-Chiến
dịch Mậu Thân nếu là một chiến thắng thì là một chiến thắng tốn quá
nhiều sinh mạng. Do
hoang tưởng mà chỉ có tổng tấn công chứ không có nổi dậy, và khi thấy
vấn đề thì thành chuyện đã rồi!Mới thấy danh vọng cá nhân, một khi phát
tác, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, cũng gây tác hại ghê gớm như thế nào! -Dù vậy, xét về thành quả chính trị đạt được sau đó, nó vẫn có thể được ca ngợi! -Nếu
gọi cuộc chiến thắng phát xít Hittle của Liên Xô là "Cuộc chiến tranh vệ
quốc vĩ đại", thì phải gọi cuộc chiến thắng Mỹ-ngụy của Dân Tộc ta là
"Cuộc chiến tranh cứu nước thần thánh"! Còn nếu gọi
cuộc chiến thắng phát xít Hittle của Liên Xô là "Cuộc chiến tranh vệ
quốc thần thánh", thì phải gọi cuộc chiến thắng Mỹ-ngụy của Dân Tộc ta
là
"Cuộc chiến tranh cứu nước vĩ đại"! Đó là hai cuộc chiến cứu mình đồng
thời cũng cứu người, tưởng thua mà thắng vẻ vang, mang nét thần kỳ. -Lời Võ Văn Kiệt: "Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn". -Có
hai luồng ý kiến khen và chê câu nói trên. Riêng phần tôi, luôn đứng về
bên luồng khen! Tôi cho rằng, câu nói đó không những chính xác theo
nghĩa đen, mà còn thỏa mãn về mặt tình cảm ghét chiến tranh của con
người. Ngày 30/4 là ngày Giải Phóng khỏi ách nô dịch của Dân Tộc, không
lẽ không vui? Nhưng để có ngày đó, Dân Tộc Việt đã phải đổi bằng khoảng 5
triệu sinh mạng con em mình (nếu kể cả chiến tranh với Pháp thì hơn thế
nữa!) ở cả hai phía chính nghĩa lẫn phi nghĩa. Ngày Chiến Thắng, trong
niềm vui chung, tất nhiên cũng có nỗi buồn riêng của từng gia đình về
những người thân đã nằm xuống vĩnh viễn, không về. Có thể nói, chiến
tranh Việt Nam là cần thiết nhưng quá đắt, ai coi ngày 30/4 là ngày vui
trọn vẹn thì rõ ràng là người vô cảm, cuồng tín, và ai coi ngày đó là
ngày "quốc hận"thì chính là kẻ ác tâm, cố tình mù quáng lịch sử Việt Nam!
Ảnh độc chưa từng công bố về lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam
Cuộc
sống ngoài mặt trận trong cuộc chiến tranh Việt Nam qua mắt một người lính trẻ
được tiết lộ sau khi chiến tranh đã qua nhiều thập kỷ. Christopher Gaynor từng là
một cựu pháo thủ đã chụp được những khoảnh khắc hiếm có đến bây giờ mới được biết đến sau 47 năm….
Máy bay trực thăng Chinook CH-47 chở pháo 105mm tới một căn cứ của Mỹ ở nam Việt Nam
Năm
nay cựu binh Gaynor đã 70 tuổi. Ông từng có mặt tại Việt Nam trong giai
đoạn 1967-1968 và đã làm sống lại những thời khắc của cuộc chiến đã lùi
xa gần 50 năm.
Lính Mỹ chơi bóng chày ở khu vực Dầu Tiếng (Tây Ninh) năm 1967
Lính Mỹ ở Lộc Ninh năm 1967, Thomas Corbin (ngón tay quấn băng) chết một năm sau đó.
Người lính này tử trận năm 1968 khi mới 20 tuổi
Lính Mỹ leo lên nóc xe bọc thép vì sợ pháo và rocket của quân giải phóng
Trực thăng UH-1 vội vã hạ cánh tiếp tế do sợ bị tấn công
Lính Mỹ tại trại huấn luyện Fort Riley, Kansas, trước khi lên đường sang Việt Nam tham chiến
Quân Mỹ trước khi tiến hành một nhiệm vụ ngoài căn cứ vào buổi sáng
Gaynor trên chuyến xe trong một cuộc hành quân
Các khẩu đội pháo đang nhả đạn
Một lính Mỹ đứng gác ngoài căn cứ
Một tốp lính bảo an của chế độ Sài Gòn
Lính Mỹ tranh thủ ngủ trên xe
Lính Mỹ lên máy bay tới căn cứ Dầu Tiếng
Đơn vị lính Mỹ vượt sông tới tham chiến tại Lộc Ninh
Quân Mỹ hành quân qua một ngôi làng Việt Nam
Lính Mỹ ở Dầu Tiếng
Dàn trực thăng UH-1 hùng hổ đổ quân và thiết bị quân sự
Lính Mỹ lên tàu từ Oakland, California tới Vũng Tàu, Việt Nam
Lính Úc và New Zealand tham chiến tại Việt Nam năm 1967
Một quân nhân Mỹ bị thương đang được điều trị
Trực thăng Mỹ đổ quân trong một chiến dịch
Lính Mỹ tại căn cứ ở Việt Nam
Ảnh Gaynor chụp Tokyo khi dừng chân ở đó năm 1967
Cựu binh Gaynor thăm bức tường kỷ niệm hơn 58.000 lính Mỹ tử trận trong chiến tranh Việt Nam tại Washington DC.
Theo DM
Cuộc chiến tranh Việt Nam qua ảnh của Henry Hyuet
Cuộc
chiến tranh Việt Nam qua đi hơn 40 năm, nhưng âm hưởng của nó vẫn còn
vang lại đến tận ngày này. Sự tàn khốc và vô nghĩa của cuộc chiến tranh
hằn sâu trong những bức ảnh biết nói của các phóng viên chiến trường.
Chiến tranh Việt Nam mãi là bài học thế giới đến ngày nay.
Trịnh Thái Bằng theo QPAN
Những viên tướng Mỹ tử trận tại Việt Nam
TPO -Trong chiến tranh ở Việt Nam, có tới 11 viên
tướng Mỹ đã tử trận theo nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có hai
viên tướng không quân, một viên tướng của quân đoàn lính thủy đánh bộ và
một đô đốc Hải quân.
TPO -Trong chiến tranh ở Việt Nam,
có tới 11 viên tướng Mỹ đã tử trận theo nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó có hai viên tướng không quân, một viên tướng của quân đoàn lính
thủy đánh bộ và một đô đốc Hải quân.
Trong lịch sử chiến tranh của quân
đội Mỹ, con số này thực sự là hơi quá nhiều. Trong đại chiến thế giới
lần thứ II cả chết và tử trận có gần 20 tướng lĩnh và một số đô đốc Hải
quân. Trong chiến tranh Triều Tiên hai tướng Mỹ tử trận: Trung tướng
Walton Walker đã tử vong trong tai nạn giao thông, Thiếu tướng Bryant
Moore chết do đột quỵ sau một vụ tai nạn máy bay (trong danh sách còn có
Chuẩn tướng Lawrence Rook, nhưng khi tử vong ông ta vẫn đeo lon đại
tá). Các cuộc chiến tranh sau này, không có tướng Mỹ nào tử trận.
Con số tử vong lớn nhất là do kết
quả của các tai nạn đường không - bảy tướng Mỹ. Hai viên tướng nữa chết
do bị bắn trên chiến trường, hai tướng khác tử vong do các nguyên nhân
tự nhiên. Trong thống kê có 6 trường hợp đang trong cuộc chiến, 5 trường
hợp ngoài cuộc chiến. Theo dòng tình huống chiến trường, các tướng Mỹ
tử vong nhiều nhất vào năm 1970, khi lực lượng quân đội Mỹ đông nhất ở
chiến trường Việt Nam và cũng tham gia chiến sự căng thẳng nhất.
- Chuẩn tướng Alfred Moody, phó chỉ
huy trưởng sư đoàn Kỵ binh bay số 1 Kỵ Binh (cơ động đường không) của
quân đội Mỹ. Tử vong ngày 19.03.1967 do một cơn trụy tim.
- Thiếu tướng William Cramm, chỉ huy trưởng Sư đoàn
không quân số 3 của Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược thuộc lực lượng
Không quân Mỹ. W.Cramm chỉ huy và điều hành tất cả các hoạt động của
Không quân chiến lược ở Đông Nam Á, bao gồm cả việc sử dụng các máy bay
ném bom chiến lược B-52 và máy bay tiếp dầu. 07.07.1967 tướng Kramm bay
trên chiếc B-52 (số 56-0595) thực hiện nhiệm vụ chiến đấu từ căn cứ
không quân Anderson (Guam). Mục đích của cuộc ném bom là một thung
lũngtrên đường Trường Sơn, phia bắc Nam Việt Nam. Máy bay của Kramm va
chạm với một chiếc B-52 trên vùng trời biển Đông gần cửa sông Cửu Long.
Tướng Kramm và năm thành viên phi hành đoàn thiệt mạng trong vụ tai nạn,
bảy người đã có thời gian để đẩy. Thi thể của viên thiếu tướng không
tìm thấy.
- Thiếu tướng Bruno Hohmut, chỉ
huy trưởng Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 3. Khoảng giữa trưa,
14.11.1967. ông bay trên chiếc trực thăng UH-1 (số 153.757), thuộc không
đoàn số 3 trinh sát và yểm trợ hỏa lực) từ Huế đến Hội An đã phát nổ
trong không trung. Cùng với Hohmutom, vụ nổ đã làm chết năm người, trong
đó có một sĩ quan quân đội Sài Gòn. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam tuyên bố máy bay trực thăng bị bắn hạ.
Các phi công của máy bay trực thăng
khác đi hộ tống chiếc UH-1 của thiếu tướng Hohmuta đã không phát hiện
được chớp lửa súng phòng không của đối phương vào thời điểm xảy ra vụ nổ
hay sau đó. Ủy ban điều tra quân đội Mỹ kết luận rằng vụ tai nạn xảy ra
do cánh quạt đuôi máy bay bị hỏng, mặc dù rất khó để hiểu làm thế nào
mà cánh đuôi hỏng có thể dẫn đến máy bay nổ. Tất cả các nạn nhân chính
thức được coi là tử vong trong chiến đấu. Bruno Hohmut là tướng Mỹ duy
nhất chỉ huy sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ chết trong chiến tranh.
- Thiếu tướng Robert Worley, phó
chỉ huy trưởng Tập đoàn không quân số 7 thuộc lực lượng Không quân Hoa
Kỳ. Ngày 23.07.1968 Worley thực hiện chuyến bay thám sát trên máy bay
RF-4C (số 65-0895, 460 thuộc không đoàn trinh sát thuật ) trong trong
vùng chiến thuật khu vực I của miền Nam Việt Nam. Chiếc máy bay bị trúng
đạn của hỏa lực phòng không trong khu phi quân sự DMZ. Khi "Phantom"
bay trên biển, Worley đã ra lệnh cho phi công của mình, thiếu tá Robert
Broadman nhảy dù, ban thân Worlen không nhảy dù mà cố gắng điều khiển
chiếc F-4. Lửa xuất hiện trong buồng lái và phát nổ, máy bay bị rơi
trên bờ biển thuộc tỉnh Thừa Thiên (tỉnh chính thức niêm yết vị trí tử
vong của Worley. Sau cái chết của Warley, từ bộ tổng tham mưu liên quân
đã có mệnh lệnh cấm tất cả các sĩ quan cao cấp của Không quân tham gia
các chuyến bay chiến đấu.
Thiếu tướng Keith Ware trên chiến trường Việt Nam.
- Thiếu tướng Keith Ware, chỉ huy
trưởng Sư đoàn bộ binh 1 quân đội Mỹ tử vong vào thứ Sáu 13.09.1968, lúc
13.13 giờ. Keith Ware bay trên máy bay trực thăng UH-1 (số 67-17.552,
đơn vị không quân thuộc Trung đoàn 1), bị bắn rơi bởi hỏa lực của Quân
Giải phóng gần Lộc Ninh. Vào đêm trước các đơn vị thuộc Sư đoàn Bộ binh
1, tham gia cuộc hành quân Toàn Thắng đã chạm súng trong khu vực với một
lực lượng lớn của Quân Giải phóng. Trong trận chiến, Weir trực tiếp chỉ
huy lực lượng của mình. Vụ tai nạn đã làm chết bảy binh sĩ và một con
chó giống Shepherd của Đức, do binh sĩ tặng Ware. Trong Chiến tranh thế
giới thứ II, Keith Weir đã được trao tặng Huân chương Danh dự (giải
thưởng cao nhất của quân đội Mỹ) do đã thể hiện lòng dũng cảm trong cuộc
chiến tháng 12.1944 tại Pháp. Là tiểu đoàn trưởng, Ware đã chỉ huy một
nhóm binh sĩ 11 người triển khai tấn công đánh chiếm các vị trí địch,
bản thân đã diệt năm binh sĩ Đức và bị thương trong chiến đấu.
- Chuẩn Tướng Charles Girard, tư
lệnh trưởng bộ tư lệnh chỉ huy viện trợ quân sự cho chính quyền miền Nam
Việt Nam. Đột ngột qua đời tại Sài Gòn ngày 17.01.1970.
- Chuẩn Tướng William Bond, chỉ huy
trưởng Lữ đoàn 199 bộ binh hạng nhẹ quân đội Mỹ. 01.04.1970 trên địa
bàn tỉnh của tỉnh Bình Tuy, các phân đội thuộc đại đội D Trung đoàn kỵ
binh 17, phối thuộc với lữ đoàn thứ 199 đã tham chiến với Quân Giải
phóng và bốn binh sĩ thiệt mạng. Tướng Bond bay đến khu vực chiến sự để
kiểm tra các đơn vị bị tổn thất. Khi Bond vừa bước ra khỏi máy bay trực
thăng thì một viên đạn bắn tỉa của Quân Giải phóng xuyên qua ngực.
William chết khi được đưa tới bệnh viện.
- Thiếu Tướng John Dillard (Jr
-con) Tư lệnh trưởng Bộ Tư lệnh Công binh thuộc quân đội Mỹ tại Việt
Nam. Ngày 12.05.1970, Dillard cùng với chỉ huy trưởng lực lượng công
binh số 937 Đại tá Carroll Adams bay trên chiếc máy bay trực thăng UH-1
(số 68-16.342), máy bay bị bắn hạ bởi hỏa lực phòng không ở khoảng 14 km
về phía tây Pleiku. Ngoài Dillard Adams còn có tám người khác tử vong.
Một quân nhân sống sót trong vụ tai nạn. Đại tá Adams sau này được truy
tặng cấp hàm chuẩn tướng.
Máy bay trực thăng UH-1 trúng đạn phát nổ.
- Thiếu tướng George Casey, chỉ huy
trưởng Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 thuộc quân đội Mỹ. Casey tiếp nhận chức
vụ vào tháng 5.1970, trong thời gian sư đoàn hoạt động tại Campuchia và
chỉ huy được hai tháng. Ngày 07.07 trên đường đến khu vực quân cảng Cam
Ranh thăm các binh sĩ bị thương trong bệnh viện. Chiếc máy bay trực
thăng UH-1 (số 69-15.138) đã rơi vào các đám mây che phủ dày đặc và đâm
vào vào sườn núi ở tỉnh Tuyên Đức (cũ). Toàn bộ phi hành đoàn bảy người
thiệt mạng.
Một trong hai con trai của Casey là George W. Casey Jr, cũng đã trở
thành tướng quân đội, chỉ huy lực lượng liên quân tại Iraq và giữ chức
vụ tham mưu trưởng của quân đội Mỹ.
- Chuẩn Đô đốc Rembrandt Robinson,
chỉ huy trưởng hải đoàn 11 các tàu tuần dương và tàu khu trục Hải quân
Mỹ. Tử vong ngày 8.05.1972 trong vụ tai nạn máy bay trực thăng SH-3 (số
149.699), trên Vịnh Bắc Bộ khi đang quay về kỳ hạm chỉ huy của mình, tàu
tuần dương tên lửa hạng nhẹ "Providence" (CLG-6), sau cuộc họp giao
ban trên tàu USS "Coral Sea". Cùng với đô đốc Robinson còn có hai sĩ
quan hải quân khác cũng tử vong.
Kỳ hạm tuần dương tên lửa hạng nhẹ "Providence" (CLG-6).
- Chuẩn Tướng Richard Tollmen, phó
Tư lệnh trưởng vùng 3 chiến thuật về yểm trợ hỏa lực. Tử vong ngày
9.7.1972 tại bệnh viện Sài Gòn do bị những vết thương quá nặng, khi
Tollmen lọt vào một trận pháo kích ở khu vực An Lộc, quanh khu vực này
đã diễn ra những trận đánh ác liệt. Trong sự cố này đã giết chết ba quân
nhân Mỹ và một sĩ quan Nam Việt Nam. Tất cả những người Mỹ đã chết,
trong đó có Tướng Tollmen được xác định nguyên nhân chính thức của cái
chết là "tai nạn bất ngờ" -"misadventure" thuật ngữ chỉ nạn nhân tình
huống bị bắn bằng" hỏa lực thân thiện" pháo binh của chính quân Mỹ. Theo
trung tá James Uillbenksu, là người có mặt trong sự cố này, hỏa lực
pháo binh là của Quân Giải phóng.
Một viên tướng của Không quân Mỹ
cũng có thể được tính vào danh sách là trường hợp đại tá Edward Burdett,
phi công máy bay ném bom F-105 bị bắn rơi ở miền Bắc Việt Nam
18.11.1967. Trong nhiều năm, Burdett được xếp vào danh sách người mất
tích trong chiến tranh và trong thời gian đó Burdett được thăng cấp
thiếu tướng. Sau đó phía Bắc Việt Nam đã thông báo rằng Burdett chết vì
vết thương quá nặng trong thời gian bị bắt làm tù binh. Hài cốt được trả
về Mỹ năm 1974. Burdett không được tính vào số tướng lĩnh Mỹ đã chết ở
Việt Nam cũng như cấp hàm tướng Burdett đã nhận được sau khi chết.
Cuộc chiến Việt Nam thực tế là một
cuộc chiến tàn khốc và ác liệt nhất mà người Mỹ đã gây ra và phải gánh
chịu hậu quả ngay cả trong hàng ngũ những sĩ quan cao cấp quân đội Mỹ.
Sự tàn phá tâm lý và những bài học để lại của nó đã ngăn đôi lịch sử
nước Mỹ. Lịch sử một nước Mỹ trước chiến tranh Việt Nam và nước Mỹ sau
chiến tranh Việt Nam với nguyên tắc “không bao giờ lặp lại”.
Trịnh Thái Bằng Theo artofwar.ru
Khe Sanh - địa ngục của lính thủy đánh bộ Mỹ
Khe
Sanh, căn cứ phòng thủ của quân đội Mỹ và là mục tiêu quan trọng trong
Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh của Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Chiến
dịch quyết liệt diễn ra 170 ngày, lực lượng Lính thủy đánh bộ Mỹ buộc
phải rút lui khỏi cứ điểm. Hàng rào điện tử Mc Namara phá sản hoàn toàn.
Trịnh Thái Bằng theo QPAN
48 giờ cuối cùng của chiến tranh Việt Nam
Sài
Gòn những giờ phút cuối của cuộc chiến tranh bao trùm một không khí
"vừa thanh thản vừa sợ hãi" khi hàng nghìn người tìm cách rời thành phố,
nhưng ở những góc khác, cuộc sống thường nhật vẫn tiếp diễn.
Ngày 28/4/1975, Sài Gòn được đặt dưới lệnh giới nghiêm khi quân giải phóng ngày càng tiến gần thành phố. Phóng viên của tạp chí Time ghi nhận, bao trùm lên tất cả là một cảm giác "vừa thanh thản vừa sợ hãi".
Washington ráo riết thực hiện chiến dịch di tản bằng máy bay trực
thăng. Trong ảnh, một số người Sài Gòn đang xếp hàng lên chiếc máy bay
trực thăng của CIA đậu trên nóc nhà số 22 Gia Long để tới Mỹ, ngay trước
khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc.
Trực thăng đưa lính thủy đánh bộ Mỹ tới sân bay Tân
Sơn Nhất nhằm bảo vệ và phong tỏa các khu vực quan trọng để tiến hành di
tản những người Mỹ cuối cùng khỏi Sài Gòn.
Những viên chức làm việc cho các cơ quan của Mỹ cùng người thân xếp hàng chờ đợi trước cổng Đại sứ quán Mỹ.
Máy bay trực thăng di tản của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ.
Những công dân Mỹ cuối cùng, trong đó có cả các phóng viên báo chí, chuẩn bị di tản khỏi Sài Gòn vào buổi trưa.
Một phụ nữ cùng ba người con chờ lên trực thăng của lính thủy đánh bộ Mỹ.
Người dân vào đại sứ quán ngay sau khi lực lượng an ninh Mỹ rời đi.
Mặc dù lệnh giới nghiêm 24/24 được ban bố nhưng hàng nghìn người vẫn
tràn xuống đường.
Nhiều đường phố bị tắc nghẽn bởi những đoàn xe đạp, xích lô và xe tải
rời Sài Gòn. Tuy nhiên, ở những góc khác, cuộc sống vẫn tiếp diễn như
thường nhật.
Một vài phụ nữ xách theo những thùng đồ đạc lấy được sau khi lính Mỹ rút lui.
Lính thủy đánh bộ Mỹ nằm rạp trên boong chiến hạm USS Blue Ridge để
tránh những mảnh vỡ kim loại văng ra từ một máy bay trực thăng khi nó hạ
cánh và va chạm với một chiếc trực thăng khác.
Chiếc trực thăng chở đầy phụ nữ và trẻ em này suýt rơi xuống biển nhưng cuối cùng được cứu thoát và không có ai bị thương.
Lính hải quân Mỹ trên chiến hạm USS Blue Ridge đẩy
một chiếc trực thăng xuống biển để dọn chỗ đón những chuyến bay chở
người di tản khác từ Sài Gòn tới
Phi công Mỹ bế một em bé đến nơi trú ẩn an toàn trên
chiến hạm USS Blue Ridge sau khi chiếc trực thăng chở em cùng nhiều
người khác va chạm trong lúc hạ cánh trên boong tàu.
Bờ sông Sài Gòn những ngày cuối tháng 4/1975 chật kín người chờ di tản trên những con tàu.
Xe tăng của quân giải phóng tiến vào Sài Gòn, hướng tới Dinh Độc lập.
Xe tăng Quân đội Nhân dân Việt Nam húc đổ cánh cổng
Dinh Độc lập, tiến thẳng vào dinh trưa ngày 30/4/1975, báo hiệu sự kết
thúc của chính quyền Sài Gòn, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài hai thập
kỷ.
Tướng Dương Văn Minh (người ngồi bên phải) chuẩn bị đọc lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện tại Đài phát thanh Sài Gòn.
Theo: VnExpress
Ngoại trưởng Mỹ rơi nước mắt khi nói về chiến tranh Việt Nam
VOV.VN - Ngoại trưởng Mỹ John Kerry không cầm được nước mắt khi nói về phiên điều trần chống chiến tranh Việt Nam.
Ngày
27/4, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã có bài phát biểu đầy xúc động tại
hội thảo về chiến tranh Việt Nam đang diễn ra tại Austin, thủ phủ bang
Texas.
Trước
gần 1.000 cử tọa ngồi chật kín khán phòng Thư viện Tổng thống Lyndon
Baines Johnson, Ngoại trưởng Kerry mở đầu bài phát biểu bằng lời nhắc
nhở về những hệ lụy của chiến tranh, đồng thời điểm lại những nỗ lực
vượt qua đau thương và chia rẽ để khởi đầu quá trình hàn gắn trong nội
bộ nước Mỹ cũng như trong quan hệ Việt-Mỹ.
Theo
ông Kerry, Mỹ và Việt Nam đã vượt qua rất nhiều trở ngại để tiến tới
hòa giải và một trong những nhân tố thiết yếu là thiện ý và sự hợp tác
chân thành của Việt Nam trong tìm kiếm quân nhân Mỹ mất tích trong chiến
tranh.
Ngoại trưởng Kerry mở đầu bài phát biểu bằng lời nhắc nhở về những hệ lụy của chiến tranh.
Ông Kerry nói: “Đây là câu chuyện đặc biệt về sự cởi mở phi thường của
Việt Nam. Họ giúp chúng ta tìm kiếm hài cốt binh sỹ Mỹ cho dù hài cốt
của cả triệu quân nhân Việt Nam cho đến nay vẫn còn chưa tìm được. Họ
đào cả đồng lúa, cho phép chúng tôi vào nhà, đưa chúng tôi qua những nơi
từng là bãi mìn…Họ làm như vậy vì bản thân họ cũng muốn gác lại quá khứ
chiến tranh”.
Ngoại
trưởng Kerry kể lại trải nghiệm trên các chuyến bay trực thăng trên
khắp Việt Nam, chui xuống những hố khai quật đầy bùn sâu đến 6 mét để
tìm kiếm hài cốt lính Mỹ.
Ông
Kerry nhấn mạnh, với ông cũng như nhiều cựu binh Mỹ khác, quá trình hàn
gắn và bình thường hóa quan hệ sau chiến tranh không phải để lãng quên
quá khứ vì điều đó cũng đồng nghĩa với việc tự mình tước đi những kinh
nghiệm quý báu.
Ông
Kerry nhấn mạnh: “Bi kịch tại Việt Nam cần trở thành lời nhắc nhở
thường xuyên đối với chúng ta về khả năng mắc sai lầm, về nhìn nhận sự
việc bằng lăng kính thiếu chuẩn xác, về việc bỏ qua lời cảnh tỉnh về
những đau thương mà chiến tranh gây ra”.
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry.
Bài phát biểu của Ngoại trưởng Kerry bị gián đoạn khi ông không cầm được
nước mắt khi nói về phiên điều trần chống chiến tranh Việt Nam trước
Thượng viện Mỹ vào năm 1971.
Từng
tham chiến tại Việt Nam vào cuối những năm 1960, ông Kerry hiểu rõ hơn
ai hết về hậu quả thảm khốc của chiến tranh và giá trị của hòa bình.
Ngoại trưởng Kerry nhớ lại, trong chiến tranh, ông đã từng có thời khắc
ngồi trên nóc khách sạn Rex chứng kiến những quầng lửa bùng lên trong
tiếng súng vang vọng khắp nơi.
Trở
lại Việt Nam vào thời bình, ông tìm đến đúng chỗ cũ để được chứng kiến
một thành phố Hồ Chí Minh hoàn toàn đổi khác, với những con đường tấp
nập người qua lại, thương mại sầm uất, đời sống hiện đại, hầu như không
ai còn nhắc đến chiến tranh.
“Đây
là một kỷ nguyên khác và do vậy quan hệ giữa hai nước cũng cần hoàn
toàn khác. Vào năm 1968, không ai có thể tưởng tượng rằng Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng sang thăm Mỹ vào năm ngoái, Tổng thống Obama sẽ thăm
Việt Nam vào tháng sau, quan hệ hợp tác song phương liên tục được mở
rộng, từ biến đổi khí hậu, công nghệ cao cho đến y tế và quân sự..”, ông
nhấn mạnh.
Sau
20 năm bình thường hóa, quan hệ Việt-Mỹ đã thay đổi nhanh chóng với số
lượng du khách Mỹ tới Việt Nam tăng từ 60.000 lên nửa triệu người,
thương mại song phương tăng từ 400 triệu USD lên 45 tỷ USD, số lượng du
học sinh Việt Nam tại Mỹ tăng từ 800 lên gần 19.000 người.
Theo
Ngoại trưởng John Kerry, Mỹ và Việt Nam vẫn còn một số bất đồng nhưng
quan trọng là hai bên đã trao đổi về những vấn đề này một cách thẳng
thắn, thường xuyên và hiệu quả.
Ông
khẳng định: “Rất nhiều người ở cả Việt Nam và Mỹ sẽ không để quá khứ
định hình tương lai của chúng ta. Từ một cựu thù, Việt Nam đã trở thành
đối tác của chúng ta với những mối quan hệ cá nhân và quốc gia giữa hai
bên ngày càng gắn kết và nồng ấm. Đó là di sản chung của chúng ta và
cũng là những gì mà tôi hy vọng sẽ tiếp tục được thúc đẩy trong những
năm tới”.
Ngoại
trưởng John Kerry cho rằng một trong những bài học lớn nhất mà Mỹ cần
rút ra từ cuộc chiến tranh Việt Nam là Mỹ không thể nhìn nước khác qua
lăng kính của chính mình mà cần đứng ở vị trí của nước đó để nhìn nhận
sự việc.
Hội
thảo chiến tranh Việt Nam do Thư viện Tổng thống Lyndon Baines Johnson
và trường Đại học Texas đồng tổ chức nhằm phân tích về cuộc chiến tranh
từ nhiều góc độ với sự tham gia của các chính khách, cựu binh và học giả
Mỹ, qua đó đưa ra những bài học kinh nghiệm cho chính sách đối ngoại
của Mỹ trong tương lai./.
Nhật Quỳnh-Vũ Hợp/VOV-Washington (từ Austin, Texas)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét