-NÓI NHƯ CON "KÉT", LÀM NHƯ CON "KẸT"! -QUAN "NỔ" = MỴ DÂN -Định hướng như ... cứt mà đòi lên "Thiên Đường". -Rồi đây, lịch sử sẽ chỉ rõ công - tội! -Không có KTNN sẽ không có CNXH! Nhưng KTNN phải hoạt động theo KTTT. -Phí không khéo, sẽ làm cho "sưu cao thuế nặng", và như vậy, khác gì thời phong kiến!? -Không thể chối cãi: xã hội yếu kém phổ biến, là sai lầm của thể chế! - Thế nào là định hướng XHCN !? Phải chăng là (đối với VN), phải ưu tiên công nghiệp hóa nông nghiệp? -Xây
dựng ồ ạt, mở rộng tràn lan phạm vi đô thị như Hà Nội, tp HCM...là một
định hướng nóng vội, sai lầm! Vì tác dụng làm cho dân giàu nước mạnh rất
ít, lợi bất cập hại! -Bảo vệ đảng và bảo vệ dân, cái nào ưu tiên hơn cái nào? -"Đồng chí" nào "lên" cũng vậy thôi! Ôi, cần lắm một nhân tài! -Ưu
tiên công nghiệp hóa nông nghiệp một cách thực chất, đó là định hướng
duy nhất đúng cho kinh tế Việt Nam, đó là tiền đề làm cho "dân giàu,
nước mạnh" đúng nghĩa! -“Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” (Lời Hồ Chí Minh). Nhưng nếu không biết cách tạo gốc và trồng...?
--------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Một trường học tại Bình Định. Các em
học sinh vẫn hồn nhiên vui cười, trong khi trần nhà có thể sập xuống bất
cứ lúc nào. (Ảnh: vnexpress.net)
Trong khi các quan chức địa phương đang loay hoay với việc xây trụ sở mới, hay tượng đài đồ sộ
với kinh phí hàng nghìn tỷ đồng, thì tại nhiều nơi, nhiều ngôi trường
sập sệ đang cố oằn mình nâng đỡ để học sinh đến trường, nhưng cũng có
thể sập xuống bất cứ lúc nào, đã có những cái chết thương tâm xảy ra.
Tình trạng nhiều trường học xuống cấp gây nguy hiểm đáng báo động tại các địa phương
Tại tỉnh Bình Định, Trường
tiểu học số 2 Phước Lộc – phân hiệu Đại Tín, xã Phước Lộc, huyện Tuy
Phước từng xảy ra tai nạn cách đây 2 năm khiến một học sinh lớp 4 (10
tuổi) thiệt mạng.
Học sinh Tống Hữu Kiệt khi cùng 2 bạn
học đi qua khu nhà cũ của trường để đi vệ sinh thì bất ngờ bị cột đỡ mái
che dãy phòng cũ đổ, đè trúng người, tử vong tại chỗ.
Rút kinh nghiệm từ cái chết của cháu
Kiệt, nhiều trường ở Bình Định đã rào chắn kèm biển báo khu vực nguy
hiểm, ngăn học sinh lại gần.
Tại tỉnh Thừa Thiên – Huế, Trường
THCS Lăng Cô cơ sở 1 thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc được xây dựng từ
năm 1968, đến năm 2012, trường được nâng cấp với chi phí 140 triệu đồng,
nhưng đến nay xuống cấp đến mức không thể dùng được nữa, chỉ có thể xây
mới.
Dù trường đang trong tình trạng có thể bị sập bất cứ lúc nào, nhưng 300 học sinh hàng ngày vẫn phải đến trường.
Bà Trần Thị Quý Đông – Hiệu trưởng THCS Lăng Cô cho PV báo Người Lao Động biết: “Mùa
nắng chúng tôi phải dùng 5-6 cây quạt, còn mùa mưa thì phải kéo rèm che
lạnh cho học sinh. Mùa mưa bão cô trò ngồi trong phòng học mà cứ nơm
nớp lo sợ trường sập”.
Năm 2013 trường được UBND tỉnh đưa vào
danh sách thanh lý tài sản, tuy nhiên do không đủ trường lớp, và việc
học trường ở cơ sở 2 quá xa, nên trường vẫn được tận dụng cho đến nay.
Nhiều phụ huynh vì sợ ngôi trường này mà
chuyển con mình sang trường khác, dù phải đi xa hơn rất nhiều. Để con
được học nơi khác, các phụ huynh phải đưa con đến TP Đà Nẵng, hoặc ngược
lên TP Huế, cách nhà đến 40 km để học tiếp.
UBND huyện Phú Lộc đã lên kế hoạch xây
dựng thêm phòng học ở cơ sở 2 để di dời học sinh sang, kinh phí 7 đến 8
tỷ đồng. Thế nhưng hiện nay đang trong giai đoạn làm thủ tục để trình dự
án lên UBND tỉnh, sau đó phải chờ UBND tỉnh phê duyệt. Trong khi đó với
tình hình như hiện nay thì ngôi trường có thể sập xuống bất cứ lúc nào,
đe dọa an toàn của 300 học sinh.
Bên cạnh nguy cơ sập từ các trường học cũ, thì các trường xây mới cũng không phải an toàn. Vào cuối năm 2015, cổng trường Tiểu học xã Thanh Minh (TP. Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên) vừa
mới xây xong thì bất ngờ đổ sập gãy làm 3 khúc đè lên người 2 học sinh,
khiến 1 học sinh tử vong tại chỗ, 1 học sinh khác bị thương nặng.
Bố của học sinh tử vong cho PV báo Vnexpress biết: “Khi đó đèn điện rất sáng, tôi nhìn rõ trụ cổng cao khoảng 2,5m, rộng 40 cm nhưng không có thép bên trong”.
Giá như có thể dành một ít tiền, một số
rất nhỏ thôi trong số tiền xây dựng trụ sở hay tượng đài để tu sửa
trường học, thì những cái chết thương tâm đã không xảy ra, và học sinh
cũng như phụ huynh cũng không phải nơm lớp lo lắng khi phải học trong
những ngôi trường đang oằn mình chờ sập.
Ngọn Hải Đăng tổng hợp
Thực trạng giáo dục Việt Nam, góc nhìn của nhà giáo
(GDVN) - “Tư duy tiểu nông là việc các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn,
tổ chức đoàn thể nâng cấp ồ ạt các trường từ trung cấp lên cao đẳng, từ
cao đẳng lên đại học”.
LTS: Để góp ý cho Dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII sắp tới, liên quan tới phương hướng và giải pháp phát
triển giáo dục và đào tạo, Báo điện tử Giáo dục Việt Nam trân trọng giới
thiệu bài góp ý của TS. Dương Xuân Thành về chủ đề trên. TS. Dương Xuân Thành từng làm nghiên cứu sinh tại Cộng
hòa Séc. Ở trong nước, ông trải qua nhiều vị trí công tác tại các trường
Đại học trên cương vị giảng viên cũng như công tác quản lý. Hiện, TS. Dương Xuân Thành là thành viên chính thức của
Ban nghiên cứu và phân tích chính sách (Hiệp hội các trường Đại học, Cao
đẳng Việt Nam). Phần góp ý của TS.Dương Xuân Thành gồm ba phần, Toà soạn bắt đầu giới thiệu từ hôm nay.
Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa XI tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (Dự thảo),
mục 5 có tiêu đề: “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát
triển nguồn nhân lực”.
Không thể phủ nhận những cố gắng, những thành tích mà ngành Giáo dục
đạt được trong mấy chục năm qua, song bài viết này với mục đích góp thêm
ý kiến cho Dự thảo nên sẽ không đi vào liệt kê hay ca ngợi thành tích
mà chủ yếu phân tích một số tồn tại dưới góc nhìn của một nhà giáo, Bài
viết chỉ giới hạn trong phạm vi giáo dục đại học.
Một lần nữa Đảng khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và “chi
cho giáo dục và đào tạo tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách”.
Quyết tâm chính trị của Trung ương nêu trong Dự thảo không phải là
mới bởi đã được đề cập từ nhiều năm trước, được cụ thể hóa trong Hiến
pháp và nhiều văn kiện của Nhà nước, Chính phủ.
Vậy tại sao cho đến nay, Dự thảo vẫn phải nêu: “Đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu. Đầu
tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính
cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn
thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn”.
Muốn chữa bệnh thì phải biết bệnh nhân mắc bệnh gì, muốn biết bệnh
nhân mắc bệnh gì thì phải quan sát các biểu hiện bệnh lý và tiến hành
xét nghiệm. Vậy các biểu hiện “bệnh lý” rõ ràng nhất của giáo dục Việt
Nam từ năm 1954 đến nay là gì? Tư duy tiểu nông
Dự thảo báo cáo viết: “chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn
thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ
thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các
phương thức giáo dục, đào tạo”.
“Giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo” không
liên thông bởi vì tư duy giáo dục nhiều năm nay vẫn là tư duy tiểu nông,
tư duy này được thể chế hóa bằng một số chủ trương, chính sách trong đó
có cơ chế “cơ quan chủ quản”.
Tác giả chân thành cảm ơn TS. Đặng Văn Định, Trưởng
ban Ban nghiên cứu và phân tích chính sách, Hiệp hội các trường Đại học,
Cao đẳng Việt Nam đã góp nhiều ý kiến quý báu cho bài viết.
“Cơ quan chủ quản” là cách thức mà các đơn vị (bộ, ban, ngành, địa
phương) vận dụng nhằm giành quyền chi phối giáo dục. Các đơn vị này hình
thành nên các nhóm khác nhau song mục tiêu cuối cùng của việc chi phối
giáo dục là quyền được chia sẻ kinh phí dành cho Giáo dục và quyền được
sử dụng các quyền mà pháp luật trao cho Giáo dục nhằm mang lại lợi ích
cho “nhóm lợi ích” của mình.
Có thể chỉ ra một số “nhóm” như “nhóm địa phương” cụ thể là các tỉnh,
thành phố; “nhóm quản lý” gồm các bộ, ban, ngành; “nhóm tổ chức xã hội”
gồm các tổ chức xã hội như Thanh niên, phụ nữ, công đoàn…
Trong các bài viết “Hoa thơm, mỗi bộ, ngành hưởng một tí” [1]; “Có
người bảo ngành Giáo dục rất dại” [2] người viết đã từng đề cập đến thực
trạng này.
Số liệu thống kê năm 2013 cho thấy Bộ GD&ĐT chỉ quản lý 12,86% số
trường cao đẳng, đại học cả nước trong khi đó Ủy ban nhân dân các tỉnh
quản lý 42,77%; Bộ Công thương 9,97%; Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch
6,11%...; (chưa kể Bộ Công an và Quốc phòng).
Ảnh minh họa. Xuân Trung
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch Đầu tư, giai đoạn 2004-2014, trong tổng
số 2,2 tỉ USD đầu tư vào các dự án ODA ngành Giáo dục, Bộ GD&ĐT quản
lý 26 dự án với số vốn 1,8 tỉ, Bộ Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
quản lí 12 dự án với số vốn 232 triệu USD.
Việc “chia lô” như thế khiến cho ngân sách đầu tư cho giáo dục bị dàn
trải, chỉ đạo chồng chéo,… Mỗi đơn vị “chủ quản” tự quyết định những gì
có lợi cho đơn vị mình chứ không phải vì lợi ích chung, có thể nêu một
vài dẫn chứng.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội khi nắm mảng dạy nghề đã cụ thể hóa
“quyền chủ quản” của mình qua việc đề nghị Quốc hội ban hành Luật Giáo
dục Nghề nghiệp. Bằng Luật này, có lẽ Việt Nam là nước đi tiên phong
trong việc tách các trường cao đẳng khỏi bậc đại học và cấp bằng “Kỹ sư”
cho người theo học trình độ cao đẳng (3 năm).
Cũng chính bộ này đang giành “thị phần” đào tạo giáo viên (phổ thông,
dạy nghề) khi quản lý ba trường Đại học Sư phạm kỹ thuật (Nam Định,
Vinh, Vĩnh Long) trong khi bộ GD&ĐT cũng quản lý một số trường ĐH Sư
phạm kỹ thuật.
Vì sao cùng một loại hình trường lại phải chia cho hai bộ quản lý?
Một chuyên gia quản lý giáo dục hàm vụ trưởng (xin không nêu tên) cho
biết với nguồn kinh phí dồi dào, Bộ LĐTB&XH đã chi 450-475 triệu
đồng cho việc xây dựng một chương trình nghề trung cấp, 480 - 500 triệu
cho chương trình nghề Cao đẳng, mỗi chương trình chỉ vỏn vẹn khoảng hơn
chục trang giấy.
Người viết đã từng xây dựng hai chương trình khung trình độ đại học,
chương trình đào tạo cử nhân (4 năm) và chương trình đào tạo kỹ sư (5
năm), khung chương trình bao gồm đề cương chi tiết khoảng 50 học phần
(môn học), điều kiện tiên quyết, phân bổ quỹ thời gian, tài liệu tham
khảo…
Toàn bộ chương trình in trên khổ giấy A4 dày gần 200 trang. Mỗi khung chương trình này được trả thù lao 15 triệu đồng.
Một ví dụ khác của tư duy tiểu nông là việc các bộ, ngành, địa
phương, tập đoàn, tổ chức đoàn thể nâng cấp ồ ạt các trường từ trung cấp
lên cao đẳng, từ cao đẳng lên đại học và thành lập tràn lan các trường
đại học mới mà không quan tâm đến chất lượng đội ngũ giảng viên và cơ sở
vật chất.
Một khi đã có trường, học viện thì đương nhiên cơ quan chủ quản sẽ có
quyền chi phối nguồn kinh phí, nhân lực và nhiều đặc quyền khác liên
quan đến các chức danh khoa học.
Chẳng hạn Trường Đại học Công nghiệp Dệt May Hà Nội được nâng cấp
ngày 04/6/2015, là một trường đại học trực thuộc Tập đoàn Dệt May Việt
Nam nhưng tại trường này chỉ Hiệu trưởng là có bằng tiến sĩ, hai phó
hiệu trưởng chưa phải là tiến sĩ, (trái quy định của Luật Giáo dục Đại
học).
Vì sao một đại học lại đào tạo: Cao đẳng chính quy, cao đẳng liên
thông, cao đẳng vừa làm vừa học; Trung cấp chuyên nghiệp; Cao đẳng nghề,
Trung cấp nghề. (http://hict.edu.vn/gioi-thieu-chung/ ngày 8/10/2015).
Đối với chính quyền địa phương, một khi đã có quyền quản lý các
trường, có quyền đưa đại diện địa phương vào hội đồng quản trị các đại
học ngoài công lập thì đương nhiên các trường đóng trên địa bàn dù không
muốn vẫn phải “chú ý lắng nghe” ý kiến của người được chính quyền ủy
nhiệm, một trong những ý kiến đó có thể là “phổ cập” trình độ thạc sĩ
cho quan chức địa phương. Quyền tự chủ đại học ít nhiều đã bị xâm phạm.
Hậu quả của việc tăng quá nhanh số lượng trường CĐ, ĐH khiến nguồn
lực không đáp ứng kịp đặc biệt là đội ngũ giảng viên vừa không đạt chuẩn
vừa thiếu nghiêm trọng.
Có thể thấy nhận định này qua số liệu của ĐH Dệt May Hà Nội trước khi
nâng cấp (2011) trong số 151 giảng viên chỉ có 2 tiến sĩ, 40 thạc sĩ,
sau khi nâng cấp websize trường này phải bỏ trống mục “báo cáo ba công
khai”?
Tư duy tiểu nông đã được nhìn nhận qua đánh giá trong Dự tháo Báo cáo
của Trung ương: “Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các
trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo”.
Có thể kết luận mảng dạy nghề ở phổ thông không mang lại hiệu quả rõ
nét. Thậm chí kiến thức nghề phổ thông nhiều khi không liên quan gì đến
các kiến thức nghề nghiệp được dào tạo sau phổ thông.
Mảng đào tạo trung cấp chuyên nghiệp ngày nay không nhận được sự quan
tâm của xã hội vì sản phẩm đào tạo ra vừa không có tay nghề, vừa không
có khả năng nghiên cứu. Muốn học tiếp, những người có bằng trung cấp lại
phải thi tuyển như học sinh phổ thông.
Theo ý kiến người viết, nên bỏ loại hình đào tạo trung cấp, chuyển các trường trung cấp thành trường dạy nghề.
Một số nước châu Âu chương trình đào tạo đại học được chia thành ba
giai đoạn: từ 3 đến 4 năm cho bậc cử nhân, tiếp theo 2 đến 3 năm cho bậc
thạc sĩ sau đó là chương trình đào tạo tiến sĩ. Trong khi tại Việt Nam
người có bằng cử nhân (cao đẳng) muốn học tiếp bậc đại học phải thi đầu
vào theo hình thức liên thông.
Một điều không hợp lý nhưng đang tồn tại, người có bằng cử nhân (cao
đẳng) học tiếp đại học và khi ra trường bằng cấp của họ vẫn là cử nhân
(đại học) trong khi trình độ của họ là hoàn toàn khác nhau?
Sinh viên tốt nghiệp cao đẳng nghề thuộc Bộ LĐTB&XH muốn học đại
học do Bộ GD&ĐT quản lý phải tuân thủ quy định về học liên thông, sự
“vênh nhau” giữa hệ thống đào tạo của Bộ GD&ĐT với hệ thống đào tạo
của các trường nghề khiến các đại học e ngại tiếp nhận đối tương “liên
thông” này.
Đã đến lúc phải tạo ra “cánh đồng mẫu lớn” cho giáo dục, giáo dục đào
tạo phải là một quá trình thống nhất, liên tục từ nhà trẻ mẫu giáo tới
đại học, chỉ có như thế mới đáp ứng tiêu chí xây dựng một “xã hội học
tập”.
Như câu nói nổi tiếng “của Xêda trả lại cho Xêda”, những gì liên quan
đến giáo dục đào tạo chỉ nên do một cơ quan quản lý. Cơ quan này có thể
là Ủy ban Giáo dục Quốc gia, Bộ GD&ĐT giữ vai trò như “cơ cấu chấp
hành”. Trước mắt cần bãi bỏ cơ chế “chủ quản” trong giáo dục đại học. Chủ quan duy ý chí, xa rời thực tế
Duy ý chí được hiểu là sự đề cao quá mức vai trò của ý chí con người,
rằng chỉ cần có ý chí và quyết tâm thì có thể làm được mọi việc bất
chấp điều kiện khách quan.
Đã có thời câu nói “một mo cơm, mấy quả cà và một tấm lòng…” được đề
cao cho thấy sự ngây thơ đến mức báo động của “duy ý chí”, người ta có
thể thích thú về câu nói đó nhưng lấy nó làm phương châm hành động trong
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc, đặc biệt khi nó được vận dụng vào
khoa học, giáo dục là điều không thể nếu không muốn nói là không được
phép.
Dư luận từng ngỡ ngàng với lập luận của một Thứ trưởng Bộ GD&ĐT,
theo vị Thứ trưởng này môn khoa học xã hội gồm ba nội dung: kiến thức
Địa lý, kiến thức Lịch sử và tích hợp cả hai môn này cùng những môn khác
xã hội quan tâm.
Cũng theo vị này “giáo viên nào cũng có thể dạy tích hợp. Giáo viên
Địa hiện nay có thể dạy phân môn Địa lý trong môn Khoa học xã hội; giáo
viên Lịch sử sẽ dạy phân môn Lịch sử trong môn Khoa học xã hội. Phần
chuyên đề tích hợp sẽ bồi dưỡng thêm giáo viên để họ có thể dạy được…”.
Cách “tích” như vị lãnh đạo nêu trên có “hợp” lý không khi xuất hiện
thêm một đội ngũ giáo viên chuyên dạy tích hợp bên cạnh lực lượng cũ chỉ
biết các phân môn của mình?
Tiến sĩ Chu Cẩm Thơ, Khoa Toán - Tin, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, nhận
xét: “Đến thời điểm này, ngay cả những giáo viên ở trung tâm thủ đô cũng
còn rất mơ hồ về khái niệm dạy học tích hợp, nếu không muốn nói là hầu
hết vẫn hiểu sai về tích hợp” (Thanhnien.com.vn 14/9/2015).
Không phải cứ “ý chí” bảo rằng “giáo viên nào cũng có thể dạy tích
hợp” là tự khắc giáo viên sẽ dạy được tích hợp kể cả khi đã được bổ túc
kiến thức, muốn dạy tích hợp phải có “giáo viên tích hợp” đúng nghĩa,
theo đó việc cần làm ngay là nghiên cứu tích hợp cái gì và tích hợp như
thế nào, tiếp đó là đào tạo mới đội ngũ giáo viên tích hợp đúng nghĩa.
Nhiều đại học hiện nay đã tích hợp (ghép) hai ngành Toán và Tin học
qua việc thành lập các khoa Toán-Tin hoặc Toán-Tin ứng dụng, vậy tại sao
trong chương trình giáo dục tổng thể lại để Toán riêng còn Tin học thì
tích hợp với môn Công nghệ?
Điều nguy hiểm của bệnh chủ quan, duy ý chí trong giáo dục có nguồn
gốc xa xưa, ấy là bất kỳ ai cũng có thể làm giáo viên, nói cách khác,
giáo viên phổ thông không cần thiết phải chọn trong những học sinh xuất
sắc. Hậu quả là mấy chục năm qua giáo dục vẫn chưa thoát khỏi lời nguyền
“chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”.
Khi “ý chí” cho rằng chỉ cần “một tấm lòng” thì ai cũng có thể đào
tạo thành giáo viên, khi “ý chí” trở thành luật bất thành văn cũng là
lúc hàng vạn người sau bốn năm học Sư phạm, chỉ với cuốn sách giáo khoa
và viên phấn trong tay họ đương nhiên được quyền đứng trên bục giảng,
đương nhiên trở thành thành viên của gia đình giáo chức.
Nếu không phải là duy ý chí, xem tư duy con người như một thế giới
phẳng, ai cũng thông minh như ai thì chắc chắn sẽ không có chuyện để
ngành Sư phạm phải “vơ bèo, vợt tép” suốt mấy chục năm dài.
Một trong những chủ trương rất xa rời thực tế của ngành Giáo dục là
yêu cầu giáo viên viết sáng kiến, kinh nghiệm. Bài viết “Những sáng kiến
giống từng xentimét” trên Vietnamnet.vn ngày 5/10/2015 có đoạn: “Năm
nào cũng viết rồi cũng nộp, sáng kiến kinh nghiệm của một huyện thị có
khi lên đến hàng nghìn cái vài năm nhưng chẳng có bao giờ đem được cái
sáng kiến nào ra áp dụng vào giảng dạy”.
Quy mô đào tạo, quy hoạch mạng lưới giáo dục đại học là một minh
chứng cho sự chủ quan xa rời thực tế. Con số gần 180.000 cử nhân, thạc
sĩ thất nghiệp cho thấy chủ trương mở rộng tuyển sinh không phù hợp với
nhu cầu xã hội.
Hàng loạt trường ĐH ngoài công lập và nhiều trường đào tạo nghề
tuyển sinh không được là chính là “chỉ số” đánh giá chất lượng công tác
quy hoạch mạng lưới giáo dục đại học trong thời gian qua. Tài liệu trích dẫn: [1] http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/121955/-hoa-thom--moi-bo--nganh-huong-mot-ty-.html
[2] http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/132557/co-nguoi-bao-nganh-giao-duc-rat--dai-.html
[3] http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/138604/hoc-de-lam------ong-no--ba-kia--.html
[4]http://tuanvietnam.net/2013-04-17-lich-su-va-tro-boc-tham-may-rui
[5]http://giaoduc.net.vn/Goc-nhin/Lich-su-va-nghich-ly-trai-tim-ben-trai-post140973.gd
[6] http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Tu-chu-tuyen-sinh-truong-lua-bo-ngo-thi-sinh-dung-nhe-da-post142000.gd
[7] http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/69856/lam--sach--cac-truong-mang-ten-bac-tien-hien.html
[8] http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Lieu-co-ton-tai-tieu-chuan-kep-trong-cong-tac-quan-ly-cua-Bo-GDDT-post148255.gd
[9] http://www.thanhnien.com.vn/giao-duc/thua-hang-chuc-ngan-giao-vien-522946.html
TS. Dương Xuân Thành
Thực trạng giáo dục Việt Nam, góc nhìn của nhà giáo- Bài 2
LTS: Viết tiếp bài 1 về “Thực trạng giáo dục Việt Nam, góc nhìn của nhà giáo”
để góp ý cho Dự thảo Văn kiện Đại học đại biểu toàn quốc sắp tới, TS.
Dương Xuân Thành tiếp tục nêu thực trạng của nền giáo dục hiện nay là
“thiếu định hướng”. Câu chuyện này có nhiều nguyên và được TS. Thành nêu
lên ở từng khía cạnh khác nhau. Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Về phía ban hành chính sách, nếu định hướng giáo dục là đào tạo con
người Việt Nam mới theo ba tiêu chí: thể chất, trí tuệ và nhân cách thì
đó là một định hướng khoa học, phù hợp với mọi lứa tuổi và mọi điều
kiện xã hội.
Về điều này giáo dục của chúng ta chưa làm được, hai trong ba tiêu
chí là “thể chất và nhân cách” có chiều hướng sa sút đáng báo động.
Tác giả chân thành cảm ơn TS. Đặng Văn Định, Trưởng
ban Ban nghiên cứu và phân tích chính sách, Hiệp hội các trường Đại học,
Cao đẳng Việt Nam đã góp nhiều ý kiến quý báu cho bài viết.
Trong khi đó có những “định hướng” sai lầm lại mặc nhiên được công nhận:
định hướng là kết quả thi tốt nghiệp phải đỗ bao nhiêu phần trăm; định
hướng là phải có bao nhiêu trường đại học, cao đẳng; định hướng là phải
có bao nhiều giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ… Tất cả những “định hướng” ấy
đều đã được thể hiện bằng những con số.
Một kỳ thi “hai không” làm giảm tỷ lệ đỗ là không được, là phải điều
chỉnh để tỷ lệ đỗ kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trên 90%. Một đất nước 90
triệu dân phải có bao nhiêu giáo sư, tiến sĩ cho “xứng tầm” khu vực, một
tỷ lệ định hướng 400-450 sinh viên trên một vạn dân đã bắt buộc giáo
dục phải ồ ạt mở thêm trường đại học, … hậu quả là đất nước quá dư thừa
tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư nhưng lại có rất ít phát minh, sáng tạo
khoa học.
Dự thảo Báo cáo đề cập đến “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa”; nền “dân chủ xã hội chủ nghĩa”, vậy chúng ta có “nền giáo
dục định hướng xã hội chủ nghĩa” hay không, nếu có thì định hướng “xã
hội chủ nghĩa” trong giáo dục được thể hiện qua các tiêu chí nào, nó
khác với khái niệm “giáo dục” mà thế giới đang quan niệm ở chỗ nào?
Ảnh minh họa. Xuân Trung
Trả lời câu hỏi này rất cần thiết bởi nếu không có sự khác nhau thì
chúng ta có thể học tập, thậm chí là vận dụng nguyên mẫu các mô hình
tiên tiến của các các nước có những điểm tương đồng về văn hóa, xã hội
với chúng ta. Nếu có sự khác nhau thì phải chỉ rõ khác nhau ở chỗ nào,
đâu là ưu việt của sự khác nhau đó.
Định hướng một nền giáo dục công bằng, bảo đảm cho mọi công dân đều
có quyền tiếp cận giáo dục là đúng nhưng có nguy cơ đưa đến những quan
điểm cực đoan, chẳng hạn quan điểm phản đối trường chuyên, lớp chọn.
Trí tuệ của mỗi cá nhân trong cộng đồng không bao giờ là đồng đều,
những cá nhân có sự thông minh xuất chúng hơn hẳn đồng loại cần được
chăm sóc đặc biệt để tạo nên nguyên khí quốc gia.
Đối với nhóm thụ hưởng chính sách, nhóm này bao gồm cha mẹ học sinh, học
sinh và sinh viên các cấp. Có thể thấy ngay định hướng mang tính phổ
biến là học tập để vào được đại học, để không phải trở thành người lao
động chân tay.
Đây là một định hướng nguy hiểm khiến xã hội rơi vào trạng thái
khinh rẻ lao động đơn giản. Dường như sẽ là “mất sĩ diện” khi cầm tấm
bằng cử nhân, kỹ sư mà lại đi làm công nhân, nhân viên phục vụ,…
Về điều này người viết đã từng đề cập trong bài “Học để làm… ông nọ
bà kia” [3]: “Phải thừa nhận rằng nội dung học trong suốt 12 năm phổ
thông, nhất là ba năm cuối luôn nhằm một mục đích là giúp cho học sinh
thi đỗ ĐH”.
Chính bởi định hướng học để làm “ông nọ bà kia” mà thành tích "nổi
bật" của GD Việt Nam thời gian qua là đã đào tạo được một đội ngũ “trí
thức làm quan” chiếm tới 70%, chỉ có 30% làm việc trong lĩnh vực giáo
dục, khoa học.
Tình trạng chạy nháo nhác nộp hồ sơ xét tuyển nguyện vọng trong kỳ
tuyển sinh cao đẳng đại học năm 2015 cho thấy, mục đích vào được đại học
chiếm ưu thế so với mục đích học được ngành gì. Hậu quả là dù có thể
chọn ngành yêu thích tại các trường địa phương thì thí sinh vẫn bỏ qua
mà chọn ngành khác thuộc các đại học ở thành phố lớn.
Xóa bỏ định hướng sai lầm của nhóm thụ hưởng chính sách là việc không
dễ nhưng không thể không làm, cần phải định hướng lại cho toàn xã hội,
rằng vào học đại học không phải là con đường duy nhất, thậm chí không
phải là lựa chọn thông minh với những người chậm tiếp thu hoặc có vấn đề
về trí tuệ.
Định hướng cần thiết hiện nay, trước hết đối với cha mẹ học sinh, rồi
đến lớp trẻ là cần một nghề để nuôi sống bản thân và gia đình chứ không
phải cầm tấm bằng cử nhân nhưng không nơi nào tuyển dụng.
Để làm được việc này cần nhanh chóng xóa bỏ rào cản bằng cấp trong
tuyển dụng cán bộ, cần thực hiện chính sách thi tuyển công khai, công
bằng cho các vị trí trong bộ máy từ cấp xã phường đến trung ương, trong
các cơ sở giáo dục, kinh tế, khoa học kể cả các tổ chức đoàn thể xã hội.
Chủ trương xã hội hóa giáo dục
Dự thảo Báo cáo viết: “Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo
dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố
hóa trường, lớp học; từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất - kỹ thuật,
đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin…”.
Xã hội hóa giáo dục phải được quan tâm đồng bộ trong cả hai lĩnh vực:
phổ thông và đại học. Thời gian qua, các trường phổ thông ngoài công
lập đã góp phần rất quan trọng trong việc giải tỏa áp lực cho trường
công lập.
Tuy nhiên, ngoại trừ một số ít trường đã khẳng định được thương hiệu,
không ít trường phổ thông ngoài công lập chưa đạt yêu cầu cả về chất
lượng giáo dục văn hóa, cũng như quản lý học sinh. Vấn đề này xin không
đề cập trong phạm vi bài viết.
Xã hội hóa giáo dục đại học là chủ trương lớn, đã trải qua chặng
đường hơn 20 năm kể từ khi ĐH Thăng Long được thành lập. Đáp ứng nhu cầu
học tập của người dân là điều không cần tranh luận nhất là khi dân số
tăng khá nhanh, năm 1990 dân số nước ta khoảng 65 triệu người và mới có
một ĐH ngoài công lập.
Năm 2015 dân số cả nước khoảng 90 triệu người, số trường CĐ, ĐH ngoài công lập vào khoảng 100 trường.
Vào những năm đầu của thế kỷ 21, cứ 10 thí sinh thi đại học thì chỉ
có 1 người đỗ, đến năm 2014 con số gần đúng là hai người thi một người
đỗ (số thí sinh là 1.371.666, chỉ tiêu tuyển chọn là 640.000).
Không thể khẳng định chất lượng giáo dục phổ thông được nâng cao đột
biến khiến nhà nước phải mở rộng quy mô đào tạo đại học đến mức cứ hai
người thi một người đỗ. Cũng không thể khẳng định quy mô phát triển kinh
tế đòi hỏi phải có đội ngũ cử nhân kỹ sư đông đảo như quy mô đào tạo
hiện nay.
Sự bùng nổ số trường CĐ, ĐH trong đó có các trường ngoài công lập cho
thấy chủ trương xã hội hóa giáo dục đại học một mặt mang lại những lợi
ích cho xã hội nhưng mặt khác lại trở thành mảnh đất màu mỡ cho những
người kinh doanh giáo dục.
Cơ sở vật chất nghèo nàn, đội ngũ giảng viên èo uột là nét đặc trưng
của khá nhiều trường CĐ, ĐH ngoài công lập. Tình trạng này cũng không
khá hơn ở các trường ĐH công lập được nâng cấp từ trung cấp lên đại học
chỉ trong vài năm.
Có ĐH ngoài công lập hiện nay thực chất chỉ là cơ sở buôn bán văn
bằng hợp pháp khi đội ngũ giảng viên cơ hữu chưa đến 15 người, khi lãnh
đạo trường lại là những người mạo nhận văn bằng, học vị.
Điều đáng nói là do luật không hạn chế nên không ít trường hợp, người
mới học lớp 12 lại nghiễm nhiên trở thành lãnh đạo trường đại học trong
vai trò Chủ tịch hoặc thành viên Hội đồng quản trị.
Một tồn tại trong chủ trương xã hội hóa là sự không đồng bộ giữa
chính sách, luật pháp và tiến trình thực hiện. Bên cạnh việc chậm ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật thì cũng tồn tại sự vênh nhau giữa
luật và các văn bản dưới luật tạo kẽ hở cho sự lợi dụng.
Có thể thấy rất rõ điều này qua cuộc “cãi vã” ở ĐH Hoa Sen xung
quanh chủ trương đại học vì mục đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, hay ĐH
có phải là doanh nghiệp?...
Việc quy hoạch lại mạng lưới các trường CĐ, ĐH hiện nay là việc bức
thiết cần phải được tiến hành dưới sự chỉ đạo của Chính phủ. Có ý kiến
cho rằng cứ để thị trường quyết định, chất lượng đào tạo kém, không
tuyển được sinh viên sẽ khiến các trường tự giải thể…
Vấn đề là khi nào người ta sẽ “tự giải thể” và chờ đến lúc đó đất
nước sẽ có bao nhiêu cử nhân, kỹ sư không đạt chuẩn ra trường? Không
phải chỉ là việc đầu tư tốn kém của người dân cho con em mình mà còn là
hệ lụy cho toàn xã hội khi có nhiều cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ bằng thật
mà chất lượng giả, khi có hàng trăm nghìn người tốt nghiệp đại học thất
nghiệp.
Việc quy hoạch lại mạng lưới các trường CĐ, ĐH nên tiến hành theo hai
hướng: giải thể, sáp nhập các trường yếu kém và giảm quy mô đào tạo đại
học. Đây cũng là biện pháp tránh cho nhà nước phải cưỡng bức giải thể
các trường không còn khả năng tồn tại.
Dường như chủ trương xã hội hóa giáo dục đã có một bước lùi khi năm
2007 đề ra mục tiêu là đến năm 2020 sẽ có khoảng 30-40% sinh viên theo
học các trường CĐ, ĐH ngoài công lập, năm 2013 tiêu chí này đã bị loại
bỏ.
Xã hội hóa giáo dục nên quan tâm đến hướng cổ phần hóa một số trường
công lập, vừa giảm gánh nặng ngân sách vừa tạo điều kiện tái cấu trúc hệ
thống giáo dục đại học, hoạt động này cần được tiến hành song song với
tiến trình tự chủ đại học. Tài liệu trích dẫn:
LTS: Với góp ý thẳng thắn của tác giả, loạt bài “Thực trạng giáo dục Việt Nam, góc nhìn của nhà giáo” nhận được nhiều ý kiến phản hồi tích cực từ độc giả trong và ngoài nước. Trong bài thứ 3 này, TS. Dương Xuân Thànhchủ yếu nêu
lên năng lực của cán bộ quản lí giáo dục với mong muốn ngành giáo dục
có thể lựa chọn được những người tài để điều hành ngành luôn được coi
trọng là “Quốc sách hàng đầu”.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả bài viết này.
Phân mảnh quản lý – định hướng ngược ở tầm vĩ mô
Nói đến công tác quản lý giáo dục người ta thường nghĩ ngay đến Bộ GD&ĐT, điều này chỉ đúng một phần.
Như đã nêu trong mục 1, tâm lý tiểu nông đã khiến mảng giáo dục đại
học bị phân chia thành những “mảnh đất 5% phần trăm” của các bộ, ngành,
địa phương, thậm chí các tổ chức đoàn thể xã hội (Phụ nữ, Thanh niên,
Công đoàn…) cũng có trường đại học của riêng mình.
Xu hướng cát cứ này đang có chiều hướng gia tăng khi gần đây Học viện
Nông Nghiệp Việt Nam được chuyển giao về Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn quản lý.
Nền Giáo dục nước nhà bị chi phối bởi nhiều đạo luật: Luật Giáo dục,
Luật Giáo dục Đại học, Luật Giáo dục Nghề nghiệp, chưa kể vô số văn bản
dưới luật. Vì Luật Giáo dục Đại học, Luật Giáo dục Nghề nghiệp đều do
Quốc hội ban hành nên không thể xem đó là “luật con” của Luật Giáo dục.
Luật giáo dục 2005 có 120 điều, Luật Giáo dục Đại học 2012 có 72 điều,
Luật Giáo dục Nghề nghiệp 2014 có 79 điều. Cả ba luật này có 271 điều
trong khi dự thảo Bộ Luật Dân sự sửa đổi có 712 điều, Luật Hình sự có
344 điều, Luật Tố tụng Hình sự có 346 điều,…
Ghép cả ba luật liên quan đến giáo dục đào tạo thành một luật giáo
dục duy nhất chắc chắn sẽ loại bỏ được sự chồng chéo, bất cập mà những
đơn vị soạn thảo đã đưa vào luật theo ý muốn chủ quan của mình.
Ảnh minh họa. Xuân Trung
Một cách cơ học, chắc chắn Luật Giáo dục tổng hợp sẽ không nhiều đến
271 điều. Không nên để quá trình làm luật bị chi phối bởi lợi ích của
bất kỳ “nhóm lợi ích nào”.
Vai trò và năng lực lãnh đạo cá nhân
Một trong những vấn đề bị người dân, truyền thông và các vị lãnh đạo cao
cấp phê phán nhiều là năng lực quản lý, điều hành của cán bộ, chuyên
viên cơ quan Bộ GD&ĐT. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã từng đề nghị “đổi
mới giáo dục trước hết phải đổi mới tại chính cơ quan Bộ GD&ĐT”.
Những vấn đề như dự án sách giáo khoa 34.000 tỷ, cộng điểm cho đối
tượng ưu tiên…tuy được dư luận mổ xẻ nhưng thực ra đó không phải là vấn
đề trọng yếu.
Hai điều mà người viết cho là thất bại của chỉ đạo điều hành giáo dục
mấy chục năm qua, đó là các “thí nghiệm” đổi mới giáo dục thể hiện qua
đổi mới cách viết chữ Việt và cách phát âm các vần tiếng Việt.
Tác giả chân thành cảm ơn TS. Đặng Văn Định, Trưởng
ban Ban nghiên cứu và phân tích chính sách, Hiệp hội các trường Đại học,
Cao đẳng Việt Nam đã góp nhiều ý kiến quý báu cho bài viết.
Cách viết chữ Việt theo kiểu chữ trong bản vẽ kỹ thuật đã bị lên án mạnh
mẽ, đã bị loại bỏ song không ai chịu trách nhiệm ngoại trừ những đối
tượng được “thí nghiệm” học cách viết này.
Cách phát âm các vần thì vẫn được tiếp tục “đổi mới”. Dù là cách đánh
vần từ những năm 50 của thế kỷ trước hay cách đánh vần trong sách Công
nghệ tiếng Việt hiện nay thì cuối cùng tất cả các từ tiếng Việt vẫn phát
âm như nhau.
Ngày xưa đọc là “a (a), bê (b) xê (c)”, ngày nay là “a (a), bờ (b),
cờ (c)”, dù có thay đổi cách phát âm thì người ta vẫn nói “xếp thứ tự
theo vần a, bê, xê” chứ không ai nói “xếp thứ tự theo vần a, bờ, cờ”.
Ngày xưa đánh vần “Bê ô bô sắc bố”, ngày nay là “bờ ô bô sắc bố”,
cuối cùng chẳng ai phát âm từ “bố” thành “ba” hay “mẹ”. Xin nhấn mạnh là
không có bất kỳ sự thay đổi nào trong cách phát âm các từ tiếng Việt,
vậy thì tại sao lại cần đổi mới?
Một điều đang được dư luận phản biện mạnh là quy định môn Lịch sử là
môn tự chọn trong Dự thảo chương trình giáo dục tổng thể. Đa số quan
điểm cho rằng đây là một chủ trương sai lầm của bộ phận soạn thảo đề
cương, mà trách nhiệm chính là lãnh đạo Bộ GD&ĐT.
Người viết đã nhiều lần phản đối quan điểm xem nhẹ môn Lịch sử qua
các bài viết: “Lịch sử và... trò bốc thăm may rủi” [4]; Lịch sử và
nghịch lý “trái tim bên trái” [5].
Tiếc rằng ý kiến của truyền thông , của các nhà sử học không lay động
được “quyết tâm” hạ thấp vai trò môn học Lịch sử của những người chịu
trách nhiệm hoạch định chính sách.
Tuy nhiên, có những vấn đề rất cần đổi mới thì Bộ GD&ĐT lại tỏ ra
thiếu kiên quyết như quá trình tự chủ đại học, tổ chức, sắp xếp lại
mạng lưới các trường CĐ, ĐH hay quá trình xây dựng các luật liên quan
đến giáo dục. Có phải “đổi mới” chỉ vì cần phải có cái gì đó để gọi là
“mới” chứ không phải cần “đúng”?
Trong khi Hiệp hội các trường CĐ, ĐH Việt Nam có khá nhiều ý kiến,
thậm chí là gay gắt về một số điều trong Luật Giáo dục Nghề nghiệp thì
dư luận rất ngạc nhiên khi Bộ GD&ĐT gần như không phát biểu công
khai, xem như không liên quan đến mình? Cơ chế xin cho và đạo đức cán bộ
Với chức năng quản lý nhà nước về giáo dục, có thể nêu rất nhiều dẫn
chứng khẳng định, rằng Bộ GD&ĐT đang buông lỏng quản lý, không dám
xử lý quyết liệt các sai phạm liên quan đến cán bộ, chuyên viên của Bộ
cũng như lãnh đạo các trường CĐ, ĐH.
Có biểu hiện bao che cho chuyên viên Bộ làm trái pháp luật trong công
tác thanh tra, xét duyệt tự chủ tuyển sinh, về điều này, người viết đã
đề cập trong một số bài báo [6], [7], [8],…
Bằng cơ chế xin-cho, bằng cách xử lý nương nhẹ các sai phạm, Bộ
GD&ĐT đang tạo điều kiện cho các trường công lập tuyển sinh vượt chỉ
tiêu, vượt quá khả năng đào tạo dẫn tới nhiều trường không còn thí sinh
để tuyển?
Bộ cũng đang làm ngơ để tình trạng thiếu thầy đang tràn lan ở khối
trường công lập, thậm chí ngay một số trường trọng điểm quốc gia chứ
không phải chỉ các trường ngoài công lập.
Chỉ cần xem bảng quyết toán tiền dạy ngoài giờ của giảng viên các
trường, chỉ cần xem tại các trường công lập sinh viên phải học và thi
vào buổi tối vì thiếu giảng đường là có thể đánh giá thực trạng, tại sao
Bộ không làm?
Không ít chủ trương của Bộ GD&ĐT thực hiện theo kiểu đánh trống
bỏ dùi, điều này có thể thấy rõ qua chủ trương “3 công khai”. Trong việc
công khai đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, nhiều
trường công lập đưa giáo viên thỉnh giảng vào danh sách giảng viên để
xác định chỉ tiêu tuyển sinh.
Trong bài “Có người bảo ngành giáo dục rất ‘dại’" đăng ngày 25/7/2013
trên Vietnamnet.vn [2] người viết đã nêu một vài số liệu dẫn chứng, ví
dụ ĐH Công nghiệp Hà Nội tuyển gấp đôi chỉ tiêu; ĐH Công nghiệp TP Hồ
Chí Minh tuyển vượt chỉ tiêu 34.042 người; ĐH Kinh Tế TP Hồ Chí Minh
tuyển vượt chỉ tiêu 13.393 người…
Kỳ tuyển sinh CĐ, ĐH năm 2015 tình trạng “vét” thí sinh vẫn không
thay đổi, liệu Bộ GD&ĐT có thể khẳng định các trường CĐ, ĐH đã thực
hiện đúng “3 công khai”? Phải chăng Bộ đang chờ để có lý do “xử phạt”
các trường vi phạm?
Có thể thấy Bộ GD&ĐT đang tận dụng tối đa cơ chế “xin-cho” qua
việc cho phép các trường CĐ, ĐH tuyển vượt dưới 15% chỉ tiêu đã đăng ký
trong khi chẳng trường nào lại không đăng ký chỉ tiêu vượt khả năng thực
tế của mình. Năng lực dự báo
Có thể thấy đây là khâu yếu mang lại hậu quả tai hại nhất cho đất nước nói chung và ngành giáo dục nói riêng.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê [10] số lượng học sinh liên tục
giảm, năm 2001-2002 có gần 18 triệu, năm học 2013-2014 còn khoảng 14,8
triệu trong khi đó lượng giáo viên năm học 1995-1996 là 492.000 người
đến năm học 2013-2014 là 855.000 người. Số liệu thống kê của Bộ
GD&ĐT cho biết, đến thời điểm hiện nay, cả nước đang thừa khoảng
35.000 giáo viên bậc THCS và THPT.
Không thể dự báo nhu cầu nhân lực của nền kinh tế chưa hẳn là lỗi của
riêng ngành Giáo dục, tuy nhiên trong nội bộ ngành cũng không dự báo
được nhu cầu giáo viên thì đó chỉ có thể là sự yếu kém của đội ngũ
chuyên viên nghiên cứu.
Những dự báo của ngành tư vấn cho Chính phủ ban hành các văn bản dưới
luật về tỷ lệ sinh viên ngoài công lập, quy hoạch mạng lưới các trường
CĐ, ĐH… có thể xem là một thất bại.
Kỳ thi quốc gia và việc tổ chức tuyển sinh CĐ, ĐH năm 2015 cũng không
dự báo được những bất cập khiến cả xã hội lo lắng, khiến Bộ trưởng phải
nhận trách nhiệm…
Từ những phân tích trên đây, có thể thấy nguyên nhân của các nguyên
nhân nằm ở con người, ở đội ngũ lãnh đạo, chuyên viên ngành Giáo dục.
Không ít cán bộ có vấn đề cả về chuyên môn, nghiệp vụ lẫn tâm đức đang
khiến Giáo dục trở thành nỗi bức xúc của toàn xã hội.
Có thể vấn đề của ngành Giáo dục cũng là vấn đề của các ngành khác,
dù tồn tại “một bộ phận không nhỏ cán bộ thoái hóa, biến chất, cục bộ,
tham nhũng…” nhưng vẫn không biết “nằm ở đâu”. Tuy nhiên nếu Giáo dục
không biết tự làm trong sạch mình trước thì sẽ đi dạy ai, bảo ai?
Để kết thúc, người viết cho rằng sự thay đổi tư duy giáo dục ở thượng
tầng là rất quan trọng, nhưng nếu không thay đổi cách thức chỉ đạo,
điều hành, không thay đổi các cá nhân chịu trách nhiệm, khó mà có thể
đưa giáo dục thoát khỏi tình trạng tụt hậu. Tài liệu trích dẫn: [1] http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/121955/-hoa-thom--moi-bo--nganh-huong-mot-ty-.html
[2] http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/132557/co-nguoi-bao-nganh-giao-duc-rat--dai-.html
[3] http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/138604/hoc-de-lam------ong-no--ba-kia--.html
[4]http://tuanvietnam.net/2013-04-17-lich-su-va-tro-boc-tham-may-rui
[5]http://giaoduc.net.vn/Goc-nhin/Lich-su-va-nghich-ly-trai-tim-ben-trai-post140973.gd
[6] http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Tu-chu-tuyen-sinh-truong-lua-bo-ngo-thi-sinh-dung-nhe-da-post142000.gd
[7] http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/69856/lam--sach--cac-truong-mang-ten-bac-tien-hien.html
[8] http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Lieu-co-ton-tai-tieu-chuan-kep-trong-cong-tac-quan-ly-cua-Bo-GDDT-post148255.gd
[9] http://www.thanhnien.com.vn/giao-duc/thua-hang-chuc-ngan-giao-vien-522946.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét