CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 89/a (Thiên thời)
(Trích: "THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 31/a")
THIÊN THỜI
(...)
***
***

THIÊN THỜI
(...)
Sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước thắng trận mở “Hội nghị hòa
bình” ở Vécxai (ngoại vi Pari - thủ đô nước Pháp) để phân chia lại thế
giới.
Hội nghị khai mạc ngày 18-1-1919 và kéo dài suốt năm sau, trong bối cảnh thế giới đã có nhiều biến đổi lớn lao:
Do
hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất và sự thắng lợi của Cách mạng
tháng Mười Nga mà một cao trào đấu tranh cách mạng đã bùng nổ và phát
triển mạnh mẽ trong những năm 1918 - 1923 ở hầu hết các nước tư bản lẫn
các nước thuộc địa, phụ thuộc. Chiến tranh cũng đã tàn phá nghiêm trọng
các nước tham chiến ở châu Âu và làm thay đổi căn bản tương quan lực
lượng giữa các nước tư bản: ba nước đế quốc lớn là Đức, Áo - Hung, Thổ
Nhĩ Kỳ bị bại trận thì suy sụp, phân rã; các nước Anh, Pháp, Ý, Nhật tuy
thắng trận nhưng cũng bị suy yếu nghiêm trọng; riêng Mỹ vì tham gia
chiến tranh muộn lại thu về 24 tỷ đôla nhờ buôn bán vũ khí nên đã vươn
lên hàng đầu về kinh tế, trở thành chủ nợ của các nước châu Âu.
Ngày
8-1-1918, tổng thống Mỹ là Uynxơn đưa ra “Chương trình 14 điểm” dưới
hình thức một thông điệp gửi Quốc hội Mỹ nhằm lập lại hòa bình. Nội dung
14 điểm của Uynxơn gồm:
- Hòa ước ký công khai (không thương lượng riêng hoặc kín).
- Hoàn toàn tự do đi lại trên mặt biển.
- Hủy bỏ những hàng rào kinh tế.
- Giảm vũ khí các nước đến mức tối thiểu.
- Giải quyết công tâm những vấn đề thuộc địa, chiếu cố các dân tộc bản xứ và các chính phủ.
- Rút quân khỏi Nga, để Nga tự chọn lấy chính phủ.
- Rút quân khỏi Bỉ, không hạn chế chủ quyền.
- Rút quân khỏi Pháp và hoàn lại Andát - Loren cho Pháp
- Điều chỉnh biên giới Ý theo nguyên tắc dân tộc.
- Đảm bảo quyền phát triển tự lập của các dân tộc Thổ, tự do quốc tế vùng eo biển.
- Rút quân khỏi Rumani, Môngtênêgiơrô. Mở đường ra biển cho Xécbi.
- Bảo đảm quyền phát triển tự lập của các dân tộc Thổ, tự do quốc tế vùng eo biển.
- Phục hưng Ba Lan độc lập, có đường ra biển.
- Thành lập một “Tổng hội các dân tộc”.
Bóng
bẩy như thế nên ngày 11-11-1918, các bên tham chiếu chấp nhận ngưng
xung đột vũ trang theo chủ trương của Mỹ và “chương trình 14 điểm” được
coi là nguyên tắc để thảo luận tại hội nghị Vécxai.
Tham
dự Hội nghị gồm đại biểu của 27 nước thắng trận. Điều khiển Hội nghị là
5 cường quốc Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Nhật nhưng thực sự nắm quyền quyết định
Hội nghị là Mỹ, Anh, Pháp. Các cường quốc thắng trận đều muốn bảo vệ
quyền lợi ích kỷ của mình nên cũng có những ý đồ, tham vọng hết sức khác
nhau trong việc phân chia, thiết lập trật tự thế giới sau chiến tranh.
Do đó Hội nghị Vécxai đã diễn ra hết sức gay go, quyết liệt. Ý đồ của
Pháp (nước có lực lượng bộ binh mạnh nhất Châu Âu) là muốn làm bá chủ
Châu Âu lục địa, đòi chuyển biên giới với nước Đức đến tận sông Ranh,
muốn làm suy yếu hẳn nước Đức bằng cách bắt nước Đức bồi thường thật
nhiều, hạn chế lực lượng quân sự Đức xuống mức tối thiểu, tán thành mở
rộng lãnh thổ một số nước Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Xécbi, Rumani
để kiềm chế Đức và hình thành “vành đai vệ tinh” chống chủ nghĩa
Bônxêvich. Ngoài ra, Pháp còn nhòm ngó đến thuộc địa của Đức ở Châu Phi
và một phần đất của Tiểu Á của đế quốc Ôtôman trước kia. Tuy nhiên trước
Anh và Mỹ, con nợ Pháp phải nhận những biện pháp thỏa hiệp dù không
muốn. Lập trường của Anh thì muốn làm yếu Đức về mặt hải quân, thủ tiêu
hệ thống thuộc địa của Đức, đồng thời cũng muốn duy trì một nước Đức
tương đối mạnh ở trung tâm châu Âu để chống lại phong trào cách mạng
đang sôi sục ở khu vực đó, chống lại âm mưu bá chủ lục địa Châu Âu của
Pháp. Mỹ ủng hộ chính sách “cân bằng lực lượng này”. Bên cạnh đó, Anh
còn muốn củng cố địa vị ở Trung Cận Đông, chiếm miền Trung Á của Liên
Xô, xây dựng quyền thống trị của mình trên các eo biển thuộc Biển Đen ở
Iran và Ápganixtan. Nhật không những muốn củng cố địa vị ở Trung Quốc mà
còn định chiếm cả vùng viễn đông của Liên Xô, mở rộng ảnh hưởng ra cả
vùng Châu Á - Thái Bình Dương. Ý thì muốn mở rộng lãnh thổ của mình
xuống vùng Địa Trung Hải và vùng BanCăng. Các nước nhỏ như Ba Lan,
Rumani… cũng yêu cầu được mở rộng đất đai. Tóm lại, các nước thắng trận
họp Hội nghị đều cố đấu đá, tranh giành hết khả năng để thu được càng
nhiều càng tốt những lợi lộc, béo bở về cho mình. Lênin đã bình luận
châm biếm về Hội nghị Vécxai như sau “… Chúng đã cãi cọ nhau từ 5 tháng
nay, chúng không còn kìm chế được mình và bầy thú dữ đó cắn cấu nhau
loạn xạ đến nỗi chỉ còn lại cái đuôi”
Sau
3 lần có nguy cơ tan vỡ vì tranh cãi, bất đồng, cuối cùng thì các cường
quốc thắng trận cũng thỏa hiệp được với nhau và đi đến ký kết cái gọi
là “Hệ thống hòa ước Vécxai”.
Nội dung chủ yếu của Hệ thống này là: thành lập “Hội Quốc Liên” và ký hòa ước với các nước bại trận.
Quy
ước thành lập Hội Quốc Liên (ký ngày 25-1-1919) nêu rằng mục đích thành
lập tổ chức này là nhằm phát triển sự hợp tác, đảm bảo hòa bình và an
ninh cho các dân tộc, theo nguyên tắc: không dùng vũ lực trong quan hệ
giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lý, phải
thi hành những cam kết quốc tế… Tuy nhiên, về thực chất là nhằm giữ gìn
trật tự của thế giới do các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã xếp đặt lại
tại Hội nghị Vécxai. Nó là kết quả của sự tạm thời dung hòa các mâu
thuẫn trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa và không thể là một công
cụ bảo vệ hòa bình hữu hiệu vì chiến tranh có nguồn gốc từ chính sự tồn
tại và cạnh tranh kinh tế của chủ nghĩa đế quốc.
Hòa
ước Vécxai với Đức (ký ngày 28-6-1919) bao gồm ba loại điều khoản chủ
yếu về lãnh thổ, về đảm bảo an ninh và về bồi thường chiến tranh. Với
hòa ước này, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/2 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần
1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện
tích trồng trọt; chỉ được giữ lại 10 vạn bộ binh với vũ khí thông
thường, không có không quân và hải quân (chỉ có một hạm đội nhỏ); phải
bồi thường khoản chiến phí to
lớn (sẽ do một Ủy ban xác định sau, lên tới 130 tỷ mác)… Tiếp đó, những
hòa ước Vécxai ký với các nước khác là Hòa ước Xanh Giécmanh (ký với Áo
ngày 10-9-1919), Hòa ước Nơiy (ký với Bungari ngày 27-11-1919), Hòa ước
Trianông (ký với Hungari ngày 4-4-1920) và Hòa ước Xevrơ (ký với Thổ Nhĩ
Kỳ ngày 11-8-1920) đều theo lối áp đặt kiểu “đè đầu cưỡi cổ” tương tự
như vậy. Lênin nói “Đấy là một thứ hòa ước kỳ quái, một thứ hòa ước ăn
cướp. Nó đẩy hàng chục triệu con người, trong đó có những người văn minh
nhất, rơi vào tình cảnh bị nô dịch. Đấy không phải là một hòa ước, đấy
là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao buộc một nạn nhân không có
gì tự vệ phải chấp nhận…”
Tóm
lại Hệ thống hòa ước Vécxai không những không làm giảm mà còn làm tăng
thêm sự chia rẽ, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trong hệ thống các nước
tư bản chủ nghĩa; gây ra mầm mống chiến tranh mới, đe dọa hòa bình thế
giới. Đến nguyên soái Phốc, nguyên tổng tư lệnh quân đội Đồng Minh ở
Châu Âu cũng nói: “Đây không phải là hòa bình. Đây là một cuộc hưu chiến
trong 20 năm”. Uyliam Bulít, cộng tác viên đắc lực của Uynxơn, khẳng
định: “Hội nghị hòa bình chỉ làm được một việc là chuẩn bị những xung
đột quốc tế trong tương lai”.
(...)
(...)
Nhìn
chung kết quả của Hội nghị Oasinhtơn hoàn toàn có lợi cho Mỹ. Được như
thế là do Mỹ đang có ưu thế nổi trội về kinh tế và quân sự nhờ “gặt hái”
được qua cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (trong đó có một phần nhờ
“lái súng”, cho vay).
Một
trật tự thế giới mới, vượt ra khuôn khổ Hội nghị Vécxai và được điều
chỉnh, bổ sung từ Hội nghị Oasinhtơn, hình thành và tuân thủ nguyên tắc,
luật lệ mới gọi là “Hệ thống Vécxai - Oasinhtơn”.
Nói
chung, bắt đầu từ năm 1924, các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã chế ngự
được phong trào đấu tranh cách mạng dâng cao trong những năm 1918 đến
năm 1923, khôi phục được nền kinh tế và bước vào thời kỳ phát triển phồn
thịnh trong giai đoạn những năm 1924 - 1929. Trong thời kỳ này, nhờ
tích tụ tư bản mà xuất hiện những công ty tư bản độc quyền khổng lồ mới
mà về qui mô vượt hơn tất cả những gì đã có trước năm 1914; nhờ sự tiến
bộ, những phát minh khoa học kỹ thuật, nhờ hợp lý hóa sản xuất, tổ chức
lao động hiệu quả (nổi tiếng là phương pháp Taylo (Taylor)), nên công
nghiệp tư bản chủ nghĩa tăng trưởng mạnh mẽ.
(...)
Kinh
tế phồn vinh làm giảm bớt nạn thất nghiệp, nâng cao đời sống nhất định
cho tầng lớp lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa đã kéo theo sự ổn định
xã hội, củng cố quyền lực tư sản, các đảng phái, tổ chức chính trị của
giai cấp tư sản ở đó cũng lấy lại được địa vị đã bị mất trước kia. Phong
trào cách mạng vô sản đi vào thoái trào.
Hệ
thống các nước tư bản chủ nghĩa, với những nền kinh tế hàng hóa - thị
trường cạnh tranh tự do, xô bồ vô tổ chức, trong khi khả năng tiêu thụ
(hoặc cung ứng) của thị trường có hạn, tất yếu làm xuất hiện mặt trái
của sự phát triển. Mặt trái đó ngày một bị dồn nén và nếu không có biện
pháp giải tỏa nó (thường không giải quyết kịp thời được bởi lòng tham là
mù quáng!) thì ở trạng thái tột độ, nó sẽ bục vỡ, phát nổ, tạo thành
khủng hoảng (thừa hoặc thiếu).
Tháng
10-1929, cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ ở Mỹ, sau đó lan ra tất cả
các nước tư bản chủ nghĩa và kéo dài đến năm 1933, chấm dứt thời kỳ ổn
định 1924 - 1929. Khủng hoảng diễn ra trên tất cả các ngành công nghiệp,
nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính và đưa đến giảm sút mạnh mẽ mậu
dịch thế giới. Nguyên nhân chủ yếu đưa đến cuộc khủng hoảng này là do
sản xuất của chủ nghĩa tư bản tăng lên, tương ứng làm hàng hóa ngày càng
giảm giá và trở nên ế thừa, dẫn tới suy thoái trong sản xuất.
Cuộc
khủng hoảng năm 1929 - 1933 đã tàn phá nặng nề nền kinh tế, từ đó mà
làm bất ổn xã hội, gây hậu quả tai hại về chính trị ở các nước tư bản
chủ nghĩa. Trong cuộc khủng hoảng này, số công nhân thất nghiệp đã lên
tới 50 triệu. Hàng triệu người mất nhà cửa vì không trả được tiền cầm
cố. Hàng triệu nông dân bị mất ruộng đất, lâm vào nghèo đói. Ở nhiều
nước đã không có bảo hiểm xã hội và thất nghiệp không được phụ cấp hoặc
phụ cấp ít ỏi không thể đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống. Tình
hình đó đã làm cho phong trào đấu tranh cách mạng trỗi dậy: từ thoái
trào tiến dần lên cao trào. Hàng ngàn cuộc biểu tình, tuần hành của
những người thất nghiệp, trong nhiều trường hợp đã xung đột với cảnh sát
và quân đội. Nhiều cuộc bãi công chống việc hạ thấp tiền lương đã nổ ra
ở hầu khắp các nước. Theo thống kê chưa đầy đủ, trong thời gian từ năm
1928 đến cuối năm 1933, số người tham gia bãi công ở các nước tư bản chủ
nghĩa đã lên tới 17 triệu, còn số ngày bãi công là khoảng hơn 2.500
ngày (?).
(...)
(...)
(...)
Trên
Trái Đất này, đất đai trồng trọt, chăn nuôi, cái nền tảng tạo ra lương
thực - thực phẩm từ thiên nhiên thì có giới hạn, trong khi đó, số lượng
loài người cứ tăng lên mãi. Trong xã hội phong kiến, tình hình đó làm
xuất hiện nổi trội mối quan hệ lao động - việc làm (để kiếm ăn) và mối
quan hệ đó ngày một mất cân đối theo hướng dư thừa lực lượng lao động.
Đó là nguyên nhân chủ yếu hình thành một tầng lớp thường trực gọi là vô
sản ngày một đông đảo: những người nông dân bị bần cùng hóa, không còn
“mảnh đất cắm dùi”, phải “cày thuê, cuốc mướn”, tha hương đi khắp nơi
tìm việc, kiếm ăn. Do nhiều nguyên nhân mà lực lượng lao động tự do đó
có thể dao động về số lượng tùy thuộc vào tình hình của từng thời kỳ cụ
thể, nhưng xu hướng của nó là tăng dần lên. Việc áp dụng khoa học kỹ
thuật trong sản xuất cũng góp phần đáng kể vào sự gia tăng ấy, đồng thời
với sự gia tăng sản lượng lương thực - thực phẩm lên mức đáng kể (chỉ
cần một bộ phận lao động trong sản xuất nông nghiệp cũng đủ làm ra miếng
ăn nuôi sống toàn bộ xã hội loài người). Thế nhưng lực lượng lao động
dư thừa không thể hưởng không “miếng ăn” từ thành quả ấy. Họ vẫn đói khổ
trong khi có một bộ phận người sung túc, giàu có muốn ăn ngon mặc đẹp
hơn nữa, muốn thưởng thức đủ thứ “của ngon, vật lạ” có trên đời. Sự bất
ổn của thiên nhiên nhiều lúc càng làm cho tình cảnh thêm bi đát và phân
hóa sâu sắc: bộ phận thiểu số thì muốn duy trì, bộ phận đa số thì vì sự
sống còn của mình mà muốn phá bỏ cái xã hội đang tồn tại đi. Sự bức bối,
bất công khi đã đạt đến cao độ thì đó cũng là lúc bạo lực lên tiếng.
Hiện tượng nổi dậy đấu tranh, khởi nghĩa vũ trang của nông dân ở hầu như
khắp nơi và triền miên đã là một căn bệnh mãn tính của xã hội phong
kiến có lẽ chủ yếu là vì vậy. Chiến tranh đã ra tay giải quyết những bức
xúc xã hội nhưng không triệt để và dù có muốn cũng không thể triệt để
được…
Để
giải quyết những căng thẳng, bức bối tồn tại trong xã hội phong kiến
như: nạn thiếu nghiêm trọng công ăn việc làm, nạn “kẻ ăn không hết,
người lần không ra”, nhu cầu tiêu dùng ngoài miếng ăn (hay còn gọi là
trình độ tiêu dùng) ngày một tăng lên của xã hội cũng như những đòi hỏi
có cuộc sống tiện nghi xa hoa hơn của tầng lớp có của ăn của để, giàu có
và của đám cường hào ác bá, quan quyền, bạo chúa (mà thực ra bản chất
chính là giải quyết lượng lương thực - thực phẩm “dư thừa” tích lũy, vơ
vét được của bộ phận người này!)…, đến một thời điểm chuyên môn hóa và
tập trung cao độ: công nghiệp. Quá trình hình thành ngành sản xuất công
nghiệp cũng là quá trình ra đời một hình thái kinh tế xã hội mới gọi là
Tư bản chủ nghĩa.
Sản
xuất công nghiệp đã phân định rạch ròi, giữa chủ tư bản (người bỏ vốn
đầu tư, sở hữu nhà xưởng, máy móc thiết bị, thuê người làm để hưởng lợi)
và công nhân (người làm thuê, bỏ sức lao động ra để hưởng lương, một
lượng tiền được chủ ấn định hoặc thỏa thuận). Sản xuất công nghiệp đã
tạo ra vô số công ăn việc làm cho lực lượng nông dân tự do, cho những
người vô sản. (Chúng ta quan niệm vô sản là những người đói khổ, bần
cùng do thiếu công ăn việc làm hoặc làm với đồng lương rẻ mạt vừa đủ ăn
hoặc thậm chí là không đủ ăn. Như vậy, giai cấp công nhân chỉ là một bộ
phận của tầng lớp vô sản và vô sản được hiểu tương đối như là tầng lớp
quần chúng thu nhập thấp nhất trong xã hội).
Xã
hội tư bản ra đời là một lẽ tự nhiên, do đòi hỏi của Đức Huyền Diệu.
Cho nên phải thừa nhận rằng xã hội ấy có tính nhân đạo cao hơn, tự do
hơn, bình đẳng hơn, dân chủ hơn so với xã hội phong kiến.
(...)
“Châu
Âu là một cái hang chuột”, đó là lời nói của Napôlêông. Chính sự “chật
hẹp” của nó cùng với mùa đông lạnh giá đã không dung dưỡng nổi số lượng
dân cư ngày càng tăng đã là nguyên nhân sâu xa nhất của những cuộc chiến
tranh ăn cướp dưới lớp áo giáp tôn giáo: Thập tự chinh. Hiện tượng đó
lại có thể là một trong những nguyên nhân thúc đẩy nền khoa học - kỹ
thuật châu Âu nhanh chóng vượt trội, sớm được áp dụng vào sản xuất và
trở thành bà đỡ cho xã hội tư bản chào đời để thay thế xã hội phong kiến
già nua. Đến đây, chúng ta hiểu được vì sao xã hội tư bản xuất hiện và
phát triển đầu tiên trên thế giới là ở châu Âu.
Theo
quan niệm của Đức Huyền Diệu thì hình thái tư bản chủ nghĩa là một tiến
bộ của xã hội loài người. Tuy nhiên nó vẫn chưa phải là một ước vọng lý
tưởng của Đức Huyền Diệu, vì trong lòng nó vẫn tồn tại những vấn nạn về
áp bức, bất công, đói khổ, tàn bạo, nhất là vào thời đoạn tích lũy tư
bản đầu tiên và tranh giành đế quốc.
(...)
Lịch
sử đã ghi nhận sự quá ư tàn bạo của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ đầu
tích lũy tư bản và tranh đoạt thị trường bằng vũ lực của nó. Không thể
chối cãi nổi rằng quá trình tích lũy tư bản ban đầu đã được thực hiện
bằng nhiều biện pháp tăng cường như chiếm đoạt ruộng đất, tăng thuế, ban
hành quốc trái… trong đó có hai biện pháp mà Mác cho là trắng trợn và
tàn bạo nhất: phong trào rào đất ở Anh và việc cướp bóc thuộc địa. Lúc
bấy giờ, do sự phát triển nhanh chóng của nghề len dạ ở nước Anh, nhu
cầu về lông cừu ngày càng nhiều và giá lông cừu cũng tăng vọt. Vì vậy,
“biến đồng ruộng thành bãi chăn cừu đã trở thành khẩu hiệu của các chúa
phong kiến” (trong bộ “Tư bản” của C. Mác), và: “Việc tìm thấy những
vùng có mỏ vàng và mỏ bạc ở châu Mỹ, việc tuyệt diệt người bản xứ, bắt
họ làm nô lệ và chôn vùi họ trong các hầm mỏ, việc bắt đầu đi chinh phục
và cướp bóc miền Đông Ấn, việc biến châu Phi thành khu cấm để săn bắt,
buôn bán người da đen - đó là buổi bình minh của thời đại sản xuất tư
bản chủ nghĩa” (cũng trong “Tư bản”). Cũng theo Mác thì: “Những kho tàng
trực tiếp chiếm đoạt được ở ngoài châu Âu bằng cướp bóc nô dịch người
địa phương, giết người cướp của, được dồn về chính quốc và trở thành tư
bản ở đó”, và như vậy, quá trình tích lũy ban đầu, dù dưới hình thức nào
cũng “được thực hiện với một sự phá phách tàn nhẫn nhất và dưới sự thúc
đẩy của những dục vọng thấp hèn nhất, bẩn thỉu nhất, nhỏ nhen nhất và
đáng ghét nhất”. Do đó, “nếu tiền, theo lời của Ôgiê: “ra đời với một
vết máu ở bên má” thì tư bản mới ra đời lại có máu và bùn nhơ rỉ ra ở
tất cả các lỗ chân lông, từ đầu đến chân”.
(...)
Bản
thân quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như chế độ tư hữu không
xấu, sự thi đua hay cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động kinh tế là
chính đáng. Lao động thặng dư là mục tiêu tất yếu của nền sản xuất hàng
hóa vì nó cũng chính là động lực cho nền sản xuất ấy tồn tại. Vươn lên
giàu có, sung túc, thịnh vượng chính là hành động phù hợp Đức Huyền Diệu
(nhưng vươn lên bằng bất cứ giá nào, kể cả bằng những biện pháp bóc
lột, ăn cướp độc ác nhất, đê tiện nhất thì lại là có tội, thậm chí là
trọng tội theo quan niệm của Đức Huyền Diệu). Dư luận của Đại Chúng mọi
thời đại bao giờ cũng ngợi ca chứ chưa từng chê trách sự giàu có, miễn
sự giàu có đó có nguồn gốc từ sức lực, tài năng và trí tuệ của bản thân
chủ sở hữu.
Nói
cho công bằng, chủ nghĩa tư bản đã tháo gông xiềng cho nền kinh tế -
xã hội phát triển lên cao độ bằng chiếc chìa khóa gọi là “cạnh tranh tự
do”. Mặt phải của cạnh tranh tự do là tiến bộ, giải quyết những vấn
nạn, bức bối, căng thẳng của quan hệ cung - cầu trong xã hội… Nhưng mặt
trái của cạnh tranh tự do, vì những nguyên nhân “nhân tạo” như đã nêu ở
trên (bạo ngược, độc ác, tham lam), là sự mù quáng, thiếu kìm chế,
điều tiết và định hướng trong sản xuất cũng như kích thích tiêu dùng
một cách thái quá gây lãng phí; và tính hiếu chiến của nó. Điều lạ lùng ở
đây là bản thân cạnh tranh tự do là bình đẳng, nhưng trong thực tiễn,
do có sự lũng đoạn của tâm trí con người mà sự bình đẳng ấy luôn bị xâm
phạm, và trong nhiều trường hợp không hẳn là tốt. Rất có thể mức sống
xã hội ảnh hưởng tới văn hóa xã hội. Ví dụ như người ở vùng có mức sống
"dễ thở" hơn thường có lối sống "khoáng đạt" hơn người sống ở vùng khó
khăn hơn...Hiện nay, nếu có người nói người Châu Âu sống nhân văn hơn
người Châu Á thì có thể là vì hiện tượng ấy!
Có
thể nói cạnh tranh tự do đã làm nên nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ
nghĩa và trở thành linh hồn của cái cơ thể ấy. Không có nó, hình thái
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa không thể tồn tại được. Khi nói cạnh
tranh tự do thiếu tính điều tiết thì cũng có nghĩa là vẫn có sự điều
tiết, nhưng sự điều tiết ở đây là tự điều tiết, điều tiết một cách tự
phát theo tác động của qui luật cung cầu (trong đó có qui luật tỷ suất
bình quân lợi nhuận) vì lòng tham cũng như vì quyền lợi sát sườn, có
tính sống còn của các nhà tư bản và của cả đại chúng cần lao. Chính sự
mù quáng của cạnh tranh tự do đã là một trong số những nguyên nhân cơ
bản làm cho thời kỳ đầu của xã hội tư bản trở nên đẫm máu và nước mắt;
làm cho chủ nghĩa tư bản với những “kinh nghiệm” có được từ việc tích
lũy tư bản bằng bạo lực, áp bức nhân dân “chính quốc”, đi gây chết chóc
tang thương để chiếm đoạt, nô dịch khắp thế giới. Và chạy đua vũ trang
cấu xé lẫn nhau giữa các cường quốc tư bản, gây ra hai cuộc chiến tranh
thế giới khủng khiếp. Cũng chính sự mù quáng của cạnh tranh tự do đã là
nguyên nhân chính yếu gây ra những vấn nạn vừa có tính chung của nến sản
xuất hàng hóa, vừa có tính đặc thù, riêng có của nến kinh tế hàng hóa -
thị trường tư bản. Một trong những biểu hiện đặc thù đó, là sự xuất
hiện tình trạng “khủng hoảng thừa” trong đời sống kinh tế xã hội có tính
chu kỳ và như một căn bệnh mãn tính…
Nghe
đến “thừa” chúng ta thường nghĩ đến sự dư dả, sung túc, nhưng khủng
hoảng thừa lại là tai họa. Tại sao sự dư thừa hàng hóa lại tàn phá nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa, gây nên thất nghiệp và làm cho đời sống nhân
dân khốn đốn, nghèo khổ đi? Nếu một ngày đẹp trời trong tương lai, đột
nhiên “đại ngộ”, chúng ta sẽ tiếp tục câu chuyện khủng hoảng này. Còn
bây giờ, chúng ta hãy quay lại với câu chuyện “thời cuộc”!
(...)
1 - Nước Mỹ:
“Chúng
ta đã đi gần đến chỗ xóa sạch nạn nghèo đói hơn bất kỳ nước nào trên
thế giới”, đó là câu nói thiếu hiểu biết một cách “vui vẻ” nhất của Huvơ
(Hoover), ứng cử viên đảng Cộng Hòa, trúng cử tổng thống Mỹ vào năm
1928. Nhiều người Mỹ cũng đã tin như thế vì họ chưa thấy được cái ngày
gọi là “Ngày thứ năm đen tối” ở thị trường chứng khoán Niu Óoc đã ở ngay
trước mặt.

Ngày
24-10-1929, giá cổ phiếu đột nhiên hạ xuống mức thấp kỷ lục, kích hoạt
tình trạng hoảng loạn chưa từng có trong lịch sử thị trường chứng khoán
Niu Óoc vào ngày 29-10-1929. Lúc này giá một loại cổ phiếu được coi là
bảo đảm nhất đã sụt 80% so với tháng 9, các cổ đông đã mất 15 tỷ đôla,
và giá trị các loại chứng khoán đã giảm 40 tỷ đôla. Hàng triệu người đã
mất sạch số tiền mà họ tiết kiệm cả đời.
(...)
Các
nguyên nhân dẫn đến cuộc suy thóai nặng nề nhất và cũng kéo dài nhất
này trong lịch sử nước Mỹ, theo các nhà kinh tế học Mỹ là như sau:
* Khả
năng sản xuất đã vượt quá khả năng tiêu thụ thực tế. Trong khi lợi
nhuận công ty tăng 76% (thời kỳ 1922 - 1929) thì công nhân và nông dân
vẫn không được nhận thêm phần xứng đáng của họ trong thu nhập quốc dân,
do đó không tăng được sức mua xã hội.
* Chính
sách của chính phủ về thuế và nợ chiến tranh làm cho hàng hóa khó bán
ra nước ngoài, đặc biệt là những hàng nông sản truyền thống: lúa mì,
bông, thuốc lá.
* Việc
cấp tín dụng quá dễ dàng đã tạo ra sự lạm dụng. Người ta mua chứng
khoán chủ yếu là để đầu cơ. Nợ của chính phủ và của tư nhân đã vượt qua
số 100 tỷ đôla.
* Sự cơ giới hóa được đẩy mạnh đã làm giảm nhu cầu về thợ không lành nghề làm tăng lực lượng thất nghiệp.
(...)
Trong
cuộc bầu cử năm 1932, Huvơ tiếp tục ứng cử, nhưng ứng cử đại diện cho
đảng Dân Chủ là Rudơven (Franklin D.Roosevelt) đã thắng và trở thành
Tổng thống Mỹ với lời hứa thực hiện “chính sách mới” (New Deal). Cơ sở
lý luận của “Chính sách mới” chính là học thuyết kinh tế Kên (John
Maynard Keynes), một học thuyết có cái nhìn sâu sắc hơn về nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa, đặt nền móng cho sự xuất hiện hình thức nhà nước tư
bản độc quyền (điều tiết vĩ mô nến kinh tế đất nước). Trong bài diễn văn
nhậm chức, Rudơven khẳng định sẽ cứu trợ nạn thất nghiệp, nghèo đói,
lập lại sự cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp, tiến hành kiểm tra
chặt chẽ các hoạt động ngân hàng… Ông đề nghị Thượng Nghị viện cho tổng
thống những quyền hành rộng rãi hơn để ông có thể đương đầu với những
thảm họa quốc gia và khắc phục nó. Thượng Nghị viện chấp nhận và thông
qua tất cả những biện pháp mạnh mẽ và táo bạo của ông.
Với
việc thực thi “Chính sách mới”, có thể không có lĩnh vực nào trong đời
sống kinh tế Mỹ mà những cải cách của Rudơven không đụng chạm tới.
(...)
Tóm
lại, nhờ “Chính sách mới” với những biện pháp cụ thể mang nhiều tích
cực, chính quyền đã đưa nền kinh tế Mỹ thoát cơn nguy kịch, dần
phục hồi và phát triển ổn định trở lại trên con đường dân chủ tư sản. Dù
còn nhiều hạn chế, nhưng những quyết sách đối nội và đối ngoại của
Rudơven - một nhân vật cấp tiến, sáng suốt – cùng với những kết quả đạt
được của chúng đã là đề tài đặc sắc có thể rút ra từ đó những bài học
sâu sắc về “đối nhân xử thế” cho những nhà nước tư bản chủ nghĩa sau
này. Và dù chưa trọn vẹn nhưng những cải cách của Rudơven đã đáp ứng
được những đòi hỏi của nhân dân Mỹ, người lao động Mỹ đương thời đó. Sự
“trị vì” suốt 16 năm (4 nhiệm kỳ tổng thống liên tiếp - lâu nhất trong
các đời tổng thống Mỹ từ trước tới nay) của Rudơven trong thể chế dân
chủ tư sản Mỹ đã nói lên tất cả.
2 - Nước Anh
Cuộc
khủng hoảng kinh tế ở Anh bắt đầu từ cuối năm 1929. Mức độ khủng hoảng
không trầm trọng bằng các nước tư bản chủ nghĩa khác vì nền kinh tế Anh
chưa phát triển lắm. Nhìn chung, cuộc khủng hoảng đã làm tổng sản lược
công nghiệp năm 1932 giảm 20%, ngành ngoại thương (đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế Anh) giảm đến 60%, giá trị đồng bảng Anh giảm
1/3. Nông nghiệp Anh cũng lâm vào khủng hoảng: diện tích trồng trọt và
sản lượng nông nghiệp đều giảm.

(...)
Nước
Anh thoát khỏi khủng hoảng kinh tế vào năm 1934, nhưng phát triển yếu
ớt. Trong những năm trước chiến tranh, nhà nước Anh lấy danh nghĩa “điều
chỉnh kinh tế” (chắc theo gương Mỹ?!) để can thiệp ngày càng sâu vào
nền kinh tế quốc dân và kết hợp với các công ty lũng đoạn. Chính phủ
tăng cường chính sách thuế quan bảo hộ, thành lập khối đồng bảng Anh,
điều chỉnh xuất khẩu hàng hóa và tư bản, định mức sản xuất và tiêu thụ,
đặt hàng quân sự cho các xí nghiệp. Năm 1935, Anh ký với Đức hiệp ước
hải quân (mà thực chất là để cho Đức phát triển hải quân theo qui mô
lớn). Với chính sách “không can thiệp” mù quáng, nước Anh đã làm ngơ
trước những hành động xâm lược của các nước thuộc phe trục sau này là
Đức, Ý, Nhật Bản (chẳng hạn hành động xâm lược Trung Quốc của Nhật; sự
can thiệp vũ trang chống nước Cộng hòa Tây Ban Nha của Đức và Ý dù rất
nhiều quyền lợi của Anh ở đây bị xâm phạm). Khi mâu thuẫn giữa Anh và
các nước nói trên ngày càng rõ nét và Liên Xô đề nghị nước Anh thành lập
một hệ thống an ninh chung, giới cầm quyền Anh đã một mực cự tuyệt. Anh
đã giải quyết mâu thuẫn với Đức bằng thỏa hiệp và hướng Đức tấn công
sang phía đông (tức Liên Xô). Đỉnh cao của chính sách này là hiệp ước
Muynich năm 1938.
3 - Nước Pháp:
Mãi
đến giữa năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế mới bắt đầu ở Pháp bằng sự
phá sản của các ngân hàng, rồi từ đó lan sang tất cả các ngành của nền
kinh tế. Khủng hoảng làm cho sản lượng công nghiệp Pháp giảm 1/3, nông
nghiệp giảm 2/5, ngoại thương giảm 3/5, thu nhập quốc dân giảm 1/3. Cuộc
khủng hoảng gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nhẹ: 130
xí nghiệp dệt vải bị phá sản trong giai đoạn 1929 - 1935. Sản lượng tơ
lụa và len năm 1934 giảm còn một nửa so với của năm 1929.
Khủng
hoảng ở Pháp có đặc điểm kéo dài rất lâu. Mãi đến năm 1936 mới thấy sự
phồn vinh cục bộ, nhưng năm 1937 lại lâm vài khủng hoảng và không đạt
được mức phát triển năm 1929.
Sản
xuất bị thu hẹp gây ra nạn thất nghiệp hàng loạt: năm 1935 có trên nửa
triệu người thất nghiệp. Khủng hoảng đã làm cho tiền lương thực tế giảm
từ 30% đến 40%; làm cho một vạn chủ xí nghiệp nhỏ, 10 vạn tiểu thương bị
phá sản; làm cho thu nhập nông dân giảm 2,7 lần. Tình hình đó làm cho
các cuộc bãi công của công nhân liên tiếp xảy ra, đồng thời cũng làm
xuất hiện nhiều tổ chức phát xít.
(...)
4 - Nước Đức:
Nước
Đức lâm vào một cuộc khủng hoảng hết sức nghiêm trọng về sản xuất công
nghiệp. Sau 3 năm đình trệ thực sự, đến năm 1930, mức sản xuất công
nghiệp của Đức giảm 8,4% so với của năm 1929. Bộ máy sản xuất công
nghiệp Đức vào năm 1933 chỉ sử dụng hết 35,7 công suất, mà số sản phẩm
ít ỏi đó vẫn không tiêu thụ hết. Do đó, nhiều xí nghiệp bị phá sản. Năm
1932, tổng giá trị xuất khẩu không quá 5,7 tỷ Mác (năm 1929 là 13,5 tỷ
Mác)…
Khủng
hoảng kinh tế ở Đức làm cho tiền lương thực tế của công nhân giảm 30%,
tổng thu nhập của nông dân giảm khoảng 3 tỷ Mác. Nạn thất nghiệp lan
tràn khắp nước và tăng lên không ngừng. Năm 1932, ở Đức có tới 9 triệu
người thất nghiệp.


Tác
hại to lớn của khủng hoảng kinh tế kéo dài tất yếu dẫn đến khủng hoảng
chính trị gay gắt. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ nội các chính phủ
của đảng Xã hội - Dân chủ Đức. Ngày 28-3-1930, Bơruninh, lãnh tụ đảng
Trung Tâm, đứng ra lập nội các mới. Chính phủ này đã ra những sắc lệnh
hạ lương công nhân viên chức và công chức cao cấp, giảm bớt trợ cấp xã
hội, đánh thêm nhiều loại thuế mới nhằm vào người lao động, trong khi
lại giảm thuế cho các nhà tư bản. Những biện pháp có tính thiên hữu đó
chỉ làm cho đời sống nhân dân Đức thêm khốn đốn, chỉ có lợi cho nhà tư
bản, và không thể khắc phục khủng hoảng. Hơn nữa, sự thiên hữu của chính
quyền đã tạo thuận lợi cho các thế lực phản động, cực đoan mở rộng ảnh
hưởng, trong đó có đảng Công nhân quốc gia xã hội (gọi tắt là đảng Quốc
Xã, xuất hiện vào năm 1919). Thực tế cho thấy giới đại tư bản, địa chủ
quí tộc và giới quân nhân ngày càng ủng hộ lực lượng cực hữu.
Trong
tình hình đó, các lực lượng cách mạng và dân chủ cũng ra sức hoạt động
để lôi kéo quần chúng lao động, tăng cường đấu tranh chống nguy cơ phát
xít. Đảng Cộng Sản Đức đã công bố “Cương lĩnh giải phóng nhân dân Đức về
mặt xã hội và dân tộc” vào năm 1930 và năm sau công bố tiếp “Cương lĩnh
ruộng đất”. Uy tín của đảng Cộng Sản ngày một nâng cao và thực tế là
tất cả những cuộc đấu tranh lớn của giai cấp vô sản trong những năm
khủng hoảng đều do đảng này lãnh đạo. Tuy nhiên đảng có tiếng nói lớn
nhất trong quần chúng lao khổ - đảng Xã hội Dân Chủ Đức (có gần 40 vạn
đảng viên) lại không hợp tác với đảng Cộng Sản khiến cho đội ngũ công
nhân Đức bị chia rẽ nghiêm trọng.
(...)
Dù
sao, kết quả bầu cử cũng đưa đến sự thay thế chính phủ Papen bằng chính
phủ do Phôn Sơlâykhơ (Vôn Schleischer) thành lập. Chính phủ mới này chỉ
tồn tại được hai tháng. Dưới áp lực của giới quân phiệt và tài phiệt
Đức đòi hỏi một chính phủ “mạnh” hơn mà xu hướng chuyên chính tư sản cực
đoan và dân tộc hẹp hòi nhanh chóng thắng thế. Đảng Quốc Xã được coi là
“lực lượng thực tế” duy nhất và Hitle lĩnh tụ của đảng này được cho là
“người hùng” có thể giải quyết được khủng hoảng, đồng thời ngăn chặn
được chủ nghĩa Bônsêvich ở Đức. Ngày 30-1-1933, tổng thống Hindenbua đã
cử Hitle lên chức thủ tướng Đức. Nước Đức đã chọn con đường phát xít hóa
chính quyền, con đường sẽ dẫn không những là bản thân nó mà cả nhân dân
thế giới đến thảm họa chiến tranh vô cùng tàn khốc, vô cùng đau thương!
Vừa
nắm được chính quyền, Hitle cùng bè đảng đã nhanh chóng thiết lập chế
độ chuyên chính độc tài, khủng bố công khai, thủ tiêu nền dân chủ tư
sản, tuyên truyền mạnh mẽ chủ nghĩa dân tộc cực đoan, ráo riết chuẩn bị
lực lượng chiến tranh.
Ngày
23-2-1933, chính phủ Hitle được trao quyền hành đặc biệt, thêm cả chức
năng lập pháp. Ngày 7-4, Hitle ra đạo luật thủ tiêu mọi quyền tự trị của
các tỉnh, thiết lập bộ máy khủng bố khốc liệt mà lịch sử trước đó chưa
biết đến. Tất cả các chính đảng và tổ chức quần chúng đều bị giải tán,
chỉ còn duy nhất đảng Quốc Xã và cái gọi là “Mặt trận lao động Đức” do
chính phát xít Đức lập ra (thực chất là mị dân).
Đặc
biệt, chính quyền phát xít đã ra sức đàn áp nhằm tiêu trừ lực lượng
tiến bộ tiên phong, nhất là Đảng Cộng Sản. Tháng 2-1933, bọn phát xít
đốt nhà Quốc hội, rồi vu cáo cho những người cộng sản, đặt đảng Cộng Sản
ra ngoài vòng pháp luật. Tháng 9-1933, chúng đưa Ghêoócghi Đimitơrốp ra
tòa nhằm phá bỏ uy tín của phong trào cộng sản quốc tế. Song, trước
những lý lẽ đanh thép của Đimitơrốp và phong trào bảo vệ ông diễn ra ở
các nước, chúng buộc phải thả ông ra. Ngày 3-3-1933, chúng bắt giam lãnh
tụ đảng Cộng Sản Đức là Tenlơman cùng hàng vạn đảng viên. Năm 1934 có
10 vạn đảng viên Đảng Cộng Sản Đức bị cầm tù.
Năm
1935, Hitle thông qua đạo luật Nuyrembéc nhằm bài trừ người Do Thái.
Những trại tập trung khét tiếng sau này như Bukhenvan (Buchenwall), Đasô
(Dachau)… liên tiếp mọc lên.
(...)
Ngày
2-8-1934, Hindenbua chết, Hitle tuyên bố hủy bỏ hiến pháp Vâyma, ra đạo
luật sát nhập chức tổng thống với thủ tướng và như thế, Hitle nghiễm
nhiên trở thành “thủ lĩnh tối cao” (Fuhrer). Đến đây, chế độ độc tài
phát xít đã được thiết lập trên nước Đức.
(Có
thể nói thế này: Đảng Quốc Xã và lãnh tụ của nó là Hitle đã “tẩy chay”
được chính quyền dân chủ tư sản nhờ sự ủng hộ từ lực lượng quân phiệt và
cực hữu; thiết lập và giữ chính quyền độc tài quân sự bằng chuyên chính
phát xít. Chính quyền ấy đã điều hành đất nước Đức theo đường lối, chủ
trương của đảng cầm quyền duy nhất là Đảng Quốc Xã. Phải cho rằng, trong
tình hình nước Đức lúc đó, đó chính là một cuộc phản cách mạng thành
công. Tại sao đảng Cộng Sản Đức đã không làm được như vậy? Hay, tại sao ở
Pháp, nơi có truyền thống đấu tranh cách mạng, và nhất là đã từng có
“tiền lệ” là “Công Xã Pari” anh dũng, đảng Cộng Sản Pháp cũng đã không
làm được như vậy? Nếu chỉ nhìn ở góc độ hình thức, bề ngoài mà không dựa
trên lập trường chính trị nào, thì dù có vẻ thô kệch (và không ưa gì
chủ nghĩa phát xít!?) chúng ta thấy sự thành công của phản cách mạng
phát xít Đức cùng với hành động thành lập và giữ chính quyền của nó là
(na ná) giống với sự thành công cũng như hành động thành lập và giữ
chính quyền của Cách mạng tháng Mười Nga. Điều gì đã làm nên sự (na ná)
giống nhau ấy? Chúng ta biết rằng một chế độ (đại diện cho một lực lượng
đứng sau và ủng hộ nó) không dễ gì “khơi khơi” rời bỏ vũ đài chính trị,
từ bỏ bảo vệ quyền lợi của “kẻ” dựng nó lên để thống trị xã hội. Muốn
lật đổ nó, thay nó bằng chế độ mới có bản chất khác nó, thì mọi cuộc
cách mạng (hay phản cách mạng) đều phải dùng áp lực, bạo lực (không nhất
thiết là bạo lực vũ trang nhưng thường là bạo lực vũ trang khi chế độ
cũ vẫn còn được bảo vệ bởi một lực lượng vũ trang). Và để bảo vệ chính
quyền mới thì cách mạng hay phản cách mạng đều phải có lực lượng trấn áp
gọi là chuyên chính (cụ thể ở đây là chuyên chính phát xít, chuyên
chính vô sản…). Một lực lượng to lớn, có tính quyết định trong việc tạo
ra áp lực, bạo lực cũng như một sự thành công của cách mạng (hay phản
cách mạng) chính là sự ủng hộ từ Đại Chúng. Trong lòng một đất nước với
sự cầm quyền thuộc về giai cấp tư sản và trong thời đại đang phát triển
của chủ nghĩa tư bản thì việc cách mạng vô sản có được một bạo lực đủ
lật đổ chính quyền tư sản và xây dựng chính quyền mới chưa có mô hình,
cấu trúc, thể chế rõ ràng, lại còn chủ trương sẽ “cấm tư hữu” (về tư
liệu sản xuất) thì thật vô cùng khó khăn, thậm chí là không thể. Phải
chăng vì thế mà hoạt động cách mạng của các đảng Cộng Sản trong các
“chính quốc” chỉ có tác dụng góp phần cải cách chế độ tư bản chủ nghĩa
chứ không thể thiết lập được chính quyền mới, chuyên chính vô sản? Tuy
nhiên, nếu đứng trên lập trường của Đức Huyền Diệu thì cách mạng và phản
cách mạng có bản chất tương phản nhau: một đàng vì quyền lợi của tầng
lớp cần lao, một đàng vì quyền lợi của tầng lớp giàu có. Một đàng là
quân tử, một đàng là tiểu nhân và “người quân tử trong khi làm việc
nghĩa có thể vô tình gây ra điều bất nhân, nhưng chưa từng thấy kẻ tiểu
nhân làm được điều nhân nghĩa”) (Khổng Tử).
Vậy
thì trong thời đại ngày nay, nhiều tình thế đã biến chuyển, cách mạng
vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản có thể giành chính quyền từ
tay lực lượng tư sản bằng con đường nghị viện không? (Có thể mà cũng
không thể! Là không thể nếu đòi lật đổ để thay vào đó một chính quyền
hoàn toàn có bản chất mới, đối kháng với chế độ cũ và hơn nữa cứ “nằng
nặc” đòi “công hữu”; là có thể nếu đảng Cộng Sản biết tự nhận thức lại
tư tưởng của mình cho phù hợp hơn với lẽ tự nhiên, chấp nhận kế thừa chế
độ cũ để từ đó không phải lật đổ mà là chuyển đổi chính quyền như một
cải cách lớn, thỏa mãn lòng người hơn, chẳng hạn: sở hữu nhà nước lúc
này vừa là tư hữu nhà nước, vừa là tư hữu toàn dân; quyền lực nhà nước
vừa chuyên quyền lại vừa có tính dân chủ cao độ).
Để
giải quyết rối ren, khủng hoảng trong nước, đi đôi với đàn áp, tuyên
truyền chính trị, phát xít Đức tiến hành tổ chức nền kinh tế theo hướng
tập trung, mệnh lệnh, bao cấp, tự cấp tự túc và ưu tiên phục vụ nhu cầu
tái vũ trang.
(...)
Những
năm tiếp theo, nền kinh tế “quân sự hóa” càng được đẩy mạnh công khai,
tất cả các ngành đều hoạt động ưu tiên phục vụ cho việc xây dựng lực
lượng quân sự để chuẩn bị chiến tranh xâm lược. Cả một guồng máy sản
xuất công nghiệp được định hướng nhằm thỏa mãn kế hoạch chế tạo vũ khí,
khí tài phát triển lực lượng vũ trang, đặc biệt là không quân và hải
quân, của Bộ tổng tham mưu Đức. Nông nghiệp cũng được cải tổ theo định
hướng đó. Phát xít Đức cũng tăng cường xây dựng đường xá, cầu cống, kho
tàng, căn cứ quân sự trên khắp đất nước. Do đó, nền kinh tế Đức đã được
kích hoạt lên trạng thái rất sôi nổi, khẩn trương, nạn thất nghiệp được
giải quyết. Một số ngành công nghiệp quân sự hoạt động hết công suất,
trình độ chế tạo ở nhiều mặt đã đuổi kịp, thậm chí có mặt vượt trội so
với của nhiều nước tư bản lớn. Tuy nhiên, chúng ta thấy, giải quyết
khủng hoảng bằng một nền công - nông nghiệp đột biến, sôi nổi một cách
thái quá do cưỡng bức như vậy, nhất định sẽ lại sụp đổ nhanh chóng nếu
không giải quyết được “đầu ra” bằng chiến tranh xâm lược. Vì vậy sự gây
chiến trong tương lai gần của phát xít Đức là không tránh khỏi.
Bên
cạnh những nỗ lực xây dựng, sản xuất cơ sở đáp ứng cho cuộc chiến tranh
qui mô lớn, guồng máy tuyên truyền, mị dân của phát xít Đức cũng được
vận động hết công suất trong xã hội về một “nước đại Đức”, về một “dân
tộc Đức thuần chủng”, về tư tưởng “phục thù rửa hận” cho sự thất trận
của nước Đức trong thế chiến thứ nhất…, nhằm nhồi sọ nhân dân Đức, nhất
là tầng lớp thanh thiếu niên. Bắt đầu từ tháng 3-1935, tức khoảng 7
tháng sau khi được bè đảng và lực lượng quân phiệt suy tôn lên làm “Quốc
trưởng”, Hitle lập tức ban hành sắc lệnh “Cưỡng bức quân sự”, qui định
tất cả trai tráng từ 18 đến 35 phải đăng lính. Ba năm sau, phát xít Đức
đã có một đạo quân thường trực tới hơn một triệu người và khi cần thiết,
có thể huy động tới hơn 5 triệu lính.
Nói
thêm, có quân đội, vũ khí nhiều, chưa hẳn đã quyết định được chiến
trường. Bên cạnh việc “tái vũ trang” nước Đức, bên cạnh việc cải tiến,
thiết kế chế tạo mới những trang thiết bị, vũ khí cơ động hơn, phát huy
hiệu quả hỏa lực hơn, Hitle cùng Bộ tổng chỉ huy Đức cũng ráo riết xây
dựng cho được một học thuyết chiến tranh với chiến lược “chiến tranh
chớp nhoáng” và sau này thực tế đã áp dụng nó để phát động Chiến tranh
thế giới thứ hai.
Thật
ra, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã có nhiều nhà lý luận quân sự
Đức luận bàn, đề xướng những cách thức tiến hành cho cuộc chiến “phục
thù” ở tương lai. Chẳng hạn, năm 1927, tướng quí tộc là Phôn Braosít đã
đề ra thuyết “Chiến tranh tổng lực”, nghĩa là huy động toàn bộ nhân tài
vật lực của nước Đức vào chiến tranh. Tiếp đó, các viên tướng phát xít
là Âymenxbécgiơ, Phulơ, Guđêrian nhấn mạnh rất nhiều đến vai trò xe tăng
và đưa ra luận điểm sử dụng xe tăng thành “một lực lượng xung kích
trong mũi tiến công”. Tướng Gơrinh đề ra thuyết “ném bom rải thảm” và
điều cần thiết phải “tận dụng lực lượng không quân trong những trận ném
bom hủy diệt”.
Theo bản huấn thị do Hitle ký ngày 25-10-1938 thì về đại thể, nguyên tắc của “chiến tranh chớp nhoáng” là:
-
Tận dụng ưu thế về xe tăng và các sư đoàn bộ binh cơ giới có máy bay
yểm trợ, đột phá mạnh, chọc thủng phòng tuyến đối phương rồi cứ thế tiến
thật sâu, thật xa tùy theo điều kiện va khả năng cho phép.
-
Tập trung cao độ binh lực, hỏa lực vào mũi tiến công chủ yếu. Tùy
trường hợp cụ thể, có khi không cần tổ chức mũi tiến công thứ yếu mà chỉ
cần một mũi đánh thật mạnh vào chính diện đối phương.
-
Đặt nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch là chính, chiếm giữ đất là phụ.
Sau khi đột phá bằng các mũi tiến công sâu, mạnh thì lúc đó sự phát
triển của chiến dịch sẽ hình thành thế bao vây vu hồi, tiêu diệt, làm
tan rã bộ phận binh lực chủ yếu của đối phương, từ đó mới bắt đầu tổ
chức càn quét, bình định, chiếm đóng lâu dài.
Về
chính sách đối ngoại, ngay khi lên nắm chính quyền, Hitle đã tuyên bố
hủy bỏ hiệp ước Vécxây. Tháng 3-1936, Hitle cho quân chiếm đóng khu phi
quân sự Rênani (Rhenanie). Ngày 25-11-1936, Đức ký với Nhật bản hiệp ước
“chống Quốc Tế Cộng Sản”. Tháng 11-1937, Ý chính thức tham gia hiệp ước
này. Như vậy liên minh chính trị - quân sự tay ba Đức - Ý - Nhật đã
hình thành, ba lò lửa chiến tranh thế giới thứ hai đã hợp thành một
“Trục”.
Sau
các cuộc đánh chiếm có tính chất thăm dò (thôn tính Áo vào tháng 3-1938
rồi Tiệp Khắc vào tháng 3-1939) mà không gặp sự phản kháng nào từ các
cường quốc tư bản Anh, Pháp, Mỹ (với chính sách hòa hoãn, “không can
thiệp”), phát xít Đức quyết định tấn công Ba Lan, gây ra cuộc chiến
tranh thế giới thứ hai.
5 - Ý:
Sau
chiến tranh thế giới thứ nhất, Ý thiệt hại nặng, đất nước kiệt quệ mọi
nguồn dự trữ về vật chất và tài chính: tiêu mất 65 tỷ Lia vàng (tiền Ý),
gần 60% tàu buôn bị hủy hoại, 63,5 vạn người chết và gần 50 vạn người
bị thương vì chiến tranh, còn vay của Mỹ, Anh 4 tỷ đôla; nông nghiệp bị
thu hẹp 10% diện tích trồng trọt. Thêm vào đó, dù thuộc phe thắng trận,
nhưng là nước nhỏ, yếu thế, không kiếm chác được gì ở hội nghị Vécxây
nên nền kinh tế Ý càng lâm vào tiêu điều. Đời sống giảm sút nghiêm
trọng, nhiều người khốn đốn, cộng thêm ảnh hưởng từ Cách mạng tháng Mười
mà phong trào đấu tranh quần chúng dâng lên mạnh mẽ.

Cuộn
đấu tranh của công nhân Ý đạt đến đỉnh cao nhất vào năm 1920. Mùa thu
năm 1920, phong trào lan khắp toàn quốc. Quần chúng, công nhân sau khi
chiếm nhà máy, xí nghiệp đã tổ chức quản lý sản xuất và phân phối, thành
lập các “đội cận vệ đỏ” để bảo vệ xí nghiệp. Ở một số thành phố, công
nhân còn nắm giữ các hội đồng, thị chính. Tuy nhiên, đảng Xã Hội và các
lãnh tụ công đoàn đã đi đến thỏa hiệp, ký kết thỏa ước với chính phủ và
các chủ xí nghiệp với một số nhượng bộ đối với công nhân. Đạt được những
nhượng bộ về quyền lợi đó, phong trào công nhân lắng xuống.
Những
người phái tả (chiếm thiếu số) trong đảng Xã Hội, không đồng tình với
chủ trương thỏa hiệp, do Antôniô Gơramxi đứng đầu, đã tách ra thành lập
đảng Cộng Sản Ý vào ngày 21-1-1921.
Trong
bối cảnh đó, các thế lực cực hữu và dân tộc cực đoan cũng nổi dậy và
tăng cường hoạt động. Từ đầu năm 1919, thành lập “Liên minh chiến đấu
của nước Ý” (Fascio Italiani di combattimento); tập hợp lực lượng bằng
một “cương lĩnh xã hội” mị dân, kích động chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Lúc
đầu, nó gồm các cựu chiến binh đã tham gia chiến tranh thế giới thứ
nhất, sau mở rộng, kết nạp thêm công nhân, thanh niên, công chức. Buổi
đầu thành lập (1919), tổ chức này có khoảng 17.000 hội viên, đến năm
1922 (khi công bố chính cương, điều lệ như một đảng) số hội viên đã lên
đến 700.000 người.
Từ
năm 1921, đảng phát xít (từ này có nguồn gốc từ Fascio) của Mútxôlini.
Chủ trương chống lại phong trào cách mạng công nhân. Mùa thu năm 1922,
lực lượng phát xít đã nắm được những hội đồng của các thành phố lớn
nhất, trong đó có Bôlônhơ và Milanô. Ngày 29-10-1922, dưới sức ép của
chúng, vua Vichto Emmanuen III đã tuyên bố đề cử Mútxôlini làm Thủ
tướng. Ngày 30-10-1922, bốn vạn thành viên phát xít có vũ trang đã thực
hiện cuộc “tiến quân vào Rôma”, cướp được chính quyền một cách dễ dàng.
Sau khi nhậm chức, Mútxôlini tuyên bố: chính phủ cũ (theo chế độ đại
nghị tư sản) đã bị lật đổ và chính thức thành lập một “chính quyền mạnh”
(thực chất là theo chế độ độc tài quân sự).
Trong
hai năm 1923 - 1924, công nghiệp Ý đã có sự phát triển, nhờ một phần
quan trọng là vay được những khoản tiền lớn của Mỹ. Riêng nước Mỹ đã đầu
tư vào các công ty cổ phần ở Ý gần 200 triệu đôla.
Ngay
từ đầu cầm quyền, chính phủ Mútxôlini đã thủ tiêu mọi ràng buộc về hoạt
động kinh doanh, bãi bỏ nhiều thứ thuế cho bộ phận đại tư bản, bỏ chế
độ làm việc 48 tiếng một tuần, cho phép chủ tư bản được tự do định đoạt
chế độ làm việc ở các xí nghiệp, áp dụng chính sách khủng bố tàn bạo và
công khai chống lại phong trào cách mạng vô sản, truy nã và giết hại
hàng loạt những người Cộng Sản, hạ thấp lương công nhân, tăng thuế đánh
vào nông dân, cho các đảng tư sản tham gia chính phủ và giữ nguyên các
tổ chức công đoàn, nghị viện…
Đầu
năm 1926, tình hình chính trị trong nước trở nên rối loạn. Phong trào
chống chủ nghĩa phát xít tăng cao. Các đảng Cộng Sản, đảng Xã Hội, đảng
Thiên Chúa Giáo và nhiều đảng phái khác lập thành phe đối lập chống
chính phủ. Mútxôlini nhiều lần bị ám sát hụt. Nhân đó, chính phủ ban bố
hàng loạt đạo luật nhằm tăng cường chuyên chính phát xít, như: cấm tất
cả các đảng phái (trừ đảng phát xít), thủ tiêu tư cách các nghị viện và
đóng cửa các cơ quan báo chí của họ, lập tòa án đặc biệt để bắt bớ, xử
tử những người chống phát xít… Cuối cùng, đạo luật ban hành tháng 3-1928
trao cho lãnh tụ đảng phát xít quyền chọn đại biểu quốc hội, Mútxôlini
trở thành độc tài, “nhân danh quyền lợi quốc gia” để thực hiện cai trị.
Từ đây, chế độ dân chủ tư sản ở Ý bị thủ tiêu tận gốc, nhường chỗ cho
chế độ phát xít khắc nghiệt và độc đoán.
Về
đối ngoại, nước Ý phát xít tìm cách bành trướng, giành quyền làm chủ
vùng biển Ađơriatich, mở rộng và duy trì ảnh hưởng ở Trung Âu. Trong
những năm 1926 - 1927, phát xít Ý ra sức hoạt động và đã ký kết hiệp ước
liên minh với Anbani mà trên thực tế là để kiểm soát nước này về tài
chính và quân sự, chuẩn bị điều kiện cho những cuộc xâm lược ra vùng
Bancăng sau này.
Năm
1929, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lan sang Ý, giáng đòn nặng nề
về nền kinh tế vốn còn yếu ớt ngay trong thời kỳ ổn định trước đó. Sản
lượng công nghiệp năm 1932 giảm xuống còn 66,8% so với năm 1929, ngoại
thương giảm 3 lần, khối lượng vận tải đường sắt giảm 44%. Cuộc khủng
hoảng kinh tế ở Ý kéo dài rất lâu và không có giai đoạn phục hưng.
Đời
sống của quần chúng trong những năm tháng này ngày càng khổ cực, tiền
lương giảm sút rõ rệt, số người thất nghiệp lên đến gần 1 triệu, rất
nhiều nông dân bị phá sản, lâm vào khốn quẫn. Chính vì vậy mà phong trào
đấu tranh của quần chúng cần lao lại nổi lên mạnh mẽ và lẽ đương nhiên
là bộ máy đàn áp của chế độ phát xít phình lên theo (tính đến năm 1938,
riêng lực lượng cảnh sát đã lên tới 721 ngàn người).
(...)
Qua
theo dõi tình hình thời sự nước Ý vừa rồi chúng ta thấy rằng nhà nước
phát xít đầu tiên trên thế giới không phải là ở Đức mà chính là ở Ý, và
người “sáng lập ra chủ nghĩa phát xít” không phải là Hitle mà là
Mútxôlini. Rất nhiều khả năng là để đi đến mô hình chính quyền phát xít,
Mútxôlini đã có thể học đòi một cách hình thức từ mô hình nhà nước Xô
Viết và nền kinh tế kiểu tập trung của nó. Lời phán đoán này có vẻ
“đổng”, nhưng… thôi kệ. Chúng ta tắt ngang, kể câu chuyện ngoài lề sau
đây để bảo vệ ý mình, dù có thể là… ỉu xìu.
Bênitô
Amincare Andrêa Mútxôlini ra đời ngày 25-7-1883 trong một gia đình
nghèo ở Ý, cha làm thợ rèn, mẹ là giáo viên tiểu học. Cuộc đời của
Mútxôlini từ thời thơ ấu đến khi trở thành lãnh tụ phát xít Ý là một
chặng đường biến đổi tư tưởng kỳ lạ. Ngay từ thời kỳ còn ngồi trên ghế
nhà trường, Mútxôlini đã được hấp thụ tư tưởng của người cha lúc đó là
đảng viên đảng Xã Hội hoạt động trong phong trào công nhân Ý. Năm 18
tuổi, ngay sau khi tốt nghiệp Trường trung cấp sư phạm, Mútxôlini lập
tức xin gia nhập đảng Xã Hội. Năm sau, Mútxôlini bỏ nghề dạy học, sang
Thụy Sĩ, vừa làm thợ nề kiếm sống, vừa hoạt động trong phong trào công
nhân Thụy Sĩ. Tại đây, Mútxôlini đã được tiếp xúc với nhiều trào lưu
cách mạng thế giới hồi đầu thế kỷ XX. Bị trục xuất vì dính líu đến hoạt
động tổ chức bãi công của công nhân, Mútxôlini quay về Ý, rồi thực hiện
nghĩa vụ quân sự 2 năm (1905 - 1907), sau đó là giáo viên dạy tiếng Pháp
trong một trường trung học, nhưng vẫn tiếp tục hoạt động chính trị
trong hàng ngũ đảng Xã Hội nhằm lật đổ chế độ quân chủ Ý. Đích thân
Mútxôlini đã từng là chủ bút tờ tuần báo của đảng Xã Hội mang tên “Đấu
tranh giai cấp” (La lotta di classa) rồi tờ báo hàng ngày “Tiến lên”
(Avanti) của đảng Xã Hội.
Năm
1914, chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Mútxôlini là một trong
những nhà hoạt động chính trị công khai phản đối cuộc chiến tranh đế
quốc nhằm xâu xé thị trường thế giới. Đến tháng 3-1915, chính nước Ý, tổ
quốc của Mútxôlini cũng bị lôi cuốn vào chiến tranh. Một lần nữa,
Mútxôlini lại nhập ngũ. Tháng 2-1917, Mútxôlini bị thương, xuất ngũ và
sau khi bình phục, lại tiếp tục viết báo, hoạt động chính trị.
Như
vậy là cho đến 35 tuổi, tức là khi kết thúc chiến tranh thế giới,
Mútxôlini vẫn theo lập trường đấu tranh của đảng Xã Hội và trở thành nhà
hoạt động trong phong trào công nhân ở Ý, được người ta biết đến tên
tuổi qua các bài báo, qua các bài “diễn văn nảy lửa” về “đấu tranh giai
cấp”, về “đoàn kết nhân dân”, về “bảo vệ hòa bình” của ông ta.
Bước
ngoặt thay đổi lập trường tư tưởng của Mútxôlini có thể đã xảy ra ngay
sau khi chiến tranh kết thúc, trong tình hình xám xịt và tiêu điều của
đời sống xã hội - kinh tế nước Ý. Hoàn cảnh đó đã làm Mútxôlini suy
nghĩ, tìm tòi cơ sở lý luận cũng như những kinh nghiệm thực tiễn trên
thế giới để đề ra một đường lối chính trị khả dĩ nhằm khôi phục đất
nước, chấn hưng dân tộc, để rồi bắt đầu từ năm 1919, ông ta đã đi đến
một chủ nghĩa và làm cho nó xuất hiện trên chính trường Ý mà sau này
được gọi là “chủ nghĩa phát xít” - con đẻ quái thai từ tư tưởng chuyên
chế, độc tài cùng với sự hô hào tinh thần dân tộc vị kỷ để huy động toàn
bộ đất nước đi tìm kiếm danh lợi bằng những cuộc chiến tranh xâm lược
đất nước khác, bằng sự nô dịch các dân tộc khác, mà thực chất ra là phục
vụ quyền lợi cho đám tài phiệt đại tư bản.
“Chủ
nghĩa phát xít” (Fascism), về mặt ngôn từ, bắt nguồn từ danh từ
“Fascio” của Ý, nghĩa đen là “bó” (như bó rau, bó củi), nghĩa bóng là
liên minh, liên kết với nhau. “Fascio” còn là tên gọi của một vũ khí cổ ở
Ý. Vũ khí này gồm có một cái rìu, cán rìu được buộc thêm một bó củi ở
chung quanh cho chắc. Mútxôlini đã chọn vũ khí Fascio này làm biểu tượng
cho đảng của ông ta. Hình ảnh bó củi buộc chặt vào cán rìu tượng trưng
cho sự liên minh, liên kết, sự gắn bó chặt chẽ của các đảng viên với
nhau xung quanh lãnh tụ (El Đuce). Lãnh tụ đó chính là chiếc rìu tự
xưng, có tên gọi Benitô Mútxôlini. Tiền thân của đảng phát xít với thủ
lĩnh là Mútxôlini chính là tổ chức “Liên minh chiến đấu của nước Ý”
(cũng do chính Mútxôlini sáng lập).
Hitle
nổi bật trên vũ đài thế giới như một tên phát xít đầu sỏ khét tiếng tàn
bạo, từng làm mưa làm gió trên khắp chiến trường châu Âu. Nhưng rõ ràng
chính Mútxôlini mới là cha đẻ của “chủ nghĩa phát xít”. Vị “cha đẻ” này
nhỏ và yếu đến nỗi bị cái bóng của Hitle che khuất và phải nhờ che chở
bằng cách đi theo, trở thành đồng minh “bèo bọt” của phe Trục.
Nhiều
nhà sử học phương Tây khẳng định, Mútxôlini đã đề xướng ra nhiều đường
lối chính sách, thậm chí cả những chủ trương cụ thể của chủ nghĩa phát
xít mà sau đó Hitle đã bắt chước, rập khuôn. Nổi bật lên trên hết là cái
“chủ nghĩa phát xít” và “chính đảng phát xít” Mútxôlini đã đề ra từ năm
1922 thì đến năm 1927, Hitle mới vay mượn để phác thảo “chính cương”
của đảng Quốc Xã Đức. Năm 1922, Mútxôlini thành lập tổ chức “áo sơmi
đen” nhằm lôi cuốn thanh niên làm lực lượng xung kích cho lực lượng phát
xít Ý, thì đến 10 năm sau, ở Đức cũng xuất hiện tổ chức tương tự với
tên “áo sơmi nâu”. El Duce có nghĩa là lãnh tụ tối cao; Mútxôlini sữ
dụng đề tập trung quyền lực với khẩu hiệu “El Duce quyết định tất cả”.
Danh xưng “thủ lĩnh tối cao” (Fuhrer) của Hitle chính là phiên dịch ra
tiếng Đức từ El Duce…
6 - Nhật Bản:
Mùa
xuân năm 1927, ở Nhật đã xuất hiện những dấu hiệu của khủng hoảng kinh
tế, đó là cuộc khủng hoảng tài chính. Đến năm 1929, sự sụp đổ của thị
trường chứng khoán Mỹ dẫn đến đại suy thoái ở Châu Âu đã giáng một đòn
nặng nề vào nền kinh tế Nhật. Khủng khoảng xảy ra trầm trọng nhất trong
nông nghiệp (vì nông nghiệp Nhật phụ thuộc vào thị trường ngoài nước).
Việc xuất khẩu tơ sống (chiếm gần 45% số hàng xuất cảng) giảm đến 84%.
Mậu dịch đối ngoại năm 1930 so với năm 1925 giảm 2%, năm 1931 so với năm
1930 giảm 20%, và năm 1933 còn giảm nữa. Giá gạo năm 1930 so với năm
1929 hạ xuống còn một nửa. Sản xuất công nghiệp cũng sụt giảm nhanh
chóng, năm 1930 sản lượng gang giảm 30%, thép giảm 47%.
Thị
trường trong nước cũng bị thu hẹp do sự bần cùng hóa của nhân dân lao
động. Chính phủ Hamaguxi (cầm quyền từ năm 1927) đã thi hành chính sách
tiết kiệm bằng cách giảm ngân sách và hạ lương công nhân viên chức. Vào
đầu năm 1930, ở Nhật có 1,5 triệu người thất nghiệp, đến giữa năm 1931
là 2,5 triệu người và cuối năm đó tăng lên là 3 triệu người.
Cuộc
khủng hoảng gây ra những hậu quả tai hại trong xã hội Nhật. Mâu thuẫn
xã hội trở nên ngày một gay gắt. Năm 1929 có 276 cuộc bãi công nổ ra,
năm 1930 có 907 cuộc và năm 1931 có 998 cuộc.
Chủ
nghĩa tư bản - đế quốc Nhật ngay từ khi mới ra đời đã mang sẵn tính
quân phiệt và hiếu chiến khi khủng hoảng nổ ra, theo xu thế chung là
tăng cường quản lý nhà nước để giải quyết hậu quả ở các nước tư bản và
trong trường hợp thiếu nguyên liệu, thiếu thị trường tiêu thụ do nạn
khủng hoảng toàn diện, toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa bị phong tỏa
thì tương tự như Đức, Ý, nước Nhật cũng kiện toàn bộ máy nhà nước theo
hướng quân phiệt hóa.
Thị
trường Trung Quốc rộng lớn luôn là đối tượng mà giới tài phiệt Nhật
muốn độc chiếm từ lâu, đặc biệt là vùng đông - bắc, nơi tập trung 77%
tổng số vốn của Nhật vào Trung Quốc. Ngày 18-9-1931, Nhật tạo ra “sự
kiện đường sắt Nam mãn Châu” với lấy cớ đó đánh chiếm vùng đông - bắc
Trung Quốc, dựng lên cái gọi là “nước Mãn Châu”, dựng Phổ Nghi (hoàng đế
cuối cùng của nước Trung Hoa quân chủ) đứng đầu chính phủ bù nhìn, biến
miền đó thành thuộc địa và bàn đạp của những cuộc phiêu lưu quân sự
mới.
(...)
Ngày
4-1-1939, chính phủ Cônôê từ chức. Nội các mới do Hiranuma cầm đầu ra
đời. mặc dù tuyên bố rằng chính sách của mình “Không phải dân chủ cũng
không phải phát xít” (?) nhưng thực chất đã thi hành những biện pháp của
một chế độ độc tài quân sự, hiếu chiến: ra đạo luật tổng động viên toàn
quốc, tăng cường kiểm soát kinh tế bằng cách thành lập “đội cảnh sát
kinh tế”, thiết lập chế độ kiểm duyệt gắt gao để triệt thoái mọi biểu
hiện chống chính phủ. Chính quyền Hiranuma cho rằng Mặt trận nhân dân là
nguy hiểm nhất nên tiến hành đàn áp thẳng tay. Về đối ngoại, chính
quyền này coi nhiệm vụ phát động chiến tranh xâm lược, cùng đồng minh
trong phe Trục chống Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ là mục đích của mình.
Trước
khi nổ ra chiến tranh thế giới thứ hai, giới quân phiệt Nhật đã mở rộng
chiến tranh ra toàn cõi Trung Quốc, tiến hành xâm lấn Mông Cổ, khiêu
khích Liên Xô. Ngày 7-12-1941, Nhật bất ngờ tấn công căn cứ hải quân Mỹ
là Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), gây ra cuộc chiến tranh Thái Bình
Dương.
Nguyên
nhân sâu xa của chiến tranh thế giới là bản chất chuyên quyền, bạo
ngược, vô nhân của nền quân chủ chuyên chế phong kiến còn đọng lại trong
xã hội mới có nền kinh tế ưu tiên phát triển sản xuất hàng hóa công
nghiệp qui mô lớn mà sự thịnh suy của nó hoàn toàn lệ thuộc vào khả năng
cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
Nguyên
nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai là cuộc đại
khủng hoảng thừa 1929 - 1933 trong toàn bộ hệ thống các nươc tư bản chủ
nghĩa gây tác hại nặng nề lên toàn cầu trong thời đại thực dân - đế quốc
Chiến
tranh thế giới thứ hai có thể là không tránh khỏi, nhưng mức độ tàn
phá, hủy diệt về của và người của nó đến mức ghê gớm cũng như qui mô lan
tỏa của nó như đã xảy ra là có thể hạn chế được nếu các cường quốc tư
bản không có thái độ thù địch quá đáng đối với nước Nga Xô viết để ngay
từ sớm hình thành một liên minh thực sự kiên quyết chống sự bành trướng
xâm lược của cả ba lò lửa chiến tranh là Đức, Ý, Nhật. Tất cả các sự
kiện dồn dập xảy ra trong 10 năm, từ năm 1929 đến năm 1939 trên chính
trường thế giới đã chứng minh điều đó.
Không
kể ra cho lê thê, nhưng có thể chia thời kỳ mười năm đó ra thành hai
giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất, trong khoảng 1929-1936, là giai đoạn hình
thành hệ thống các nước phát xít, làm tan vỡ về cơ bản hệ thống hiệp
ước Vécxai - Oasinhtơn. Giai đoạn thứ hai, trong khoảng những năm
1936-1939, là thời kỳ xuất hiện phe Trục đe dọa thế giới, sự thỏa hiệp
nhân nhượng đến mức nhu nhược đối với các nhà nước phát xít đồng thời
thái độ cực đoan chống Liên Xô của Anh, Pháp, Mỹ đã gây khó khăn, làm
chậm việc hình thành khối đồng minh kiên quyết chống chủ nghĩa phát xít,
dẫn đến sự bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ hai mà không gì ngăn
chặn được, để rồi không những các cường quốc Đồng Minh mà cả thế giới
phải trả một cái giá quá đắt.
Trong
cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, có một đất nước mà định mệnh đã
giao làm người lính xung kích của lực lượng tiến bộ chống chủ nghĩa phát
xít và thực tế đã đóng vai trò quyết định đến việc tiêu diệt chủ nghĩa
phát xít, chấm dứt chiến tranh thế giới thứ hai, đó là Liên bang Xô
Viết.
Sau
4 năm chiến tranh đế quốc và 3 năm chiến tranh can thiệp - nội chiến,
nước Nga Xô Viết bước vào thời kỳ xây dựng hòa bình từ một nền kinh tế
tan hoang. Năm 1920, sản xuất công nghiệp giảm 7 lần so với năm 1913,
khai thác dầu mỏ giảm khoảng 3 lần, sản lượng gang giảm 30 lần. Do thiếu
cả nguyên liệu lẫn nhiên liệu, phần lớn các nhà máy phải đóng cửa, đình
chỉ sản xuất. Giao thông vận tải hầu như không còn đủ sức duy trì những
mối liên hệ bình thường giữa các vùng trong nước. Hơn 7 vạn km đường
sắt, một nửa số đầu máy xe lửa bị phá hủy. Nông nghiệp cũng bị tàn phá
nặng nề, sản lượng nông nghiệp chỉ còn khoảng một nửa so với thời kỳ
trước chiến tranh. Do không có đủ bánh mì và các thực phẩm cần thiết
khác, các thành phố và các trung tâm công nghiệp đã lâm vào nạn đói trầm
trọng. Nhiều công nhân phải bỏ về nông thôn để kiếm sống. Theo sau nạn
đói là sự hoành hành của các loại bệnh dịch nguy hiểm.
Trong
khi đó tình hình đối ngoại của nước Nga Xô Viết cũng không kém phần khó
khăn, phức tạp. Mặc dù phải ký một số hiệp ước thương mại nhưng các
nước tư bản chủ nghĩa vẫn không công nhận và thiết lập quan hệ ngoại
giao với nước Nga Xô Viết. Trong những năm 1921-1922, chính phủ Xô viết
đã tiến hành ký kết hiệp ước hữu nghị và thiết lập được quan hệ ngoại
giao với các nước: Iran, Ápganixtan, Thổ Nhĩ Kỳ, Mông Cổ, Na Uy, Áo,
Thụy Điển, Ý, Tiệp Khắc và Đức. Âm mưu của các nước đế quốc định thành
lập một mặt trận thống nhất thù địch, chống nước Nga Xô Viết thất bại
(mang tư tưởng chống đối chủ nghĩa tư bản “điên cuồng” thì cũng phải
chịu sự chống cộng sản điên cuồng của chủ nghĩa tư bản, lẽ tự nhiên là
thế!).
Về
đối nội, bên cạnh những khó khăn về kinh tế, từ mùa xuân năm 1921, nước
Nga Xô Viết còn vấp phải những khó khăn nghiêm trọng về chính trị.
Trong nông dân xuất hiện tình trạng bất mãn. Chính sách cộng sản thời
chiến với việc trưng thu toàn bộ lương thực thừa của nông dân để bảo vệ
thành quả cách mạng và cứu nước là cần thiết và được đa số nông dân chấp
nhận thì đến thời bình, việc làm đó đã không những đối lập với lợi ích
bản thân người nông dân mà còn là một trở ngại đối với sự phát triển
kinh tế đất nước. Nông dân muốn được tự do sử dụng sản phẩm lao động của
mình, tự do trao đổi ở thị trường và tự do mua hàng nông nghiệp (giống
hệt thời kỳ trước đổi mới ở Việt Nam!).
Đói
kém và mệt mỏi cũng làm cho nhiều công nhân bất bình. Trong giai cấp
công nhân có tình trạng vừa giảm sút về số lượng, vừa phân tán về đội
ngũ. Số lượng công nhân công nghiệp chỉ còn bằng một nửa so với năm
1913. Đội ngũ công nhân lành nghề lại càng ít ỏi.
Tình
hình đó đã làm lực lượng phản cách mạng có điều kiện ngóc đầu dậy, ra
sức kích động sự bất bình trong nông dân và công nhân. Nổi dậy đã xảy ra
rải rác ở nhiều địa phương như: Ucraina, Uran, Xibia, vùng dọc sông
Vônga… Bạo loạn mang tính chất phá hoại xuất hiện khắp nơi. Ở tỉnh
Tambốp (Ucraina), một nhóm phản cách mạng đã chiếm được 5 huyện. Ngay
tại Mátxcơva và Pêtrôgrát, các thành phần phản cách mạng đã lôi kéo được
công nhân tổ chức đình công.
Đặc
biệt nghiêm trọng là cuộc nổi loạn ở pháo đài Crôngxtát vào đầu tháng
3-1921 do thành viên Xã hội cách mạng, Mensêvích, Bạch Vệ cầm đầu và
nhận được sự ủng hộ của thế lực đế quốc. Chúng định biến pháo đài thành
căn cứ xuất phát cho một cuộc can thiệp vũ trang mới của các nước đế
quốc. Chính quyền Xô Viết đã phải thi hành biện pháp kiên quyết nhất.
Sau một đêm tấn công quyết liệt, sáng sớm ngày 18-3, các chiến sĩ Xô
Viết đã chiếm được pháo đài, dẹp tan cuộc bạo loạn.
Những
sự kiện ở Crôngxtát và ở các địa phương khác đã trở thành những dấu
hiệu rõ ràng của sự khủng hoảng chính trị và cuộc khủng hoảng ấy đã lan
vào cả nội bộ đảng Bônsêvich. Trong Đảng đã xuất hiện các nhóm đối lập
chống lại đường lối của Lênin và Ban chấp hành trung ương như các nhóm
“Đối lập công nhân”, “Tập trung dân chủ”, “Cộng sản phái tả” và nguy hại
nhất là nhóm của Trốtxki. Trốtxki đã khởi xướng cuộc tranh luận về cái
gọi là vấn đề công đoàn, đòi áp dụng những phương pháp cưỡng bức mệnh
lệnh, biến công đoàn thành vật phụ thuộc vào nhà nước.
Tình
hình khó khăn vô vàn của đất nước và hiện tượng xói mòn lòng tin vào
chế độ đòi hỏi Đảng và Nhà nước Xô Viết phải có biện pháp cấp bách để
khắc phục.
Từ
ngày 8 đến ngày 16-3-1921, Đảng Bônsêvích tiến hành Đại hội lần thứ X.
Dựa theo báo cáo của Lênin, Đại hội đã thông qua nghị quyết quan trọng
về việc chuyển từ Chính sách cộng sản thời chiến sang Chính sách kinh tế
mới (NEP). Nội dung chủ yếu của NEP là:
-
Thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng chính sách thuế lương thực.
Thuế lương thực nộp bằng hiện vật. Sau khi nộp đủ số thuế đã qui định từ
trước mùa gieo hạt, nông dân được toàn quyền sử dụng số nông phẩm còn
lại của mình và được tự do bán ra thị trường.
-
Trong công nghiệp, Nhà nước Xô Viết tập trung lực lượng và phương tiện
khôi phục công nghiệp nặng, đồng thời cho phép tư nhân được thuê hoặc
xây dựng những xí nghiệp loại nhỏ (dưới 20 công nhân) dưới sự kiểm soát
của Nhà nước, cho phép tư nhân nước ngoài được thuê một số xí nghiệp
dưới hình thức tô nhượng. Chấn chỉnh tổ chức lại việc lãnh đạo, quản lý
sản xuất công nghiệp; phần lớn các xí nghiệp được chuyển sang chế độ
hạch toán kinh tế; cải tiến chế độ tiền lương, ban hành chế độ tiền
thưởng nhằm đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
-
Trong lĩnh vực thương nghiệp và tiền tệ, tư nhân được tự do buôn bán,
tự do trao đổi, mở lại các chợ, khôi phục và đẩy mạnh mối liên hệ giữa
thành thị và nông thôn. Tiến hành cải cách tiền tệ.
Chính sách kinh tế mới đã thể hiện rõ ràng sự quan sát thực tiễn sắc sảo, sự cảm nhận nhạy bén và mẫn tiệp của Lênin thiên tài.
Chính
sách kinh tế mới đã như một luồng gió mát lành thổi vào đời sống kinh
tế - xã hội nước Nga Xô Viết nói chung và đặc biệt là vào nông nghiệp
sản xuất lương thực nói riêng. Một nền kinh tế tiêu điều và bị bao vây
thì vấn đề giải quyết trước tiên là “có thực mới vực được đạo”. Nông
nghiệp sản xuất lương thực được giải phóng thì mới có cơ lưu thông được
hàng hóa và qua đó mà đưa đến sự kích cầu, phục hưng công nghiệp. Một
nền đại công nghiệp nếu không đảm bảo được loại hàng hóa “tầm thường”
nhất nhưng cơ bản nhất có tính quyết định đến vận mạng con người là
lương thực thì nền đại công nghiệp ấy trở nên thừa, vô tích sự và sẽ bị
ruồng bỏ. Lênin nói: “Thực chất của chính sách kinh tế mới… là sự liên
minh của giai cấp vô sản với quảng đại quần chúng nông dân”.
Chính
những phát sinh gay gắt trong xã hội của nước Nga Xô Viết thời kỳ sau
nội chiến bước vào xây dựng hòa bình đã cho Lênin thấy ra sự cần thiết
phải thay đổi cơ bản về nhận thức, quan niệm trước đó về chủ nghĩa xã
hội. Đó là sự chuyển hướng chiến lược từ quá độ trực tiếp sang quá độ
gián tiếp, từ từ, từng bước một, kiên quyết tìm tòi những bước đi thích
hợp, vừa tầm để tiến tới chủ nghĩa xã hội. Qua đó, Lênin thấy rằng phải
áp dụng những biện pháp cần thiết là thỏa hiệp với nông dân, tự do buôn
bán, mở rộng thị trường, sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ… vì lợi ích
của chủ nghĩa xã hội; chuyển từ ảo tưởng “kế hoạch tập trung, phân phối
trực tiếp bằng hiện vật” sang thực thi kinh tế hàng hóa - thị trường,
phát triển dân chủ đồng thời củng cố vai trò lãnh đạo của đảng
Bônsêvich. “Về sự thống nhất của Đảng” do Lênin đề nghị, Đại hội X cũng
đã thông qua nghị quyết lên án nghiêm khắc tất cả các nhóm đối lập, cấm
chỉ mọi hoạt động và tổ chức bè phái - coi đó là nguyên tắc không lay
chuyển trong sinh hoạt và xây dựng Đảng.

(Chúng
ta cho rằng chính sách kinh tế mới hình thành là xuất phát từ đòi hỏi
của thực tiễn kết hợp với nhận định sáng suốt, tài tình của Lênin. Chỉ
có Lênin mới đủ năng lực để không bảo thủ cực đoan, mà kiên định, đề ra
được sáng kiến nhằm bảo vệ thành quả cách mạng vô sản và trung thành với
chủ nghĩa xã hội. Quan Công đã “hàng Hán chứ không hàng Tào”! Tuy nhiên
NEP vẫn chưa triệt để. Tính không triệt để này rất khó nhận biết vì nó
là biểu hiện của một nhược điểm nằm ẩn dấu rất sâu trong triết học Mác.
Lênin có sống lâu hơn cũng khó có khả năng nhận biết được bởi “đức tin”
của ông đã gắn chặt vào triết thuyết này trong trình độ nhận thức chung
của thời đại. Không thể trách được! Và Lênin vẫn là vị anh hùng dân tộc
của nước Nga. Nước Nga có được như ngày nay, dù có gắn nhãn mác gì đi
nữa vẫn không thể giũ bỏ được công lao to lớn của Lênin. Lênin sẽ mãi
mãi được nhân loại cần lao tôn vinh như một nhà hoạt động đầy lòng nhân
hậu và thiên tài vì quyền sống cơ bản của con người. Chúng ta nghĩ như
vậy!).
Chiều
ngày 30-12-1922, tại Mátxcơva, Đại hội lần thứ nhất các Xô viết toàn
Liên bang được tiến hành với sự tham dự của 2215 đại biểu. Đại hội đã
nhất trí thông qua bản Tuyên ngôn thành lập Liên bang Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô - CCCP) và bản hiệp ước Liên bang.
Đại hội đã bầu ra cơ quan lập pháp tối cao - Ban chấp hành Trung ương
Liên Xô do M.I.Calini làm chủ tịch và bầu Lênin làm Chủ tịch Hội đồng ủy
viên nhân dân Liên Xô.
Sự
ra đời của Liên bang Xô Viết làm cho sức mạnh của Nhà nước Xô Viết được
tăng cường và là thắng lợi của chính sách dân tộc theo chủ nghĩa Lênin,
của tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc trong quốc gia công nông đầu
tiên trên thế giới.
Tháng
1-1924, bản hiến pháp đầu tiên của Liên Xô được thông qua. Việc thành
lập Liên bang Xô Viết là thành tựu cuối cùng được thực hiện dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Lênin. Từ mùa thu năm 1922, Lênin ốm nặng. Sang đầu
năm 1923, sức khỏe của Lênin được phục hồi tốt hơn, nhưng đến tháng
3-1923 ông lại bị ốm nặng và vào lúc 18 giờ 50 phút ngày 21-1-1924, ông
lìa trần. Ông ra đi sau khi đã hoàn thành việc vạch kế hoạch xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Cả đất nước Xô Viết và thế giới tiến bộ xúc
động, đau buồn. Cái chết của Lênin là một tổn thất vô cùng nặng nề đối
với đảng Bônsêvích và nhân dân Liên Xô, đối với phong trào đấu tranh
cách mạng của quần chúng cần lao thế giới.
Nhờ
áp dụng chính sách kinh tế mới, tới năm 1926, nhân dân Liên Xô đã hoàn
thành thắng lợi công cuộc khôi phục nền kinh tế quốc dân, sản xuất đã
đạt bằng mức năm 1913. Tuy đạt thành tựu như thế nhưng Liên Xô vẫn là
một nước nông nghiệp, sản xuất công nghiệp còn yếu và lạc hậu so với các
nước tư bản phát triển. Hàng loạt các ngành công nghiệp nặng quan trọng
vẫn hầu như bằng không.
Muốn
bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước tiên không được lệ thuộc
vào tư bản nước ngoài, những thế lực không ưa gì chế độ cộng sản và luôn
âm mưu thủ tiêu nó. Cần phải vươn lên tự lực tự cường. Nhưng bằng cách
nào nếu không có một cơ sở công nghiệp mạnh, đủ sức sản xuất, chế tạo
phục vụ nhu cầu của phát triển kinh tế cũng như an ninh quốc phòng? Vậy
thì trong hoàn cảnh của thời đại ấy, bước tiếp theo của đất nước Liên Xô
trong phát triển kinh tế là tăng cường công nghiệp hóa, trong đó trọng
tâm là phát triển công nghiệp nặng (đối với một nước nhỏ và trong thời
đại nền kinh tế có tính toàn cầu ngày nay, chính sách đó không hẳn đã
đúng, thậm chí là có hại). Lênin khi còn sống đã chỉ rõ: “Cơ sở vật chất
duy nhất của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí
có khả năng cải tạo cả nông nghiệp.” (câu nói này là rất đúng đối với
Liên bang Xô Viết thời bấy giờ, và có thể cũng đúng luôn đối với xã hội
loài người ở thời tương lai còn rất xa vời, khi thế giới đã đại đồng,
nghĩa là nó không mang tính phổ biến!).
Tháng
Chạp năm 1925, đảng Bônsêvích họp Đại hội lần thứ XIV, kết thúc thời kỳ
khôi phục kinh tế và chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nội dung quan trọng nhất của Đại hội là dựa trên kế hoạch
xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lênin, đề ra đường lối, nhiệm vụ và phương
châm công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Trong Báo cáo chính trị trình
bày tại Đại hội, Xtalin nói: “Biến nước ta từ một nước nông nghiệp thành
một nước công nghiệp có thể tự lực sản xuất lấy thiết bị cần thiết, đó
là điểm căn bản, là cơ sở của đường lối chung của chúng ta… Biến nước ta
từ một nước nhập khẩu thiết bị thành một nước chế tạo được những thiết
bị ấy, vì đó là điều đảm bảo chủ yếu cho sự độc lập kinh tế của nước ta.
Và chính đó là điều đảm bảo cho nước ta không biến thành vật phụ thuộc
vào các nước tư bản chủ nghĩa. Đại hội XIV cũng thông qua điều lệ mới
của đảng Bônsêvích và quyết định đổi tên đảng Cộng sản Nga thành đảng
Cộng sản Liên Xô (Bônsêvích).
Sau
Đại hội XIV, giai cấp công nhân và nhân dân Liên Xô, với lòng yêu nước
nồng nàn, đã dốc hết sức mình vào công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nước.
Tuy
gặp không ít những khó khăn gian khổ do sự phức tạp trong đấu tranh tư
tưởng, thái độ thù địch, chống phá của các thế lực bên ngoài nước, do
xây dựng kinh tế trên con đường hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong
lịch sử nhưng Nhà nước Xô Viết và nhân dân Liên Xô, nhờ sự lao động và
làm việc quên mình, mà chỉ trong vòng 20 năm, đã đạt được thành tựu vô
cùng to lớn: từ một nước nông nghiệp đã trở thành một cường quốc công
nghiệp dựa trên cơ sở kỹ thuật hiện đại và một nền nông nghiệp bước vào
cơ giới hóa với qui mô sản xuất tập trung ở mức cao. Tính theo tổng sản
lượng công nghiệp thì Liên Xô đứng ở hàng đầu châu Âu và đứng thứ hai
trên thế giới, đuổi kịp và vượt các nước Đức, Anh, Pháp.
Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, trong lòng xã hội ở
Liên Xô cũng đồng thời xuất hiện những yếu tố không lành mạnh, đóng vai
trò như lực cản sự phát triển kinh tế và có nguy cơ phá hoại ngầm chủ
nghĩa xã hội. Nguyên nhân có thể là do cách hiểu giáo điều về cách mạng
xã hội chủ nghĩa mà sâu xa hơn là từ sự nhận thức triết học về hình thái
kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Ít ra thì một cách trực tiếp, đã
không trung thành với chính sách kinh tế mới của Lênin. Sau khi Lênin
mất, chính sách kinh tế mới với nền kinh tế đa thành phần đã ngày càng
bị thu hẹp để dần hình thành một thiết chế nhà nước Xã hội chủ nghĩa tập
trung, hành chính, bao cấp mà về kinh tế, chỉ còn tồn tại hai thành
phần kinh tế là sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể (thực ra cũng là một
hình thức đã biến tướng, qui mô nhỏ của hình thức sở hữu nhà nước). Mô
hình kinh tế ấy tuy cũng có vai trò và tác dụng nhất định, và thậm chí
là cần thiết nhưng chỉ trong những giai đoạn, hoàn cảnh lịch sử đặc biệt
và ngắn hạn (chẳng hạn như tạm thời áp dụng để tập trung chống thiên
tai, địch họa, để vượt qua những thời đoạn ngặt nghèo chẳng đặng đừng
nào đó). Việc duy trì mô hình ấy một cách lâu dài trong điều kiện bình
thường rõ ràng là vi phạm vào quyền tự do dân chủ trong hoạt động kinh
tế của công dân, làm mất dần nhiệt tình lao động và sự năng động sáng
tạo của xã hội. Tình hình đó tất yếu nảy sinh tệ quan liêu, chụp mũ, áp
chế đối với những người không đồng tình với cơ chế ấy, tạo nên mặt trái
của tấm huân chương. Tác giả một bức tranh cho rằng nó đẹp, rồi bắt tất
cả mọi người chiêm ngưỡng phải thấy rằng nó đẹp, nếu không sẽ bị qui vào
tội phản động, thuộc “bè lũ tư sản”, nếu không sẽ bị “vặn cổ”, thì đó
có phải là chuyên chính vô sản? Và nếu vứt chữ “vô sản” đi thì đó có
phải là độc tài? “Độc tài” kèm theo với chém giết bừa bãi thì phải chăng
là phát xít? Chúng ta nhớ đến “Cái đêm hôm ấy, đêm gì?” của Phùng Gia
Lộc mà nổi da gà về một thời đã qua!
Với
thời gian, trong xã hội Liên Xô thời kỳ đó, những khuất tất, thiếu sót
ngày càng tích tụ, trầm trọng và đã trở thành bệnh “di căn” ngay từ
những năm 30. Đó là bệnh thiếu dân chủ, thiên về cưỡng chế mệnh lệnh, vi
phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa, truy nã đàn áp hàng loạt những người
bất đồng ý kiến… Căn bệnh ấy gây ra những tổn thất, mất mát không phải
là nhỏ. Xây dựng chủ nghĩa xã hội với thiết chế tập trung mệnh lệnh,
quan liêu bao cấp kiểu ấy sẽ tất yếu dẫn đến chuyên quyền, độc đoán (bản
chất “công nhân” ở từng “đồng chí” lãnh đạo mất dần đi, nhường chỗ cho
tính “thích làm cha” vốn có ở mỗi con người) và cơ chế xã hội cũng vì
thế mà ngày càng xơ cứng, mất năng động, hoạt động xa rời cái mục đích
ban đầu vô cùng đẹp đẽ của nó: “vì nhân dân phục vụ”. Ít người biết điều
này: chiến tranh đã khỏa lấp tất cả.
Nói
gì thì nói, bôi bác thế nào cũng được, nhưng đây là sự thực lịch sử:
nếu nước Nga Xô Viết không đạt được thành tựu ngoạn mục về khôi phục
kinh tế, nếu Liên Xô không đạt được những thành tựu rực rỡ về xây dựng
kinh tế thì chủ nghĩa xã hội ở đó, thành trì của cách mạng vô sản thế
giới, đã không thể tồn tại, nhưng quan trọng hơn, Liên Xô đã không thể
đương đầu được với sự xâm lăng của phát xít Đức. Chính Liên Xô chứ không
nước nào khác, đã đóng vai trò quyết định trong việc tiêu diệt chủ
nghĩa phát xít và chấm dứt chiến tranh thế giới thứ hai. Hai quả bom
nguyên tử của Mỹ thả xuống nước Nhật, chẳng làm nên trò trống gì ngoài
việc chứng minh cho Tạo Hóa thấy một giống loài khi đã được trang bị
thêm tư duy, nếu không khéo, sẽ trở nên thâm thù, độc ác, tàn bạo, phát
xít đến cỡ nào!
Từ
khi ba nước phát xít Đức, Ý, Nhật ký hiệp ước “Chống Quốc Tế Cộng sản”
và xảy ra những hành động bành trướng của ba nước đó thì nguy cơ chiến
tranh thế giới đã trở nên rõ ràng. Trước thái độ ngày một hung hăng và
cuồng chiến của nước Đức phát xít, Liên Xô đã nhiều lần đề nghị với các
nước tư bản như Anh, Pháp, Tiệp Khắc, Ba Lan… cùng thành lập một tổ chức
an ninh tập thể ở châu Âu để kịp thời giáng trả một khi Hitle phát động
chiến tranh xâm lược. Cho tới ngày 12-8-1939, tức là chưa đầy một tháng
trước ngày Đức tấn công Ba Lan, Liên Xô còn đề nghị với Anh, Pháp mà cụ
thể là:
-
Trong trường hợp Đức tấn công Anh và Pháp thì Liên Xô sẽ đóng góp một
số quân tương đương là 70% số quân của cả Anh và Pháp để cùng chống Đức.
Ba Lan là nước đã ký hiệp ước liên minh tương trợ với Anh và Pháp tất
nhiên cũng phải tham gia chống phát xít Đức.
-
Trong trường hợp Đức tấn công Ba Lan và tuyên chiến với Anh và Pháp thì
Liên Xô sẽ góp một số sư đoàn tương đương với tổng số sư đoàn của cả
Anh và Pháp để cùng tham gia chiến đấu.
-
Trong trường hợp Đức tấn công Liên Xô thì Anh và Pháp cũng phải huy
động một lực lượng tương đương với 70% số quân triển khai của Liên Xô và
Ba Lan phải góp 45 sư đoàn để cùng đánh Đức.
Trong
cuộc họp ngày 12-8-1939 tại Máxcơva, Liên Xô khẳng định là trong trường
hợp Hitle phát động chiến tranh xâm lược các nước láng giềng thì chỉ
trong vòng từ 8 đến 20 ngày, Liên Xô có thể huy động được 136 sư đoàn bộ
binh và kỵ binh, 5000 pháo nặng, 10000 xe tăng, 5500 máy bay chiến đấu.
Tiếc
thay, Anh và Pháp đã từ chối, vẫn nuôi ảo vọng “chĩa mũi nhọn của Hitle
vào Liên Xô và muốn nhân nhượng, hòa giải với Đức phát xít. Đây là chỉ
thị mà phái đoàn Anh nhận được từ chính phủ trước khi đến Máxcơva hội
đàm: “Không nên nhận một cam kết dứt khoát nào có thể trói tay chúng ta
trong tất cả mọi trường hợp”.
Bản
thân chính quyền tư bản Ba Lan thì còn “sợ cộng sản hơn sợ phát xít”,
nên khăng khăng từ chối đề nghị của Liên Xô đưa một lực lượng quân đội
vào để cùng quân đội Ba Lan phòng thủ đất nước của họ một khi bị Đức tấn
công. Họ hoàn toàn tin tưởng vào hiệp ước liên minh tương trợ đã ký kết
với Anh, Pháp: nếu Hitle cho nổ súng tấn công Ba Lan thì ngay lập tức,
Anh và Pháp sẽ “đánh vào phía sau quân đội phát xít”, đúng như các điều
khoản đã ghi trong hiệp ước. Giới quân sự Anh, Pháp và Ba Lan trù tính:
đầu năm 1939, Ba Lan có trong tay 30 sư đoàn, nếu chiến tranh nổ ra,
lệnh tổng động viên và huy động quân trù bị sẽ làm tăng vọt lực lượng vũ
trang Ba Lan lên 80 sư đoàn. Tổng số lực lượng vũ trang của nước Đức
khi đó chỉ có 103 sư đoàn và Hitle chỉ có thể sử dụng ½ số đó, tức
khoảng 50 sư đoàn là cùng để đánh Ba Lan, vì cần phải duy trì một lực
lượng đủ để đối phó với Anh, Pháp và bảo vệ nhà nước phát xít. Thời đó
đường biên giới phía tây Ba Lan với Đức chỉ cách thủ đô Đức vẻn vẹn 100
km. Cả Anh, Pháp và Ba Lan đều tin chắc nếu Đức đánh Ba Lan thì chính
họ, mà chủ yếu là lực lượng Ba Lan sẽ là người cắm cờ chiến thắng tại
tòa nhà Quốc hội Đức và “chính tại Béclin, sào huyệt của Đức Quốc Xã
hiếu chiến sẽ là điểm kết thúc chiến tranh và là nơi ký kết hiệp ước hòa
bình”.
Về
sự “cả tin” của giới cầm quyền Ba Lan, nhà sử học Pháp là Rêmông
Cácchiê có kể một sự kiện (trong cuốn “Chiến tranh thế giới thứ hai -
giai đoạn 1939 - 1942”) như sau:
15-8-1939,
đại sứ Ba Lan ở Pari là Lucátxiêvich tới gặp Bộ trưởng ngoại giao Pháp
là Gioócgiơ Bonnê. Khi được Pháp tiết lộ một nguồn tin tình báo rằng
Hitle tuyên bố với cao ủy Đức ở Đanxít (tức Gơđanxcơ): “sẽ đánh bại Ba
Lan trong 3 tuần bằng đạo quân cơ giới hóa của Đức”, thì đại sứ
Lucátxiêvich đã trả lời: “Không phải! Chính quân đội Ba Lan chúng tôi sẽ
thôn tính nước Đức ngay sau khi chiến tranh bùng nổ”.
Ở
Viễn Đông, các nước tư bản phương Tây cũng thi hành một chính sách đối
với nước Nhật phát xít tương tự như đối với nước Đức phát xít ở châu Âu.
Vì vậy việc Nhật đánh chiếm Trung Quốc, xâm phạm nhiều quyền lợi của
Anh, Mỹ ở đó nhưng họ vẫn làm ngơ. Thái độ này của Anh và Mỹ đã như một
dung túng, khuyến khích Nhật tấn công Liên Xô vào cuối tháng 7-1938, tại
khu vực hồ Khaxan. Tuy nhiên chỉ mấy ngày, quân phiệt Nhật đã phải chịu
thất bại thảm hại. Tháng 5-1939, lợi dụng tình hình châu Âu căng thẳng,
Liên Xô đang bận đối phó ở đó, quân đội Nhật lại tấn công vào lãnh thổ
nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ tại khu vực sông Khankhingôn, định chiếm
Mông Cổ, khống chế vùng tiếp cận đường sắt chính xuyên qua Xibia, uy
hiếp trục giao thông huyết mạch của Liên Xô ở Viễn Đông, để mưu đồ xâm
lược Liên Xô về sau. Trung thành với hiệp ước tương trợ, Liên Xô đã bảo
vệ Mông Cổ. Từ tháng 5 đến tháng 8-1939, các lực lượng vũ trang Xô -
Mông đã đánh bại quân xâm lược Nhật và đến ngày 16-9, Nhật phải xin đình
chiến.
Ngày
23-7-1939, Anh đã ký với Nhật một hiệp ước nhục nhã, thường gọi là
“Hiệp ước Arita - Cơrâyxi”, giao Trung Quốc cho Nhật để đổi lấy việc
Nhật gây chiến chống Liên Xô.
Liên
Xô đến lúc này, trước sự bất hợp tác chống phát xít của thế giới tư bản
và lâm vào cảnh “lưỡng đầu thọ địch”, đã không còn đường nào khác là nỗ
lực tự cứu mình.
Nước
Đức phát xít dù lúc đó đã phát triển thành xà tinh và dù vô cùng thèm
khát cũng biết rằng chưa đủ sức nuốt nổi con voi: Liên Xô đã là một
cường quốc với lãnh thổ rộng mênh mông và không kém phần hùng mạnh. Vậy
thì để thực hiện được mưu đồ làm bá chủ thế giới, việc đầu tiên mà nước
Đức phát xít phải làm không phải là xâm lược Liên Xô mà phải chiếm châu
Âu để tạo thêm thế và lực lên một tầm tương xứng. Nhưng muốn nắm châu Âu
thì phải tạm thời loại được không phải hai kẻ nhu nhược là Anh và Pháp
mà chính là Liên Xô ra ngoài vòng chiến. Trù tính như thế nên Đức đã đề
nghị Liên Xô ký một hiệp ước không xâm lược lẫn nhau.
Dù
không ảo tưởng nhưng để tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng và tổ
chức phòng thủ đất nước, Liên Xô đã đồng ý. Ngày 23-8-1939, hiệp ước Xô -
Đức đã được ký kết và ngày hôm sau, 24-8-1939, một “biên bản mật” giữa
hai nước được ký thêm, nhằm phân chia phạm vi ảnh hưởng của hai nước ở
Đông Âu.
Hiệp
ước Xô - Đức ngay lập tức làm vỡ “giấc mộng xấu xí” bao vây chống Liên
Xô, “ngư ông đắc lợi” của Anh, Pháp, Mỹ và làm cho Nhật bất mãn ra mặt
(thủ tướng Nhật là Hiranuma xin từ chức để phản đối Đức ký hiệp ước
này). Riêng Ba Lan thì hình như vẫn trong giấc ngủ ngon lành trước miệng
con xà tinh.
Ngày
23-3-1939, Hitle đòi Ba Lan chuyển giao Đăngdích cho Đức và lập một
hành lang cho Đức nối với Đông Phổ. Ở biên giới hai nước, Hitle bí mật
cho máy bay Đức sơn cờ hiệu Ba Lan ném bom xuống một đồn biên phòng Đức
rồi đổ vấy cho Ba Lan để tạo cớ thực hiện kế hoạch đánh Ba Lan mang mật
danh “Kế hoạch trắng” được thảo ra từ tháng 5-1939.
Đêm
30 rạng ngày 31-8-1939, Đức gởi tới Ba Lan một bản công hàm mang tính
chất tối hậu thư về vấn đề Đăngdích và hành lang Ba Lan. Chính phủ Ba
Lan bác bỏ những yêu sách của Đức. Mờ sáng ngày 1-9-1939, đúng 4 giờ 15
phút, gần 1500 máy bay Đức hết đợt này đến đợt khác tới ném bom, bắn phá
toàn bộ các căn cứ không quân và trường bay trong khu vực miền Tây - Ba
Lan, mở màn cuộc xâm lược Ba Lan và cũng đồng thời làm bùng nổ cuộc
chiến tranh thế giới thứ hai.
(...)
Khi
quân Đức chiếm được Brét - Litốp của Ba Lan và ào ạt tiến về phía đông
thì quân Liên Xô cũng đã tiến vào miền đông - Ba Lan (vùng trước đây
thuộc Tây - Ucraina và Tây - Bêlarút như đã kể). Tại nhiều điểm quân đội
hai nước Nga và Đức đã “chạm trán nhưng không xảy ra xung đột”. Biết
chưa phải lúc, Hitle đã hạ lệnh “ngừng tiến về phía đông”, thậm chí cho
rút quân khỏi thị trấn Lembéc vừa chiếm được để tránh đụng đầu với lực
lượng Xô Viết.
(...)
“Quay
ngược trở lại phía Tây”, ngày 9-4-1940, quân Đức tràn vào Đan Mạch. Vua
và chính phủ Đan Mạch không kháng cự, ra lệnh cho quân đội của họ hạ vũ
khí đầu hàng. Cùng ngày, quân Đức đổ bộ lên tất cả các cảng lớn của Na
Uy. Nhân dân Na Uy kháng chiến rất anh dũng. Chiến sự đã diễn ra ác liệt
ở một số nơi. Do có sự phản bội tổ quốc trong chính phủ, Na Uy mau
chóng bị đánh bại. Quân Anh, Pháp sang cứu bị đánh bật ra biển.
Ngày
10-5-1940, vào 5 giờ 30 phút sáng, quân Đức tràn vào Bỉ, Hà Lan,
Lucxembua và Pháp. Mặt trận phía tây bây giờ mới chính thức diễn ra. Lực
lượng bộ binh hai bên không chênh lệch nhau nhiều nhưng phía Đức ưu thế
hơn về máy bay và xe tăng. Quân Đức do tướng Phôn Bốc chỉ huy, vượt qua
sông Mơdơ (Mense), đồng thời nhảy dù xuống chiếm các sân bay, các đầu
mối giao thông và các cứ điểm quan trọng của Hà Lan và Bỉ.
Ngày
15-5, quân đội Hà Lan hạ vũ khí qui hàng, chính phủ Hà Lan chạy sang
Luân Đôn. Ngày 27-5, đến lượt Bỉ đầu hàng vô điều kiện.
Trong
khi đó, quân Đức do tướng Phôn Runxđét chỉ huy, vượt qua Lúcxembua,
đánh bại đạo quân thứ 9 của Pháp do tướng Coráp chỉ huy, chọc thủng
phòng tuyến của Pháp trên một khu vực rộng 90 km giữa Xơđăng và Namuya.
Ngày 5-6, quân Đức tiến về Pari như bão táp. Ngày 10-6, chính phủ Pháp
bỏ Pari chạy về Tua. Cùng ngày này, thấy Pháp nguy ngập, sắp thua, để
“dấy máu ăn phần”, phát xít Ý vội tuyên chiến với Anh, Pháp và tấn công
ngay vào vùng đông - nam nước Pháp. Sự tham chiến của Ý làm cho tình
hình Pháp thêm trầm trọng.
(...)
Tháng
8-1940, Đức tấn công bằng không quân vào nước Anh. Nhiều cuộc không
chiến ác liệt xảy ra. Dù ưu thế thuộc về Đức nhưng Anh cũng chống cự
hiệu quả nhờ hệ thống ra-đa mới phát minh, sáng chế ra, phát hiện được
mục tiêu từ xa… Hai bên đều thiệt hại nặng nề. Đức chuyển sang ném bom
ban đêm. Thủ đô Luân Đôn bị hàng vạn tấn bom tàn phá dữ dội. Thêm nữa,
Đức còn phong tỏa chặt chẽ hải phận Anh bằng “chiến tranh tàu ngầm”,
đánh đắm rất nhiều tàu chiến Anh. Tình hình của Anh ngày một trở nên
nghiêm trọng.
Anh
quay sang cầu cứu Mỹ. Mỹ đã giao cho Anh gần 1 triệu súng trường thời
kỳ những năm 1917 - 1918, 50 chiến hạm cũ kỹ. Đổi lại, Anh phải giao cho
Mỹ những căn cứ quan trọng về chiến lược ở Đại Tây Dương cũng như những
phát minh khoa học kỹ thuật mới nhất của Anh (như rađa, những công
trình nghiên cứu về nguyên tử của các nhà bác học Anh và Pháp…). Mỹ đã
giúp Anh như thế nên có thể thấy rằng chính cuộc chiến Xô - Đức mới cứu
được nước Anh thoát khỏi số phận như nước Pháp.
(...)
“Kế
hoạch Bacbarôxa” (nghĩa là “Râu hung”, biệt hiệu của Phêđêrich, Hoàng
đế Đức thời Trung Cổ) được thảo ra từ tháng 6-1940 và chỉ thị số 21 về
kế hoạch này được Hitle phê chuẩn ngày 18-12-1940. Kế hoạch nhằm tiêu
diệt quân đội Liên Xô (thường gọi là Hồng quân) trong một cuộc chiến
tranh đánh nhanh thắng nhanh, do đó Hitle đã huy động tới 190 sư đoàn
với 5,5 triệu quân, 3.712 xe tăng, 47.260 khẩu pháo, 4.950 máy bay và
193 tàu chiến, trong đó có 153 sư đoàn Đức, 17 sư đoàn Phần Lan, 18 sư
đoàn Rumani và 2 sư đoàn Hunggari, cho giai đoạn đầu cuộc chiến với
nhiệm vụ được xác định là: “Chia cắt chính diện của lực lượng chủ yếu
của quân Nga đang tập trung ở phía tây nước Nga, sử dụng các cụm quân cơ
động mạnh ở phía bắc và phía nam vùng đầm lầy Pripiátxki mở những đòn
đột kích này tiêu diệt những cụm tập đoàn quân của đối phương đã bị chia
cắt”. Cụ thể, khi bắt đầu tiến công Liên Xô, quân đội phát xít Đức
triển khai đội hình như sau:
-
Ở cực Bắc là tập đoàn quân Đức “Na Uy” (gồm 6 sư đoàn), ở phía đông -
nam Phần Lan là 2 tập đoàn quân (gồm 15 sư đoàn). Nhiệm vụ của chúng là
chiếm vùng Muốcmanxcơ và đồng thời tiến công theo 2 phía của hồ Lađôga
rồi hợp điểm với các lực lượng của cụm tập đoàn quân “Bắc” ở khu vực
Lêningrát. Các đơn vị này được 900 máy bay thuộc tập đoàn không quân số 5
của Đức và lực lượng không quân Phần Lan chi viện.
-
Cụm tập đoàn quân “Bắc” (gồm 29 sư đoàn, trong đó có 3 sư đoàn xe tăng,
3 sư đoàn cơ giới, do thống chế Đức là Phôn Lép (Von Leeb) chỉ huy) đột
kích chủ yếu từ vùng Tindit theo hướng Đangapinsơ, đông bắc Ôpốtxka, có
nhiệm vụ tiêu diệt các đơn vị Xôviết tại vùng Pribantich và sau đó hiệp
đồng với một bộ phận lực lượng của cụm “Trung Tâm” chiếm Lêningrát và
Crôngstát. Cụm tập đoàn quân “Bắc” được tập đoàn không quân số 1 (gồm
1.070 máy bay chiến đấu) yểm trợ.
-
Lực lượng chủ yếu của Đức là cụm tập đoàn quân “Trung Tâm” (gồm 50 sư
đoàn, trong đó có 9 sư đoàn xe tăng, 6 sư đoàn cơ giới và 2 lữ đoàn, do
thống chế Vôn Bốc (Von Bock) chỉ huy). Với sự tổ chức những cụm xe tăng
mạnh ở hai bên sườn, cụm tập đoàn quân này mở những mũi đột kích đánh vu
hồi vào hướng chung tiến đến Minxcơ để bao vây các đơn vị Xôviết ở phía
tây Bêlarút, sau đó phát triển tiến công trên hướng chung tiến về
Xmôlenxcơ. Cụm tập đoàn quân này được tập đoàn không quân số 2 (1.600
máy bay) yểm trợ.
Cụm
tập đoàn quân “Nam” (gồm 57 sư đoàn, trong đó có 5 sư đoàn xe tăng, 4
sư đoàn cơ giới và 13 lữ đoàn, do chuẩn thống chế Phôn Runxtét (Von
Rundsted) chỉ huy) có nhiệm vụ tiến công quân đội Xôviết ở Hữu ngạn
Ucraina, đột kích triển khai trên cánh trái tới Kiép, chiếm lấy bến vượt
sông Đơnhiép. Sau đó các binh đoàn xe tăng phải phát triển tiến công ở
hướng đông - nam, không cho những lực lượng còn khả năng chiến đấu của
Hồng quân rút qua sông Đơnhiép để bao vây tiêu diệt những lực lượng ấy.
Cụm tập đoàn quân “Nam” được tập đoàn không quân số 4 của Đức và không
quân của Rumani (tất cả có 1.300 máy bay chiến đấu) yểm trợ.
Các đạo quân ấy được đặt dưới quyền tổng chỉ huy trực tiếp của thống chế Phôn Bơraosít (Von Brauchitsch).
Trước
đội quân cực mạnh, đã có kinh nghiệm chiến đấu và với một kế hoạch tấn
công chu đáo, tỷ mỷ như thế, Liên Xô đã tổ chức chuẩn bị đối phó như thế
nào?
Lúc
sinh thời, V. I. Lênin đã nói: “Một quân đội ưu tú nhất, những con
người trung thành nhất đối với sự nghiệp cách mạng sẽ bị quân địch tiêu
diệt nhanh chóng, nếu họ không được trang bị đầy đủ…”. Tuân theo lời dạy
đúng đắn đó, Đảng và Nhà nước Xôviết trong suốt thời kỳ xây dựng và
phát triển kinh tế trước chiến tranh đã rất chú trọng đến việc xây dựng
lực lượng vũ trang ngày một lớn mạnh cả về số lượng binh sĩ, cả về trang
thiết bị quân sự tiên tiến và cả về nghệ thuật tác chiến.
Nhịp
độ sản xuất binh khí kỹ thuật của các nhà máy quốc phòng đã tăng theo
hàng năm. Vũ khí mới cũng được tích cực nghiên cứu, chế tạo. Chẳng hạn
các loại súng cối phản lực, các pháo tự hành đã được sản xuất những mẫu
thí nghiệm thành công; năm 1939 đã xuất xưởng hai loại xe tăng KV và
T-34 có tính năng hơn hẳn các loại xe tăng của các nước tư bản; đầu năm
1941, nhiều loại máy bay mới đã được trang bị cho không quân, mà phần
lớn, về một số tính năng đã hơn hẳn các máy bay cùng loại của Đức và đặc
biệt, máy bay cường kích I.L-2 là chưa có máy bay nào trên thế giới
sánh kịp…
Nói
chung, nghệ thuật quân sự Xôviết đã được xây dựng lên một trình độ cao,
phù hợp với tính năng kỹ thuật tiên tiến của binh khí và trang thiết bị
quân sự trong thời đại mới. Chiến lược đã xác định đúng đắn những nhiệm
vụ của quân chủng và binh chủng. Chiến lược Xôviết phủ định và phê phán
có cơ sở lý luận những học thuyết thiên kiến, đề cao vai trò chủ đạo
của một phương tiện chiến tranh nào đó và trong điều kiện lúc bấy giờ đã
vội hy vọng trông chờ vào “cuộc chiến tranh chớp nhoáng”, đó là những
học thuyết chẳng hạn như “chiến tranh xe tăng”, “chiến tranh không
quân”, “chiến tranh hải quân”…Chiến lược Xôviết đã biết đánh giá đúng
tính chất của cuộc đấu tranh vũ trang và cả những phương thức cơ bản,
cần có để giành thắng lợi đối với kẻ địch mạnh hơn về trang bị kỹ thuật,
trong đó yếu tố con người luôn mang tính chất cơ bản, quyết định.
Lực
lượng vũ trang Xôviết cũng đã đề ra được lý luận mới có cơ sở khoa học
kỹ thuật cho việc chuẩn bị và tiến hành các chiến dịch qui mô tập đoàn
quân và phương diện quân. Các vấn đề tiến công, các trận đánh gặp gỡ
(tao ngộ chiến), bao vây và tiêu diệt địch, tổ chức phòng ngự tích cực
và có chiều sâu, đảm bảo hậu cần… đã giữ một vị trí đặc biệt trong lý
luận quân sự Xôviết và đã tỏ ra đáp ứng được những đòi hỏi trong cuộc
chiến tranh sắp tới.
Tuy
nhiên, do thời gian quá ngắn, đã không đủ cho nhân dân Liên Xô giải
quyết được tất cả những vấn đề bảo đảm chắc chắn cho nền an ninh của đất
nước.Nhiều biện pháp quan trọng còn chưa được thực hiện.
(...)
Do
vậy mà khi chiến tranh nổ ra, hầu hết các quá trình trang bị mới, trang
bị lại, xây dựng đội ngũ, tổ chức bố trí lại đội hình theo khu vực lãnh
thổ… đều đang ở giai đoạn triển khai hoặc dở dang và nói chung, nếu so
sánh lực lượng thì quân phát xít Đức hơn quân đội Liên Xô về quân số là
1,8 lần, về xe tăng loại trung và loại nặng là 1,5 lần, về máy bay chiến
đấu kiểu mới là 3,5 lần, về pháo và súng cối là 1,25 lần.
(...)
Như
vậy, cuộc xung đột Xô - Đức là không thể tránh khỏi, tất yếu dẫn đến sự
tiêu vong của chủ nghĩa phát xít tham tàn, và như một định mệnh, quân
dân Liên Xô sẽ viết nên một thiên anh hùng ca bất hủ về lòng yêu nước có
tựa đề: “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”, đồng thời cũng làm nên một
chiến công chói lọi đến muôn đời, dâng lên Đức Huyền Diệu.
Nhận xét
Đăng nhận xét