Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2016

QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH MỞ NƯỚC, DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT18/e

(ĐC sưu tầm trên NET)

Thời kỳ phân chia Nam Bắc lần thứ nhất (1533-1802)(tiếp)

 Trong giai đoạn này, ở Việt Nam xuất hiện ba triều đại bao gồm: Nhà Mạc (1527 - 1677), Nhà Lê trung hưng (1533 - 1789) và Nhà Tây Sơn (1778 - 1802). Ngoài ra còn có 3 tập đoàn quân phiệt cát cứ gồm: Chúa Trịnh (1545-1787), Chúa Nguyễn (1558-1802) và Chúa Bầu (1527-1699). Đây là giai đoạn rối ren loạn lạc nhiễu nhương lộn xộn phức tạp nhất trong lịch sử Việt Nam.
Các cuộc xung đột ở Đàng Trong

Xung đột Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Trong

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xung đột Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Trong là cuộc xung đột giữa xứ Đàng Trong do các chúa Nguyễn cai trị thời chúa Nguyễn Phúc Lan với Công ty Đông Ấn Hà Lan (tiếng Hà Lan: Vereenigde Oost-Indische Compagnie, tiếng Anh: Dutch East India Company, viết tắt là VOC) từ năm 1637 cho tới tận năm 1643.

Bối cảnh xung đột


Antonio van Diemen, Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan

Phù hiệu của VOC-Vereenigde Oost-Indische Compagnie
Trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, chúa Trịnh đã 3 lần cử đại binh vào Nam đánh chúa Nguyễn (tới năm 1637) nhưng đều phải chịu thất bại. Nhận ra rằng khó mà có thể đánh bại được Chúa Nguyễn bằng chính sức lực của mình, để giành được chiến thắng, chúa Trịnh Tráng gửi một bức thư cho Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan tại Batavia (Jakarta ngày nay) có tên là "Sesche Quan Kichio"; đây chính là Toàn quyền Anthony van Diemen và tên "Sesche Quan Kichio" theo cách phiên âm theo bản dịch của một thông dịch viên người Nhật. Nội dung bức thư cho biết Trịnh Tráng muốn phía Hà Lan chuyển cho ông 2 hoặc 3 tàu, 200 lính bắn giỏi để giúp chúa Trịnh.
Ngoài ra chúa Trịnh còn cần người Hà Lan gửi cho Đàng Ngoài 50 thuyền chiến với binh lính chọn lọc và đại bác có sức công phá mạnh để cùng quân Trịnh đi đánh Đàng Trong. Để đổi lại sự giúp đỡ này, chính quyền Đàng Ngoài sẽ tặng cho binh lính Hà Lan 20.000-30.000 lạng bạc. Ngoài ra, chúa Trịnh Tráng cũng hứa hẹn với người Hà Lan rằng ông sẽ tặng luôn Quảng Nam cho họ cai trị và bắt dân chúng Đàng Trong phải nộp cống cho Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan và phía Hà Lan sẽ chia cho Đàng Ngoài một ít để hai bên cùng có lợi 
Bản Anh ngữ của lá thư 
"Some beasts in human shape [meaning the Nguyễn] have set up a separatist regime on our southern border and are relying on their tenable defensive position to resist the court [of the Lê in Thăng Long]. We have not yet done anything about them because we are afraid that something unforeseen may happen at sea. Since you intend to be friendly with us, could you give us either two or three ships, or two hundred soldiers who are good at shooting, as proof of your kindness. These soldiers can help us with the cannons. In addition, please send fifty galleys with picked soldiers and powerful guns to us, and we will send some of our trusted soldiers to lead your galleys to Quảng Nam, as our reinforcements. At the same time our army will attack Thuận Hóa [...] After the victory we will give your soldiers twenty thousand to thirty thousand taels of silver as a gift. As for Your Excellency, we will give you Quảng Nam to govern. You can select some soldiers to build and guard the city, and we will order the people there to do corvée for you. You collect the products of the area and give a part of it to our court, so both sides will benefit from it. God will punish us if the foregoing is not honest."
Bản Việt ngữ của lá thư 
"(...) Một số con thú đội lốt người (tức họ Nguyễn) đã thiết lập 1 chính quyền tách biệt tại biên giới phía Nam của Bản quốc. Chúng dựa vào vị trí phòng thủ vững chắc của chúng để chống lại triều đình [của nhà Lê tại Thăng Long]. Bản quốc chưa làm gì chúng vì e ngại rằng có một cái gì đó không đoán trước được có thể xảy ra trên biển. Vì quý Quốc vương có thiện chí với Bản quốc. Quý Quốc vương có thể cho Bản Quốc 2 hoặc 3 tàu, hoặc 200 lính bắn giỏi được không, như 1 bằng chứng về sự tốt bụng của quý Quốc vương. Những người lính đó có thể giúp bản Quốc bắn đại bác. Ngoài ra, xin hãy gửi cho Bản quốc 50 thuyền chiến với binh lính chọn lọc và đại bác có sức công phá mạnh, và Bản quốc sẽ gởi 1 số binh lính đáng tin cậy để dẫn các thuyền chiến của quý Quốc vương đến Quảng Nam làm tăng quân viện. Cùng lúc, Bản quốc sẽ tấn công Thuận Hóa. Sau khi chiến thắng, Bản quốc sẽ tặng cho binh lính quý quốc 2 đến 3 vạn lạng bạc. Còn về phần quý Quốc Vương, bản Quốc sẽ trao cho quý Quốc vương xứ Quảng Nam để trị vì. Quý Quốc vương có thể chọn binh lính để xây dựng và bảo vệ nó. Bản quốc sẽ ra lệnh cho dân tại đó nộp cống cho quý Quốc vương. Quý Quốc vương sẽ lựa chọn những sản vật của vùng và cho Bản quốc 1 phần để 2 bên cùng có lợi. Trời sẽ trừng phạt Bản quốc nếu những đều trên là không thật."
Năm 1641, nhân sự kiện hai chiếc tàu Hà Lan bị đắm gần Cù lao Chàm, hàng hóa bị tịch thu, những thủy thủ sống sót bị bắt, quan hệ giữa chúa Nguyễn với Công ty Đông Ấn Hà Lan trở lên căng thẳng, thương điếm của Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Hội An phải đóng cửa.
Lời đề nghị của chính quyền Đàng Ngoài đã thuyết phục được phía Hà Lan hành động, khi mà Công ty Đông Ấn Hà Lan đang rất tức giận vì việc Chúa Nguyễn đã tịch thu hàng hóa của 2 tàu Hà Lan bị đắm (Kemphaan & Grootebroek). Một trong 2 tàu này là chiếc Grootebroek có chở theo một lượng lớn hàng hóa trị giá tới 23.580 real (1 real = 0,8 quan). Sau những cuộc mặc cả giữa hai bên (Công ty Đông Ấn Hà Lan và Chúa Trịnh) diễn ra liên tục giữa năm 1637-1638 thì năm 1639 Công ty quyết định cử 4 tàu đi giúp Đàng Ngoài tấn công Đàng Trong. Cũng trong năm 1639, Đàng Ngoài cố nài Hà Lan chuyển cho họ 5 tàu và 600 quân tinh nhuệ.

Cuộc tấn công của Công ty Đông Ấn Hà Lan

Ngày 14 tháng 5 năm 1641, Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan chuyển cho Trịnh Tráng biết rằng họ đã sẵn sàng cử tàu tới phối hợp cùng quân Trịnh xâm chiếm Đàng Trong. Tháng 11 cùng năm, hai tàu Hà Lan là chiếc Gulden BuisMaria de Medici bị đắm ở vùng biển Đàng Trong, sát Cù lao Chàm. 82 người Hà Lan sống sót đều bị bắt giam ở Hội An và chính quyền tịch thu cả 2 chiếc tàu. Đầu năm 1642, một sứ thần của Đàng Ngoài đã sang Batavia yêu cầu Công ty bắt giữ thật nhiều người Đàng Trong ở Touran (Đà Nẵng), phía Hà Lan đã bắt được tổng cộng 120 người và ngỏ ý muốn trao đổi với những người Hà Lan đang bị chúa Nguyễn Phúc Lan giam giữ. Tuy nhiên, trong khi phía Hà Lan đã thả hết người thì phía Đàng Trong từ chối trả người nếu Công ty Đông Ấn không chịu giao luôn viên đại diện của họ Trịnh. Phía Hà Lan từ chối vì không muốn bỏ rơi sứ thần Đàng Ngoài. Đàm phán thất bại và phía Hà Lan giữ luôn 2 người được chính quyền Nguyễn ở Phú Xuân cử đi (1 ông quan và 1 thông dịch viên tên là Francisco). Sau đó, đại diện Hà Lan là Jacob Van Liesvelt nhổ neo về Batavia.
Tháng 5 năm 1642, Công ty Đông Ấn Hà Lan cử 5 tàu cùng 125 thủy thủ và 70 binh lính do Jan Van Linga chỉ huy đi lùng bắt dân chúng Đàng Trong ở ven biển và dọa sẽ giết hết một nửa và đem những người còn lại về Tongking (Tonkin/Đàng Ngoài) nếu đề nghị của họ bị bác bỏ trong 48 tiếng. Sau đó, tất cả bọn họ tiến lên phía Bắc, nơi biên giới với Đàng Ngoài và chờ quân Trịnh tới phối hợp (nhưng rất ít người tin quân Trịnh sẽ xuất hiện).
Ngày 3 tháng 5 năm 1642, người Hà Lan cập vịnh Quy Nhơn, đốt nhà và kho thóc rồi bắt 38 người. Jan Van Linga quyết định dùng vũ lực để giải quyết dứt khoát chuyện Đàng Trong bắt giữ và giam cầm những người Hà Lan lúc trước. Dù vậy, họ chỉ bắt được thêm 11 người trong 10 ngày sau đó. Jacob Van Liesvelt đề nghị tiến tới Cù lao Chàm để bắt thêm người nhưng sau vụ Quy Nhơn, cư dân tại đây đã báo cho quan trên và trinh sát của chúa Nguyễn Phúc Lan đã phát hiện được đoàn thuyền Hà Lan nên khi vừa tới nơi, mới bước lên bờ thì Jacob Van Liesvelt cùng 150 binh sĩ dưới quyền đã bị tấn công và hạ sát. Ngày 16 tháng 7 tại Touran (Đà Nẵng), phía Hà Lan giết 20 con tin và sau đó đi tới Đàng Ngoài. Tại Đàng Ngoài, Chúa Trịnh đã tuyên bố ông có cử quân đi đánh Đàng Trong nhưng phải rút lui do người Hà Lan không tới. Mặc dù vậy thì Đại Việt sử ký toàn thư không có ghi chép nào cho thấy có chuyển quân ở Đàng Ngoài và Đại Nam thực lục tiền biên cũng không ghi lại hoạt động quân sự gì ở Đàng Trong cùng thời điểm.

Thiện chí của Chúa Nguyễn

Có một điều mà người Hà Lan không biết là chúa Nguyễn Phúc Lan đã xem xét nghiêm túc sự đe dọa của người Hà Lan và ông đã thả 50 người từ tháng 3 năm 1642 nhưng mãi tới năm 1643 Công ty Đông Ấn Hà Lan mới biết chuyện này. Những người này khi trở về nhà đã bị tàu của Bồ Đào Nha (hoặc Tây Ban Nha) và một số người Hoa tấn công khiến nhiều người Hà Lan bị giết. 18 người sống sót bị vua Champa bắt làm nô lệ khi bơi vào bờ. Chỉ có 1 người may mắn sống sót và về nhà an toàn là Juriaan de Rode; Juriaan được bán cho vua Chân Lạp và vị vua này đã cho Juriaan trở về Batavia. Juriaan đã tới nơi an toàn ngày 5 tháng 1 năm 1643

Trận chiến cuối cùng

Tháng 1 năm 1643, Công ty Đông Ấn Hà Lan đưa một hạm đội 5 chiến hạm do Johanes Lamotius chỉ huy tới liên kết với Trịnh Tráng đi đánh Đàng Trong nhưng khi tới nơi thì họ biết rằng quân đội chúa Trịnh chưa chuẩn bị gì. Tháng 7 năm 1643, một hạm đội khác lại tới do Pieter Baek dẫn đầu. Ông nhận được lệnh bắt dân Đàng Trong càng nhiều càng tốt. Dù vậy, khi còn cách phía Nam sông Gianh 5 dặm thì họ bị 50 chiến thuyền của quân đội chúa Nguyễn tấn công. Theo Đại Nam thực lục tiền biên thì sự kiện này lại xảy ra ở gần cảng Eo (tức Thuận An, Phú Vang, Thừa Thiên - Huế ngày nay).
Theo nhà nghiên cứu Lê Thành Khôi thì trong trận này tàu Wijdenes bị triệt tiêu, Baek bị giết, 2 tàu khác phải mở đường mà tháo chạy. Theo Đại Nam thực lục tiền biên thì quân đội chúa Nguyễn được chuẩn bị sẵn vì một nhóm trinh sát gọi là hải tuần đã mật báo từ trước.
Sau trận chiến này, phía Hà Lan kết luận rằng "Chúa của Tongking đã ngán ngẩm chiến tranh (với Cochinchina) rồi".
Sau cuộc xung đột với Đàng Trong, uy tín của Công ty Đông Ấn Hà Lan tại Viễn Đông có phần suy giảm. Sau khi nghe người Trung Hoa và dân địa phương buôn bán ở Nhật kể lại cuộc chiến, người Nhật bắt đầu cảm thấy coi thường Công ty Đông Ấn Hà Lan và uy tín của Hà Lan ở đây bị mất mát lớn. Cuộc xung đột với Hà Lan trong những năm 1640 cũng đã phản ánh một bước ngoặc trong sức mạnh quân sự của Đàng Trong. Phía Hà Lan tin rằng họ Nguyễn chỉ kém hơn một chút so với Đàng Ngoài.
Công ty Đông Ấn Hà Lan, với một lực lượng hải thuyền khá mạnh, trang bị vũ khí tối tân (vào thời bấy giờ), đã chinh phục được Batavia và vùng quần đảo Indonesia nhưng không thể chiến thắng được Đàng Trong chứng tỏ quân đội chúa Nguyễn khá mạnh, giúp Chúa Nguyễn thắng thế trong cuộc chiến với họ Trịnh vào thế kỷ 18.
Sau trận này, Công ty Đông Ấn Hà Lan không còn gởi tàu bè đến Đàng Trong. Đến năm 1648, khi chúa Nguyễn Phúc Tần, thay cha cầm quyền (cầm quyền ở Đàng Trong 1648-1687), muốn thương lượng với người Hà Lan thì Công ty Đông Ấn Hòa Lan mới gởi đại diện đến Đàng Trong. Ngày 9 tháng 12 năm 1651 hai bên đi đến thỏa thuận bỏ qua những tranh chấp cũ, nhưng người Hà Lan cho rằng công việc buôn bán của họ vẫn tiếp tục bị trở ngại nên rút lui và đóng cửa thương cuộc ở Đàng Trong năm 1654.

Nguyễn Phúc Tần

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chúa Hiền
Hiền Vương (chi tiết...)
Chúa Nguyễn
Trị vì 1648 - 1687
Tiền nhiệm Nguyễn Phúc Lan
Kế nhiệm Nguyễn Phúc Thái
Thông tin chung
Thê thiếp Châu Thị Viên
Tống Thị Đôi
Hậu duệ
Tên húy Nguyễn Phúc Tần
Tước vị
Thụy hiệu Tuyên Uy Kiến Vũ Anh Minh Trang Thánh Đức Thần Công Hiếu Triết hoàng đế
Ngắn: Hiếu Triết hoàng đế
Miếu hiệu Thái Tông
Gia tộc Họ Nguyễn
Thân phụ Nguyễn Phúc Lan
Thân mẫu Đoàn Thị Ngọc
Sinh 18/07/1620 
Mất 30/041687 
Nguyễn Phúc Tần (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7, năm 1620 - 30 tháng 4, năm 1687), tước hiệu Dương Quận công (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là chúa Hiền (主賢), là vị chúa Nguyễn thứ 4 trong của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi từ năm 1648 đến năm 1687, tổng cộng được 40 năm.

Thân thế

Nguyễn Phúc Tần sinh ngày 18 tháng 7, năm 1620; ông là con trai thứ 2 của Nguyễn Phúc LanĐoàn quý phi, người huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Lúc đầu, Nguyễn Phúc Tần được phong làm Thái phó Dũng Lễ Hầu, ông được đánh giá là một võ tướng có tài.

Tướng chống Trịnh

Tháng 6, năm 1643, theo đề nghị của chúa Trịnh, ba tàu chiến của Công ty Đông Ấn Hà Lan là Wojdenes (De Wijdeness), Waterhond và Vos tiến vào cửa Thuận An đánh chúa Nguyễn.
Ngày 7 tháng 7, năm 1643, Thế tử Nguyễn Phúc Tần đốc suất 50 chiến thuyền đột kích bất ngờ vào đội thuyền của Công ty Đông Ấn Hà Lan. Tàu đô đốc Wijdenes, là chiếc nặng nhất và chậm nhất trong số 3 tàu đó, bị bốn thuyền chèo tay đuổi kịp, đánh gãy mất bánh lái, đánh đổ cột buồm và bám vào hai bên mạn tàu; viên thuyền trưởng Pieter Baek không hy vọng chạy thoát được nữa, cho châm lửa vào kho thuốc súng và tự đốt cháy tàu, Pieter Baek và nhiều thủy thủ đã bị chết. Hai chiếc tàu kia, theo lời của Jean Gobyn, phải rất chật vật mới tìm được một chỗ trú ở đảo Ngọc (Ile de Perles) 
Chúa Nguyễn Phúc Lan rất vui mừng và khen:
Trước kia tiên quân ta từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế, ta không lo gì nữa.
Tháng 2, năm 1648, chúa Trịnh Tráng sai Tiến Quận công Lê Văn Hiểu khởi binh Nam tiến lần thứ 4, dẫn bộ binh tiến lên đóng ở đất Nam Bố Chính, còn thủy quân đánh cửa Nhật Lệ. Nguyễn Phúc Tần được phong làm Tiết chế chủ quân và cùng vua cha ra Quảng Bình tiếp ứng, chia thủy quân phục sẵn ở sông Cẩm La, sai Nguyễn Hữu Tiến mang 100 con voi đánh úp quân Trịnh lúc nửa đêm, quân bộ tiếp sau vào đánh phá. Quân Trịnh thua lớn, bị thủy quân Nguyễn chặn đánh chạy đến tận sông Lam mới thôi.
Tháng 3, năm 1648, Thế tử Nguyễn Phúc Tần định cho quân vượt sông Gianh đánh ra Bắc Bố Chính thì nghe tin Chúa Thượng ngã bệnh chết trên thuyền trên đường về Thuận Hóa nên phải lui binh.

Điều hành Đàng Trong

Năm 1648, chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đột ngột qua đời, Thế tử Nguyễn Phúc Tần mời chú là Nguyễn Phúc Trung lên gánh vác việc nước, xong ông này từ chối.
Nguyễn Phúc Tần lên ngôi ở tuổi 29, thường được gọi là chúa Hiền. Quần thần tôn ông làm Tiết chế Thuỷ bộ Chư dinh kiêm Tổng Nội ngoại Bình chương Quân quốc Trọng sự Thái bảo Dương Quận công (勇郡公).
Năm 1653, chúa Hiền sai đắp đồn Sa Chùy (ở cửa biển Nhật Lệ, bấy giờ gọi là lũy Mũi Dùi).

Quân s

Tháng 3, năm 1653, Chúa Hiền cho mở một cuộc duyệt binh lớn ở xã An Cựu  xét khí giới cùn sắc để định thưởng phạt.
Lực lượng thủy binh Đàng Trong thời Chúa Nguyễn Phúc Tần có tới 22740 quân, bao gồm
  • Cơ Trung hầu 10 thuyền, 300 người.
  • Nội bộ 60 đội thuyền, hơn 3.280 người.
  • 2 cơ Tả trung và Hữu trung, mỗi cơ 14 thuyền, đều hơn 700 người.
  • Nội thủy 58 thuyền, 6.410 người.
  • Cơ Tả trung kiên 12 thuyền, 600 người.
  • Cơ Hữu trung kiên 10 thuyền, 500 người.
  • 2 cơ Tả trung bộ và Hữu trung bộ, mỗi cơ 10 thuyền, đều 450 người.
  • Cơ Tiền trung bộ 12 đội, mỗi đội 5 thuyền, cộng 2700 người.
  • 4 cơ Tả dực, Hữu dực, Tiền dực, Hậu dực, mỗi cơ 5 thuyền, cộng hơn 1100 người.
  • 4 đội Tiền thủy, Hậu thủy, Tả thủy, Hữu thủy, mỗi đội 5 thuyền, đều hơn 500 người.
  • 8 cơ Tả nội bộ, Hữu nội bộ, Tiền nội bộ, Hậu nội bộ, Tả súng, Hữu súng, Tiền súng, Hậu súng, mỗi cơ 6 thuyền, cộng 2100 người.
  • Dinh tả bộ 10 thuyền, cộng hơn 450 người.
  • 4 đội Tiền bính, Hậu bính, Tả bính, Hữu bính, mỗi đội 4 thuyền, đều hơn 200 người.
  • Cơ Tả thủy 5 thuyền, hơn 200 người.

Thi cử

Năm 1674, Chúa Nguyễn mở khoa thi gọi là thi chính đồ và thi hoa văn. Thi chính đồ chia ra làm ba kỳ: Kỳ đệ nhất thi tứ lục, kỳ đệ nhị thi thơ phú, kỳ đệ tam thi văn sách. Thi hoa văn thì cũng phải ba ngày, mỗi ngày chỉ phải làm có một bài thơ mà thôi. Ai đậu thì được bổ vào làm việc ở Tam ti.
Quan tri phủ tri huyện làm sơ khảo, quan cai bạ, ký lục, vệ úy làm giám khảo. Những quyển đậu, thì chia ra làm ba hạng: Hạng thứ nhất gọi là giám sinh, được bổ ra làm tri phủ, tri huyện; hạng thứ nhì gọi là sinh đồ được bổ làm huấn đạo; hạng thứ ba cũng gọi là sinh đồ được bổ làm lễ sinh, hoặc làm nhiêu học.

Vụ Thị Thừa

Có người con gái là con hát, quê Nghệ An nhan sắc xinh đẹp tên là Thị Thừa được lấy vào cung phục vụ chúa. Chúa Hiền lúc đó nhân đọc sách Quốc ngữ, đọc tới chuyện Ngô vương là Ngô Phù Sai mất nước vì nàng Tây Thi liền tỉnh ngộ, lập tức sai Thị Thừa mang ngự bào cho chưởng dinh Nguyễn Phúc Kiều, giấu bức thư trong dải áo, ngầm sai Kiều dìm nước để giết Thị Thừa đi 

Đối ngoại

Chăm Pa

Năm 1651, Quốc vương Chiêm Thành Po Rome mất, Po Nraup lên làm Quốc vương kế vị. Theo sử Chăm, Po Nraup là em cùng mẹ khác cha của Po Rome.
Năm 1653, vua nước Chiêm Thành là Po Nraup sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền liền sai quan cai cơ là Hùng Lộc lãnh 3000 quân sang đánh. Quân đến Phú Yên, tiếp tục vượt đèo Hổ Dương núi Thạch Bi, nhân lúc đêm tối đánh thẳng vào thành, phóng lửa đánh gấp, cả phá được. Po Nraup trốn chạy. Po Nraup sai con là Xác Bà Ân dâng thư xin hàng. Chúa Hiền thuận y cho, lấy sông Phan Rang làm ranh giới. Vùng phía Đông sông đến địa đầu Phú Yên (vùng Kauthara) đặt làm 2 phủ Thái Khang Diên Ninh . Đặt dinh Thái Khang do Hùng Lộc trấn giữ. Phần phía Tây sông (vùng Panduranga) vẫn thuộc về Chăm Pa, và bắt giữ lệ cống .
Sang năm 1654, trấn thủ dinh Bố ChínhXuân Sơn vào tiếp quản dinh Thái Khang, nhằm kinh lý vùng đất mới chiếm được, tổ chức di dân bình ổn dinh Thái Khang, thu gom nguồn tài nguyên hương liệu nhằm khuếch trương cảng Hội An.

Chân Lạp

Bên cạnh Vương quốc Chiêm Thành, tình hình Vương quốc Chân Lạp bấy giờ cực kỳ rối ren, chú cháu anh em tranh quyền đoạt vị, tàn sát lẫn nhau, vị vua mới lên ngôi lại theo đạo Hồi gây ra xung đột giữa các tầng lớp dân.
Năm 1658, 2 con còn sống sót của Preah OuteyAng SurAng Tan dấy binh chống lại vua Chân Lạp Ramathipadi I (Nặc Ông Chân) nhưng thất bại. Hai người này tìm kiếm lời khuyên của Thái hậu Ngọc Vạn, Ang Sur và Ang Tan đã cầu cứu chúa Phúc Tần.
Chúa Hiền liền sai Phó tướng dinh Trấn Biên (Phú Yên) là Nguyễn Phước Yến dẫn 3000 quân đến thành Hưng Phước (bấy giờ là Mỗi Xuy, nay thuộc huyện Phúc An, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), phá được thành rồi tiến vào bắt Ramathipadi I bỏ vào lồng sắt đem về giam ở Quảng Bình. Năm 1659, Ramathipadi I đã được phóng thích vì chúa Hiền muốn ông ta gây ảnh hưởng lên người kế nhiệm, nhưng ông ta đã chết trên đường trở về Vương quốc.
Nhờ sự can thiệp của người Việt mà Ang Sur được làm Quốc vương, xưng là Barom Reachea V, đóng tại Long Úc (Oudong); Ang Nan (Nặc Nộn) làm Phó vương đóng tại thành Sài Gòn. Đổi lại các Quốc vương Chân Lạp phải thần phục Đàng Trong và thực hiện triều cống định kỳ. Vì sự phụ thuộc quá lớn vào chúa Nguyễn Đàng Trong, dẫn tới hệ quả người Việt tràn đến sinh sống và kiểm soát những vùng đất thuộc Chân Lạp.
Tháng 12, năm 1672, Quốc vương Barom Reachea V bị Bô Tâm  giết chết rồi cướp ngôi, Bô Tâm xưng là Chey Chettha III.
Ang Tan (Nặc Ông Tân), chú của Chey Chettha III, chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Nhưng ngay sau đó tháng 5 năm 1673, Chey Chettha III cũng bị giết trên giường ngủ bởi người Mã Lai thuộc phe của Ramathipadi I.
Ang Chea (Nặc Ông Đài), con trai đầu của vua Barom Reachea V lên ngôi sau đó, xưng là Keo Fa II.
Năm 1674, Nặc Ông Đài đã đi cầu viện Ayutthaya (Thái Lan) để đánh Nặc ông Nộn, và chiếm được thành Sài Gòn. Ang Nan (Nặc Ông Nộn) bỏ chạy sang cầu cứu ở dinh Thái Khang (nay là Khánh Hòa). Đồng thời, Ông Đài cho đắp thành lũy ở địa đầu Mỗi Xuy; làm cầu phao và xích sắt, đắp thành Nam Vang; nhờ Xiêm cứu viện để chống lại chúa Nguyễn.
Chúa Hiền bèn sai Cai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Đình Phái làm tham mưu đem binh chia ra hai đạo sang đánh Nặc ông Đài.
Tháng 3 năm 1674, quân tiên phong của Nguyễn Diên đến trước đánh úp lũy Mỗi Xuy rồi chiếm được lũy, mấy ngày sau quân Cao Miên các nơi họp lại vây đánh rất dữ, nhưng Nguyễn Diên đóng giữ cửa Lũy mà không ra đánh.
Khi đại binh của Nguyễn Dương Lâm ập đến, Diên bèn cùng hợp sức ra đánh, quân Cao Miên tan vỡ, bị chết và thương rất nhiều. Sau đó, đại binh tiến đến Sài Gòn.
Tháng 4 năm 1674, phá được 3 lũy: Sài Côn (đất trấn Phiên An), Gò Vách và rồi tiến quân lên vây thành Nam Vang. Nặc Ông Đài phải bỏ thành chạy vào rừng, bị thuộc hạ giết chết. Nặc ông Thu ra hàng. Nặc ông Thu là chính dòng con trưởng cho nên lại lập làm chính quốc vương đóng ở Long Úc (thành Vũng Luông), để Nặc ông Nộn làm đệ nhị quốc vương như cũ, đóng ở thành Sài Gòn, bắt hằng năm phải triều cống .
Lại còn gia phong cho Nguyễn Dương Lâm làm Trấn thủ dinh Thái Khang (Khánh Hòa) lo việc phòng ngự ngoài biên. Chúa Nguyễn làm chủ tình thế cả vùng Đồng Nai.
Năm 1679, có quan nhà Minh là tổng binh trấn thủ đất Long Môn (Quảng Tây) Dương Ngạn Địch, phó tướng Hoàng Tiến, tổng binh châu Cao, châu Lôi, và châu Liêm (thuộc Quảng Đông) là Trần Thượng Xuyên, phó tướng Trần An Bình, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3000 quân cùng 50 chiếc thuyền xin được vào Kinh bằng hai cửa Tư Dung và Đà Nẵng (nay là cửa Hàn thuộc Quảng Nam). Dâng sớ xin được làm dân mọn xứ Việt.
Chúa Hiền thấy họ cùng quẫn mà chạy sang, lại tỏ bày lòng trung thực, vả lại xứ Đông Phố (một tên khác của đất Gia Định xưa) của nước Cao Miên, đất đai màu mỡ có đến ngàn dặm, triều đình chưa rỗi để lo liệu, chi bằng tận dụng sức lực của họ, giao cho họ khai hoang đất đai để ở. Nghĩ vậy, triều đình tổ chức khao đãi ân cần, chuẩn y cho giữ nguyên chức hàm, phong cho quan tước rồi lệnh cho tới Nông Nại (Đồng Nai) khai hóa đất đai. Mặt khác, triều đình còn hạ chỉ dụ cho Quốc vương Cao Miên (Thủy Chân Lạp) biết việc ấy để không xảy ra chuyện ngoài ý muốn
Bọn tướng Long Môn họ Dương đem binh thuyền tiến vào cửa Xoài Rạp (nay gọi là Lôi Lạp (Soi Rạp)) và cửa Đại cửa Tiểu (thuộc trấn Định Tường) dừng trú tại xứ Mỹ Tho (là trấn lỵ của Định Tường). Bọn tướng các xứ Cao, Lôi, Liêm họ Trần thì đem binh thuyền tiến vào cửa Cần Giờ rồi đồn trú tại xứ Bàn Lân thuộc Đồng Nai (là lỵ sở trấn Biên Hòa), đất Lộc Đã (tức là đất Đồng Nai thuộc Biên Hòa).
Họ lo mở mang đất đai, lập thành phố chợ, giao thông buôn bán. Tàu thuyền người Hoa, người phương Tây, người Nhật, người Chà Và (người gốc Java), tụ tập tấp nập, phong hóa Trung Quốc dần dần lan ra thấm đượm cả vùng Đông Phố 

Các sự kiện khác

  • Năm 1686, có người Pháp tên là Verret được phép mở cửa hàng ở cù lao Côn Lôn.
  • Năm 1644, chúa Hiền ở bắt giết những người đi giảng đạo ở Đà Nẵng.

Qua đời

Ngày 19 tháng 3, năm Đinh Mão (30 tháng 4, 1687), chúa Hiền không được khỏe, cho triệu con thứ là Nguyễn Phúc Thái đến bảo rằng:
Ta bình sinh ra vào gian hiểm giữ nhà, giữ nước. Con nối ngôi phải sửa thêm nhân chính cho yên bờ cõi. Các quan văn võ đều do ta cất dùng để mưu mọi bề, đừng để bọn tiểu nhân len vào.
Sau đó, Nguyễn Phúc Tần triệu các quan đại thần tới và bảo rằng:
Ta với các khanh một chí hướng với nhau mà công việc mưa đồ chưa trọn. Nay con ta tuổi còn nhỏ, mong nhờ các khanh giúp đỡ cho công việc của tổ tông rõ ràng. Đừng quên lời ấy.
Nói rồi, ông qua đời, thọ 68 tuổi. Lăng mộ tại làng Hải Cát, Huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lăng được đặt tên là Trường Hưng lăng (長興陵), thụy hiệu của ông là Công Cao Đức Hậu Dũng Triết vương (功高德厚勇哲王).
Vào đời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, ông được tặng miếu hiệuNghị Tổ (毅祖), thụy hiệu cải thành Tuyên Uy Kiến Vũ Anh Minh Trang Chánh Thánh Đức Thần Công Hiếu Triết vương (宣威建武英明莊正聖德神功孝哲王).
Con ông là Nguyễn Phúc Thái lên kế nghiệp, tức chúa Nghĩa (主義).

Gia quyến

  1. Từ Mẫn Hiếu Triết hoàng hậu Chu thị (慈敏孝哲皇后朱氏; 1625 - 1684)[1], theo sử sách đều không rõ quê quán bà ở đâu. Khi còn trẻ, bà vào hầu Thái Tông trong thời kỳ tiểm để, được phong làn Chánh phu nhân. Năm 1806, Nguyễn Thế Tổ Gia Long hoàng đế truy tôn Từ Mẫn Chiêu Thánh Cung Tĩnh Trang Thận Hiếu Triết Hoàng Hậu (慈敏昭聖恭靜莊慎孝哲皇后), được phối thờ với Thái Tông ở Thái Miếu, án thứ hai bên tả. Bà sinh được 2 trai và 1 gái: Nguyễn Phúc Diễn, Nguyễn Phúc ThuầnNguyễn Phúc Ngọc Tào.
  2. Từ Tiên Hiếu Triết hoàng hậu Tống thị (慈僊孝哲皇后宋氏), con gái Thíếu phó Quận công Tốn Phúc Khang (宋福康), mẹ bà họ Phạm, quê ở huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Năm mất và tuổi của bà đều không được truyền lại. Năm 1806, Gia Long hoàng đế truy tôn Từ Tiên Huệ Thánh Trinh Thuận Tĩnh Nhân Hiếu Triết Hoàng Hậu (慈僊惠聖貞順靜仁孝哲皇后), đặt tên lăng là Quang Hưng lăng (光興陵). Bà được phối thờ với Thái Tông ở Thái Miếu, án thứ hai bên tả. Bà sinh ra Anh Tông hoàng đế Nguyễn Phúc Thái.
  • Công tử:
  1. Phúc Quận công Nguyễn Phúc Diễn (福郡公阮福演; 1639 - 1685), mẹ là Từ Mẫn Chu hoàng hậu.
  2. Nguyễn Phúc Thái (阮福溙), tức Anh Tông Hiếu Nghĩa hoàng đế (英宗孝義皇帝). Mẹ là Từ Tiên Tống hoàng hậu.
  3. Cương Quận công Nguyễn Phúc Trân (綱郡公阮福溱; 1650 - 1685), mẹ là Từ Tiên Tống hoàng hậu.
  4. Quốc Uy công Nguyễn Phúc Thuần (國威公阮福淳; 1652 - 1675), mẹ là Từ Mẫn Chu hoàng hậu.
  5. Công tử thứ 5, mất sớm không con.
  6. Nguyễn Phúc Nhiễu, mất sớm không con.
  • Công nữ:
  1. Nguyễn Phúc Ngọc Tào (阮福玉曹).
  2. Khuyết danh.
  3. Khuyết danh.

Nguyễn Phúc Thái

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Phúc Thái
Nghĩa vương (chi tiết...)
Chúa Nguyễn
Trị vì 1687 - 1691
Tiền nhiệm Nguyễn Phúc Tần
Kế nhiệm Nguyễn Phúc Chu
Thông tin chung
Thê thiếp Tống Thị Lĩnh
Hậu duệ
Tên húy Nguyễn Phúc Thái
Tước vị
Thụy hiệu Thiệu Hư Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu Nghĩa Hoàng Đế
Ngắn: Hiếu Nghĩa hoàng đế
Miếu hiệu Anh Tông
Gia tộc Họ Nguyễn
Thân phụ Nguyễn Phúc Tần
Thân mẫu Tống Thị Đôi
Sinh 22/01/1650
Mất 07/02/1691 
Đàng Trong, Việt Nam
Nguyễn Phúc Thái (chữ Hán: 阮福溙, 1649-1691) là chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở ngôi 1687-1691), nối ngôi Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần.

Thân thế

Nguyễn Phúc Tần có hai bà vợ chính, một bà chính phi tên Chu Thị Viên, một bà thứ phi tên Tống Thị Đôi
Tống Thị Đôi là mẹ của Chúa Phúc Thái. Chúa Phúc Thái là người con trai thứ 2 của Chúa Phúc Tần và là con đầu của bà Tống Thị Đôi.
Khi người con cả là Nguyễn Phúc Diễn mất, Nguyễn Phúc Tần cho rằng Nguyễn Phúc Thái tuy là con bà hai song lớn tuổi lại hiền đức nên phong làm Tả thủy dinh phó tướng Hoằng Ân Hầu, làm phủ đệ tại dinh Tả thủ, khi Nguyễn Phúc Tần mất Nguyễn Phúc Thái đã 39 tuổi được nối ngôi chúa, được triều thần tôn làm "Tiết Chế Thủy Bộ Tư Dinh Kiêm Tổng Nội Ngoại Binh Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Phó Hoằng Quốc Công"

Điều hành Đàng Trong

Nguyễn Phúc Thái là người nổi tiếng rộng rãi, giảm nhẹ hình phạt, thuế khoá, trọng dụng quan lại cũ, trăm họ đều vui mừng.
Chúa quy định lại tang phục cho có lợi, bởi vì vào thời ấy, mỗi khi có quốc tang thì người dân dù người già, trẻ con đều la khóc kêu gào, bỏ việc đồng áng, lao động. Chúa quy định người trong tông thất và thân trần để tang 3 năm; cai đội trở lên để tang 2 tuần; Nội ngoại đội chưởng, văn chức, câu kê để tang đến giỗ đầu; còn quân dân để tang đến Tết Trung nguyên (Rằm tháng Bảy).
Tháng 7 năm 1687, Chúa Phúc Thái dời dinh phủ Chúa sang làng Phú Xuân, lấy Bằng Sơn (nay là Ngự Bình) làm bình phong, xây đắp cung điện, thành quách rất tráng lệ. Vùng Phú Xuân rộng rãi bề thế hơn Kim Long, sông Hương trở nên rộng khi chảy ngang qua trước kinh thành  và nơi này trở thành Kinh Đô của triều Nguyễn sau này và được gọi là chính dinh. Chỗ phủ củ ở làng Kim Long (huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên) trở thành Thái Tông miếu, thờ chúa Hiền.

Đối ngoại

Chân Lạp

Tháng 6 năm 1688, Phó tướng Long Môn là Hoàng Tấn sinh lòng kiêu mạn, y cầm quân tấn công giết Dương Ngạn Địch ở cửa biển Mỹ Tho, xưng làm tướng quân Long Môn, rồi dời đến đóng ở xứ Rạch Năn  (thuộc huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường), chiếm cứ vùng hiểm yếu, đắp lũy, đóng thuyền chiến, đúc thêm súng lớn, không cho thương nhân qua lại, quấy nhiễu cướp bóc người Cao Miên.
Chính vương Nặc Ông Thu oán giận, bỏ việc triều cống chúa Nguyễn, đắp lũy Bích Đôi (Gò Bích) Cầu Nam  Nam Vang, lại kết bè nổi ở sông Cầu Nôm và giăng dây thép chắn ngang cửa sông để cự thủ.
Phó vương Nặc Nôn đang đóng giữ Sài Côn vội tâu lên hết mọi chuyện. Tháng 10, triều đình sai Phó tướng dinh Thái Khang là Mai Vạn Long làm Thống suất, Cai cơ trấn Biên Nguyễn Thắng Long Nguyễn Hữu Lễ làm Tả hữu vệ, Văn Vị Xuyên làm Tham mưu cầm quân đi chinh phạt Hoàng Tấn, đồng thời ủy cho quyền mưu tính việc mở mang biên cương.
Tháng 1 năm 1689, quan quân kéo đến đóng ở Rạch Gầm (thuộc thôn Kim Sơn, huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường) rồi nói thác là đi đánh Nặc Thu, giả bộ ra triệu cho Hoàng Tấn đem quân sở bộ đến để làm tiên phong, nhưng Hoàng Tấn không đến.
Văn Thông dâng kế với Mai Văn Long, giả làm ông già họ Trương để dụ Hoàng Tấn ra hàng, Hoàng Tấn tin lời đi thuyền ra sông đến hội binh, quân Hoàng Tấn đang ở giữa sông bị phục binh 4 phía đánh vào và phá hết đồn trại của Hoàng Tấn. Hoàng Tấn bỏ thuyền chạy về hướng cửa biển Lôi Lạp. Vợ con Tấn trong lũy đều bị chém cả, đội quân Long Môn được chiêu dụ, những kẻ bị Tấn bắt ép phải theo đều được tha thứ.
Quan quân thừa thế tiến đánh Nặc Thu, giao cho tướng sĩ Long Môn Trần Thượng Xuyên làm tiên phong, đốt hết dây thép chắn ngang sông, tiến công chiếm được ba lũy Cầu Nôm, Nam Vang và Gò Vách.
Nặc Thu rút quân lui về giữ thành Oudong (Long Úc). Nguyễn Thắng Quyền khinh địch ham tiến bị Ông Thu đánh bại, Nguyễn Thắng Sơn đem quân đến cứu, xông trận đánh hăng, buộc Nặc Thu rút vào thành cố thủ. Rồi lập mưu sai nữ sứ giả là Chiêm Dao Luật đến xin hàng và đề nghị quan quân rút lui để họ chuẩn bị lễ vật cống hiến. Thực ra ấy là mưu kế để họ kịp mộ binh tiếp viện tính việc chống cự. Mai Vạn Long nhẹ dạ tin theo rồi cho lui quân về đóng ở Bến Nghé (nay là chợ Điều Khiển).
Đã hơn một năm trôi qua mà Nặc Thu không chịu tiến cống, lúc ấy lại bỗng xảy ra bệnh dịch, quân sĩ nhiều người bị bệnh và chết, Cai cơ Nguyễn Thắng Sơn cùng các tướng làm tờ tấu đàn hạch Mai Vạn Long về tội chần chừ làm hỏng quân cơ.
Mùa đông năm 1689, triều đình sai Cai cơ Nguyễn Hữu Hào làm thống suất, Hòa Tín làm Tham mưu, Cai đội Nguyễn Thắng Sơn hầu làm Tiên phong, tuyển lựa tinh binh ở các xứ Phú Yên, Thái Khang và Phan Rí để tiến đánh Cao Miên, rồi cho bắt trói bọn Vạn Long hầu cùm đưa về kinh sư. Sau đó triều đình miễn chức Vạn Long hầu cho về làm thường dân, giáng Vị Xuyên hầu xuống làm tướng thần thuộc lại.
Nguyễn Hữu Hào tiến quân đóng ở Bích Đôi, cho dựng lũy, sắp xếp quân thủy bộ. Rồi sai người đến chỗ Nặc Thu yêu cầu bắt cống nộp, nhưng Nặc Thu lại giở trò lần lữa như trước chỉ tiến cống một phần.
Tháng 3 năm 1690, Nguyễn Hữu Hào đánh thắng Cao Miên, bắt vua Cao Miên là Nặc Thu đem về Sài Côn rồi nghỉ quân, Cao Miên từ đó mới bình định.
Sau đó Nặc Thu bị bệnh mất, Nặc Non cũng mất, các tướng tâu lên rằng dòng đích của vua Cao Miên không còn ai, do đó triều đình phong cho con Nặc Non là Nặc Yêm làm vua và lệnh cho đóng ở thành Gò Vách. (Sử Cao Miên ghi niên hiệu Thiên Vận (1622) là năm Thìn, Nặc Yêm con của Nặc Non là Tham - đích - sá - chiêu - trùy lên làm vua, so ra thời đại và tên gọi khá phù hợp nhưng tháng năm thì sai khác, điều đó còn cần khảo cứu thêm).

Qua đời

Chúa Nghĩa qua đời năm 1691, thọ 43 tuổi. Lăng mộ táng tại núi Kim Ngọc (Định Môn, Hương Trà, Thừa Thiên). Tên lăng là Trường Mậu.Con trai ông là Nguyễn Phúc Chu lên kế nghiệp, tức Chúa Minh.
Sau này, nhà Nguyễn truy tôn ông miếu hiệu là Anh Tông, thụy là Thiệu Hư Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu Nghĩa hoàng đế.

Gia đình

  • Vợ: Tống Thị Lĩnh (1653 - 1696), quê quán ở huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, con gái quan Thiếu phó Quận công Tống Phúc Vinh, mẹ bà họ Lê. Bà vào hầu Nghĩa vương nơi tiểm để, sau được phong lên bậc Cung tần. Lúc bà có thai, có nhiều điềm lành cho biết sẽ sinh ra bậc kỳ tài. Khi sinh, ánh sáng lành rực rỡ khắp nhà, sau này là Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu. Khi mất, được phong tặng là Quốc Thái Phu Nhân, táng ở làng Định Môn (Hương Trà, Thừa Thiên). Vua Gia Long truy tôn: Từ Tiết Tĩnh Thục Tuệ Mẫn Hiến Thuận Hiếu Nghĩa Hoàng Hậu, đặt tên lăng là Vĩnh Mậu. Bà được phối thờ với đức Anh Tông ở Thái Miếu, án thứ hai bên hữu.

Nguyễn Phúc Chu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Phúc Chu
Minh Vương (chi tiết...)
Chúa Nguyễn
Trị vì 1691 - 1725
Tiền nhiệm Nguyễn Phúc Thái
Kế nhiệm Nguyễn Phúc Chú
Thông tin chung
Hậu duệ
Tên húy Nguyễn Phúc Chu
Tước vị
Thụy hiệu Anh Mô Hùng Lược thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh Hoàng Đế
Ngắn: Hiếu Minh hoàng đế
Miếu hiệu Hiển Tông
Hoàng tộc Chúa Nguyễn
Thân phụ Nguyễn Phúc Thái
Thân mẫu Tống Thị Đôi
Sinh 11/06/1675
Mất 01/06/1725 
Tôn giáo Phật giáo
Nguyễn Phúc Chu (chữ Hán: 阮福淍, 16751725) là vị chúa Nguyễn thứ sáu của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở ngôi từ 1691 đến 1725), nối ngôi Nguyễn Phúc Thái.

Thân thế

Nguyễn Phúc Chu là con cả của Nghĩa vương Nguyễn Phúc Thái. Mẹ ông là Tống Thị Lĩnh ở Tống Sơn, Thanh Hoá (con của Thiếu phó Quận công Tống Phúc Vinh).
Thuở thiếu thời, ông rất chăm học chữ tốt, văn hay, võ giỏi. Ông được phong là Tả binh đinh Phó Tướng Tộ Trường Hầu, làm phủ đệ ở cơ Tả binh.
Năm 1691, Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái qua đời. Quân thần vâng di mệnh, tôn ông là Tiết Chế Thủy Bộ chư Dinh Kiêm Tổng Nội Ngoại Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Bảo Tộ Quốc Công.
Bấy giờ, khi nối ngôi chúa Phúc Chu mới có 17 tuổi. Thời bấy giờ gọi là Quốc Chúa

Điều hành Đàng Trong

Khi mới lên ngôi, ông quan tâm chiêu hiền đãi sĩ, cầu lời nói thẳng, nạp lời can gián, bỏ xa hoa, bớt chi phí, nhẹ thuế má lao dịch, bớt hình ngục. Ông còn cho xây dựng một loạt chùa miếu, mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, chùa Mỹ Am. Bản thân chúa cũng ăn chay ở vường Côn Gia một tháng trời, phát tiền gạo cho người nghèo. Bờ cõi yên ổn do chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã tạm ngừng 30 năm.
Mùa thu 1699, triều đình tra xét bắt đạo Thiên Chúa, phàm nhân dân ta ai có đạo thì phải bỏ để trở lại làm dân bình thường, lấy nhà tu làm nhà ở, lại còn đốt sách vở của đạo Thiên Chúa, người phương Tây thì buộc họ phải về nước.
Về mặt Bắc, tuy đã thôi đánh nhau với quân Trịnh, nhưng chúa vẫn lo phòng ngự cẩn thận. Năm 1701, Chúa sai Chưởng dinh Nguyễn Phúc Diệu, cùng Tống Phúc Tài, Nguyễn Khoa Chiêm sửa sang các chính lũy từ núi Đầu Mâu đến cửa biển Nhật Lệ. Chúa sai vẽ bản đồ những nơi hiểm yếu và cho quân lính thao dượt thường xuyên.
Bấy giờ, phía Nam đất đai được khẩn hoang đến tận biên giới Chân Lạp. Trong nước việc nội trị, võ bị, giáo dục được phát triển có quy mô. Bắc Hà tuy có vua Lê nhưng quyền bính ở trong tay Chúa Trịnh. Chúa muốn tách riêng miền Nam thành một nước độc lập. Chúa sai Hoàng Thần và Hưng Triệt đem quốc thư và cống phẩm sang Trung Hoa cầu phong nhà Thanh. Vua Thanh cũng có ý muốn phong nhưng triều thần can rằng:
Nước Quảng Nam hùng trị một phương, Chiêm Thành, Chân Lạp đều bị thôn tính, sau tất sẽ lớn. Tuy nhiên nước An Nam còn có nhà Lê ở đó, chưa có thể phong riêng được
Nên việc cầu phong không có kết quả.
Năm 1702, ở biển phía Nam có giặc biển người Anh đến cướp phá, chiếm cứ đảo Côn Lôn. Đồ đảng hơn 200 người và 8 chiến thuyền, xây dựng sào huyệt kiên cố. Chúa sai Chương dinh Trấn Biên Trương Phúc Phan tìm cách trừ khử bọn cướp. Sau nhờ mộ được 15 người Chà Và (người Mã Lai) làm kế nội ứng, đốt tan được sào huyệt của giặc, tịch thu của cải đem về.
Tháng 8 năm 1708, Mạc Cửu người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, trước đó đến khai thác vùng đất Hà Tiên, dâng thư lên triều đình xin đem đất Hà Tiên quy thuộc miền Nam. Chúa nhận lời và phong cho Mạc Cửu làm làm Thống binh trấn giữ đất Hà Tiên.
Tháng 1 năm 1709, phò mã Tống Phúc Thiệu cùng cai đội Nguyễn Cửu Khâm mưu phản, ngầm liên kết vây cánh, mưu đồ chiếm Bình Khang, Phú Yên xong quay về lấy Quảng Nam rồi thẳng đến Chính dinh phóng lửa nổi loạn. Âm mưu bại lộ, các kẻ chủ mưu đều bị xử tử. Tống Phúc Thiệu bị bãi làm thứ dân và bị tù ở vườn Bát Khải.
Tháng 12 năm 1709, Chúa cho đúc Quốc bảo. Ấn khắc chữ: " Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo", để dùng và truyền đời này sang đời khác. Thấy nước giàu binh mạnh, Chúa định có ý muốn Bắc phạt. Chúa cho thám tử ra thăm dò tình hình miền Bắc, sau được tin báo về là Bắc Hà chưa thể đánh được, Chúa mới không nhắc đến chuyện này nữa.
Trong thời gian trị vì, Chúa đóng góp nhiều công lao trong việc xây dựng kỷ cương Phật giáo, trùng tu chùa chiền và quảng bá đạo Phật khắp nước.
Năm 1694, Chúa sai người sang Quảng Đông mời hòa thượng Thích Đại Sán (Thạch Liêm Hòa thượng) sang thuyết pháp về đạo Phật cho quan lại và dân chúng nghe. Hòa thượng đã tổ chức giới đàn để truyền giới bồ tát cho Chúa và quyến thuộc, quân lại và 1400 tăng ni ở Phú Xuân.
Chúa được ban pháp danh là Hưng Long, hiệu là Thiên Túng đạo nhân.
Năm 1710, nhân ngày Phật đản, Chúa cho đúc chuông chùa Thiên Mụ nặng 2,021 kg, cao 2,5 m, đường kính 1,2 m. Tiếng vang của Đại hồng chung bao trùm cả kinh thành.
Năm 1714, Chúa giao cho Chưởng cơ Tống Đức Đạt sửa sang chùa Thiên Mụ. Tất cả thợ khéo các nơi đều được huy động, chùa trở nên nguy nga hơn trước. Lễ khánh thành là ngày hội của dân chúng, những kho lúa của nhà nước được mở rộng để chẩn cấp cho dân nghèo.
Chúa còn cho sửa sang Văn Miếu ở làng Triều Sơn. Văn học thi cử được chú trọng, Chúa đã cho tổ chức các khoa thi trong phủ Chúa. Trong các vị chúa, Chúa Phúc Chu là người chuộng thơ văn hơn cả.
Năm 1712, chúa cho lập phủ mới ở làng Bát Vọng huyện Quảng Điền.
Nguyễn Phúc Chu làm rất nhiều thơ, ông có nhiều bài thơ khóc vợ với tình ý tha thiết. Ông là người rất đông con: 146 người con gồm 38 người con trai.

Đối ngoại

Chăm Pa

Tháng 8 năm Nhâm Thân (1692) vua Chiêm Thành là Bà Tranh (Po Thot), hợp quân, đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh Sự việc được báo lên Chúa, Chúa Phúc Chu đã sai Nguyễn Hữu Cảnh suất lãnh quân Chính Dinh cùng quân Quảng Nam và Bình Khang đi đánh 
Đầu năm 1693 bắt được Bà Tranh, Kế Bà Tử (em trai Bà Tranh) cùng thân thuộc là Nàng Mi Bà Ân đem về Phú Xuân. Đổi đất Chiêm Thành thành trấn Thuận Thành (đất Panduranga) và lập ra phủ Bình Thuận.
Sau khi Chúa Bà Tranh chết tại Huế, Kế Bà Tử đã nổi dậy. Quý tộc Chăm tên Ốc Nha Đạt và người Mãn Thanh tên A Ban chỉ huy quân Chăm. Lúc đó Nguyễn Hữu Cảnh đang đi Tây Chính, và quân Nguyễn ở lại đã bị quân Chăm tiêu diệt hoàn toàn.
Khi Nguyễn Hữu Cảnh trở lại, Kế Bà Tử đã ký hòa ước với chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa Phúc Chu đã đồng ý khôi phục vương quốc Chăm Pa với hình thức là một khu tự trị với tên là Thuận Thành Trấn, và chúa Chăm được gọi là Trấn Vương (khâm lý), con của Bà Ân làm đề đốc để xếp đặt mọi việc trong phủ hạt, là thần hạ của chúa Nguyễn, buộc người dân ăn mặc theo phong tục nước Việt 
Theo bộ văn bản hoàng gia Chăm (bản chữ Hán), mối quan hệ phiên thuộc giữa vùng đất cai quản bởi các chúa Chăm và chính quyền trung ương của chúa Nguyễn diễn ra tốt đẹp.
Chúa Phúc Chu còn mở rộng bờ cõi đất đai xuống phía Nam, đạt được nhiều thành tựu như:

Chân Lạp

Tháng 3 năm 1690, Hào Lương hầu Nguyễn Hữu Hào đánh thắng Cao Miên, bắt vua Cao Miên là Nặc Thu đem về Sài Côn rồi nghỉ quân, Cao Miên từ đó mới bình định. Sau đó Nặc Thu bị bệnh mất, Nặc Non cũng mất, các tướng tâu lên rằng dòng đích của vua Cao Miên không còn ai, do đó triều đình phong cho con Nặc Non là Nặc Yêm làm vua và lệnh cho đóng ở thành Gò Vách. (Sử Cao Miên ghi niên hiệu Thiên Vận (1622) là năm Thìn, Nặc Yêm con của Nặc Non là Tham - đích - sá - chiêu - trùy lên làm vua, so ra thời đại và tên gọi khá phù hợp nhưng tháng năm thì sai khác, điều đó còn cần khảo cứu thêm)
Mùa xuân năm 1698, vua Nặc Yêm nước Chân Lạp cho quân lính cướp bóc dân buôn, triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh sang kinh lược đất Cao Miên, Nặc Yêm xin đầu hàng và nộp cống như cũ. Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc, quân binh thì có tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ
Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn xã phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh điền bạ tịch. Con cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch .
Năm 1705, Nặc Thâm (con Nặc Yêm) nối ngôi cha bất hòa với Nặc Yêm (vua thứ 2 của Chân Lạp), nhờ Xiêm La giúp, đem binh đánh Nặc Yêm. Nặc Yêm chạy sang Gia Định cầu cứu, Nguyễn Hữu Cảnh sai tướng Nguyễn Cửu Vân đem binh đánh tan quân Xiêm.
Tuy vậy nước Chân Lạp vẫn chưa yên. Năm 1711, 1714 Nặc Thâm lại vây đánh Nặc Yêm. Nguyễn Hữu Cảnh phải cho các tướng Trần Thượng Xuyên, Nguyễn Cửu Phú đem quân đánh dẹp rồi phong cho Nặc Yêm làm vua Chân Lạp và giúp cho Nặc Yêm khi giới để phòng ngự.

Qua đời

Lăng mộ táng tại Kim Ngọc, Hương Trà, Thừa Thiên. Tên lăng là Trường Thanh
Về sau, nhà Nguyễn truy tôn ông là Hiển Tông, thụy là Anh Mô Hùng Lược Thánh Minh Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh hoàng đế.

Gia đình

Theo Liệt truyện, Nguyễn Phúc Chu có cả thảy 146 người con. Nhưng theo Hoàng tử Phổ và Hoàng nữ Phổ, Chúa có 38 công tử và 4 công nữ.

Vợ

    • Tống Thị Được (1680 - 1716), còn có tên là Quyền, bà nguyên họ Hồ, khi nhập cung đổi qua họ Tống, chánh quán làng Hương Cần (Hương Trà, Thừa Thiên). Bà là con của quan Chưởng dinh Hồ Văn Mai. Khi mất, được phong tặng là Từ Huệ Minh Phi Liệt Phu Nhân. Lăng táng tại làng Trúc Lâm (Hương Trà, Thừa Thiên). Vua Gia Long truy tôn: Từ Huệ Cung Thục Ý Đức Kính Mục Hiếu Minh Hoàng Hậu, đặt tên lăng là Vĩnh Thanh. Bà được phối thờ với Minh vương ở Thái Miếu, án thứ ba bên tả. Bà sinh ra được hai trai: con trưởng là Nguyễn Phúc Thụ, sau này là Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng Đế, con thứ hai là Nguyễn Phúc Tứ về sau được tấn phong là Luân Quốc công.
    • Nguyễn Thị Lan (? - 1714), con gái của Tham chính Nguyễn Hữu Hạp. Khi tiến cung bà được xếp vào bậc Hữu Cung tần rồi được tấn phong lên bậc Chính Nội phủ. Khi mất được truy tôn làm Phu nhân, thụy là Từ Đức, táng ở làng Trúc Lâm (Hương Trà, Thừa Thiên). Bà là mẹ của Dận Quốc công Nguyễn Phúc Điền.
    • Trần Thị Nghi, Tu Dung phu nhân, là mẹ của các công tử Nguyễn Phúc Thể, Nguyễn Phúc Truyền.
    • Lê Thị Tuyên, Hữu Cung tần, là mẹ của Nguyễn Phúc Long.
    • Tống Thị Lượng, Tả Cung tần, là mẹ của công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Sáng.

Con trai

  1. Nguyễn Phúc Chú, mẹ là Tống thị.
  2. Nguyễn Phúc Thể (1687 - 1762), mẹ là Tu Dung phu nhân Trần thị. Đương thời giữ chức Chưởng cơ, sau khi chết truy tặng hàm Chưởng dinh.
  3. Khuyết danh.
  4. Nguyễn Phúc Long (1691 - 1743), mẹ là Hữu Cung tần Lê thị. Giữ chức Chưởng vệ sự.
  5. Nguyễn Phúc Hải
  6. Khuyết danh.
  7. Nguyễn Phúc Liêm
  8. Nguyễn Phúc Thử (1697 - 1763), mẹ là Hoàng thị.
  9. Luân Quốc công Nguyễn Phúc Tứ (1698 - 1753), mẹ là Từ Huệ Tống hoàng hậu.
  10. Nguyễn Phúc Lân, không rõ truyện.
  11. Nguyễn Phúc Chấn (? - 1738).
  12. Dận Quốc công Nguyễn Phúc Điền (1699 - 1739), mẹ là Kính phi Nguyễn thị.
  13. Nguyễn Phúc Đăng (1701 - 1763), mẹ là Hữu Cung tần Lê thị. ban đầu làm Chưởng cơ, sau khi chết tặng hàm Chưởng doanh.
  14. Nguyễn Phúc Thiện (1702 - 1749), mẹ là Nguyễn thị. Ban đầu làm Cai đội, sau tặng làm Cai cơ.
  15. Nguyễn Phúc Khánh (1703 - 1748), mẹ là Trương thị. Ban đầu làm Cai đội, sau tặng làm Cai cơ.
  16. Nguyễn Phúc Cảo (1705 - 1762), mẹ là Tống thị. Ban đầu làm Cai đội, sau tặng làm Cai cơ.
  17. Nguyễn Phúc Bình, không rõ truyện, có con trai tên là Kính.
  18. Nguyễn Phúc Tú, mẹ là Nguyễn thị. Không rõ năm sinh và truyện, được tặng Quận công. Ông có 3 con trai: Thắng, Uyên, Dật.
  19. Nguyễn Phúc Truyền, mẹ là Hoàng thị. Không rõ năm sinh và truyện, được tặng Quận công. Ông có 2 con trai: Thùy và Nghi.
  20. Nguyễn Phúc Sảm (1706 - 1759), không rõ truyện. Có 2 con trai là Kiên và Thuận.
  21. Nguyễn Phúc Quận, không rõ truyện. Có 2 con trai là Dục.
  22. Nguyễn Phúc Yển (1707 - 1748), không rõ mẹ. Ban đầu làm Cai đội, sau tặng làm Cai cơ.
  23. Nguyễn Phúc Bính (1708 - 1766), mẹ là Lê thị. Ban đầu làm Cai đội, sau tặng làm Cai cơ.
  24. Nguyễn Phúc Tông, không rõ truyện.
  25. Nguyễn Phúc Nghiễm, mẹ là Lê thị. Nghiễm làm đến Chưởng cơ, mất năm nào không rõ. Nghiễm có vườn trại ở xã Vân Dương, người đời sau gọi là Viên Công (Vườn ông), gọi chợ ở đó là chợ Viên Công.
  26. Nguyễn Phúc Xuân, mẹ đẻ là ai không rõ. Xuân làm đến Chưởng cơ. Không rõ Xuân mất năm nào và bao nhiêu tuổi.
  27. Thạnh Quận công Nguyễn Phúc Phong (1708 - 1754), mẹ là Chiêu nghi phu nhân Nguyễn thị. Ông ban đầu làm Hữu dực cơ, Chưởng cơ.
  28. Nguyễn Phúc Hạo, không rõ truyện.
  29. Nguyễn Phúc Kỷ (? - 1743), mẹ là Hoàng thị.
  30. Nguyễn Phúc Tuyền, Chưởng cơ, không rõ truyện.
  31. Nguyễn Phúc Hanh, không rõ truyện.
  32. Nguyễn Phúc Lộc (1708 - 1744), mẹ là Lê thị. Ban đầu làm Cai đội, sau tặng làm Cai cơ.
  33. Nguyễn Phúc Chiêm (1709 - 1788), mẹ không rõ.
  34. Nguyễn Phúc Khiêm, không rõ truyện.
  35. Khuyết danh.
  36. Khuyết danh.
  37. Nguyễn Phúc Độ (1710 - 1752), làm đến Chưởng Cơ.
  38. Nguyễn Phúc Tài, không rõ truyện.

Con gái

  1. Nguyễn Phúc Ngọc Sáng (? - 1721), mẹ là Tả Cung tần Tống thị, lấy Chưởng vệ Tống Văn Xuân. Khi chết truy phong là Tống Sơn Quận chúa Trinh phu nhân.
  2. Nguyễn Phúc Ngọc Phượng (? - 1722), lấy Chưởng doanh Nguyễn Cửu Thế, cháu nội Nguyễn Cửu Kiều. Khi chết truy tặng Tống Sơn Quận chúa Tư phu nhân.
  3. Nguyễn Phúc Ngọc Nhật, lấy Cai cơ Nguyễn Cửu Duyệt, là chắt Nguyễn Cửu Kiều.
  4. Khuyết danh.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét