khỏi chìm.
Ông Hai Mệnh khẳng định chiếc ghe của mình sẽ cắm mãi trên đất liền Việt Nam
Anh Hai Ngọc vừa về nước được
vài ngày. Anh phải nhờ bà con người Việt cho mượn giường để có chỗ cho
vợ và 4 con ngủ. Anh bảo tụi nhỏ rất mê ngủ giường vì xưa giờ toàn ngủ
ghe, cứ lắc lư
Lá cờ tổ quốc treo đầu xóm Việt kiều
Rất nhiều Việt kiều hồi hương để đánh bắt cá trong hồ Dầu Tiếng khiến nghề này ngày càng thất thu
Bữa cơm của gia đình ông Ba
Phước. Về nước hơn 1 năm rồi cả nhà vẫn còn khốn khó. Do không có giấy
tờ tùy thân nên các con của ông Phước nhiều lần bị từ chối khi xin làm
công nhân ở TP HCM, Bình Dương
Bà Hoang đang giữ bầy cháu ngoại
Bé Muội 10 tuổi với đôi mắt
buồn. Bé không được đi học mà phải ở nhà trông em. Khi còn sống ở Biển
Hồ, một đứa em của Muội trong lúc tập bò đã té ghe chết nước
Bọn trẻ chơi đùa rồi chửi nhau giữa đêm trên bãi đất sát hồ Dầu Tiếng
Không xin được việc làm, anh Nguyễn Văn Tửng, phải ở nhà ru con ngủ
Biển Hồ là nơi anh Chi để lại
cánh tay mình. Anh kể mình đang đánh cá thì bị máy ghe cắt lìa cánh tay.
Anh không muốn quay lại đó mà quyết về Việt Nam tìm cách mưu sinh
Trả lời Báo Người Lao Động, ông Nguyễn Thanh Ngọc, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh, cho hay sắp tới, Bộ Tư pháp sẽ có hướng dẫn cụ thể. Khi đó, tỉnh sẽ áp dụng giải quyết cho các trường hợp chưa có quốc tịch, hộ khẩu, CMND.
Ông Ngọc cho biết thêm trước khi có chỉ đạo của Thủ tướng, tỉnh cũng đã chủ động xác minh, làm rõ nguồn gốc của nhiều Việt Kiều và cũng đã cấp CMND, hộ khẩu, công nhận quốc tịch cho hàng chục Việt kiều.
Ông Lê Văn Lẹ, một trong những
Việt kiều được chính quyền công nhận quốc tịch Việt Nam. Trong ảnh là tờ
giấy khai sinh ông vừa được cấp, phần quê quán ghi: "Campuchia", phần
quốc tịch ghi "Việt Nam". Nhờ tờ giấy này, ông làm được CMND, hộ khẩu,
các con được đi học, đi làm. Đến nay ông đã xây được nhà đàng hoàng.
NHƯ PHÚ thực hiện
Nỗi niềm... “mưu sinh mùa nước nổi”!...
01/07/2016, 10:29
- Mỗi mùa nước nổi về, tôi lại đi, như một nỗi nhớ da diết lắm. Mỗi chuyến đi, gặp gỡ thêm một số phận, một cuộc mưu sinh đầy bĩ cực, những trăn trở trong tôi cũng lớn thêm theo từng trang viết. Tôi lại đi, đón những mùa nước nổi, nhận những nỗi niềm và để yêu thương hơn đời lũ.
Phóng viên tác nghiệp tại hiện trường. Ảnh: Quốc Dũng
1. Tác phẩm “Thắc thỏm mưu sinh mùa nước nổi”
của tôi đạt giải B cuộc thi viết Phóng sự trên Báo Nhân Dân Chủ nhật từ
năm 2012-2014, nhưng vẫn khiến tôi nhiều trăn trở, đến tận bây giờ.
Trăn trở đó là sự đồng cảm, cảm thông mà tôi chỉ nói hộ hàng ngàn con
người đang từng ngày lênh đênh đời du mục, mưu sinh trên sông nước miền
Tây Nam bộ. Mùa nước nổi vốn là nét văn hoá đặc trưng ở miền Tây, từ bao
đời nay. Hàng ngàn con người, không ruộng đất, bám víu mùa nước nổi để
mưu sinh. Có những đứa trẻ được sinh ra ngay trên chiếc ghe tuềnh toàng,
trên sông. Rồi mặc định, khi lớn lên nối nghiệp cha, làm nghề “bà cậu”.
Những cuộc mưu sinh lênh đênh trên sông nước ấy lại đầy hiểm nguy, may
rủi...Họ chấp nhận đánh cược số phận của chính mình, gia đình, con cái.
Bằng nhiều cách. Có khi là tính mạng. Chỉ để hy vọng một tương lai tốt
đẹp hơn cho con cái, sau này. Để hoàn thành phóng sự này tôi phải đi
hàng trăm cây số, xuyên qua vùng đầu nguồn lũ của biên giới Tây Nam, nơi
tiếp giáp với nước bạn Campuchia. Mà không phải chỉ một lần, mà đến ba
lần. Bởi những chuyến đi không hẹn trước, cứ như trò chơi “cút bắt”
(trốn tìm) với cánh vạn chài. Khi tôi lên tới khu vực biên giới Tân
Hồng, Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp thì ghe của họ đã sang đến kênh Vĩnh Tế,
huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Xuồng ghe của vạn chài cứ di chuyển theo
con nước và luồng cá, không cố định bến bờ nào. Cũng giống như chính
cuộc đời họ, mãi lênh đênh, biết khi nào tìm được bến để dừng cuộc “du
mục trên sông nước”. Còn tôi cứ rủi may, loanh quanh, xuôi ngược đầu
nguồn lũ, để tìm kiếm nhân vật của mình. Cái khó của không chỉ riêng
tôi, một người sinh ra, lớn lên nhẵn mặt miền Tây, mà với tất cả người
viết phóng sự về “lũ miền Tây” là nó quá quen thuộc, gần gũi, thân thiết
tới mức không còn nhận ra điều gì mới lạ, riêng tư. Mà chỉ cần một chút
vô tâm, một chút lười nhác sẽ “tái bản” ngay mùa nước nổi của năm rồi.
Sẽ có một chút thuận lợi cho những nhà báo từ nơi khác tới với những cảm
nhận rất mới khi được đứng chân giữa rốn lũ đồng bằng. Nhưng cũng không
ít khó khăn là thiếu kiến thức, sự hiểu biết cơ bản về mùa nước nổi
miền Tây để viết đúng, viết hay. Cái khó chính là góc nhìn mới lạ. Tôi
chọn cái khó đó, để thử thách chính mình. Tuy vậy, những chi tiết vàng,
thông tin đắt giá có khi lại xuất hiện bất ngờ. Đó là cái duyên của
người cầm bút, mà tôi từng may mắn có được trong những chuyến đi thực tế
của mình, đôi lần... Trong số hàng chục vạn chài đang tề tựu về kênh
Vĩnh Tế, tôi vô tình chú ý tới người đàn ông có nước da sạm nắng, trạc
tuổi 40. Hỏi mấy đồng nghiệp của anh, mới biết đó là Sáu Thanh, quê ở
miệt Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Trong suốt buổi chiều, anh cứ đưa mắt ngó
xa xăm, một nỗi buồn sâu thẳm hiện rõ trên gương mặt. Sau một hồi lân
la, thăm hỏi, mới biết Sáu Thanh chính là ngư dân vừa bị đắm xuồng trên
sông Hậu. Trận giông chướng suýt cuốn cả gia đình Sáu Thanh đi chầu “Hà
Bá”. Nhà nghèo, đơn chiếc, có đến ba đứa con nên mỗi lần ra sông đánh
bắt, vợ chồng Sáu Thanh đều mang cả các con theo. Chuyến đánh cá cuối
ngày không ngờ trở thành định mệnh, đớn đau. Giông gió bất ngờ ập tới,
sóng tung ngọn cao lừng lững, nhấn chìm chiếc ghe cào nhỏ bé trong dòng
nước xoáy. Ba đứa con gái chới với trong biển sóng. Sáu Thanh chỉ kịp
quơ được đứa con gái 3 tuổi và túm lấy tay vợ. Còn đứa lớn 6 tuổi và đứa
nhỏ mới thôi nôi chìm vào lòng nước lạnh. “Sau biến cố tôi mới giận
mình. Con tôi chết là tại tôi vô ý. Cuối buổi chiều hôm trước tôi đã
thấy một cái móng mọc ở phía cuối chân trời. Mà hễ có móng thì chắc là
hôm sau sẽ có giông gió chướng. Dân làm nghề bà cậu thì phải biết chuyện
này. Cái móng, nhìn như cầu vồng, nhưng ngắn ngủn, nhìn từ xa, đưa tay
ướm thử độ một gang. Cánh vạn chài quả quyết, thấy lói (móng) mọc thì
xuồng ghe phải tấp hết vô bờ. Chỉ vì mải lo lặn ngụp để kiếm miếng cơm
mà tôi sơ ý, hại chết mấy đứa con”, Sáu Thanh đau đớn vò đầu, bứt tóc tự
trách bản thân.
2. Để
có một bài phóng sự tốt thật sự đòi hỏi người viết phải lao động nghiêm
túc. Cũng không gian đó, thời gian đó, con người đó, nhưng do cách của
mỗi người tiếp cận mà có được những thông tin khác nhau. Không chỉ là
đến nơi gặp gỡ hỏi han, nhìn ngó rồi viết. Thông tin sẽ rất nghèo nàn,
bởi thiếu sự trải nghiệm, hoá thân và cảm xúc của một người trong cuộc.
Tôi đã đi, đã sống, đã ăn ở và làm cùng họ để những trải nghiệm đó ngấm
vào tim mình, để cảm nhận tự thân và thấu hiểu. Và chỉ khi họ không còn
coi bạn là nhà báo, mà là một thành phần trong họ hoặc là bạn bè, đồng
nghiệp thì họ mới trút cạn nỗi lòng. Cảm xúc, khi đó như dòng máu nóng
lan toả khắp người, trào dâng mãnh liệt, làm mạch chảy xuyên suốt cho
bài viết. Mỗi nhân vật đều để lại trong lòng tôi một nỗi niềm trăn trở.
Nó như một nhát dao cứa vào tận tâm can, mỗi khi nhớ lại. Cho nên, từng
con chữ chạy dài trên trang viết, tôi phải đắn đo, suy tư nhiều lắm. Đôi
lúc là sự giằng co, đấu tranh tư tưởng với chính mình. Cái nghèo, gian
khổ của họ có nên được lột tả hay không? Có vô tình làm cho họ càng thêm
đau, tủi buồn cho số phận không? Hay để cho mọi người thấy được, đằng
sau mùa nước nổi đẹp lung linh những cánh đồng lũ cuốn hút bao nhiêu du
khách tìm về thưởng ngoạn đến đắm say, là những thân phận vật lộn với
sóng nước để có miếng cơm, manh áo, để con cái họ được tới trường... Vậy
rồi, cảm xúc cứ đẩy trôi từng con chữ tuôn ra:... Mùa lũ năm nay,
Chín Nghĩa đùm túm vợ và hai đứa con nhỏ xuống chiếc xuồng cui, sống đời
phiêu bạt suốt 4 tháng trời nước nổi lênh đênh. Chiếc xuồng nhỏ xíu,
gắn máy đuôi tôm cũ kỹ cứ vượt hết khúc sông này đến cánh đồng lũ khác.
Mấy bận qua sông lớn đầu nguồn, nước chảy xiết, xoáy đụn nghe ron rót,
ớn lạnh sống lưng. Anh Nghĩa phải nghiến răng, cầm chắc tay lái vượt qua
dòng nước đang cuồn cuộn chảy. Qua được hiểm nguy, lưng áo anh ướt
sũng. Hai đứa bé ghì chặt tay mẹ. Nín thinh. Mặt tái nhợt vì sợ mà không
dám khóc. 40 tuổi, chừng nửa tuổi đời vợ chồng anh Nghĩa phải sống kiếp
lênh đênh. Mái nhà nhỏ ở quê được dựng lên chỉ để cho có cái gọi là
nhà. Còn chiếc xuồng nhỏ với chẵn vạc tre, tấm cà rèm bằng lá dừa nước,
mới là “mái nhà” theo Chín Nghĩa suốt chặng đường phiêu bạt. Mấy đứa nhỏ
sinh ra đã biết đến cái nắng, cái gió của chốn thương hồ. Rồi đây mai
đó, vật lộn mưu sinh nên tụi nhỏ lớn lên cũng chưa biết đến con chữ vỡ
lòng. Năm tuổi, thằng Đen, con trai lớn Chín Nghĩa đã biết rõ mặt từng
loại cá sông. Đến nay 13 tuổi vẫn chưa một ngày đến lớp. Hôm gặp nó, tôi
rút trong túi ra cuốn truyện tranh trinh thám. “Chú tặng”, tôi đẩy
quyển sách đủ sắc màu về phía nó. Nó lật đi lật lại, nhìn ngấu nghiến
vào tranh vẽ rồi xếp lại thật nhanh. “Con chưa đi học”, thằng Đen cúi
gầm mặt nói giọng nhẹ hều mà sao nỗi buồn nặng trịch. Anh Nghĩa rơm rớm
nước mắt nhìn đứa con trai, giải thích. Cái nghèo đã đẩy vợ chồng anh
sống đời lang bạt thương hồ nên tụi nhỏ đâu có chốn dừng chân, làm sao
cắp sách tới trường?...
Còn nhiều lắm những mảnh đời cơ cực,
vật lộn với sóng gió cuộc đời để mưu sinh. Dẫu gian khổ, khó khăn nhưng
trong họ vẫn tươi rói niềm tin vào ngày mai tốt đẹp, đang chờ đợi những
chuyến đi khám phá, trải nghiệm và sẻ chia của tôi, của bạn.../.
Bùi Quốc Dũng
Tạp chí Người Làm Báo số 385 - Tháng 3/2016
Nhận xét
Đăng nhận xét