Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
ĐỊNH HƯỚNG ĐI ĐÂU? 5
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
-Định hướng như ... cứt mà đòi lên "Thiên Đường". -Rồi đây, lịch sử sẽ chỉ rõ công - tội!
-------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Thu nhập của nông dân thấp không thể tin nổi!
21/01/2015929 lượt xem
Ảnh baomoi.com
Năng suất lao động Việt Nam chỉ
bằng 1/18 của Singapore, 1/6 của Malaysia, 1/3 của Thái Lan và Trung
Quốc. Tỷ trọng lao động khu vực nông thôn vẫn ở mức cao; chất lượng
nguồn lao động thấp là những nguyên nhân chính làm cho năng suất lao
động nông nghiệp của nước ta đạt thấp so với các nước trong khu vực.
Đi tìm số thực về thu nhập bình quân của nông dân
Nói về thu nhập của nông dân là thấp,
nhưng rất khó khăn để tìm số liệu đáng tin cậy. Theo số liệu của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn báo cáo tại Hội nghị Sơ kết 5 năm thực
hiện Nghị quyết TW 7 về “tam nông” thì thu nhập bình quân của người dân
nông thôn năm 2013 ước đạt khoảng gần 20 triệu đồng/năm, gấp 2,18 lần
so với năm 2008. Tương đương khoảng 1,67 triệu đồng/người/tháng, hoặc
55.000 đồng/người/ngày. Số liệu này đã được chính thức công nhận trong
báo cáo kết luận của Hội nghị này vào tháng 3/2014. Nhưng số liệu cũng
không cho biết có phải 70% dân số Việt nam là nông dân có mức thu nhập
như vậy không?
Thu nhập thấp, khó tăng chất lượng lao động
Với thu nhập 1,67 triệu đồng/tháng nhưng
người nông dân vẫn phải trang trải tất cả các khoản chi phí hàng ngày
với mức giá thị trường đắt đỏ. Trong đó, đáng kể nhất là chi phí y tế và
giáo dục. Vì thu nhập thấp nên có rất nhiều hệ lụy. Khi phát sinh ốm
đau, bệnh tật thì thu nhập 1 năm chỉ vào bệnh viện được 1 lần. Vì thu
nhập thấp thì học hành cũng giảm đi, đây là cái vòng luẩn quẩn, đã nghèo
lại càng nghèo của nông dân Việt nam.
Còn một thực tế khác, theo các báo cáo
thì thu nhập tại đồng bằng sông Cửu Long năm 2013 đạt bình quân 40 triệu
đồng/người/năm với 17 triệu nông dân ở đây. Bù lại, thì nông dân ở các
vùng khác sẽ chỉ được dưới 10 triệu đồng/năm, tương đương 1
USD/người/ngày.
Một con số thật không thể tin nổi? làm
sao có thể sống với thu nhập như vậy, nhưng đây là thực tế không hề bị
phóng đại. Bạn đọc có thể kiểm chứng số liệu này từ các nguồn báo cáo
công khai của chính phủ.
Thực tế thật buồn đó là điều làm cho
chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp ở nông thôn rất thấp. Thu nhập
thấp thì sẽ phải tiết giảm chi phí tối đa, thậm chí cắt giảm cả ăn, uống
và học hành văn hóa, ngoại ngữ, tin học…Vì thế người lao động Việt nam
đang ngày càng bé nhỏ đi, tri thức cũng thấp, tin học, ngoại ngữ yếu.
Làm gì để nâng cao chất lượng lao động nông thôn
Ở hầu hết các nước đều có chính sách hỗ
trợ nông nghiệp, trợ giá cho nông nghiệp. Trong khi hiện tại chi phí này
ở ta đang quá lớn, gây bức xúc cho người dân. Cách đây không lâu thời
báo Đại kỷ Nguyên đã đưa bài một con gà đang ‘cõng’ tới 14 loại phí,
lệ phí như kiểm dịch gà con mới nở, cấp giấy kiểm dịch xuất khẩu gà
khỏi trang trại ngoài tỉnh, kiểm soát giết mổ, tiêu độc, khử trùng… Quá
trình chăn nuôi, các cơ sở phải lấy mẫu nước để kiểm tra xem có bệnh gì
trên gia cầm không cũng phải đóng phí.
Ba nhà là nhà nước, nhà doanh nghiệp,
nhà khoa học chưa thật sự thương xót lo lắng cho nhà nông. Tìm mọi biện
pháp để hỗ trợ phát triển nông nghiệp và nông dân, điều đó đòi hỏi cả 4
nhà phải có cái Tâm, phải nhìn vào thực tế đáng buồn trên để đưa ra
những giải pháp hữu hiệu hơn nữa.
Thành Tâm
Chuyện lạ đời, nước nông nghiệp mà người dân phải lo rau sạch!
12/04/20151,827 lượt xem
(Ảnh: internet)
Những năm gần đây an toàn
thực phẩm đã trở thành vấn đề toàn cầu, cần tới nỗ lực giải
quyết của chính phủ các nước cũng như đã thu hút sự quan tâm
của người tiêu dùng thực phẩm trên toàn cầu. Do đó, “Ngày Sức
khoẻ Thế giới” (07/4) năm nay được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)
lựa chọn với chủ đề là “An toàn thực phẩm”. Việt Nam cũng hưởng
ứng tháng hành động vì an toàn thực phẩm, Đại Kỷ Nguyên tiếng Việt sẽ
cùng đọc giả xem vì sao.
Riêng đối với Việt Nam thì an toàn thực
phẩm lại được coi trọng hơn bao giờ hết. Bởi vì thực phẩm bẩn đang tran
lan, bủa vây người tiêu dùng. Thực phẩm bẩn đến từ Trung Quốc, và chính
từ tại Việt Nam. Bẩn, không đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh trong tất cả
các loại thực phẩm từ thịt, cá, rau, củ và các loại hoa quả, trái cây..;
từ khâu sản xuất đến chế biến, tiêu thụ; từ nông thôn đến thành phố, từ
chợ bình dân cho đến các siêu thị cao cấp.
Thông tin về thực phẩm bẩn tràn lan trên
các phương tiện truyền thông khiến mọi người rất hoang mang. Từ rau
phun thuốc trừ sâu sát ngày thu hoạch, sử dụng thuốc kích thích tăng
trưởng, thuốc kích phọt, trồng rau bằng nguồn nước bẩn; thông tin về dư
lượng thuốc kháng sinh trong thịt lợn, cá của Việt Nam; thông tin về bơm
thêm hóa chất vào tôm để tăng trọng lượng; về bơm nước bẩn vào bò, lợn
để tăng cân khi mổ bán; thông tin về sử dụng hóa chất để nhúng các loại
trái cây cho nhanh chín và không bị thối; thông tin về làm gà nướng bằng
đèn khò hàn; thông tin về sử dụng mỳ chính hết hạn để chế biến món ăn;
thông tin về thịt thối đưa vào cho các cơ sở chế biến suất ăn công
nghiệp cung cấp cho các trường học…
Hậu quả của thực phẩm bẩn
Tỷ lệ tử vong do ung thư của người Việt
Nam cao nhất thế giới, với 75.000 người chết vì ung thư hàng năm. Theo
thống kế gần đây tốc độ tăng số bệnh nhân ung thư 5,4%/năm, mỗi năm
chúng ta có thêm 150.000 ca ung thư mới. Trong đó, 30% số ca mắc ung thư
là do ăn phải thực phẩm bẩn. Nếu như tình trạng thực phẩm bẩn còn tràn
lan như hiện nay, con số kinh hoàng này sẽ còn gia tăng hơn nữa.
Hàng ngày trên các phương tiện truyền
thông đều đưa tin về ngộ độc thực phẩm, đôi khi xảy ra với hàng trăm
người, đau xót hơn là ngộ đọc xảy ra với trẻ nhỏ, với học sinh khi ăn
các suất ăn công nghiệp và ăn quà vặt ở cổng trường.
Hậu quả sâu xa là, năm 2014 trẻ em Việt
Nam bị suy dinh dưỡng đến gần 40%, trong đó, nhẹ cân chiếm 14,5%, thấp
còi chiếm 25%. Sau mấy chục năm, người Việt Nam đã thấp còi đi rất nhiều
so với người Nhật (trước đây gọi là Nhật lùn), người Hàn quốc, Trung
Quốc…
Mỗi năm chúng ta có thêm 150.000 ca ung thư mới. Trong đó, 30% số ca mắc ung thư là do ăn phải thực phẩm bẩn.
Hậu quả làm mất lòng tin, suy thoái đạo
đức, chỉ vì lợi nhuận, lợi ích cá nhân mà chính người Việt tự giết mình,
giết chết lẫn nhau. Không biết những người sản xuất,
người bán hàng họ thờ ơ hay vì thiếu hiểu biết? Rõ ràng là họ đang tự
giết mình, giết xã hội, làm thui chột nòi giống người Việt mình.
Về kinh tế, hậu quả là sức mua các sản
phẩm nông nghiệp tại thị trường trong nước hiện nay giảm đi rất nhiều.
Vì người tiêu dùng hoang mang lo sợ tác hại của thực phẩm bẩn, rau bẩn,
hoa quả bẩn nên đã hạn chế tiêu dùng để hạn chế độc hại. Mặt khác người
tiêu dùng chuyển hướng sang mua hàng ngoại, mua trong các siêu thị, mua
hàng hóa có nguồn gốc xuất xứ an toàn, nên thực phẩm ngoại có cơ hội
tràn vào Việt Nam. Điều này, làm cạnh tranh, giảm cầu đối với sản xuất
nông nghiệp trong nước. Là một nước nông nghiệp mà không chiến thắng về
sản phẩm nông nghiệp ngay thị trường trong nước thì làm sao tiến được ra
ngoài?
Người dân phải tự lo rau sạch
Với nỗi lo mất an toàn vệ sinh thực
phẩm, nhiều người dân thành phố đã tìm đến siêu thị để mua rau, củ với
mong muốn được dùng rau “sạch”. Tuy nhiên, do lượng rau an toàn có hạn
nên một số siêu thị đã nhập rau từ nhiều nguồn, không đảm bảo chất
lượng, thậm chí có cả hàng Trung Quốc. Mà giá trong siêu thị thì phải
đắt, giá bán ra ở đây đắt gấp đôi các chợ truyền thống.
Tự trồng rau sạch tại nhà (Ảnh: internet)
Những gia đình giàu có, có điều kiện,
thì giống như các khách sạn 5 sao, họ nhập toàn bộ thực phẩm, gồm thịt,
cá, rau, hoa quả từ nước ngoài về qua đường hàng không.
Những gia đình có ít điều kiện hơn thì
tự trồng lấy rau sạch ở quê, thuê đất hay trồng trên sân thượng. Không
còn chuyên môn hóa là người chuyên trồng rau nữa. Không chỉ giáo sư,
tiến sĩ mà ông Lê Khả Phiêu cũng phải tự trồng rau sạch, với các thiết
bị trồng rau hơn 100.000 đô. Nếu vào các trang web thì chúng ta sẽ thấy
đủ các cách trồng rau, làm vườn trên sân thượng.
Thế là một đất nước nông nghiệp mà rất nhiều người, kể cả giáo sư, tiến sĩ cũng phải tự trồng lấy rau sạch.
Còn đối với dân nghèo thì sao? Họ lo bữa
ăn còn chưa đủ thì cần gì phải nghĩ đến sạch. Đây mới thật sự là hiểm
họa lớn cho 70% nông dân chủ yếu là nghèo của Việt Nam.
Cần phải giải quyết triệt để vấn nạn thực phẩm bẩn
Vì sao một đất nước nông nghiệp, có
truyền thống văn hóa hàng ngàn năm lịch sử, với đạo đức thuần phong mỹ
tục đáng tự hào mà người dân lại phải khổ sở với việc rất nhỏ là rau
sạch, đặc biệt là người dân nghèo, có cái ăn đã là khó, còn để được ăn
sạch thì là quá khó?
Chúng ta cần chung tay ngăn chặn việc
nuôi trồng, chế biến, sản xuất và buôn bán thực phẩm bẩn này. Các cơ
quan chức năng liên quan phải thực sự xem đây là một vấn nạn nghiêm
trọng, để nghiên cứu tìm ra giải pháp giải quyết dứt điểm tình trạng
thực phẩm bẩn từ khâu sản xuất cho đến tiêu thụ. Không chỉ lên án, kiểm
tra thường xuyên, phạt nặng, mà còn phải cung cấp kiến thức và giảng
giải rõ cho người dân – những người tham gia vào dây chuyền cung ứng
thực phẩm, hiểu được tác hại của việc chạy theo lợi nhuận bất chấp hậu
quả mà họ đang vô tình hoặc cố ý tham gia. Một mặt giúp nâng cao trình
độ hiểu biết, nâng cao chuẩn mực đạo đức của người sản xuất thực phẩm,
một mặt kiểm tra rà soát và phạt nặng những trường hợp vi phạm. Nhưng
trên hết là nhà nước và cả người dân phải quyết tâm cải thiện tình trạng
thực phẩm bẩn này một cách thật dứt điểm.
Thiết nghĩ, chúng ta có giờ Trái đất,
kêu gọi mọi người tiết kiệm năng lượng, chúng ta có những chương trình
vì môi trường xanh, có những tổ chức bảo vệ động vật hoang dã… Vậy mà
đối với thực phẩm là thứ tác động trực tiếp lên sức khỏe của bản thân,
gia đình, xã hội, tác động đến giống nòi của dân tộc thì lại đối đãi
lỏng lẻo và chưa xứng tầm với sức nặng của nó.
Cũng mong rằng các cơ quan quản lý,
người sản xuất, chế biến, buôn bán thực phẩm còn có thiện tâm, biết nghĩ
đến người khác vì thật sự, những gì chúng ta làm trong cuộc sống này
cũng giống như tiếng vọng, nó sẽ quay lại với bản thân và người nhà của
chúng ta.
Thành Tâm
Buông lỏng quản lý phân bón, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp
(Ảnh: baothaibinh.com.vn)
Cả nước có 1000 cơ sở sản xuất
phân bón tự phát, tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, không
đủ năng lực chuyên môn, hệ thống đại lý nhiều cấp, tư thương lợi dụng
nâng giá để trục lợi từ người nông dân nghèo, cùng với nạn phân bón giả,
phân bón kém chất lượng hoành hành, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp
và bản thân những nhà sản xuất phân bón chân chính ngày chịu thua thiệt
vì không cạnh tranh lại với… hàng giả.
Đây là thông tin được ông Nguyễn Hạc
Thúy – Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón Việt
Nam báo cáo tại Hội Thảo “Thực trạng thị trường phân bón Việt Nam và thế giới – Định hướng tái cơ cấu hệ thống sản xuất kinh doanh phân bón”, tại Hà Nội, ngày 12/10/2015.
Điều kiện sản xuất kinh doanh phân bón
cũng quy định cơ sở sản xuất phân bón không có phòng thử nghiệm… thì
phải có hợp đồng với phòng thử nghiệm được chỉ định. Song một thực tế là
có nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, không đủ năng lực
chuyên môn, không có phòng thử nghiệm nên thuê ngoài giám định chất
lượng, kiểm tra chất lượng nguyên liệu đầu vào. Thực tế này dẫn đến nguy
cơ doanh nghiệp nhỏ lẻ dễ lách luật, tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp làm phân bón giả, phân bón kém chất lượng.
Theo điều tra mới nhất của Hiệp hội Phân
bón tại 60% tỉnh, thành, cả nước đã có hơn 700 cơ sở sản xuất phân bón.
Do đó, nếu điều tra trên toàn 63 tỉnh, thành thì số cơ sở doanh
nghiệp có thể lên tới 1000. Mặc dù Bộ Công Thương đã có quy hoạch phát
triển hệ thống sản xuất phân bón, song đến nay ngành phân bón Việt Nam
vẫn là một nền sản xuất tự phát.
“Việc cung ứng thì chồng chéo, phân
bón trong Nam đưa ra Bắc, phân bón ngoài Bắc đưa vào Nam cùng một tên,
cùng một chủng loại, cùng hệ số… Hệ thống đại lý thì có quá nhiều cấp.
Các yếu tố trên làm đội giá thành sản phẩm, nông dân nghèo phải chịu,
phải mua. Ngoài ra, phân giả phân bón kém chất lượng còn đang là một tệ
nạn”– Ông Thúy cho hay.
Do đó, đại diện của Hiệp hội Phân bón
cho rằng mỗi doanh nghiệp nên giao cho một Bộ quản lý, đối với các doanh
nghiệp chuyên sản xuất phân bón hữu cơ có sản xuất một phần phân bón
vô cơ, từ 18 – 20% thì nên giao cho Bộ NN&PTNT quản lý. Doanh
nghiệp chuyên sản xuất vô cơ, có tham gia sản xuất một phần hữu cơ thì
giao cho Bộ Công Thương quản lý.
Đặc biệt, phải có tiêu chí và chế tài xử
phạt hành chính, xử phạt hình sự đối với cán bộ thực thi nhiệm vụ. Ông
Thúy cho rằng, hiện nay trong ngành phân bón đang có sự bao che, lợi ích
nhóm khi hàng loạt vụ việc làm trái quy định của pháp luật, song vẫn
được tiếp tay làm sai lệch, đổi mẫu phân bón kiểm định, cấp giấy chứng
nhận kiểm định chất lượng phân bón giả thành phân bón tốt.
Nhưng tại Việt Nam, lại xuất hiện nhiều
cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, không đủ năng lực chuyên môn.
Từ đó đã dẫn đến hệ thống đại lý phân nhiều cầu cấp, tư thương lợi dụng
đánh giá tình hình thị trường sai và yếu để trục lợi từ người nông dân.
Quan trong hơn, chính từ sự tự phát, chộp giật và lạc hậu ấy, đã tạo
nhiều kẽ hở cho phân bón giả, phân bón kém chất lượng có “đất” hoành
hành, ảnh hưởng tới người nông dân và bản thân những nhà sản xuất phân
bón chân chính ngày chịu thua thiệt vì không cạnh tranh lại với… hàng
giả.
“Vụ phân bón giả tại Đồng Nai, vụ
phân bón giả, phân bón kém chất lượng Bình Điền tại Hải Phòng, hàng chục
nghìn tấn, lít phân bón bị thu giữ… trong thời gian qua cho thấy sự
nguy hại của vấn nạn quốc gia này. Người nông dân khốn khổ, doanh nghiệp
Việt làm ăn chân chính điêu đứng, trong khi vấn đề xử lý chưa thực sự
nghiêm khắc. Phải chăng chúng ta đã buông lỏng thị trường này quá lâu,
mặc sức ai muốn làm gì thì làm?”– ông Thúy đặt câu hỏi.
Trên thực tế, công tác quản lý ngành
phân bón chịu sự quản lý chính của hai Bộ Công thương (phân vô cơ) và Bộ
NN&PTNT (phân hữu cơ). Nhưng sự phân công trách nhiệm giữa hai Bộ
còn nhiều chồng chéo, trùng lắp và tạo nhiều lỗ hổng trong quản lý sản
xuất kinh doanh phân bón. “Chỉ đơn cử một doanh nghiệp chịu sự quản
lý của hai Bộ, mỗi bộ lại có những quy định riêng, vậy chỉ riêng việc
đăng ký hồ sơ pháp lý sản phẩm, công bố hợp quy, cấp phép… lại không
biết theo ai, như thế nào. Khe hở chính là đây. Đó cũng là cơ hội cho
phân bón giả, phân bón kém chất lượng trót lọt từ sản xuất ra tới thị
trường” – ông Đỗ Doãn Hùng, Tổng Giám đốc Công ty Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc cho biết.
Tự phát đến bao giờ? Tại Quy hoạch phát
triển hệ thống sản xuất và hệ thống phân phối mặt hàng phân bón giai
đoạn 2011-2020, có xét đến năm 2025 đã đưa ra rất nhiều định hướng, giải
pháp, quy mô phát triển, thu hút đầu tư, xã hội hóa cho đầu tư… song
kết quả đến nay chưa đạt như kỳ vọng của chính phủ và nhân dân.
Thành Long
“Luống chè gia đình” đe dọa tương lai ngành chè Việt Nam
26/05/20153,703 lượt xem
Mỗi hộ dân vùng chè thường trừ ra một
khoảnh gọi là “luống chè gia đình”. Đó là luống chè không phun thuốc
BVTV độc hại, lớn chậm, thỉnh thoảng chịu sâu bệnh nhưng ra búp nào hái
búp đó rồi đem đi sao cho gia đình sử dụng. Còn chè sản xuất, có thách
cỡ nào họ cũng chẳng uống.
Việt Nam là một trong những nước
trồng chè truyền thống, chè búp của Việt Nam đã đến với nhiều thị
trường thế giới. Ngành chè đã tạo công ăn việc làm cho hàng triệu nông
dân và góp phần đáng kể cho xuất khẩu nông sản.
Những năm qua, ngành chè đã có những
bước tiến khá rõ rệt như sản lượng tăng, giá thành giảm, nhưng chất
lượng của sản phẩm chè vẫn còn rất nhiều vấn đề đáng lo ngại. Đặc biệt
là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV). Nếu không quản lý tốt các vùng
nguyên liệu, ngành chè sẽ phải trả giá.
Từ chuyện “luống chè gia đình” đã nói
lên thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ BVTV ở một số vùng chè nguyên liệu
và phát hiện những sự thật rất đáng lo ngại.
Ví dụ như tại Huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú
Thọ có hơn 2.000ha chè nguyên liệu. Mặc dù đã có nhiều chương trình, dự
án quy hoạch Thanh Sơn trở thành vùng chè sạch, chè an toàn của tỉnh,
nhưng chứng kiến quy trình sản xuất chè ở một số xã trên địa bàn huyện
hẳn không ít người cảm thấy lo lắng. Thực trạng sử dụng thuốc BVTV vô
tội vạ đang dần giết chết vùng chè nổi tiếng bậc nhất tỉnh trung du này.
Chè Thanh Sơn, Phú Thọ
Văn Miếu là một trong 14 xã vùng chè của
huyện, được tỉnh Phú Thọ quy hoạch thành vùng chè an toàn đồng thời là
một trong những xã có diện tích trồng chè lớn nhất, tập trung nhiều
xưởng chế biến nhất Thanh Sơn. Nhưng ở đây, những bãi rác thải nằm ngổn
ngang chất đầy vỏ thuốc BVTV đã qua sử dụng đã nói lên độ độc ở vùng
chè. Từng đống bao bì thuốc BVTV còn nguyên nhãn mác, phần lớn trong số
đó là thuốc hóa học độ độc cao, thậm chí còn có những vỏ lọ không có
nhãn mác, hoặc nhãn mác Trung quốc, không có xuất xứ rõ ràng.
Chăm sóc đồi chè gia đình (Ảnh: baophutho.vn)
Người trồng chè thừa nhận, không phun
thì sâu bệnh nó phá, còn phun thì biết là độc. Người ta quảng cáo vùng
chè sạch đấy nhưng toàn phun vài ba ngày đã hái bán cho các đầu nậu thu
gom cho các lò sấy hoặc xưởng chế biến, không ai biết đâu.
Vì thế mỗi hộ dân vùng chè thường trừ
ra một khoảnh gọi là “luống chè gia đình”. Đó là luống chè không phun
thuốc BVTV độc hại, lớn chậm, thỉnh thoảng chịu sâu bệnh nhưng ra búp
nào hái búp đó rồi đem đi sao cho gia đình sử dụng. Còn chè sản xuất, có
thách cỡ nào họ cũng chẳng uống.
Nông dân quan niệm, một khi chè đã bán
ra khỏi đồi nhà mình thì độc hay không cũng không liên quan gì đến họ.
Chính vì vậy nông dân mặc sức sử dụng thuốc BVTV vô tội vạ, miễn là đến
vụ đủ sản lượng để bán.
Trên địa bàn huyện Thanh Sơn có hơn chục
xưởng chế biến chè chủ yếu cung ứng cho các DN đăng ký vùng nguyên liệu
trên địa bàn. Những xã như Văn Miếu, Võ Miếu, Minh Đài… có từ 2-3 xưởng
chế biến hoạt động, việc thu mua nguyên liệu nhập nhèm, không an toàn
của các đầu nậu thu gom không thể nào tránh khỏi.
Thuốc trừ sâu, trừ rầy thì đương nhiên
là phải độc thì sâu rầy mới chết. Còn chè nhiễm độc thì có bán cho dân
mình uống đâu mà lo! Đó là thực trạng các DN sản xuất chè mọc lên như
nấm nhưng lại không chịu xây dựng vùng nguyên liệu bền vững. Và do thiếu
nguyên liệu nên những DN này mua bừa của các đại lý thu gom, không kiểm
tra được chất lượng chè sạch hay là bẩn.
Thế là chỉ vì cái lợi trước mắt mà người
trồng chè đang có nguy cơ bị mất nghiệp, vì người tiêu dùng đang lo
ngại về độc hại, Đài Loan là nước nhập khẩu chè lớn nhất của Việt Nam
cũng đang có những biện pháp quản lý gắt gao. Sản xuất bẩn, sản xuất
không có lương tâm thì không thể nào bền vững được.
Nhưng cũng không thể đổ lỗi hết cho nông
dân, mà các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu và cơ quan quản lý nhà
nước cũng phải vào cuộc để cứu vãn cho ngành chè của Việt Nam.
Thành Long
Lập Tổ điều tra trà xuất khẩu Việt Nam bị cảnh báo
25/05/2015223 lượt xem
(Ảnh: travina.com.vn)
Theo thông tin từ Bộ
NN&PTNT, Bộ vừa giao Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản
(Nafiqad), phối hợp với Cục Bảo vệ Thực vật thành lập Tổ công tác đặc
biệt điều tra vụ việc cơ quan thẩm quyền Đài Loan cảnh báo 22 lô hàng
trà đen của Việt Nam xuất khẩu vào Đài Loan vượt ngưỡng dư lượng thuốc
bảo vệ thực vật (BVTV).
Theo đó, Bộ yêu cầu các đơn vị trên
phải báo cáo về Bộ chi tiết kết quả điều tra (thông tin về lô hàng
nhiễm: Nguồn gốc, xuất xứ, nhiễm tại công đoạn nào, phân tích các mẫu
trong lô hàng bị nhiễm, nguyên nhân nhiễm, đề xuất biện pháp khắc phục…)
trước ngày 30/6/2015.
Đồng thời, Bộ cũng yêu cầu Cục BVTV phải
xây dựng Chỉ thị yêu cầu các địa phương tổ chức lại việc sản xuất trà
thông qua hình thức hợp tác xã nhằm kiểm soát được việc sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật, đảm bảo an toàn thực phẩm cho sản phẩm trà, đáp ứng yêu
cầu của người dân, giữ uy tín ngành chè Việt Nam.
Từ tháng 2/2015 đến nay, phía Đài Loan
mỗi tuần kiểm tra và phát hiện từ 1 đến 4 lô chè đen của Việt Nam có dư
lượng thuốc BVTV không đạt yêu cầu.
Phía Đài Loan cũng đã đề nghị Việt Nam
tăng cường các biện pháp quản lý sản xuất, kết hợp hướng dẫn nông dân
trồng chè để đảm bảo chất lượng, tiêu chuẩn kiểm nghiệm, kiểm dịch. Đồng
thời, chờ cơ quan quản lý chất lượng nông sản Việt Nam đưa ra văn bản
chứng minh và trao đổi các biện pháp quản lý chất lượng mặt hàng này.
Theo Thống kê của Đài loan, Việt nam
chiếm 70% thị phần nhập khẩu chè của Đài loan. Tuy nhiên, năm 2014 có
17% chè đen nhập từ Việt nam không đạt tiêu chuẩn.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét