AN CHI GIẢI ĐÁP 30
(ĐC sưu tầm trên NET)
Bạn đọc:
Trong bài “Lẽ ra họ phải được gọi là người GHE”, đăng trên Báo Năng
lượng Mới số 454 (4-9) & 456 (11-9-2015), ông An Chi vẫn khẳng định
rằng “Tàu” trong “mực tàu” là từ dùng để chỉ nước Trung Hoa. Mới đây,
www.khoahocnet.com (29-10-2015) đã đăng bài “Tản mạn về nghĩa của ‘mực
tàu’ 墨艚 qua từ điển Việt Bồ La (phần 1)” của Phan Anh Dũng/ Nguyễn
Cung Thông. Xin ông An Chi cho biết nhận xét của ông về bài này. Xin cám
ơn.
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi cũng có câu "Mực thước thế gian dầu có phải. Cân xưng thiên hạ lấy đâu tày" (Bảo Kính 172.5)".
Về một bài viết của Phan Anh Dũng - Nguyễn Cung Thông
Bạn đọc:
Trong bài “Lẽ ra họ phải được gọi là người GHE”, đăng trên Báo Năng
lượng Mới số 454 (4-9) & 456 (11-9-2015), ông An Chi vẫn khẳng định
rằng “Tàu” trong “mực tàu” là từ dùng để chỉ nước Trung Hoa. Mới đây,
www.khoahocnet.com (29-10-2015) đã đăng bài “Tản mạn về nghĩa của ‘mực
tàu’ 墨艚 qua từ điển Việt Bồ La (phần 1)” của Phan Anh Dũng/ Nguyễn
Cung Thông. Xin ông An Chi cho biết nhận xét của ông về bài này. Xin cám
ơn.
LVT (Phú Yên)
Học giả An Chi:
Chắc sẽ còn ít nhất là "phần 2" nên kỳ này chúng tôi chỉ xin nhận xét
sơ bộ theo trình tự: PAD-NCT (ý kiến của Phan Anh Dũng - Nguyễn Cung
Thông) rồi liền ngay dưới là nhận xét của AC (An Chi). Sau đây là các
chữ viết tắt của PAD-NCT : - VBL là Từ điển Việt Bồ La); - HV = Hán
Việt.
PAD-NCT: "Sinh thì (nghĩa là chết/VBL)
so với sinh thì (sinh thời, dạng này hiện diện sau thập bán thế kỷ XIX
cho đến nay) nghĩa là lúc còn sống".
AC: Hai tác giả đã so sánh không đúng.
VBL có hai mục từ "sinh" khác nhau. Mục trước là "sinh, sóũ [sống]" mà
A. de Rhodes dịch sang tiếng Bồ là "vivo" (= sống, còn sống) và tiếng La
là "vivus,a,um" (cùng nghĩa). Còn mục sau là "sinh, lên" mà A. de
Rhodes dịch sang tiếng Bồ là "subir" (= lên, lên cao) và tiếng La là
"ascendo, is" (cùng nghĩa). Mục sau còn có "sinh thì, giờ lên" mà "giờ
lên" chính là nghĩa của "sinh thì". Vậy "sinh" trong "sinh thì" là "lên"
chứ không phải là "sống" nên không thể đánh đồng "sinh thì" ở đây với
"sinh thời" hiện nay được. Huống chi, chính hai tác giả đã khẳng định
rằng "sinh thời" chỉ "hiện diện sau thập bán thế kỷ XIX" thì nó không
thể trực tiếp dính dáng gì về nguồn gốc với "sinh thì" của VBL (1651).
Từ điển từ cổ của Vương Lộc và Từ điển từ Việt cổ của Nguyễn Ngọc San -
Đinh Văn Thiện đều xác định rõ ràng rằng "sinh thì" chỉ là một lối nói
riêng của Công giáo. Nó không thuộc tiếng Việt toàn dân. Vậy "sinh thời"
không phải là "sinh thì" mở rộng nghĩa.
PAD-NCT: "Nhân danh dùng trong Kinh
Thánh (nhân danh cha...) bây giờ đã mở rộng nghĩa (nhân danh đạo đức,
nhân danh con người ...)".
AC: Cũng chẳng có mở rộng nghĩa gì cả.
Chẳng qua là ở đây, Kinh Thánh đã xài lối nói của tiếng Việt toàn dân.
PAD-NCT: "bơm (bơm thơm - tóc bờm xờm, bù xù) - bây giờ không còn dùng
nữa mà thay thế bằng nét nghĩa ống (máy) bơm từ kỹ thuật Tây phương
nhập vào. AC: Ở đây hai từ "bơm" cũng chẳng có dây mơ rễ má gì với nhau
cả. Trong "bơm thơm" thì "bơm" là một hình vị không rõ nghĩa của tiếng
Việt hiện đại còn trong "máy bơm" thì "bơm" là một động từ có nghĩa và
xuất xứ cụ thể (< "pompe" của tiếng Pháp). Thật là dị thường khi hai
tác giả lại đánh đồng "bơm" này với "bơm" kia!
PAD-NCT: "Ghe nghĩa là nhiều (VBL) bây
giờ không còn dùng nữa, thay bằng danh từ ghe (tàu)". AC: Ở đây ta cũng
có hai từ "ghe" hoàn toàn khác nhau. Làm sao có thể nói "ghe" trong "ghe
tàu" đã thay thế cho "ghe" có nghĩa là nhiều. Ta chỉ có thể nói "ghe"
(= nhiều) là một từ cổ còn từ đồng âm với nó là "ghe" (= thuyền) thì vẫn
còn tồn tại trong phương ngữ Nam Bộ.
PAD-NCT: "Non dạ (VBL - buồn nôn) bây giờ hàm ý thiếu suy nghĩ, còn non nớt ...".
AC: Ở mục này, ta phải nhận xét với óc
phê phán rằng đây là "nôn" chứ không phải "non", nhất là khi mà chính A.
de Rhodes đã liên hệ "non dạ" với "buồn nôn". Đây có thể chỉ là do lỗi
in ấn mà ta có thể thấy không ít trong VBL (nên chính A. de Rhodes cũng
đã phải làm bảng "Đính chính" [Appendix - Errata declarationis linguae
corrige] nhưng vẫn còn để sót nhiều).
PAD-NCT: "Mực (hay mức) có nhiều nghĩa.
Mực là một biến âm của mặc HV, thường là chữ mặc bộ thổ 墨 [……….] Chữ Mặc
墨 vốn có một nghĩa cổ là đo, mức độ. Khang Hy Tự Điển dẫn Tiểu nhĩ nhã
và Chu ngữ: 小爾雅】五尺爲墨,倍墨爲丈。【周語】不過墨丈尋常之閒。 [Tiểu nhĩ nhã] ngũ xích vi mặc,
bội mặc vi trượng (năm thước là một mực, gấp đôi mực là một trượng).
[Chu ngữ ] bất quá mặc trượng tầm thường chi gian (chẳng qua cũng tầm
thường trong khoảng một mực một trượng). Truyện Kiều có câu "Phong lưu
rất mực hồng quần. Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê" rõ ràng mực câu này
phải hiểu theo nghĩa "mức", "bậc", phù hợp với nghĩa cổ ở trên.
Về một bài viết của Phan Anh Dũng - Nguyễn Cung Thông (tiếp theo và hết)
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi cũng có câu "Mực thước thế gian dầu có phải. Cân xưng thiên hạ lấy đâu tày" (Bảo Kính 172.5)".
AC:
PAD-NCT khẳng định rằng "Mực (hay mức) có nhiều nghĩa" (đây là tên của
tiểu đề mục 3). Vậy đó là những nghĩa nào? Hai tác giả này cho biết như
sau: "Mực bộ thổ có nghĩa là đen, tham ô, mực (viết), một hình phạt (bôi
mực lên chữ thích trên mặt), đạo Mặc, một đơn vị đo lường (bằng năm
thước). Các từ cá (con) mực, chó mực cho thấy cách dùng mực đã phổ thông
trong tiếng Việt như mực (viết)". Nhưng những nghĩa này cho thấy tên
của tiểu đề mục 3 mà PAD-NCT đã đặt ra là một cách gọi hoàn toàn không
thích hợp vì "mức" trong tiếng Việt không hề có các nghĩa đó. Rồi họ lại
khẳng định rằng nghĩa cổ của "mặc"
[墨] là "đo, mức độ" thì điều này cũng
rất sai. "Đo" là một động từ, còn "mức độ" là một danh ngữ có nghĩa khái
quát trong khi "mặc" là tên của một đơn vị đo chiều dài cụ thể. Trong
15 nghĩa của "mặc ≡ mực" [墨] đã cho trong Hán ngự đại tự điển (Thành Đô,
1993), không có nghĩa nào là "mức độ". Ta không biết PAD-NCT căn cứ vào
đâu mà ghi nghĩa như trên; chỉ biết trước khi dẫn Tiểu nhĩ nhã thì ngay
bên trên, Khang Hy tự điển đã ghi một cách cực kỳ súc tích rằng "(mặc
[墨] là) độ danh [度名]", mà nếu dịch một cách chính xác thì "độ danh" là
"tên [của đơn vị] đo lường". Thì đây: "Ngũ xích vi mặc, bội mặc vi
trượng (năm thước là một mực, gấp đôi mực là một trượng)". Vậy "mặc"
bằng 5 thước và bằng 1/2 trượng; sao lại nói "mặc" có nghĩa là "mức độ"?
Thêm nữa, PAD-NCT cũng dịch không sát nghĩa câu "Bất quá mặc trượng tầm
thường chi gian" trong Chu ngữ thành "chẳng qua cũng tầm thường trong
khoảng một mực một trượng". Rất sai. "Tầm, thường" ở đây cũng có nghĩa
cụ thể như "mặc" và "trượng". "Bát xích vi tầm, bội tầm vi thường"
[八尺为尋,倍尋为常], nghĩa là "tám thước là một tầm, gấp đôi tầm là một thường".
Vậy nếu đã dịch "mặc", "trượng" thành đơn vị đo lường thì cũng phải
dịch "tầm", "thường" thành tên các đơn vị đo lường cho nhất quán chứ
không thể dịch "tầm" và "thường" của tiếng Hán thành "tầm thường" trong
tiếng Việt được. Và "bất quá" ở đây cũng không phải là "chẳng qua"
(trong tiếng Việt), mà là "không bằng" (do ý "không quá" mà ra). Vậy
"bất quá mặc trượng tầm thường chi gian" [不過墨丈尋常之間], là "không vượt qua
khỏi cái độ dài của mặc, của trượng, của tầm, của thường", tức là nhỏ
nhoi, ngắn ngủi.
Hai tác giả cũng không đúng vì cho rằng
trong câu Kiều "Phong lưu rất mực hồng quần" thì chữ "mực" phải hiểu
theo nghĩa "mức", "bậc", "phù hợp với nghĩa cổ ở trên", tức là nghĩa mà
họ đã ghi là "đo, mức độ". "Mực" ở đây phải hiểu theo nghĩa "mức", "bậc"
thì dĩ nhiên là đúng nhưng nói rằng nó liên quan đến nghĩa "đo, mức độ"
thì sai vì, như đã nói, "mực" (≡ "mặc") là tên một đơn vị đo lường cụ
thể chứ không phải là một từ chỉ mức độ chung chung. Cũng vậy đối với
chữ "mực" trong câu "Mực thước thế gian dầu có phải" của Nguyễn Trãi.
Còn nó liên quan đến cái gì thì chúng tôi sẽ nói sau.
PAD-NCT: "(…) mực với nghĩa mức là một
từ thuộc nhóm phổ thông bậc nhất trong tiếng Việt, vẫn còn giữ nghĩa cổ
của mặc 墨 là mức, độ, trong khi đó ở Hán ngữ nét nghĩa này có phần mai
một, đây là một điều rất đáng lưu ý khi tìm hiểu lịch sử tiếng Việt,
người Việt".
AC: Nhưng, như đã nói ở ngay trên đây,
"mặc" [墨] không hề có nghĩa cổ là "mức, độ". Cái nghĩa "ngũ xích vi mặc"
[五尺爲墨] của chữ "mặc" [墨] mà hai tác giả đã dẫn từ Tiểu nhĩ nhã là một
khái niệm về đơn vị đo chiều dài cụ thể, hoàn toàn cụ thể, mà họ đã
cưỡng chế thành hoàn toàn khái quát là "đo, mức độ". Ta cũng không biết
được hai ông đã thống kê bằng phương pháp nào mà có thể khẳng định rằng
"mực với nghĩa mức là một từ thuộc nhóm phổ thông bậc nhất trong tiếng
Việt". Còn "mực" với nghĩa là "mức" liên quan đến cái gì thì chúng tôi
cũng sẽ nói đến ngay dưới đây.
PAD-NCT: "Mực còn có thể là mặc bộ mịch 纆
[……….] TVGT (Thuyết văn giải tự - AC) ghi mực là sách dã 索也 (dây
thừng). Đây là một nghĩa mà rất ít người biết đến! Ta có thể tìm thấy
cách dùng chữ mực (viết) thông với dây đo mực 墨 (mực viết) hay mực/mức 纆
(dây đo) đã dùng tương đương trong thư tịch Hán cổ - được ghi nhận bởi
học giả nhà Hán Dương Hùng 揚雄 (53 TCN - 18 SCN) trong Giải Trào, một
chuyên gia (cũng như là tác giả) "Phương Ngôn"[………]".
AC: Vậy thì cái nghĩa "dây, thừng" ("sách dã" [索也]) của chữ "mặc" [墨] và, hiện tượng chữ "mặc" [墨] bộ "thổ"
[土] cũng dùng thay cho chữ "mặc" [纆] bộ
"mịch" [糸] do đâu mà ra? Xin thưa rằng "dây, thừng" (sách dã) thực chất
là một cái nghĩa phái sinh từ nghĩa "mực" của chữ "mặc" [墨]. Đó là một
hoán dụ đã từ vựng hoá từ danh ngữ "mặc thằng" [墨繩], tức là "dây [có
thấm] mực". Nhiều nguồn thư tịch như tc.wangchao.net.cn,
zhidao.baidu.com, v.v... đều cho biết rằng "trọng thùy tuyến tại cổ đại
thời hậu đích khiếu pháp thị mặc thằng" [重垂线在古时候的叫法是"墨绳"], nghĩa là "vào
thời cổ xưa thì mặc thằng là cách gọi dùng để chỉ dây dọi (fil à plomb
[Pháp]; plumb line [Anh])". Các quyển từ điển Hán Anh trực tuyến đều
dịch "mặc thằng" [墨绳] thành "inked marking string", nghĩa là "dây [có
thấm] mực [dùng để] đánh dấu". Trở xuống, chúng tôi sẽ gọi "mặc thằng"
là "dây mực" cho gọn. Trong cái đấu mực, tức "mặc đẩu" [墨斗], thì dây mực
là bộ phận chính dùng để nảy mực lên gổ làm chuẩn cho việc cưa, xẻ theo
đường thẳng. "Nảy mực", tiếng Hán xưa gọi là "phụ thằng" [負繩], mà
baike.com/wiki giảng là "dụng mặc thằng đả trực tuyến vu mộc"
[用墨绳打直线于木], nghĩa là "dùng dây mực [để] kẻ đường thẳng trên gỗ". Còn Tàu
hiện đại thì gọi "nảy mực" (tức "phụ thằng") là "đàn tuyến"
[彈綫]. Nếu hiểu thành danh từ thì "đàn
tuyến" là "dây dùng để nảy mực lên gỗ" còn ở đây, chúng tôi hiểu theo
động từ, tức là "nảy mực bằng dây mực" (tiếng Việt cũng có dị bản dùng
"nẻ" thay cho "nảy"). "Nảy mực bằng dây mực" thường được nói tắt thành
"nảy mực", như có thể thấy trong thành ngữ "cầm cân, nảy mực". Và chính
vì căn cứ vào cái thực tế cụ thể và hiển nhiên này mà chúng tôi khẳng
định rằng "mực ở đây là cái chất sệt thường là màu đen, dùng để viết,
vẽ, đánh dấu, v.v... chứ không phải là cái dụng cụ của nghề mộc, như
PAD-NCT đã khẳng định, và như chúng tôi sẽ phê phán ngay dưới đây.
PAD-NCT: Mực tàu có hiệu Đốc Thằng thẳng ngay [………] "Mực tàu" ở đây chỉ
một dụng cụ của thợ mộc vì đề mục đã xác định rõ là "Mộc công bộ", có lý
hơn so với nghĩa thường hiểu (hiện nay) là mực (viết) của người Tàu
(người Trung Hoa). Nếu mực trong mực tàu là mực viết/vẽ, thì đây chỉ là
cách dùng đơn giản hóa trong tổ hợp "mực tàu" chỉ dụng cụ gồm ba thành
phần chính: (a) mực (b) dây (thằng) và (c) tàu (hũ chứa, máng chứa
mực)".
AC : Vì mải miết theo đuổi cách hiểu chủ
quan của họ về hai tiếng "mực tàu" nên PAD-NCT đã không quan tâm đến
đặc điểm cú pháp – ngữ nghĩa của danh ngữ này. Hai tác giả cho rằng
trong "mực tàu" thì "tàu" là "hũ chứa, máng chứa mực". "Tàu" thì đúng là
"máng" nhưng phải là máng có kích thước to, cỡ như máng trong chuồng
ngựa, chuồng voi chứ ngay cả máng lợn thì cũng chẳng ai gọi là "tàu".
Thế cho nên ta chỉ có "tàu ngựa", "tàu voi", chứ không có "tàu lợn". Vậy
"tàu" là một loại máng, nhưng phải là máng to. Đến như nói "tàu" là "hũ
chứa [mực]" thì chỉ là nói đùa cho vui về kích thước của cái "tàu" mà
thôi. Cái "tàu" không thể nằm gọn trong cái "mực tàu" của PAD-NCT được.
Đó là nói về mặt ngữ nghĩa. Còn nói về cú pháp thì, nếu được phép dùng
"tàu" với nghĩa "hũ", người ta cũng sẽ phải gọi cái đồ nghề của PAD-NCT
là "tàu mực", chứ không phải "mực tàu" vì đây chỉ là cách nói "ngược"
của Tàu mà thôi.
TẠM KẾT LUẬN: Với những nhận xét trên
đây, ta đã có thể thấy rằng bài "Tản mạn về nghĩa của 'mực tàu' 墨艚 qua
từ điển Việt Bồ La (phần 1)" của PAD-NCT có nhiều chỗ sơ hở quan trọng
nên không phải là chỗ dựa đáng tin cậy để tìm hiểu về nghĩa của hai
tiếng "mực tàu". "Mực tàu", với chúng tôi, vẫn là mực Trung Hoa.
Năng lượng Mới 475
Những điều chưa nói hết về bài đại luận của Đinh Văn Tuấn
Bạn đọc: Xin “phản ứng nhanh”. Tôi thấy trong bài trước (Năng lượng Mới số 470 và 471), ông An Chi có lý và có vẻ như ông còn muốn nói thêm một số ý kiến nên đã “hẹn hò” là “ta hãy còn có những dịp khác nữa”. Vậy để cho sốt dẻo, xin ông nói luôn để tôi và bạn đọc khác khỏi nóng lòng mong đợi? Xin cảm ơn ông. Nguyễn Thế Hiển (Hoàn Kiếm, Hà Nội)
Học
giả An Chi: Vì muốn cho gọn nên trong bài trước, chúng tôi đã tạm chấp
nhận quan niệm cho rằng chữ "xương" [昌] là do hai chữ "nhật" [日] chồng
lên nhau để loại trừ ý kiến cho rằng đó là hai chữ "viết" [曰] ("song
viết"). Nhưng đây là một sai lầm nên lần này chúng tôi phải phân tích kỹ
hơn về mặt "tạo tự".
Nếu quan sát tự hình cho tuyệt đối chính
xác và tham khảo các tự thể khác nhau, thì chẳng những "xương" [昌]
không phải là "song viết" (hai chữ "viết") mà cũng chẳng phải là "song
nhật" (hai chữ nhật). Thực ra, cứ theo nguồn gốc thì "xương" [昌] là một
chữ "tùng nhật
[日] tùng viết [曰]", nghĩa là liên quan đến chữ "nhật" [日] ở trên và chữ "viết" <<
[曰] ở dưới, như Hứa Thận đã chỉ rõ trong
Thuyết văn giải tự. Cấu hình này của chữ "xương" [昌] thể hiện rất rõ ở
thể triện của nó, như có thể thấy ở các chữ:
là "kim văn đại triện thể" [金文大篆体];
là "Hán nghi tiểu triện thể" [汉仪小篆体];
là "phương chính tiểu triện thể" [方正小篆体];
là "kinh điển phồn giác triện" [经典繁角篆].
Trong 4 chữ này thì ở trên đều là chữ
"nhật" [日] và ở dưới đều là chữ "viết" [曰]. Điều này chứng tỏ rằng tất
cả các nguồn mà ĐVT đã dẫn đều chiết tự không chính xác, kể cả "Hán điển
luận đàn" [汉典论坛]. Luận đàn này đúng với đại đa sô các chữ được "chiết",
chẳng hạn như:
1. - "Kiêm do lưỡng cá bỉnh tự
[秉] tổ thành" ["" 由两个"秉" 字组成], tức chữ
"kiêm" do hai chữ "bỉnh" hợp thành; 2. - "Tam nhật, tinh, tùng tam nhật,
biểu thị quang lượng chi ý" [三日晶 jīng 从三日,表示光亮之意], tức là ba chữ nhật
hợp thành chữ "tinh", chỉ ý sáng sủa;
3. -"Tam thạch, lỗi, chúng thạch, thạch đầu đa…" [三石磊 lěi 众石,石头多…], tức ba chữ thạch hợp thành chữ lỗi, ý nói nhiễu sỏi đá…
4. -"Tứ nguyệt, lãng, cổ đồng lãng. Bản
nghĩa: nguyệt lượng…" [四月朤 lǎng 古同 "朗"。本义: 明亮 …], tức là bốn chữ nguyệt
hợp thành chữ lãng, xưa là một với chữ [朗]; nghĩa gốc là ánh trăng;
v.v... và v.v...
Nhưng với chữ "xương" [昌] thì Luận đàn
này đã chiết sai. Với lời giảng trong Thuyết văn giải tự và những chữ
"xương" viết theo thể triện mà chúng tôi đã đưa ra ở trên thì cái sai
này là điều hiển nhiên. Vậy, để thực hiên fair play một cách triệt để,
ĐVT không nên suy bụng ta ra bụng người mà khẳng định rằng Nguyễn Trãi
đã xài hai chữ "song viết" thay cho "nhất tự tâm đắc" là chữ "xương".
Đến như khẳng định rằng "song viết" là hình thức kiêng húy của chữ
"xương" thì lài càng cực kỳ vô lý và chủ quan. Vì không thấy Ngô Đức Thọ
ghi nhận "hình thức kiêng húy" này trong Chữ húy Việt Nam qua các triều
đại (NXB Văn hóa, 1997) nên ĐVT đã tự ý khẳng định rằng "đây chính là
một kiểu tị húy độc đáo chưa từng thấy nói đến trong lịch sử tị húy Việt
Nam" (mà chỉ một mình ĐVT thấy!). Về nghĩa của hai chữ "song viết", ĐVT
đã thống kê 20 "cách hiểu khác nhau" sau đây: 1. Thong thả - nô bộc -
sớm tối (Đào Duy Anh);
2. Suông nhạt (Đỗ Văn Hỷ, Vũ Văn Kính);
3. Dong chơi thơ thẩn, nhàn tản phóng túng - tài sản, vốn liếng, của cải (Nguyễn Tài Cẩn);
4. Giàu nghèo (Nguyễn Công Hoan)
5. Sống thanh cao, trung dung, đúng với cương vị là sĩ phu, vui với đạo lý (Đoàn Ngọc Phan);
6. Thật là (Hoàng Xuân Hãn);
9. Ngày chẵn - Kết bạn, họp mặt, vui
thích (Bùi Văn Nguyên). Ngày chẵn - nghỉ ngơi, thong thả, nhàn nhã
(Nguyễn Khắc Kham, Nguyễn Quảng Tuân);
10. Tư nghiệp - tư sản, của cải (Cao Xuân Hạo, Trần Xuân Ngọc Lan);
11. Bằng khoán, di sản, kho tàng, công lao (Xuân Phúc P.Schneider);
12. Của cải (Lê Hữu Mục);
13. Tài sản, của cải, đầy tớ (Ngô Đăng Lợi);
14. Viết một cách nhiều, rông dài, lung tung (Ngô Đức Thọ);
15. Thư thả - miệt mài, nhàn - vất vả, buông thả - gò bó, chặt chẽ, tùng tiệm - chắt bóp... (Nguyễn Thạch Giang);
16. Sinh hoạt (An Chi);
17. Của cải thu nhặt được (Nguyễn Quảng Tuân);
18. Cách ăn mặc và cách ăn ở (Nguyễn Hy Vọng);
19. Viết (Lê Văn Quán);
20. Xuôi ngược, vui thú, ngao du (Nguyễn Thế);
Tiếc rằng trong 20 "cách hiểu khác
nhau", ĐVT đã nêu cả "cách hiểu" của An Chi nhưng trong 26 "tài liệu
tham khảo bằng tiếng Việt", tác giả này không hề nêu bài "Âm và nghĩa
của hai chữ «song viết» 双曰" của An Chi - trong khi vẫn nêu nguồn của các
tác giả khác - là bài từ đó ĐVT đã lấy ra cách hiểu (của An Chi) mà ĐVT
ghi là "sinh hoạt". Đây là một cách ghi không chính xác và thiếu tinh
thần trách nhiệm, trước nhất là vì chúng tôi không đọc hai chữ [双曰]
thành "song viết". Chúng tôi viết rõ ràng như sau ngay ở 2 câu đầu tiên:
"Chúng tôi cho rằng, trong các câu thơ
cổ, âm của hai chữ 'song viết' 双曰 là sông vát. Đây là âm xưa của hai chữ
[生活] mà âm Hán Việt hiện đại là sinh hoạt". Nhưng đây mới chỉ là cách
đọc; còn về cách hiểu thì chúng tôi đã viết chi tiết như sau (Đâu có đơn
giản và ẩu như ĐVT đã ghi):
"Vì là âm xưa của hai tiếng sinh hoạt
nên nghĩa của sông vát tất nhiên cũng là nghĩa của hai tiếng sinh hoạt.
Đó là: sự hoạt động; đời sống, cuộc sống; cuộc đời; cảnh ngộ, hoàn cảnh;
kế sinh nhai, nghề mưu sinh (Xin xem các nghĩa này tại mục «sinh hoạt»
[生活] và các mục hữu quan trong Từ nguyên, Từ hải, v.v...). Các nghĩa này
thực sự phù hợp từng nghĩa một với từng câu thơ tương ứng có hai chữ
[双曰] và với chủ đề của từng bài thơ hữu quan trong Quốc âm thi tập
(Nguyễn Trãi), Hồng Đức quốc âm thi tập (đời Lê Thánh Tông), Bạch Vân am
quốc ngữ thi tập (Nguyễn Bỉnh Khiêm) và trong một số câu lẻ tẻ khác".
Rồi ở một đoạn dưới, chúng tôi còn quy nghĩa rõ ràng hơn nữa như sau:
"Tuy hai tiếng sông vát chưa hề được ghi
nhận ở bất cứ nơi nào và ở tác giả nào nhưng ta hoàn toàn có thể kiểm
chứng các nghĩa của nó với âm Hán Việt hiện đại là sinh hoạt và ta có: -
Sông vát1 = sinh hoạt1 = (ngữ danh từ) I. 1. sự hoạt động; 2. đời sống,
cuộc sống, cuộc đời, sinh hoạt; 3. nếp sống; 4. cảnh ngộ, hoàn cảnh; 5.
kế sinh nhai, nghề mưu sinh. II. 1. sản phẩm, vật dụng; 2. của cải, tài
sản, vốn liếng. - Sông vát2 = sinh hoạt2 = (ngữ vị từ) 1. hoạt động; 2.
sinh sống; 3. ăn ở, cư xử".
An Chi đã trình bày cách hiểu của mình
rành rọt, rõ ràng như thế mà ĐVT lại ghi cách hiểu của hắn chỉ bằng hai
tiếng "sinh hoạt" gọn lỏn thì ít nhất cũng phải bị nhận thẻ vàng
("yellow" chứ không phải "golden"). Còn về phần mình thì vì mải mê hùng
biện nên ĐVT đã quên rằng mình đang trộn lẫn những thứ không được phép
trộn chung về ngữ nghĩa là vị từ và danh từ (như đã nói trên Năng lượng
Mới số 470 và 471) để lăng-xê phương pháp mới của mình là "chiết tự".
ĐVT đã làm một sự chế biến không được phép nên kết quả chỉ là một món ăn
gồm những nguyên liệu kỵ nhau mà cứ nhìn bề ngoài thì có thể ngỡ là cao
lương mỹ vị. Đây, xin nhắc lại là ĐVT đã khẳng định như sau:
"SONG VIẾT 双 曰 hiểu theo chiết tự chính
là XƯƠNG 昌, tượng trưng cho một lý tưởng sống cao đẹp của nhà Nho (từ
Nguyễn Trãi cho đến Nguyễn Bỉnh Khiêm và các nhà Nho sau này), là một
khát vọng hướng về một cuộc sống CHÂN - THIỆN - MỸ, như chính ý nghĩa
của chữ 昌 XƯƠNG: CHÂN - lời hay ý đẹp, trực ngôn (chân thật), chính
đáng; THIỆN - tốt lành, hưng thịnh, thỏa sinh (trường tồn); MỸ - sáng
sủa, tốt đẹp".
ĐVT đã ứng dụng nghĩa trên cho Hồng Đức quốc âm thi tập như sau:
Đối với hai câu "Nẻo đầu kể bốn thú nhàn
cư - Song viết ai bằng song viết ngư. (Phong cảnh môn, 59: Vịnh người
đánh cá) thì diễn giải là: Niềm vui sống ẩn dật nhàn tản (an nhiên tự
tại, tùy ngộ nhi an…) thì không gì lý tưởng nhà Nho (XƯƠNG 昌) bằng việc
câu cá.
Đối với hai câu "Một rìu một búa của hôm
chiều - Song viết ai bằng song viết tiều" (Phong cảnh môn, 60: Vịnh
người hái củi) thì diễn giải là: Niềm vui sống ẩn dật nhàn tản (an nhiên
tự tại, tùy ngộ nhi an…) thì không gì lý tưởng nhà Nho (XƯƠNG 昌) bằng
việc tiều phu, sớm chiều một rìu một búa".
Đối với hai câu "Một cày, một cuốc phận
đã đành - Song viết ai bằng song viết canh" (Phong cảnh môn, 61: Vịnh
người đi cầy) thì diễn giải là: Niềm vui sống ẩn dật nhàn tản (an nhiên
tự tại, tùy ngộ nhi an…) thì không gì lý tưởng nhà Nho (XƯƠNG 昌) bằng
việc đồng áng, ngày ngày một cày, một cuốc trong an phận thủ thường".
Đối với hai câu "Nẻo ra thì có phu đồng
bộc - Song viết ai bằng song viết mục. (Phong cảnh môn, 62: Vịnh người
chăn trâu) thì diễn giải là: Niềm vui sống ẩn dật nhàn tản (an nhiên tự
tại, tùy ngộ nhi an…) thì không gì lý tưởng nhà Nho (XƯƠNG 昌) bằng việc
mục đồng.
Thế là với cái chữ "xương - nhất tự tâm
đắc" của ĐVT thì lý tưởng của nhà nho ở đây thật là cao vòi vọi và chúng
tôi xin mượn lời của bạn Đỗ Công Minh trên Facebook mà nói rằng cái lý
tưởng của các vị đó là đi thi Hương, thi Hội, thi Đình để đỗ tú tài, đỗ
cử nhân, đỗ tiến sĩ, đỗ trạng nguyên rồi về câu cá, kiếm củi, làm ruộng
và chăn trâu. Đến đây thì chắc bạn Nguyễn Thế Hiển và bạn đọc đã thấy rõ
"một hướng đi, một phương pháp mới, chưa từng được đề cập đến từ trước
đến nay khi nghiên cứu về SONG VIẾT 双 曰" của ĐVT nó có giá trị như thế
nào rồi nên chúng tôi cũng không cần nói gì thêm.
Nhận xét
Đăng nhận xét