Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2016

QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH MỞ NƯỚC, DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT18/b

(ĐC sưu tầm trên NET)

Thời kỳ phân chia Nam Bắc lần thứ nhất (1533-1802)(tiếp)

 Trong giai đoạn này, ở Việt Nam xuất hiện ba triều đại bao gồm: Nhà Mạc (1527 - 1677), Nhà Lê trung hưng (1533 - 1789) và Nhà Tây Sơn (1778 - 1802). Ngoài ra còn có 3 tập đoàn quân phiệt cát cứ gồm: Chúa Trịnh (1545-1787), Chúa Nguyễn (1558-1802) và Chúa Bầu (1527-1699). Đây là giai đoạn rối ren loạn lạc nhiễu nhương lộn xộn phức tạp nhất trong lịch sử Việt Nam

Chiến tranh Lê-Mạc (1533-1677)

Nam-Bắc triều (Việt Nam)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Nam-Bắc triều
Thời Nam-Bắc triều (chữ Hán: 南北朝;1533-1592) là khoảng thời gian nhà Mạc cầm quyền tại Thăng Long, gọi là Bắc triều và nhà Hậu Lê bắt đầu trung hưng, chiếm được vùng đất từ Thanh Hóa trở vào Nam, gọi là Nam triều. Thời Nam-Bắc triều kéo dài từ năm 1533 khi Nguyễn Kim mượn danh nghĩa phò vua Lê Duy Ninh chiếm được Tây Giai (Thanh Hóa), cho tới năm 1592 khi nhà Mạc mất Thăng Long.
Tàn quân nhà Mạc chạy lên mạn Bắc và được nhà Minh can thiệp cho ở đất Cao Bằng.

Hình thành

Sang đầu thế kỷ 16, nhà Hậu Lê bắt đầu suy yếu. Một võ tướng nhà Lê là Mạc Đăng Dung đứng ra trấn áp các cuộc nổi dậy bên ngoài, nắm lấy quyền hành triều Lê. Sau đó, ông đánh dẹp các lực lượng chống đối và đến năm 1527 thì phế truất Lê Cung Hoàng, lập ra nhà Mạc.

Các lực lượng thân nhà Lê chưa bị loại bỏ hết. Sau khi Trịnh Ngung và Trịnh Ngang cầu viện nhà Minh không thành và hoàng thân Lê Ý khởi binh thất bại năm 1531, một võ tướng cũ của nhà Lê khác là Nguyễn Kim tiếp tục tập hợp lực lượng chống Mạc.
Năm 1529, Nguyễn Kim, bỏ chạy vào miền núi Thanh Hoá và sang Ai Lao (Lào). Năm 1533, Nguyễn Kim tìm lập một người dòng dõi nhà Lê là Lê Duy Ninh đưa lên ngôi trên đất Sầm Châu (Ai Lao), tức là vua Lê Trang Tông.
Từ khi Trang Tông lên ngôi, nhiều sĩ phu, tướng lĩnh bắt đầu tập hợp bên Nguyễn Kim để chống nhà Mạc.
Sau nhiều lần tổ chức tấn công về Đại Việt không thành công, tới năm 1539, Nguyễn Kim chiếm được huyện Lôi Dương ở Thanh Hóa; sang năm sau tiến vào Nghệ An. Nhà Hậu Lê bắt đầu xác lập chỗ đứng trở lại trên lãnh thổ Đại Việt.

Chiến tranh

Năm 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng Dương Chấp Nhất đầu độc giết chết. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền chỉ huy quân đội. Từ đó binh quyền Nam triều do họ Trịnh đảm đương.
Năm 1546, Mạc Hiến Tông chết, con là Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông, chú là Khiêm Vương Mạc Kính Điển làm phụ chính. Bắc triều xảy ra biến loạn do bất đồng trong việc chọn người thừa kế nghiệp. Tướng Phạm Tử Nghi muốn lập con Mạc Thái Tổ là Hoằng Vương Mạc Chính Trung đã trưởng thành nhưng không được nên cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Mạc Kính Điển phải vất vả đối phó tới năm 1551 mới dẹp được.
Cùng lúc, do mâu thuẫn với sủng thần Phạm Dao, thái tể Lê Bá Ly cùng thông gia Nguyễn Thiến mang gia quyến gồm một loạt tướng sĩ vào Thanh Hóa hàng nhà Lê. Nhà Mạc chỉ còn dựa vào một số tướng lĩnh trung thành như Mạc Kính Điển, Nguyễn Kính và trụ vững trước các đợt tấn công của Nam triều.
Nhân sự tổn thất lực lượng của Bắc triều, Nam triều chiếm lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Năm 1572, sau khi tướng Nam triều là Nguyễn Hoàng chiếm được Thuận Hóa, nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ.
Sau đó Nam triều cũng xảy ra biến loạn. Trịnh Kiểm mất (1570), hai con Trịnh CốiTrịnh Tùng tranh ngôi. Trịnh Cối yếu thế sang hàng nhà Mạc.
Trong suốt những năm 1545-1580 là giai đoạn hai bên giằng co, chiến sự nổ ra chủ yếu tại Sơn Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa - Nghệ An. Hai bên khi được khi thua. Ngoài vai trò của người phụ chính như Mạc Kính Điển và cha con Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, cuộc chiến đã nổi lên tên tuổi các danh tướng Nguyễn Quyện phía Bắc triều và Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu phía Nam triều.
Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất, em là Mạc Đôn Nhượng lên thay làm phụ chính. Lực lượng quân đội nhà Mạc suy yếu đi nhiều vì thiếu đi người chỉ huy có tầm cỡ và uy tín. Mạc Mậu Hợp từ nhỏ lên ngôi, khi lớn vẫn dựa vào các hoàng thân phụ chính, không chú trọng việc chính sự. Uy thế quân Mạc suy sút nhiều và thường bị thua trận.
Đầu năm 1592, Trịnh Tùng thúc quân tổng tiến công ra bắc. Quân Mạc đại bại, chết rất nhiều. Cuối năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Cha con Mạc Mậu HợpMạc Toàn thua chạy rồi lần lượt bị bắt và bị hành hình.
Bắc triều chấm dứt. Nhà Hậu Lê chiếm lại được Thăng Long, việc trung hưng hoàn thành. Họ Mạc chạy lên Cao Bằng và cát cứ tới năm 1677.

Kinh tế

Ảnh hưởng từ cuộc chiến

Chiến tranh tàn khốc kéo dài 60 năm, kinh tế bị ảnh hưởng tiêu cực. Tình hình nông nghiệp khá ảm đạm. Ruộng đất công xã ngày càng thu hẹp lại, các triều đình bị chiến tranh chi phối không quản lý tốt được đất đai, do đó một phần không nhỏ đất chuyển sang sở hữu tư nhân. Sự biến đổi trong quan hệ ruộng đất ở nông thôn phần nào tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển tự do hơn. Điều đó tạo ra tác động tích cực đối với nền kinh tế hàng hóa theo chiều hướng mở rộng .
Cũng vì chiến tranh, nhà Mạc áp dụng chế độ lộc điền khác với thời Hậu Lê. Các vua Mạc ít dành lộc điền cho quan lại mà đối tượng được hưởng chủ yếu là binh lính để khuyến khích họ chiến đấu cho triều đình. Lộc điền chủ yếu lấy từ nguồn ruộng công ở các làng xã và ruộng chùa, diện tích khoảng vài chục vạn mẫu 
Phía nam, nền sản xuất nông nghiệp của Nam triều còn phải đối phó với nhiều thiên tai liên miên  Chính quyền Lê-Trịnh mới tạm dùng những biện pháp tình thế để khuyến khích khôi phục nghề nông nhằm phục vụ chiến tranh chứ chưa có điều kiện hoạch định những chính sách lớn có tác dụng thúc đẩy phát triển nông nghiệp lâu dài và bền vững 

Tư duy kinh tế

So với nhà Hậu Lê, nhà Mạc có tư duy kinh tế cởi mở hơn, trên nhiều lĩnh vực kinh tế. Trong nông nghiệp, chế độ tư hữu ruộng đất thời Mạc có điều kiện phát triển tự do. Việc mua bán đất đai tư nhân rất phổ biến và triều đình không đề ra biện pháp hạn chế hay cấm đoán nào .
Cách đối xử với thợ thủ công của nhà Mạc khác nhiều với nhà Lê: nhà Mạc có sự tôn trọng họ và do đó họ có vị trí nhất định trong xã hội. Dù chiến tranh Nam bắc triều kéo dài, các chợ chạm khắc đá vẫn di chuyển đến nhiều địa bàn hành nghề trên các vùng đất do nhà Mạc quản lý .
Tương tự với thương mại, nhà Mạc chủ trương không "ức thương" hay "bế quan tỏa cảng" như nhà Hậu Lê. Ngoại thương Bắc triều có những bước chuyển biến tích cực, các sản phẩm thủ công nghiệp đã vươn sang thị trường các quốc gia châu Á .

Văn hóa, giáo dục

Văn học Đại Việt thế kỷ 16 chia làm 2 bộ phận:
  • Những tác giả theo nhà Mạc và bộ phận văn học này đóng vai trò chủ đạo 
  • Những tác giả trung thành với nhà Lê, theo Lê chống Mạc hoặc chán thế sự và sống ẩn dật.
Có một bộ phận sĩ phu biểu hiện sự trăn trở giữa con đường theo phe nào trong cuộc nội chiến Lê Mạc, hoặc ẩn dật an nhàn. Những tác giả lớn thời kỳ này có Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải, Nguyễn Dữ, Dương Văn An. Tác phẩm "Bạch Vân thi tập" của Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là tác phẩm chữ Hán quán xuyến từ đầu đến cuối tư tưởng an nhàn của nhà Nho trước vấn đề thời cuộc
Trong giáo dục khoa cử, nhà Mạc cũng như nhà Hậu Lê, vẫn dùng Nho giáo làm tư tưởng chính thống trong việc thể chế hoá các chính sách cai trị và xây dựng bộ máy triều đình. Mặc dù chiến tranh xảy ra liên miên, Bắc triều vẫn duy trì việc thi cử đều đặn 3 năm một lần. Từ năm 1529 thời Mạc Thái Tổ đến năm 1592 thời Mạc Mậu Hợp, nhà Mạc đã tổ chức 22 khoa thi, lấy đỗ 485 tiến sĩ, trong đó có 13 trạng nguyên . Thậm chí kỳ thi cuối cùng của nhà Mạc năm 1592 diễn ra bên bờ bắc sông Hồng trong hoàn cảnh Thăng Long bị quân Nam triều uy hiếp dữ dội.
Trong khi đó, nhà Lê từ khi trung hưng mãi tới năm 1554 mới mở lại khoa thi Hội. Từ thời Lê Thế Tông, việc thi cử mới bắt đầu đi vào quy củ và tới năm 1580 các kỳ thi Hội mới được khôi phục theo lệ 3 năm 1 lần. Từ năm 1554 tới năm 1592 nhà Lê chỉ có 7 kỳ thi, lấy đỗ 5 tiến sĩ .

Tôn giáo, tín ngưỡng

Không chỉ cởi mở về mặt kinh tế, nhà Mạc có sự cởi mở cả về mặt tư tưởng. Khác với sự độc tôn Nho giáo của nhà Hậu Lê, nhà Mạc tuy dùng Nho giáo làm tư tưởng cai trị nhưng không hạn chế Phật giáoĐạo giáo. Nhiều chùa được Bắc triều xây cất và tu bổ.
Đạo Thiên chúa đã tìm cách xâm nhập bước đầu vào Đại Việt thời Nam Bắc triều nhưng chưa thu được thành tựu. Các giáo sĩ phương Tây bắt đầu lén tiếp cận Đại Việt thực hiện truyền đạo vào các năm 1533 tại Giao Thủy (Nam Định) ở Bắc triều, năm 1580 tại Quảng Nam thuộc Nam triều. Tới năm 1583 dù được Mạc Mậu Hợp cho phép truyền giáo nhưng công việc của các giáo sĩ không đạt kết quả do bất đồng ngôn ngữ 

Mạc Chính Trung

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mạc Hoằng Vương
Hoàng thân Việt Nam (chi tiết...)
Vua nhà Mạc
Trị vì 15461547
Tiền nhiệm Mạc Hiến Tông
Kế nhiệm Mạc Tuyên Tông
Thông tin chung
Tên húy Mạc Chính Trung
Niên hiệu không có
Thụy hiệu Hoằng Vương
Triều đại Nhà Mạc
Thân phụ Mạc Thái Tổ
Sinh
Việt Nam
Mất
Nhà Minh
Mạc Chính Trung (chữ Hán: 莫正中; ?-?) là hoàng tử nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia tranh chấp ngôi báu nhà Mạc giữa thời Nam-Bắc triều và cuối cùng thất bại.

Thân thế

Theo sách Đại Việt thông sử, Mạc Chính Trung là con thứ của Mạc Thái Tổ, em Mạc Thái Tông. Ông đã tham dự việc triều chính nhà Mạc, được phong tước Hoằng vương.

Tranh ngôi

Tháng 6 năm 1546, Mạc Hiến Tông mất trong lúc nhà Mạc đang có chiến tranh với nhà Lê trung hưng. Hoàng thân Mạc Kính Điển (em Hiến Tông) cùng thái sư Nguyễn Kính muốn theo lệ tôn lập con Hiến TôngMạc Phúc Nguyên nhưng một đại thần khác là Phạm Tử Nghi phản đối, muốn lập Mạc Chính Trung. Phạm Tử Nghi cho rằng 
Hiện nay trong nước đang lúc nhiều nạn, nên lập vua lớn tuổi. Hoằng vương Chính Trung đã nhiều phen cầm quân và thường thắng trận, vậy xin dựng lên ngôi
Ý kiến đó không được Mạc Kính Điển và Nguyễn Kính chấp thuận, vì vậy trong triều nảy sinh mâu thuẫn. Phạm Tử Nghi bèn cùng cháu Mạc Thái Tổ là Mạc Văn Minh và các thủ hạ đưa Mạc Chính Trung về Hoa Dương, huyện Ngự Thiên (Thái Bình) lập triều đình riêng.
Mạc Phúc Nguyên được Mạc Kính Điển lập làm vua, tức là Mạc Tuyên Tông. Trước thế mạnh của phe Chính Trung, Tuyên Tông lo lắng bỏ kinh thành Thăng Long về Kim Thành (Hải Dương), Mạc Kính Điển và Nguyễn Kính hợp binh mấy lần đánh Phạm Tử Nghi đều bị thất bại 
Phạm Tử Nghi cùng Chính Trung mang quân về đánh Thăng Long nhưng đều bị Kính Điển kiên cường chống trả. Mạc Chính Trung và Phạm Tử Nghi bị hao binh tổn tướng, không thể chiếm được thành, phải chạy ra chiếm cứ Yên Quảng (Quảng Ninh) và thường kéo về cướp phá Hải Dương.
Năm 1547, Mạc Kính Điển phối hợp với đại tướng Lê Bá Ly đánh bại Tử Nghi và Chính Trung . Quân thua tan tác, Mạc Chính Trung và Mạc Văn Minh, Mạc Phúc Sơn chạy sang Trung Quốc, còn Phạm Tử Nghi thu thập tàn quân trốn ra Hải Đông, chiếm giữ An Quảng.

Chạy sang Trung Quốc

Mạc Chính Trung chạy sang đất nhà Minh xin nương nhờ. Đề đốc quân vụ Trương Nhạc tâu lên, Minh Thế Tông sai quan phủ Thiều châu thu xếp cho Mạc Chính Trung chỗ ở tại Thanh Viễn, chu cấp lương thực cho. Mạc Chính Trung kể tội đại thần Nguyễn Kính chuyên quyền, đuổi ông là người thừa kế ngôi vị nhà Mạc. Minh Thế Tông ngờ vực Mạc Tuyên Tông không phải dòng dõi Mạc Thái Tổ nên sai sứ đưa thư sang hỏi.
Năm 1549, Mạc Kính Điển, Lê Bá Ly cùng hộ vệ Mạc Tuyên Tông lên ải Trấn Nam gặp sứ nhà Minh để biện bạch. Quan nhà Minh tại Lưỡng Quảng chấp thuận, công nhận Mạc Tuyên Tông .
Chính Trung muốn ở lại nương nhờ Trung Quốc nhưng Tử Nghi phản đối chủ trương dựa vào Trung Quốc. Tử Nghi nảy ý định đánh phá Lưỡng Quảng  đòi lại Chính Trung, bèn phao tin rằng Mạc Phúc Nguyên đã chết và muốn đón Chính Trung về nối ngôi. Sau đó Tử Nghi mang quân đánh phá Khâm châu và Liêm châu. Tổng đốc Quảng Đông là Âu Dương Tất Tiến (歐陽必進) sai tham tướng Khâm châu là Du Đại Du (俞大猷) mang quân ra chống Tử Nghi . Tử Nghi thua trận, chạy về Đại Việt đóng ở Vân Đồn.
Năm 1551, Mạc Kính Điển sai người lừa bắt được Tử Nghi mang chém. Mạc Chính Trung không được nhà Minh ủng hộ làm vua, sau đó bị quân Minh đánh bại và giết chết tại Trung Quốc. Không rõ ông bao nhiêu tuổi.

Phạm Tử Nghi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phạm Tử Nghi (范子儀, 1509-1551) là tướng nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam, người làng Vinh Niệm, tổng An Dương, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương – nay là phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Việt Nam.

Thiên lôi

Phạm Tử Nghi vốn có tên là Thành. Phạm Tử Nghi là người có sức khoẻ phi thường, được dân làng gọi là Thiên lôi.
Phạm Tử Nghi từng đắp con đê dài khoảng 3 dặm, lại đặt 2 ụ đất cao 5 thước ở hai đầu trên mặt đê; sau đó ông cầm gậy chạy đến chỗ ụ đất hét đánh một cái thì quét sạch đất. Đến thời Nguyễn, đê vẫn còn, hằng năm dân sở tại bồi đắp đê để ngăn nước mặn. Theo Đại Nam nhất thống chí, con đường gần chỗ Phạm Tử Nghi đắp đê xưa kia, ở địa phận hai xã An Dương và Vĩnh Niệm gọi là đường Thiên Lôi mang biệt hiệu của ông .

Phò Mạc Chính Trung

Phạm Tử Nghi lớn lên giữa lúc nhà Hậu Lê đổ nát vì chính trường và loạn lạc. Năm 1527, Mạc Đăng Dung giành ngôi nhà Hậu Lê.
Nhờ tài năng xuất chúng, Phạm Tử Nghi được nhà Mạc thu dụng, dần dần được cất nhắc làm Thái uý, tước Tứ Dương hầu.
Năm 1533, Nguyễn Kim tái lập nhà Hậu Lê, tạo thành thế đối lập nam – bắc với nhà Mạc.
Tháng 6 năm 1546, Mạc Hiến Tông mất, con là Phúc Nguyên còn nhỏ tuổi. Hoàng thân Mạc Kính Điển (em Hiến Tông) cùng thái sư Nguyễn Kính muốn tôn lập Mạc Phúc Nguyên nhưng Phạm Tử Nghi phản đối. Ông cho rằng :
Hiện nay trong nước đang lúc nhiều nạn  , nên lập vua lớn tuổi. Hoằng vương Chính Trung   đã nhiều phen cầm quân và thường thắng trận, vậy xin dựng lên ngôi
Ý kiến đó của ông không được Mạc Kính Điển và Nguyễn Kính chấp thuận, bởi thế trong triều nảy sinh mâu thuẫn. Phạm Tử Nghi bèn cùng cháu Mạc Thái Tổ là Mạc Văn Minh và các thủ hạ đưa Mạc Chính Trung về Hoa Dương, huyện Ngự Thiên (Thái Bình) lập triều đình riêng.
Mạc Phúc Nguyên được Mạc Kính Điển lập làm vua, tức là Mạc Tuyên Tông. Trước thế mạnh của phe Tử Nghi, Tuyên Tông lo lắng bỏ Thăng Long về Kim Thành (Hải Dương), Mạc Kính Điển và Nguyễn Kính hợp binh mấy lần đánh Phạm Tử Nghi đều bị thất bại.
Đẩy lui được những cuộc tấn công của Mạc Kính Điển, Phạm Tử Nghi mang quân về đánh Thăng Long nhưng đều bị Kính Điển kiên cường chống trả. Ông bị hao binh tổn tướng, không thể chiếm được thành, phải đem Mạc Chính Trung chạy ra chiếm cứ Yên Quảng (Quảng Ninh) và thường kéo về cướp phá Hải Dương.
Năm 1547, Mạc Kính Điển phối hợp với Phụng quốc công Lê Bá Ly đánh bại được Tử Nghi.

Đánh phá Trung Quốc

Sau trận thua đó, Mạc Chính Trung và Mạc Văn Minh mang gia thuộc chạy sang Khâm châu quy phụ nhà Minh, còn Tử Nghi thu thập tàn quân trốn ra Hải Đông. Chính Trung muốn nương nhờ Trung Quốc nhưng Tử Nghi phản đối chủ trương dựa vào Trung Quốc, ông bèn nảy ý định đánh phá Lưỡng Quảng và đòi lại Chính Trung
Trước tình thế Chính Trung đã ở trong tay người Minh, ông bèn phao tin rằng Mạc Phúc Nguyên đã chết và muốn đón Chính Trung về nối ngôi. Sau đó Phạm Tử Nghi mang quân đánh phá Khâm châu và Liêm châu.
Minh sử ghi nhận: "Mạn Lĩnh Hải náo động". Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư: "Tử Nghi trốn vào đất Minh, thả quân đi bắt người cướp của ở Quảng Đông, Quảng Tây, người Minh không thể kìm chế được"
Tổng đốc Quảng Đông là Tất Tiêu sai tham tướng Khâm châu là Đại Dư mang quân ra chống Tử Nghi. Đại Dư đến Liêm châu, Tử Nghi đánh thành rất gấp. Đại Dư thấy quân thuỷ nhà Minh chưa đến, bèn sai kỵ binh đến dụ Tử Nghi hàng và tung tin đại quân nhà Minh sắp đến. Sau đó Dư đặt phục binh ở núi Quan Dâu. Phạm Tử Nghi lại quay sang đánh Khâm châu, Đại Dư chặn đánh, cướp được nhiều thuyền, đuổi đánh quân Tử Nghi trong vài ngày và bắt sống được em ông là Phạm Tử Lưu. Trận này Tử Nghi bị thiệt hại 1200 người và chạy về Vân Đồn.

Kết cục

Sử sách chép về cái chết của ông khá sơ lược. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, việc Phạm Tử Nghi đánh phá Trung Quốc khiến nhà Minh sai người sang trách nhà Mạc. Nhà Mạc bèn sai kẻ dưới quyền lừa bắt được Tử Nghi và đem chém. Mạc Chính Trung bỏ chạy sang Trung Quốc và bị giết. Nhà Mạc sai người mang đầu ông nộp cho nhà Minh, đi đến đâu thường phát sinh ôn dịch, người và súc vật bị chết nên người Minh bèn trả lại đầu ông cho nhà Mạc
Theo Ngọc phả Nam Hải đại vương, trong khi Tử Nghi đang thắng trận thì nhà Minh dùng chước sai người bắt cóc mẹ ông và ra điều kiện cho ông phải đầu hàng. Tử Nghi bèn xin giảng hoà để tạm bãi binh nhằm cứu mẹ. Nhưng khi ông đến hội ước giảng hoà thì người Minh liền bắt ông. Sau đó quân Minh chém ông, còn xác thì đốt thành tro, rắc cho gió thổi bay. Ngọc phả cũng chép tình tiết quanh vùng Tử Nghi bị chém, phát sinh ôn dịch, người và súc vật bị chết nên nhà Minh phải hậu táng cho ông 
Sử sách chép không thống nhất về thời gian chết của Phạm Tử Nghi. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, ông bị hại vào năm 1551; theo Đại Việt thông sử thì ông mất năm 1549.
Theo Ngọc phả Nam Hải đại vương thì ông mất ngày 14 tháng 9 âm lịch niên hiệu Diên Thành đời Mạc Mậu Hợp (1578-1585). Dân làng quê hương ông vẫn lấy ngày 14 tháng 9 âm lịch là ngày giỗ Phạm Tử Nghi 

Tưởng nhớ

Dù là tướng phục vụ nhà Mạc, vương triều đối nghịch với nhà Lê thắng trận sau này và bị coi là nguỵ triều, Phạm Tử Nghi vẫn được các triều đại Lê, Nguyễn sắc phong .
Sắc phong đời Cảnh Trị (Lê Huyền Tông) năm 1670 ghi:
Có công giữ nước giúp dân, có ơn đức rất mực, đã cất quân dấy nghiệp, chức Nam Dương Đông nguyên soái, tóm thâu, làm Tiết chế cả mọi dinh thuỷ bộ của hai nước ở khắp nơi, phò mã đô uý, tước Thành quốc công, phong là Nam Hải linh ứng đại vương.
Trong đền thờ Phạm Tử Nghi có câu đối đề:
Tướng Mạc, thần Lê, danh bất hủ
Cừu Minh, hận Hán, tiết di cao
Dịch nghĩa:
Tướng Mạc, thần Lê, tên còn mãi
Thù Minh ghét Hán khí tiết cao
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét