Hiện
tượng cá chết ngoài biển lan ra mấy tỉnh liền là vấn đề rất nghiêm
trọng. Bộ Tài Nguyên và Môi trường họp khẩn, đồng thời cử đoàn công tác
vào khảo sát hết những vùng ven biển có hiện tượng cá chết từ hôm qua,
20/4/2016.
Thông tin hàng tấn cá chết dạt vào bờ biển
các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên – Huế được một
loạt báo đăng tải ngày hôm qua, 20/4. Các cơ chức năng đang vào cuộc để
tìm hiểu nguyên nhân. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cử đoàn công tác
tới hiện trường để điều tra nguyên nhân.
Cá chết dạt bờ biển 4 tỉnh miền Trung từ đầu tháng Tư. Ảnh: TTXVN
Hiện tượng cá chết dạt bờ từ đầu tháng 4/2016
Theo báo
Quảng Bình,
Chi cục khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản tỉnh cho biết từ ngày
10/4, tại bờ biển xã Quảng Đông (huyện Quảng Trạch) đã bắt đầu có hiện
tượng cá chết rải rác, sau đó tiếp tục lan rộng xuống phía Nam ở vùng
biển các xã Ngư Thuỷ (huyện Lệ Thuỷ).
Đặc biệt đến ngày 14/4 cá
chết hàng loạt dạt vào bờ biển, chủ yếu là các loài cá ven bờ sống ở
tầng đáy như: cá phèn, cá phèn đổng, cá đục, cá liệt, cá bò... Ngoài ra
cá nuôi trong lồng tại một số nhà hàng nổi trên khu vực sông Nhật Lệ
cũng có hiện tượng chết hàng loạt, xác định khoảng 1.000kg chủ yếu là cá
mú, cá hồng...
Ngư dân Nguyễn Thiến, 43 tuổi, ở xã Nhân Trạch,
huyện Bố Trạch có kinh nghiệm 20 năm đi biển cho biết mấy ngày gần đây,
khi đánh cá trên biển thì họ bắt gặp trường hợp cá chết bất thường.
Anh Phạm Minh Công, chủ nhà hàng Biển Đông (phường Hải Thành, TP. Đồng
Hới), cho biết, ngày 13/4, hơn 400kg cá mú, cá ông... trị giá hơn 100
triệu đồng của gia đình mới mua về để bán cho du khách bỗng nhiên chết
hàng loạt, không xác định được nguyên nhân.
Còn báo
Hà Tĩnh
đưa tin từ đầu tháng Tư, các hộ nuôi cá lồng đã hứng chịu thiệt hại khi
cá đột ngột chết không rõ nguyên nhân. Có hộ nuôi phản ánh cá hồng, cá
chẽm nuôi lồng bè vẫn ăn và vận động bình thường nhưngkhi thủy triều lên
đẩy nguồn nước biển vào thì cá bơi lờ đờ và sau đó chết hàng loạt.
Không chỉ cá nuôi mà nhiều loài cá tự nhiên ở khu vực sông Hải Khẩu cũng
bị lờ đờ, sau đó chết hàng loạt, trôi dạt khắp bờ sông.
Báo
Quảng trị cho
biết trong tuần qua, dọc các xã vùng biển bãi ngang trong tỉnh Quảng
Trị như Vĩnh Thái (Vĩnh Linh); Trung Giang, Gio Hải (Gio Linh); Triệu
Lăng (Triệu Phong)…đã xảy ra hiện tượng cá chết hàng loạt và trôi dạt
vào bờ. Hầu hết cá trôi vào bờ là loại cá sinh sống và kiếm ăn ở tầng
đáy (cá rạn) như cá trạng, cá bè, cá doái, cá sơn, cá khoang cổ... Khi
thấy cá chết trôi vào bờ, nhiều người dân địa phương đã nhặt được hàng
chục cân về làm thức ăn cho gia súc chứ không dám ăn vì sợ cá chết không
rõ nguyên nhân gì.
Tại
Thừa Thiên – Huế, báo địa
phương đưa tin từ khoảng đầu tháng Tư ghi nhận hiện tượng cá, tôm nuôi
lồng ven biển bị chết, thống kê bước đầu cho thấy xảy ra trên diện tích
khoảng vài chục ha. Tuy nhiên, đến ngày 17/4, người dân thị trấn Lăng Cô
và xã Lộc Vĩnh (Phú Lộc) chứng kiến tôm, cá chết trắng các cửa biển.
Theo người dân địa phương, ban đầu, ngày 15/4 chỉ có một số ít cá biển
chết trôi vào bờ, một số vẫn thoi thóp, một vài người dân đã đi nhặt
những con cá còn sống về ăn.
Tuy nhiên đến khoảng 5h sáng nay
(17/4), các loại cá to, nhỏ chết nổi trắng trên các cửa biển, cửa sông.,
trong đó có cả những loài sống dai như cá đuối, nhói, mật tầm… và một
vài cá thể ba ba cũng cùng chung số phận.
Đáng lo ngại vì cá ở tầng nước đáy cũng chết
Bộ TN&MT họp khẩn sáng ngày 20/4 về hiện tượng cá chết bất thường ở 4 tỉnh miền Trung. Ảnh: website Bộ TN&MT
Đến ngày 20/4, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã họp khẩn, đồng thời cử
đoàn công tác vào các tỉnh có cá chết dọc bờ biển để điều tra, xác minh
nguyên nhân hiện tượng cá chết hàng loạt.
Tại cuộc họp, Thứ
trưởng Võ Tuấn Nhân cho rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng cá
chết. Việc xác định nguyên nhân cá chết do ô nhiễm môi trường phải có cơ
sở, luận chứng khoa học rõ ràng và đây là trách nhiệm của các đơn vị
chức năng phải thực hiện và công bố sớm. Còn ông Hoàng Dương Tùng, Phó
Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường nói
"khi chưa có nguyên nhân cụ thể rất mong người dân không hoang mang ", và hứa
"sớm làm rõ nguyên nhân sự việc và thông tin để người dân được yên tâm".
Trước đó, ngày 15/4, Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường đích thân làm
trưởng đoàn kiểm tra về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở khu vực Vũng
Áng nằm trên địa bàn thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Trong công
văn ngày 11/4, Trung tâm Quan trắc môi trường và bệnh thủy sản miền Bắc
(Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản 1 - Bộ NN&PTNT) nhận định hiện
tượng cá nuôi lồng chết hàng loạt là do "yếu tố gây độc trong nước" tại
biển Vũng Áng được bắt từ nguồn nước thải chưa được xử lý nhưng đổ trực
tiếp ra sông, biển, hòa lẫn vào nước biển gây ô nhiễm nguồn nước, làm
cá bị ngộ độc, chết hàng loạt.
Sát vùng biển Vũng Áng có Nhà máy
nhiệt điện Vũng Áng 1 và Nhà máy sản xuất thép, Nhà máy nhiệt điện của
Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (thuộc dự án Formosa
Hà Tĩnh) đã đi vào hoạt động. Phóng viên báo
Hà Tĩnh phản ánh
"tại
Khu kinh tế Vũng Áng, quy trình đảm bảo vệ sinh môi trường vẫn chưa
được các đơn vị sản xuất chấp hành một cách nghiêm túc. Thậm chí, có cơ
sở sản xuất thải ra một số lượng lớn chất thải nguy hại nhưng không có
hệ thống thu gom xử lý chất thải nguy hại theo quy định của pháp luật".
Trả lời phóng viên báo
Dân Việt, ông Chu Xuân Phàm, Trưởng đại diện Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh nói:
"Hiện nay Formosa chưa xả thải, vì nhà máy chưa vận hành, ngày 25/6/2016 này mới khánh thành".
Ngày 16/4, Chi cục Thủy sản Thừa Thiên Huế cho biết, nguyên nhân hàng
chục lồng cá chết là do môi trường nước thay đổi đột ngột, độ PH trong
nước tăng cao so với mức bình thường.
Việc cá nuôi và cá sống
trong môi trường biển tự nhiên bị chết có phải do nước ô nhiễm hay không
sẽ được công bố trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo thông tin trên báo
Tuổi trẻ, các chuyên gia Viện Công nghệ môi trường cho biết
dựa trên những thông tin ban đầu về tình trạng cá chết không chỉ ở tầng
nước mặt mà cả ở tầng nước đáy là rất đáng lo ngại, nguy cơ ô nhiễm nước
biển có thể đang lan rộng theo các dòng hải lưu.
Thanh Xuân
Theo báo Quảng Trị, Quảng Trị, Hà Tĩnh, Thừa Thiên-Huế, Tuổi trẻ
Chi
cục Nuôi trồng thủy sản Hà Tĩnh cho biết, tình trạng cá chết hàng loạt
xuất hiện chủ yếu tại vùng bờ biển các xã Kỳ Lợi, Kỳ Hà, Kỳ Ninh (thị xã
Kỳ Anh).
Không chỉ thế, số lượng lớn cá đặc sản nuôi lồng (cá mú, cá hồng…) của người dân địa phương cũng “bỗng dưng” chết bất thường.
Tại Quảng Bình, người dân vùng biển đang hoang mang trước hiện tượng cá biển chết hàng loạt, trôi dạt vào bờ.
Trước
đó, từ ngày 10-14/4, người dân đã phát hiện ra tình trạng này ở các
vùng biển thuộc xã Quảng Đông (huyện Quảng Trạch) rồi lan dần xuống các
bờ biển thuộc huyện Bố Trạch, Lệ Thủy và cửa biển Nhật Lệ.
Cũng
giống như Hà Tĩnh, theo phản ánh của người dân địa phương ven biển Quảng
Bình, ngoài cá chết hàng loạt từ biển dạt vào. Cả tấn cá đặc sản nuôi
trong lồng cũng chung hoàn cảnh.
Ông
Hoàng Viết Thông, Chi cục phó Chi cục Khai thác & bảo vệ nguồn lợi
thủy sản Quảng Bình nói: "Cơ quan chức năng đã lấy mẫu nước biển và cá
biển chết để làm rõ tình trạng bất thường".
Tương tự, người dân
tại vùng ven biển Cửa Việt, Cửa Tùng (huyện Gio Linh và Vĩnh Linh, tỉnh
Quảng Trị) cũng vớt được hàng tấn cá trôi dạt vào bờ biển.
Một người dân tại thị trấn Cửa Tùng cho biết, hiện tượng này xảy ra từ đầu tháng 4, gần đây bỗng nhiên tăng vọt.
Lúc
đầu thấy cá chết nhỏ lẻ, họ vớt về ăn mà không nghĩ đến nguyên nhân.
Khi cá chết hàng loạt, bà con phải vớt về cho lợn hoặc bán ra chợ với
giá 2 nghìn đồng/kg. Trong khi đó, những loại cá này bình thường đánh
bắt được, ngư dân bán từ 150 - 200 nghìn đồng/kg.
Người
dân vùng ven biển Thừa Thiên - Huế cũng đang hoang mang. Ông Thảo (55
tuổi, trú thôn Bình An, xã Lộc Vĩnh, Phú Lộc) cho hay, hiện tượng cá
chết hàng loạt xảy ra cách đây đã 1 tuần. Ban đầu, chỉ có cá,
tôm, mực, cua biển chết rồi dạt vào bờ biển. Nhưng cách đây 3
ngày, khi mực nước thủy triều dâng tràn vào cửa sông thì các
loài cá nước lợ cũng bắt đầu chết theo.
Sở
NN&PTNT Quảng Bình hôm nay cho biết đã gửi công văn cho Bộ
NN&PTNT, Bộ KH-CN, Bộ TN-MT cùng lãnh đạo UBND tỉnh báo cáo về tình
trạng cá chết bất thường trôi dạt vào bờ biển.
“Từ
kết quả phân tích mẫu nước, mẫu cá chết, nguyên nhân bước đầu được xác
định là do nguồn nước bị ô nhiễm, có yếu tố gây độc. Hiện tượng cá chết
bất thường là do nước biển bị ô nhiễm ở khu công nghiệp Vũng Áng (Hà
Tĩnh), theo dòng hải lưu Bắc cực - Xích đạo, nguồn nước ô nhiễm ở Hà
Tĩnh bị đẩy về phía nam lan vào tận Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên -
Huế và các tỉnh phía Nam” - đại diện Sở NN&PTNT Quảng Bình cho
biết.
Tại Thừa Thiên - Huế, kết luận kiểm tra của Sở NN&PTNT
cho biết, nguyên nhân cá chết hàng loạt là do pH nước thay đổi đột ngột,
chất lượng phú dưỡng (PO4) tăng cao đột ngột khiến cá bị thiếu ô xy cục
bộ.
Trước
đó, đánh giá về tình trạng cá chết hàng loạt tại biển Vũng Áng (thị xã
Kỳ Anh) sau khi lấy mẫu xét nghiệm, Trung tâm quan trắc Môi trường và
bệnh thủy sản miền Bắc (thuộc Bộ NN&PTNT) cho rằng, hiện tượng cá
chết hàng loạt, trôi dạt vào bờ biển và do “nguồn nước bị nhiễm độc” chứ
không phải do vi khuẩn gây bệnh.
Kết luận cũng nêu rõ, “yếu tố
gây độc trong môi trường nước” tại vùng biển Vũng Áng bắt đầu từ nguồn
nước thải chưa được xử lý nhưng được đổ trực tiếp ra sông, biển, gây ô
nhiễm nguồn nước, làm cá bị ngộ độc chết.
Được biết tại Vũng Áng
(Hà Tĩnh) đang có rất nhiều nhà máy và bãi than hoạt động, như nhà máy
Nhiệt điện Vũng Áng 1, tổng kho xăng dầu Vũng Áng, tổng kho khí hoá lỏng
LPG, khu công nghiệp nặng Formosa.
Thông báo cho biết, sau sự việc cá nuôi lồng và cá tự nhiên chết
hàng loạt bất thường tại biển Vũng Áng, Trung tâm Quan trắc môi trường
và bệnh thủy sản miền Bắc đã phối hợp với các cơ quan chức năng của tỉnh
Hà Tĩnh và thị xã Kỳ Anh xuống hiện trường để kiểm tra, thu mẫu nước,
mẫu cá, tìm hiểu nguyên nhân.
Theo đó, quá trình phân tích yếu tố môi trường vùng nuôi cá lồng và
tác nhân gây bệnh cho thấy, các yếu tố môi trường thông thường và khí
độc do phân hủy hữu cơ; tác nhân vi sinh vật gây bệnh không phải là
nguyên nhân gây ra hiện tượng cá nuôi lồng chết hàng loạt ở thị xã Kỳ
Anh.
Từ kết quả nghiên cứu, phân tích chuyên môn, cơ quan chức năng nhận
định rằng “yếu tố gây độc trong nước” tại biển Vũng Áng được bắt từ
nguồn nước thải chưa được xử lý nhưng đổ trực tiếp ra sông, biển, hòa
lẫn vào nước biển gây ô nhiễm nguồn nước, làm cá bị ngộ độc, chết hàng
loạt.
Để khắc phục tình trạng này, Trung tâm đề nghị các cơ quan chức năng
liên quan kiểm tra, rà soát hệ thống xử lý nguồn nước thải của tất cả
các công ty, nhà máy chế biến, khu công nghiệp ở thị xã Kỳ Anh, vùng
biển Vũng Áng. Ngoài ra, thực hiện việc quan trắc thường xuyên chất
lượng nguồn nước tại đây (bao gồm cả các chất độc từ thuốc, hóa chất
nông nghiệp và chất thải công nghiệp), đặc biệt ở các nguồn nước phục vụ
cho việc nuôi trồng thủy sản.
đã phản ánh, ngày 6/4, hàng chục hộ dân
nuôi cá lồng, bè ở khu vực biển Vũng Áng và các xã lân cận là Kỳ Hà, Kỳ
Hải, Kỳ Ninh, Kỳ Lợi (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh) hết sức hoang mang trước
việc cá chết hàng loạt không còn con nào trong lồng bè. Ngoài ra cá tự
nhiên cũng bị chết rất nhiều, trôi dạt vào bờ.
Theo thống kê có 18 lồng bè và 2 hồ tôm của 14 hộ dân và một doanh
nghiệp bị chết sạch tôm cá; ước tính thiệt hại ban đầu lên đến gần 3 tỷ
đồng.
Lời giới thiệu: Tài liệu dưới đây được
dịch từ cuốn Đằng sau tấm màn tre – Trung Quốc, Việt Nam và Thế giới
ngoài châu Á (Behind the Bamboo Curtain – China, Vietnam, and the World
beyond Asia), do Priscilla Roberts biên tập, Trung tâm Woodrow Wilson và
Đại học Stanford xuất bản, 2006. Phần III chương 14 của cuốn sách có
tiêu đề “Lê Duẩn và sự đoạn tuyệt với Trung Quốc”. Phần này gồm bài giới
thiệu khá dài (14 trang, từ trang 453 đến 467) của Tiến sĩ Stein
Tønnesson và bản dịch tài liệu này ra tiếng Anh của Christopher E.
Goscha (20 trang, 467-486). Tiến sĩ Stein Tønnesson là học giả nghiên
cứu về thời kỳ Chiến tranh lạnh, trong đó có mối quan hệ giữa Việt Nam
với các cường quốc Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc trong giai đoạn này. Ông hiện
đang là Giám đốc Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế, Oslo, Na uy và cũng
là tác giả cuốnViệt Nam 1946: Chiến tranh đã bắt đầu ra sao, mà anh Vũ Tường đã giới thiệu trong bài điểm sách đăng trên talawas blog.
Christopher E. Goscha hiện đang giảng dạy môn Lịch sử tại American
University và Trường Quốc tế ở Paris. Ông là đồng Giám đốc Nhóm nghiên
cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris. Gần đây ông có
tác phẩm đã in “Mậu dịch vùng biên giới Việt Nam với Hoa Nam thời đầu
chiến tranh” (Asian Survey, 2000) và đã trình luận án về đề tài Bối cảnh
châu Á của cuộc chiến Pháp-Việt tại Trường Cao đẳng thực hành, thuộc
Viện Đại học Sorbonne.
Bài giới thiệu của Stein Tønnesson có khá nhiều nhận định sắc sảo và
chính xác. Rất tiếc là không đủ thời gian để dịch ra giới thiệu với các
bạn, nhưng các bạn có thể tham khảo bản tiếng Anh tại địa chỉ sau: http://www.wilsoncenter.org/topics/pubs/New_Ev_CWAsia.pdf (trang 273-288).
Lẽ ra tài liệu từ tiếng Việt, đã được dịch sang tiếng Anh, thế thì
còn dịch lại ra tiếng Việt làm gì. Vấn đề là ở chỗ, như Stein Tønnesson
đã nhận xét: “Cho đến giờ, rất ít tài liệu thuộc loại này được phía Việt
Nam cho phép các học giả tiếp cận.” Vậy thì trong khi chờ đợi tài liệu
được bạch hóa, ta dịch ra để cùng đọc, tuy không thể chính xác bằng bản
gốc, nhưng cũng có thể cung cấp cho ta một số thông tin nhất định. (...)
Stein Tønnesson cũng đã chỉ ra: “Chúng ta được biết, Lê Duẩn rất ít khi
tự mình chấp bút và tài liệu mang phong cách khẩu ngữ (khiến cho việc
dịch cực kỳ khó khăn). Rất có thể đây là bản thảo Lê Duẩn đọc cho thư ký
ghi, hoặc những đoạn chi tiết do một cán bộ cấp cao dự buổi nói chuyện
này ghi lại.”
Xin lưu ý:
– Dấu ngoặc vuông [ ] là của Christopher E. Goscha.
– Chúng tôi vẫn giữ nguyên những con số của ghi chú cho phù hợp với trong sách.
TBT Lê Duẩn
***
Đồng chí B nói về âm mưu chống Việt Nam của bè lũ phản động Trung Quốc
Nói chung, sau khi ta đã thắng Mỹ thì không còn tên đế quốc nào dám đánh
ta nữa. Chỉ có những kẻ nghĩ rằng, họ có thể đánh và dám đánh chúng ta,
là bọn phản động Trung Quốc. Nhưng nhân dân Trung Quốc hoàn toàn không
muốn như vậy. Tôi không rõ bọn phản động Trung Quốc này còn tồn tại bao
lâu nữa. Dẫu sao, chừng nào bọn chúng còn đó thì chúng sẽ tấn công ta
như chúng vừa làm gần đây [vào đầu năm 1979]. Nếu chiến tranh đến từ
phương Bắc thì các tỉnh [Bắc Trung bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ
trở thành căn cứ cho cả nước. Đó là những căn cứ vững chắc nhất, tốt
nhất và mạnh nhất không gì so sánh được. Vì nếu như vùng đồng bằng [Bắc
bộ] vẫn liên tục căng thẳng như vậy thì tình hình sẽ hết sức phức tạp.
Hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản. Nếu không có nhân dân Việt Nam
thì sẽ chẳng có ai dám đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam đang đánh Mỹ thì cả
thế giới còn lại sợ Mỹ…(25) Mặc dầu Trung Quốc đã giúp [Bắc] Triều Tiên,
nhưng đó chỉ vì mục đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ mà thôi. Sau khi
chiến tranh chấm dứt [ở Triều Tiên] và áp lực chuyển sang Việt Nam, ông
ta [có lẽ ám chỉ Chu Ân Lai như những đoạn tiếp theo sẽ gợi ý] nói rằng,
nếu như Việt Nam tiếp tục chiến đấu thì họ sẽ phải tự lo liệu lấy. Ông
ta sẽ không giúp nữa và đã gây sức ép buộc chúng ta phải ngừng đấu
tranh.
Khi ta ký Hiệp định Giơ ne vơ, chính Chu Ân Lai là người đã chia cắt
nước ta ra làm hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Bắc và
Nam như vậy, cũng chính ông ấy lại ép chúng ta không được đụng chạm gì
đến miền Nam. Họ cấm ta vùng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa được Mỹ
ủng hộ]. [Nhưng] họ đã không làm chúng ta sờn lòng. Khi tôi vẫn còn đang
ở trong Nam và đã chuẩn bị phát động chiến tranh du kích ngay sau khi
ký Hiệp định Giơ ne vơ, Mao Trạch Đông đã nói với Đảng ta rằng, chúng ta
cần ép các đồng chí Lào chuyển giao ngay hai tỉnh đã giải phóng cho
chính phủ Viên Chăn (26). Nếu không Mỹ sẽ tiêu diệt họ, một tình huống
hết sức nguy hiểm [theo quan điểm Trung Quốc]. Việt Nam lại phải làm
việc ngay lập tức với phía Mỹ [về vấn đề này]. Mao đã bắt ta phải làm
như vậy và chúng ta cũng đành phải làm như vậy (27).
Rồi sau khi hai tỉnh giải phóng của Lào đã được bàn giao cho Viên Chăn,
bọn phản động Lào ngay lập tức bắt Hoàng thân Su-pha-nu-vông. Phía các
đồng chí Lào có hai tiểu đoàn lúc ấy đang bị bao vây. Hơn nữa họ chưa
sẵn sàng chiến đấu. Sau đó một tiểu đoàn đã vượt thoát [khỏi vòng vây].
Khi đó tôi đưa ra ý kiến là phải chấp nhận cho các bạn Lào phát động
chiến tranh du kích. Tôi mời phía Trung Quốc đến để thảo luận việc này
với ta. Tôi nói: “Các đồng chí, nếu các anh tiếp tục gây sức ép với Lào
như thế thì lực lượng của họ sẽ tan rã hoàn toàn. Bây giờ họ phải được
phép tiến hành đánh du kích”.
Trương Văn Thiên (28), người trước kia đã từng là Tổng Bí thư [Đảng Cộng
sản Trung Quốc] và có bí danh là Lạc Phủ, đã trả lời: “Vâng, thưa các
đồng chí, điều các đồng chí nói là đúng. Chúng ta hãy cho phép Tiểu đoàn
Lào ấy được đánh du kích”.
Tôi hỏi Trương Văn Thiên ngay lập tức: “Các đồng chí, nếu các đồng chí
đã cho phép Lào tiến hành chiến tranh du kích, thì đâu có gì đáng sợ nếu
phát động chiến tranh du kích ở miền Nam Việt Nam. Điều gì đã làm cho
các đồng chí phải sợ hãi đến nỗi các đồng chí lại ngăn cản chúng tôi?”
Ông ấy [Trương Văn Thiên] trả lời: “Không có gì phải sợ cả!”
Đó là điều Trương Văn Thiên đã nói. Tuy nhiên Hà Vĩ, đại sứ Trung Quốc
tại Việt Nam khi ấy, [và] có mặt lúc đó cũng nghe thấy những điều vừa
nói.
Ông ta đã đánh điện về Trung Quốc [báo cáo những gì đã trao đổi giữa Lê
Duẩn và Trương Văn Thiên]. Mao trả lời ngay lập tức: “Việt Nam không thể
làm như vậy được [phát động chiến tranh du kích ở miền Nam]. Việt Nam
nhất định phải trường kỳ mai phục!” Chúng ta quá nghèo. Làm sao ta có
thể đánh Mỹ nếu như chúng ta không có Trung Quốc là hậu phương vững
chắc? [Do đó], chúng ta đành nghe theo họ, có phải không? (29)
Dẫu sao thì chúng ta vẫn không nhất trí. Ta bí mật tiến hành phát triển
lực lượng của ta. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém đi khắp các tỉnh
miền Nam, ta đã ra lệnh tổ chức lực lượng quần chúng để chống chế độ này
và giành lại chính quyền [từ tay chính phủ Diệm]. Chúng ta không cần để
ý đến họ [Trung Quốc]. Khi cuộc đồng khởi giành chính quyền đã bắt đầu,
chúng tôi sang Trung Quốc gặp Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu
Bình nói với tôi: “Các đồng chí, bây giờ sai lầm của các anh thành việc
đã rồi, các anh chỉ nên đánh ở mức độ trung đội trở xuống.” Đấy là một
kiểu ràng buộc mà họ muốn áp đặt lên ta.
Tôi nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! Tôi sẽ thực hiện như vậy. Tôi sẽ
chỉ đánh ở mức trung đội trở xuống”. Sau khi chúng ta đánh và Trung Quốc
nhận ra rằng chúng ta đã chiến đấu có hiệu quả, Mao đột ngột có đường
lối mới. Ông ta nói rằng trong khi Mỹ đánh nhau với ta, ông ấy sẽ mang
quân đội [Trung Quốc] vào giúp ta làm đường. Mục đích chính của ông ấy
là tìm hiểu tình hình Việt Nam để sau này có thể đánh ta và từ đó bành
trướng xuống Đông Nam Á. Không còn lý do nào khác. Chúng ta biết vậy
nhưng phải chấp nhận [việc đưa quân Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam].
Chuyện này thì cũng được. Họ quyết định đưa quân vào. Tôi chỉ yêu cầu là
họ đưa người không thôi, nhưng quân đội họ vào mang cả súng ống, đạn
dược. Tôi lại đành phải đồng ý.
Sau đó ông ấy [Mao Trạch Đông] bắt ta tiếp nhận hai vạn quân, đến để làm
đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam. Tôi từ chối. Họ vẫn liên tục yêu cầu nhưng
tôi không thay đổi ý kiến. Họ bắt tôi phải cho họ vào nhưng tôi không
chấp nhận. Họ tiếp tục gây áp lực nhưng tôi vẫn không đồng ý. Các đồng
chí, tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy được âm mưu lâu dài
của họ là muốn cướp nước ta, và âm mưu của họ xấu xa tới chừng nào.
Sau khi Mỹ đưa vài trăm ngàn quân vào miền Nam, chúng ta đã tiến hành
Tổng tiến công Mậu Thân 1968, buộc chúng phải xuống thang. Để đánh bại
đế quốc Mỹ ta phải biết cách kéo địch xuống thang dần dần. Đó là chiến
lược của ta. Chúng ta chiến đấu chống lại một kẻ địch lớn, có dân số hơn
hai trăm triệu người và họ từng thống trị thế giới. Nếu ta không thể
bắt họ xuống thang dần từng bước, thì ta sẽ lúng túng và không thể tiêu
diệt kẻ thù được. Ta phải đánh cho chúng tê liệt ý chí để buộc chúng đến
bàn đàm phán và không cho phép chúng đưa thêm quân vào.
Khi đã đến lúc họ muốn đàm phán với chúng ta, Hà Vĩ viết thư cho ta nói:
“Các anh không thể ngồi xuống đàm phán với Mỹ được. Các anh phải kéo
quân Mỹ vào miền Bắc mà đánh chúng”. Ông ta đã gây sức ép bằng cách đó,
khiến chúng ta hết sức bối rối. Đó hoàn toàn không phải là chuyện đơn
giản. Thật là mệt mỏi mỗi khi những tình huống tương tự [với Trung Quốc]
lại xảy ra.
Chúng ta đã quyết định rằng không thể làm theo cách đó được [về ý kiến
của Hà Vĩ không nên đàm phán với Mỹ]. Ta đã ngồi xuống ở Paris. Ta đã
kéo Mỹ xuống thang để đánh bại chúng. Trong khi đó Trung Quốc lại tuyên
bố [với Mỹ]: “Nếu người không đụng đến ta thì ta cũng không đụng đến
người. Muốn mang bao nhiêu quân vào Việt Nam, điều đó tùy theo các anh”.
Trung Quốc, theo ý của họ, đã làm như vậy và ép ta làm theo.
Họ đã tích cực đổi chác với Mỹ và dùng ta làm con bài để mặc cả như thế
đấy. Khi người Mỹ nhận ra rằng họ đã thua, ngay lập tức họ sử dụng Trung
Quốc để xúc tiến việc rút quân ở miền Nam sao cho thuận lợi. Nixon và
Kissinger đã đến Trung Quốc để thảo luận việc này.
Trước khi Nixon đến Trung Quốc, [mục tiêu chuyến đi này của ông ta] nhằm
giải quyết vấn đề Việt Nam theo chiều hướng có lợi cho Mỹ và giảm thiểu
đến tối đa sự thất bại của họ, đồng thời cho phép ông ta lôi kéo Trung
Quốc gần hơn về phía Mỹ, Chu Ân Lai đã đến gặp tôi. Châu nói với tôi:
“Vào lúc này, Nixon sắp đến gặp tôi, chủ yếu là để thảo luận vấn đề Việt
Nam, do đó tôi nhất định phải đến gặp đồng chí để bàn bạc.”
Tôi trả lời: “Thưa đồng chí, đồng chí có thể nói bất kỳ điều gì đồng chí
muốn, nhưng tôi vẫn không hiểu. Đồng chí là người Trung Quốc; tôi là
người Việt Nam. Việt Nam là đất nước của [chúng] tôi, hoàn toàn không
phải là của các đồng chí. Đồng chí không có quyền phát biểu [về công
việc của Việt Nam], và đồng chí không có quyền thảo luận [những chuyện
đó với Mỹ] (30). Hôm nay, thưa đồng chí, tôi nói riêng với đồng chí một
điều, mà thậm chí tôi chưa từng nói với Bộ Chính trị của chúng tôi, rằng
các đồng chí đã đặt ra một vấn đề nghiêm trọng và vì vậy tôi cần phải
nói:
Năm 1954, khi Việt Nam chiến thắng ở Điện Biên Phủ, tôi đang ở Hậu
Nghĩa. Bác Hồ đánh điện cho tôi, nói rằng tôi cần phải đi Nam để tổ chức
lại [các lực lượng ở đó] và nói chuyện với đồng bào miền Nam [về việc
này] (31). Tôi đi xe thổ mộ xuôi Nam. Dọc đường đồng bào đổ ra chào đón
tôi vì họ nghĩ chúng tôi đã chiến thắng. Thật đau lòng xiết bao! Nhìn
đồng bào miền Nam tôi đã khóc. Bởi vì sau đó Mỹ sẽ nhảy vào miền Nam và
tàn sát đồng bào tôi một cách dã man.
Vào tới nơi, tôi lập tức đánh điện cho bác Hồ yêu cầu được ở lại và
không tập kết ra Bắc, để có thể tiếp tục chiến đấu mười năm nữa hoặc lâu
hơn. [Tôi nói với Chu Ân Lai]: “Thưa đồng chí, đồng chí đã gây ra những
khó khăn cho chúng tôi như vậy đấy [muốn nói đến vai trò của ông ta
trong việc chia cắt Việt Nam tại hội nghị Giơ ne vơ năm 1954]. Đồng chí
có biết thế không?”
Chu Ân Lai đáp: “Tôi xin lỗi các đồng chí. Tôi đã sai. Tôi đã sai trong
chuyện này [ám chỉ việc chia cắt Việt Nam tại Giơ ne vơ] (32). Sau khi
Nixon đã đi thăm Trung Quốc, ông ta [Châu] lại sang Việt Nam một lần nữa
để hỏi tôi về một số vấn đề liên quan đến cuộc chiến đấu trong Nam.
Tuy nhiên tôi cũng nói ngay với Chu Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí.
Chẳng bao lâu nữa họ [Mỹ] sẽ tấn công chúng tôi mạnh hơn”. Tôi hoàn toàn
không sợ. Cả hai bên [Mỹ và Trung Quốc] đã thỏa thuận với nhau nhằm
đánh ta mạnh hơn. Ông ấy [Châu] đã không phản đối quan điểm này là không
có cơ sở, và chỉ nói rằng: “Tôi sẽ gửi thêm súng ống đạn dược cho các
đồng chí”. Rồi ông ta nói [về sự e ngại một âm mưu bí mật giữa Mỹ và
Trung Quốc]: “Không có chuyện đó đâu”. Dẫu sao họ cũng đã thảo luận đánh
ta mạnh hơn như thế nào, kể cả ném bom bằng B-52 và phong tỏa cảng Hải
Phòng. Vấn đề rõ ràng là như vậy.
Nếu Liên Xô và Trung Quốc không bất đồng với nhau thì Mỹ không thể đánh
chúng ta một cách tàn bạo như chúng đã làm. Chừng nào hai nước [Trung
Quốc và Liên Xô] còn xung đột thì người Mỹ sẽ không bị ngăn trở [vì sự
phản đối của khối Xã hội chủ nghĩa thống nhất]. Mặc dầu Việt Nam đã có
thể đoàn kết với cả hai nước Trung Quốc và Liên Xô, nhưng để làm việc
này là hết sức khó khăn vì lúc đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc rất
nhiều. Thời gian đó Trung Quốc hàng năm viện trợ cho ta nửa triệu tấn
lương thực, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa nói đến cả đô la
nữa. Liên Xô cũng giúp ta tương tự như vậy. Nếu chúng ta không làm được
điều đó [giữ gìn sự thống nhất và đoàn kết với họ] thì mọi chuyện có
thể hết sức nguy hiểm. Hàng năm tôi phải sang Trung Quốc hai lần để
trình bày với họ [ban lãnh đạo Trung Quốc] về các diễn biến ở trong Nam.
Còn với Liên Xô, tôi không cần phải nói gì cả [về tình hình miền Nam].
Tôi chỉ nói chung chung. Khi làm việc với phía Trung Quốc, tôi phải nói
rằng cả hai chúng ta đang cùng đánh Mỹ. Tôi đã đi (sang đấy) một mình.
Tôi phải tham dự vào những chuyện đó. Tôi phải sang Trung Quốc và bàn
bạc với họ nhiều lần như vậy với mục đích chính là thắt chặt quan hệ
song phương [Trung Quốc và Việt Nam]. Chính vào lúc đó Trung Quốc ép
chúng ta phải tách xa khỏi Liên Xô, cấm ta không được đi cùng với Liên
Xô nữa (33).
Họ làm rất căng thẳng chuyện này. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh
(34), đến nói với tôi: “Đồng chí, chúng tôi sẽ giúp các anh vài tỷ (Nhân
dân tệ) một năm. Các anh không được nhận gì từ Liên Xô nữa.”
Tôi không chấp nhận như vậy. Tôi nói: “Không, chúng tôi nhất định phải
đoàn kết và thống nhất với toàn phe Xã hội chủ nghĩa.” (35)
Năm 1963, khi Nikita Khơrútxốp có sai lầm, Trung Quốc lập tức ra Cương
lĩnh 25 điểm và mời Đảng ta đến và góp ý kiến. Anh Trường Chinh và tôi
cùng đi với một số anh em khác. Trong khi bàn bạc, họ [Trung Quốc] lắng
nghe ta chừng mười điểm gì đó, nhưng khi tới ý kiến “không xa rời phe Xã
hội chủ nghĩa” (37) thì họ không nghe nữa… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi
chịu trách nhiệm về văn bản của chính tôi. Tôi xin ý kiến các đồng chí
nhưng tôi không chấp nhận điểm này của các đồng chí.”
Trước khi đoàn ta về nước, Mao có tiếp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi
trò chuyện cùng chúng tôi và đến cuối câu chuyện ông ta tuyên bố: “Các
đồng chí, tôi muốn các đồng chí biết việc này. Tôi sẽ là Chủ tịch của
500 triệu bần nông và tôi sẽ mang một đạo quân đánh xuống Đông Nam Á.”
(38) Đặng Tiểu Bình cũng ngồi đó và nói thêm: “Đó chủ yếu là vì bần nông
của chúng tôi đang ở trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn!”
Khi chúng tôi đã ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Anh thấy đấy,
một âm mưu cướp nước ta và cả Đông Nam Á. Bây giờ chuyện đã minh bạch.”
Họ dám ngang nhiên tuyên bố như vậy. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Rõ
ràng là không một phút nào họ không nghĩ tới việc đánh Việt Nam!
Tôi sẽ nói thêm để các đồng chí có thể thấy rõ hơn tầm quan trọng quân sự của việc này. Mao hỏi tôi:
- Lào có bao nhiêu cây số vuông?
Tôi trả lời:
- Khoảng 200 nghìn [cây số vuông].
- Dân số của họ là bao nhiêu? [Mao hỏi]
- [Tôi đáp:] Gần ba triệu.
- [Mao nói:] Thế thì cũng không nhiều lắm! Tôi sẽ mang người của chúng tôi xuống đấy!
- [Mao hỏi:] Thái Lan thì có bao nhiêu cây số vuông?
- [Tôi trả lời:] Khoảng 500 nghìn.
- Và có bao nhiêu người? [Mao hỏi]
- Gần 40 triệu! [Tôi đáp]
- Trời ơi! [Mao nói], tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500 nghìn cây số
vuông mà có tới 90 triệu dân. Tôi sẽ lấy thêm một ít người của chúng tôi
đi xuống đấy nữa [Thái Lan]!
Đối với Việt Nam, họ không dám nói thẳng về việc di dân như vậy. Tuy
nhiên, ông ta [Mao] nói với tôi: “Các đồng chí, có thật người Việt Nam
đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên không?” Tôi nói: “Đúng.” “Thế có
thật là các anh cũng đánh bại cả quân Thanh nữa phải không?” Tôi đáp:
“Đúng.” Ông ta lại hỏi: “Và cả quân Minh nữa, đúng không?” Tôi trả lời:
“Đúng, và cả các ông nữa. Tôi sẽ đánh bại cả các ông. (39) Ông có biết
thế không?” Tôi đã nói với Mao như vậy đó. Ông ấy nói: “Đúng! Đúng!” Mao
muốn chiếm Lào, cả nước Thái Lan… cũng như muốn chiếm toàn vùng Đông
Nam Á. Mang người đến ở đó. Thật là phức tạp.
Trong những năm trước [về các vấn đề có thể nảy sinh từ mối đe dọa của
Trung Quốc trong những thời kỳ đó], chúng ta đã có sự chuẩn bị tích cực
chứ không phải chúng ta không chuẩn bị gì. Nếu chúng ta không chuẩn bị
thì tình hình vừa qua đã có thể rất nguy. Đó không phải là chuyện đơn
giản. Mười năm trước tôi đã có mời anh em bên quân đội đến gặp tôi. Tôi
nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ đang có mâu thuẫn với nhau. Còn Trung
Quốc, họ lại bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình hình căng thẳng như vậy
các anh phải lập tức nghiên cứu vấn đề này. Tôi sợ bên quân đội anh em
chưa hiểu nên tôi nói thêm rằng không có cách nào khác để hiểu vấn đề
này. Nhưng họ phát biểu rằng chuyện này rất khó hiểu. Đúng là không dễ
dàng chút nào. Nhưng tôi không thể nói cách khác được. Và tôi cũng không
cho phép ai căn vặn mình. (40)
Khi tôi đi Liên Xô, họ cũng rất cứng rắn với tôi về Trung Quốc. Liên Xô
đã triệu tập một hội nghị 80 đảng [Cộng sản] để ủng hộ Việt Nam, nhưng
Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [hội nghị] không chỉ nhằm giúp
đỡ Việt Nam mà còn dự định lên án Trung Quốc. Do đó Việt Nam đã không
đi. Phía Liên Xô hỏi: “Các anh đã từ bỏ chủ nghĩa quốc tế rồi hay sao?
Tại sao các anh lại làm như vậy?” Tôi đáp: “Tôi hoàn toàn không từ bỏ
chủ nghĩa quốc tế. Tôi chưa hề làm như vậy. Tuy nhiên, muốn là người
theo chủ nghĩa quốc tế thì trước hết phải đánh bại đế quốc Mỹ. Và nếu
người ta muốn đánh Mỹ thì phải thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc.
Nếu tôi đi dự hội nghị này thì Trung Quốc sẽ gây ra những khó khăn
nghiêm trọng cho chúng tôi. Xin các đồng chí hiểu cho.”
Ở Trung Quốc có rất nhiều ý kiến khác nhau và đang tranh cãi. Chu Ân Lai
đồng ý xây dựng cùng Liên Xô một mặt trận chống Mỹ. Một lần tôi đến
Liên Xô dự lễ Quốc khánh, tôi có được đọc một bức điện của Trung Quốc
gửi Liên Xô nói rằng “nếu Liên Xô bị tấn công thì Trung Quốc sẽ kề vai
sát cánh cùng Liên bang Xô viết.”(41) Đó là nhờ Hiệp ước hữu nghị Xô –
Trung được ký kết trước đây [tháng 2-1950]. Ngồi cạnh Chu Ân Lai tôi hỏi
ông ấy: “Trong bức điện mới đây gửi Liên Xô, các đồng chí đã đồng ý
cùng với Liên Xô thành lập một mặt trận, nhưng tại sao các đồng chí lại
không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu Ân Lai đáp: “Chúng tôi có
thể. Tôi đồng tình với quan điểm của đồng chí. Tôi sẽ thành lập một mặt
trận với các đồng chí [về Việt Nam]. Bành Chân (42) cũng đang ngồi đó,
nói thêm: “Ý kiến này cực kỳ đúng đắn!” Nhưng khi vấn đề được đưa ra
thảo luận ở Thượng Hải, Mao nói rằng không thể được và gạt bỏ ý kiến
này. Các đồng chí đã thấy vấn đề phức tạp ra sao.
Mặc dầu Chu Ân Lai có bảo lưu một số ý kiến, dẫu sao ông cũng đã đồng ý
thành lập một mặt trận và đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều. Chính nhờ ông
mà tôi hiểu [nhiều chuyện đang diễn ra ở Trung Quốc]. Nếu không thì có
thể rất nguy hiểm. Có lần ông ấy nói với tôi: “Tôi phải làm hết sức mình
để sống sót ở đây, dùng Lý Cường (43) để tích lũy và cung cấp viện trợ
cho các đồng chí.” Và thế đấy [ám chỉ Châu đã có thể dùng Lý Cường vào
việc giúp đỡ Việt Nam]. Tôi hiểu rằng nếu không có Chu Ân Lai thì không
thể có được sự viện trợ như vậy. Tôi thật biết ơn ông ta.
Tuy nhiên cũng không đúng, nếu nói rằng những người khác trong ban lãnh
đạo Trung Quốc có cùng quan điểm với Chu Ân Lai. Họ khác nhau trên nhiều
phương diện. Nhưng có thể nói rằng người kiên trì nhất, người có đầu óc
đại Hán và người muốn chiếm cả vùng Đông Nam Á, chính là Mao. Tất cả
mọi chính sách [của Trung Quốc] đều nằm trong tay Mao.
Cũng có thể nói như vậy về các nhà lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc.
Chúng ta không biết trong tương lai mọi chuyện sẽ ra sao, nhưng dẫu sao
[sự thực là] họ đã tấn công ta. Trước đây Đặng Tiểu Bình đã từng làm hai
việc mà giờ đây lại lật ngược hẳn lại. Đó là, khi ta thắng lợi ở miền
Nam, nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc không hài lòng. Tuy nhiên Đặng Tiểu
Bình cũng vẫn cứ chúc mừng ta. Kết quả là ông ta lập tức bị những người
khác coi là phần tử xét lại.
Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối cùng (44), tôi là trưởng đoàn, và tôi đã
gặp đoàn đại biểu Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình dẫn đầu. Khi nói tới vấn
đề lãnh thổ, gồm cả thảo luận về một số hòn đảo, tôi có nói: “Hai nước
chúng ta nằm cạnh nhau. Có một số khu vực trên lãnh thổ chúng tôi chưa
được phân định rõ ràng. Cả hai phía chúng ta cần phải thành lập một ủy
ban để xem xét vấn đề này. Thưa các đồng chí, xin hãy nhất trí với tôi
[về chuyện này]. Ông ấy [Đặng] đã đồng ý, nhưng vì vậy mà sau đó ông ta
lại bị các nhóm lãnh đạo khác chụp mũ xét lại tức thời.
Nhưng bây giờ thì ông ấy [Đặng] điên thật rồi. Bởi vì ông ta muốn tỏ ra
mình không phải là xét lại nên ông ta đã đánh Việt Nam mạnh hơn. Ông ta
đã bật đèn xanh cho họ tấn công Việt Nam.
Sau khi đánh bại đế quốc Mỹ, chúng ta vẫn giữ một đạo quân hơn một triệu
người. Một số lãnh đạo Liên Xô đã hỏi ta: “Các đồng chí còn định đánh
nhau với ai nữa mà lại vẫn duy trì một đội quân [thường trực] lớn như
vậy?” Tôi đáp: “Sau này các đồng chí sẽ hiểu.” Lý do duy nhất khiến
chúng ta giữ một đạo quân thường trực như vậy chính là vì Trung Quốc
[mối đe dọa của họ đối với Việt Nam]. Nếu như không có [sự đe dọa đó]
thì đội quân [thường trực lớn] này sẽ không còn cần thiết nữa. Đã bị tấn
công gần đây trên cả hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rõ rằng] sẽ
rất nguy hiểm nếu chúng ta không duy trì một đội quân lớn.
(B) [Ý nghĩa của chữ B này trong bản gốc không được rõ] – Từ cuối Đại
chiến thế giới thứ hai, tất cả đều cho rằng đế quốc Mỹ chính là tên sen
đầm quốc tế. Chúng có thể xâm chiếm và đe dọa các nước khác trên thế
giới. Mọi người, kể cả các cường quốc, đều sợ Mỹ. Duy chỉ có Việt Nam là
không sợ Mỹ mà thôi.
Tôi hiểu được điều này nhờ cuộc đời hoạt động của mình đã dạy tôi như
vậy. Người đầu tiên sợ [Mỹ] chính là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi,
cả Việt Nam và Lào, rằng: “Các anh phải lập tức chuyển giao ngay hai
tỉnh giải phóng của Lào cho chính quyền Viên Chăn. Nếu không thì Mỹ sẽ
lấy cớ để tấn công. Thế thì hết sức nguy hiểm.” Về phía Việt Nam, chúng
ta nói: “Chúng tôi sẽ đánh Mỹ để giải phóng miền Nam.” Ông ta [Mao] nói:
“Các anh không được làm như vậy. Miền Nam Việt Nam cần phải trường kỳ
mai phục, có thể một đời người, năm đến mười đời, thậm chí hai mươi đời
nữa. Các anh không thể đánh Mỹ. Đánh nhau với Mỹ là một việc nguy hiểm.”
Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến như vậy…
Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiến lên và chiến đấu. Nếu Việt Nam
không đánh Mỹ thì miền Nam sẽ không được giải phóng. Một nước chưa được
giải phóng thì vẫn cứ là một nước phụ thuộc. Không có nước nào được độc
lập nếu chỉ có một nửa nước được tự do. Đó là tình hình cho đến năm
1975, khi đất nước ta cuối cùng đã giành được hoàn toàn độc lập. Có độc
lập thì sẽ có tự do. Tự do phải là thứ tự do cho cả nước Việt Nam…
Ăng ghen đã từng nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó Liên Xô, rồi Trung
Quốc và cả ta nữa cũng nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước khác nhau
rất nhiều về nội dung [của chiến tranh nhân dân]. Sẽ là không đúng nếu
chỉ vì anh có hàng triệu người mà anh muốn làm gì thì làm. Trung Quốc
cũng nói về chiến tranh nhân dân nhưng [họ chủ trương] “địch tiến ta
lùi”. Nói cách khác, phòng ngự là chủ yếu, và chiến tranh chia làm ba
giai đoạn, lấy nông thôn bao vây thành thị, trong khi [chủ lực] vẫn lẩn
trốn trong vùng rừng núi… Trung Quốc đã thiên về phòng ngự và rất yếu
[trong Đại chiến Thế giới thứ hai]. Thậm chí, với 400 triệu dân chống
lại quân đội Nhật chỉ có khoảng 300 đến 400 ngàn người, Trung Quốc vẫn
không thể đánh bại Nhật. (45)
Tôi phải nhắc lại như vậy vì trước kia Trung Quốc đã gửi cố vấn sang ta
nên một số anh em [ta] không hiểu. Họ nghĩ rằng Trung Quốc rất là tài
giỏi. Nhưng họ cũng không tài giỏi lắm đâu, và vì thế ta cũng không làm
theo [sự cố vấn của Trung Quốc]. (46)
Năm 1952 tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc chữa bệnh. Đấy là lần đầu tiên
tôi ra nước ngoài. (47) Tôi đã đánh dấu hỏi về họ [Trung Quốc] và thấy
rất nhiều chuyện lạ. Những vùng [đã từng] bị quân Nhật chiếm đóng có dân
cư là 50 triệu người, nhưng không có thậm chí một người du kích…
Khi tôi từ Trung Quốc về, tôi gặp bác [Hồ]. Bác hỏi:
- Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài có phải không?
- Vâng, tôi ra nước ngoài lần đầu tiên.
- Chú thấy những gì?
- Tôi thấy hai chuyện: Việt Nam rất dũng cảm và họ [Trung Quốc] hoàn toàn không.
Tôi hiểu điều đó từ bấy giờ. Chúng ta [người Việt Nam] khác hẳn họ. Lòng
dũng cảm là đặc tính cố hữu trong từng con người Việt Nam, và do vậy
chúng ta chưa từng có chiến lược thiên về phòng ngự. Mỗi người dân là
một chiến sĩ.
Gần đây, họ [Trung Quốc] đem vài trăm ngàn quân xâm lấn nước ta. Trên
phần lớn mặt trận, ta mới sử dụng dân quân du kích và bộ đội địa phương
để đánh trả. Chúng ta không thiên về phòng ngự, và do vậy họ đã thất
bại. Họ không thể tiêu diệt gọn một trung đội nào của Việt Nam, còn ta
diệt gọn vài trung đoàn và vài chục tiểu đoàn của họ. Đạt được điều đó
vì ta có chiến lược nghiêng về tấn công.
Đế quốc Mỹ đã đánh nhau với ta trong một cuộc chiến dài lâu. Họ hết sức
mạnh mà vẫn thua. Nhưng ở đây có một yếu tố đặc biệt, đó là sự mâu thuẫn
gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì thế], họ đã đánh ta ác liệt như
vậy.
Việt Nam chống Mỹ và đánh chúng quyết liệt, nhưng chúng ta cũng biết
rằng Mỹ là một nước rất lớn, có khả năng huy động một đội quân mười
triệu người và dùng tất cả những vũ khí tối tân nhất để đánh ta. Vì vậy
chúng ta phải chiến đấu một thời gian dài để kéo chúng xuống thang.
Chúng ta là người có thể làm được như vậy; Trung Quốc thì không. Khi
quân Mỹ tấn công Quảng Trị, Bộ Chính trị đã ra lệnh đưa bộ đội vào ứng
chiến ngay lập tức. Chúng ta không sợ. Sau đó tôi có sang Trung Quốc để
gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Nó [cuộc chiến đấu ở Quảng Trị] có
lẽ là độc nhất vô nhị, chưa từng có. Đời người chỉ có một [cơ hội],
không hai. Không ai dám làm việc mà các đồng chí đã làm”.
… Chu Ân Lai đã từng là Tổng Tham mưu trưởng. Ông dám nói và ông cũng
thẳng thắn hơn. Ông nói với tôi: “Nếu tôi được biết trước cách đánh mà
các đồng chí đã sử dụng thì có lẽ chúng tôi không cần đến cuộc Trường
chinh.” Vạn lý Trường chinh để làm gì? Vào lúc bắt đầu cuộc Trường chinh
họ có một đội quân 300 nghìn người; và khi kết thúc họ chỉ còn lại có
30 nghìn. 270 nghìn đã bị tiêu hao. Đó quả thật là ngu ngốc nếu làm theo
cách ấy… [Tôi] nói như vậy để các đồng chí hiểu, chúng ta đã tiến xa
hơn bao nhiêu. Sắp tới, nếu ta lại phải chiến đấu chống Trung Quốc,
chúng ta nhất định thắng lợi… Dẫu sao, một sự thực là nếu như một nước
khác [không phải Việt Nam] phải đánh nhau với Trung Quốc, thì chưa chắc
họ có thể thắng như vậy [giống Việt Nam] được.
… Nếu Trung Quốc và Liên Xô nhất trí với nhau, thì cũng chưa chắc là Mỹ
sẽ dám đánh ta. Nếu như hai nước đoàn kết và cùng giúp ta, thì cũng chưa
chắc rằng Mỹ sẽ dám đánh ta theo cách như chúng đã làm. Họ có thể chùn
bước ngay từ đầu. Họ có thể bỏ cuộc như trong thời Tổng thống Kennedy.
Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô tất cả cùng giúp Lào và Mỹ tức thời ký
hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi quân sang Lào, họ chấp nhận cho Đảng
[Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia vào chính phủ ngay lập tức. Họ không
dám tấn công Lào nữa.
Sau đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] có mâu thuẫn với nhau, phía
Mỹ lại được [Trung Quốc] thông báo rằng họ có thể tiếp tục đánh Việt
Nam mà không sợ gì cả. Đừng sợ [Trung Quốc trả đũa]. Chu Ân Lai và Mao
Trạch Đông nói với Mỹ: “Nếu người không đụng đến ta thì ta sẽ không đụng
đến người. Các anh có thể đưa bao nhiêu quân vào miền Nam Việt Nam cũng
được. Điều đó tùy theo các anh.” (48)
… Chúng ta [hiện nay] tiếp giáp với một quốc gia lớn, một nước có những ý
đồ bành trướng, mà nếu được thực hiện thì sẽ bắt đầu với cuộc xâm lăng
Việt Nam. Như vậy, ta phải gánh vác một vai trò lịch sử nữa, khác trước.
Dẫu sao, chúng ta không bao giờ thoái thác nhiệm vụ lịch sử của mình.
Trước đây, Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình và lần này
Việt Nam quyết tâm không cho chúng bành trướng. Việt Nam bảo vệ nền độc
lập của chính mình và đồng thời cũng là bảo vệ nền độc lập của các nước
Đông Nam Á. Việt Nam quyết không để cho Trung Quốc thực hiện mưu đồ bành
trướng của họ. Cuộc chiến gần đây [với Trung Quốc] mới chỉ là một hiệp.
Hiện nay họ vẫn đang ráo riết chuẩn bị trên nhiều chiến trường. Dù sao
đi nữa, mặc họ chuẩn bị đến mức nào, Việt Nam cũng vẫn sẽ thắng…
Tiến hành chiến tranh không phải là một cuộc dạo chơi trong rừng. Dùng
một triệu quân để tiến hành chiến tranh chống nước khác kéo theo vô vàn
khó khăn. Chỉ mới đây thôi, họ đem 500 đến 600 ngàn quân đánh chúng ta,
mà họ không có đủ phương tiện vận tải để chuyên chở lương thực cho quân
đội họ. Trung Quốc hiện nay có một đội quân ba triệu rưỡi người, nhưng
họ phải để lại một nửa trên biên giới [Trung-Xô] nhằm phòng ngừa Liên
Xô. Vì lý do đó, nếu họ có mang một hoặc hai triệu quân sang đánh ta,
chúng ta cũng không hề sợ hãi gì cả. Chúng ta chỉ có 600 ngàn quân ứng
chiến và nếu sắp tới chúng ta phải đánh với hai triệu quân, thì cũng
không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ.
Chúng ta không sợ vì chúng ta đã biết cách chiến đấu. Nếu họ mang vào
một triệu quân thì họ cũng chỉ đặt được chân ở phía Bắc. Càng đi xuống
vùng trung du, vùng đồng bằng châu thổ, và vào Hà Nội hoặc thậm chí vào
sâu hơn nữa thì sẽ càng khó khăn. Các đồng chí, các đồng chí đã biết, bè
lũ Hitler đã tấn công ác liệt như thế nào, mà khi tiến đến Leningrad
chúng cũng không thể nào vào nổi. (Phải đối mặt) với những (làng mạc,)
thành phố, nhân dân và công tác phòng ngự, không ai có thể thực hiện một
cuộc tấn công hiệu quả chống lại từng người cư dân. Thậm chí có đánh
nhau hai, ba hoặc bốn năm chúng cũng không thể nào tiến vào được. Mỗi
làng xóm của chúng ta [trên biên giới phía Bắc] là như vậy. Chủ trương
của ta là: Mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường.
Chúng ta sẽ chiến đấu và chúng sẽ không thể nào xâm nhập được.
Tuy nhiên, sẽ không đầy đủ nếu chỉ nói đến đánh giặc ngoài tiền tuyến.
Ngưới ta cũng cần phải có một đội quân hậu tập trực tiếp, hùng mạnh. Sau
khi cuộc chiến vừa qua chấm dứt, chúng ta đã nhận định rằng, sắp tới,
ta cần đưa thêm vài triệu người lên (các tỉnh) mặt trận phía Bắc. Nếu
giặc đến từ phương Bắc, hậu phương trực tiếp của cả nước sẽ là Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… Hậu phương trực tiếp để bảo vệ Thủ đô phải là
Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Ta sẽ đánh bằng nhiều
cách… Ta có thể dùng hai hoặc ba quân đoàn giáng cho địch một đòn quyết
liệt khiến chúng choáng váng, trong khi tiếp tục bảo vệ lãnh thổ của ta.
Để làm được như vậy, mỗi người lính phải là một người lính thực sự, mỗi
tiểu đội phải là một tiểu đội thực sự.
Vừa trải qua một trận chiến, chúng ta không được chủ quan. Chủ quan
khinh địch là không đúng, nhưng thiếu tự tin thì cũng sai. Ta không chủ
quan khinh địch nhưng ta cũng đồng thời tin tưởng vững chắc vào thắng
lợi của chúng ta. Ta cần phải có cả hai yếu tố đó.
Trung Quốc hiện đang có âm mưu tấn công ta nhằm bành trướng xuống phía
Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay người ta không thể làm gì mà che đậy
giấu giếm được. Trung Quốc vừa mới gây hấn với Việt Nam có vài ngày, cả
thế giới đã đồng thanh hô lớn: “Không được đụng đến Việt Nam!” Thời nay
không còn giống như thời xưa nữa. Ngày xưa chỉ có ta (đối mặt) với họ
[Trung Quốc]. Ngày nay cả thế giới sát cánh chặt chẽ bên nhau. Nhân loại
hoàn toàn chưa bước vào giai đoạn Xã hội chủ nghĩa; thay vì thế bây giờ
lại là thời mà mọi người đều mong muốn độc lập và tự do. [Thậm chí]
trên những hòn đảo nhỏ, nhân dân ở đó cũng mong muốn độc lập tự do. Cả
loài người hiện nay là như vậy. Điều đó rất khác với thời xưa. Khi ấy
mọi người còn chưa biết rõ về những khái niệm này. Lời Bác Hồ: “Không có
gì quý hơn độc lập tự do!” là tư tưởng của thời đại ngày nay. Đụng đến
Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm đến độc lập tự do… Việt Nam
là quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do.
Khi bàn đánh Mỹ, anh em ta trong Bộ Chính trị đã cùng thảo luận chuyện
này để cân nhắc xem ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh.
Bộ Chính trị đã biểu thị quyết tâm của mình: Để đánh Mỹ chúng ta nhất
định phải không sợ Mỹ. Tất cả đã đồng lòng. Trong khi tất cả đều nhất
trí đánh Mỹ, để không sợ Mỹ chúng ta cũng phải không sợ Liên Xô. Mọi
người đều đồng ý. Chúng ta cũng cần không sợ Trung Quốc. Mọi người đều
tán thành. Nếu chúng ta không sợ ba cái (nước lớn) đó, ta có thể đánh
Mỹ. Đấy là chúng tôi đã làm việc như thế nào ở Bộ Chính trị trong thời
gian đó.
Mặc dầu Bộ Chính trị đã họp và thảo luận như vậy và mọi người đều nhất
trí đồng lòng, sau đó lại có người đã nói lại với một đồng chí những
điều tôi nói. Người đồng chí đó lại chất vấn Bộ Chính trị, hỏi rằng tại
sao anh Ba (49) lại nói rằng nếu chúng ta muốn đánh Mỹ thì chúng ta phải
không sợ cả Trung Quốc? Tại sao anh ấy lại đặt vấn đề như vậy? (50)
Lúc đó anh Nguyễn Chí Thanh, một người thường được cho rằng là có cảm
tình với Trung Quốc, đứng dậy nói: “Thưa các đồng chí trong Bộ Chính trị
và Bác Hồ kính mến, lời phát biểu của anh Ba là đúng. Cần phải nói như
vậy [về việc cần phải không sợ Trung Quốc], bởi vì họ [Trung Quốc] đã
gây khó khăn cho chúng ta trong nhiều vấn đề. Họ ngăn cản chúng ta ở
đây, rồi trói tay ta ở kia. Họ không cho ta đánh…” (51)
Trong khi ta đang chiến đấu trong Nam, Đặng Tiểu Bình đã quy định rằng
tôi chỉ nên đánh từ mức trung đội trở xuống, và không được đánh ở mức độ
lớn hơn. Ông ta [Đặng] nói: “Ở miền Nam, do các anh đã phạm sai lầm là
đã phát động cuộc chiến, các anh chỉ được đánh từ cấp trung đội trở
xuống, chứ không được đánh lớn hơn”. Đó là họ đã ép ta như thế nào.
Chúng ta không sợ ai cả. Ta không sợ bởi vì ta có chính nghĩa. Chúng ta
không sợ thậm chí các nước đàn anh. Ta cũng không sợ bạn bè ta. (52) Tất
nhiên, chúng ta không sợ quân thù. Ta đã đánh chúng. Chúng ta là những
con người; chúng ta không phải sợ bất kỳ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế
giới biết rằng ta độc lập.
Chúng ta phải có một quân đội mạnh, bởi vì nước ta đang bị đe dọa và bị
bắt nạt… Không thể nào khác được. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm vì ta
là một nước nghèo.
Ta có một đội quân mạnh, nhưng việc đó không làm chúng ta yếu đi chút
nào. Đối với ta Trung Quốc có một số chủ trương: Xâm lược và chiếm đóng
nước ta; làm ta suy yếu về kinh tế và làm cho đời sống của nhân dân ta
khó khăn hơn. Vì những lý do đó, để chống Trung Quốc chúng ta phải,
trước hết, không chỉ chiến đấu, mà còn phải tự làm cho mình mạnh lên. Để
đạt được điều đó, theo quan điểm của tôi, quân đội ta không thể là một
đội quân chỉ dựa vào nguồn cung cấp của nhà nước, mà còn phải là một đội
quân sản xuất giỏi. Khi giặc đến họ sẽ cầm chắc tay súng. Khi không có
giặc họ sẽ sản xuất mạnh mẽ. Họ sẽ là biểu tượng cao nhất và tốt nhất
trong sản xuất, sẽ làm ra nhiều (của cải vật chất) hơn bất cứ ai. Tất
nhiên, đấy không phải là chuyện mới lạ. (53)
Hiện nay, quân đội ta đang gánh vác một sứ mệnh lịch sử: bảo vệ độc lập
và tự do của đất nước, đồng thời bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn
thế giới. Nếu chính sách bành trướng của bè lũ phản cách mạng Trung Quốc
không thể thực hiện được thì đó chính là lợi ích của cả thế giới. Việt
Nam có thể làm được. Việt Nam đã có năm chục triệu người. Việt Nam có
Lào và Căm bốt là bạn và có địa thế hiểm trở. Việt Nam có cả phe (Xã hội
chủ nghĩa) ta và cả nhân loại đứng về phiá mình. Rõ ràng là chúng ta có
thể làm được việc đó.
… Các đồng chí có thấy ai ở trong Đảng ta, trong nhân dân ta mà hoài
nghi rằng ta sẽ thua Trung Quốc không? Không có ai, tất nhiên rồi. Nhưng
chúng ta phải duy trì những quan hệ thân hữu của mình. Chúng ta không
muốn sự hằn thù dân tộc. Tôi nhắc lại: Tôi nói như vậy vì không bao giờ
tôi mang lòng hận thù đối với Trung Quốc. Tôi không có thứ tình cảm như
vậy, dù chính họ là người đã đánh ta. Hôm nay tôi muốn các đồng chí biết
rằng trên đời này người đã từng bảo vệ Trung Quốc lại chính là tôi!
Đúng như vậy đó. Tại sao thế? Bởi vì trong hội nghị ở Bucharest tháng 6
năm 1960, sáu mươi đảng đã phản đối Trung Quốc nhưng chỉ có mình tôi là
người đã bênh vực Trung Quốc. (54) Nhân dân Việt Nam ta là như vậy. Tôi
sẽ tiếp tục nhắc lại rằng: Dù họ có đối xử tồi tệ đến đâu chăng nữa,
chúng ta biết rằng nhân dân Trung Quốc là bạn ta. Về phía chúng ta, ta
không mang những mặc cảm xấu xa đối với Trung Quốc. Còn về ý đồ của một
số lãnh đạo [Trung Quốc] thì là chuyện khác. Chúng ta nhắc tới họ chỉ
như một bè lũ mà thôi. Chúng ta không ám chỉ cả nước họ. Ta không nói
nhân dân Trung Quốc xấu với ta. Ta nói rằng chỉ có bè lũ phản cách mạng
Bắc Kinh là như thế. Tôi nhắc lại lần nữa ta phải tuân thủ nghiêm nhặt
như vậy.
Tóm lại, hãy giữ cho tình hình trong vòng kiểm soát chặt chẽ, sẵn sàng
chiến đấu và không bao giờ lơi là cảnh giác. Đối với Trung Quốc ta cũng
làm như vậy. Tôi tin chắc rằng trong vòng năm mươi năm nữa, hoặc thậm
chí có thể một trăm năm, chủ nghĩa xã hội sẽ thành công; và khi đó thì
ta sẽ không còn vấn đề gì nữa. Nhưng nó đòi hỏi thời gian. Bởi vậy chúng
ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện.
Bây giờ không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng 5 năm trước tôi biết chắc
rằng không có đồng chí nào lại nghĩ là Trung Quốc có thể đánh ta. Vậy mà
có đấy. Đó là trường hợp vì các đồng chí ấy không có hiểu biết đầy đủ
về vấn đề này. (55) Nhưng đó không phải là trường hợp xảy ra với chúng
ta [Lê Duẩn và ban lãnh đạo]. (56) Chúng ta biết rằng họ sẽ đánh ta
trong khoảng mười năm hoặc hơn. Do đó chúng ta không bị bất ngờ [vì cuộc
tấn công tháng giêng 1979 của Trung Quốc].
Ghi chú của Christopher E. Goscha: 24-56
24. Tài liệu này được dịch từ bản sao một số trích đoạn trong bản gốc.
Nó được chép lại từ bản gốc lưu trữ trong Thư viện Quân đội, Hà Nội.
Christopher E. Goscha, người dịch tài liệu này (ra tiếng Anh) đã được
phép hoàn toàn đầy đủ để làm việc đó. Văn bản là bài nói chuyện được cho
là của “đồng chí B”. Nó có thể do chính đồng chí B viết, nhưng có nhiều
khả năng hơn nó là bản đánh máy của một người nào đó dự buổi nói chuyện
của “đồng chí B” (một cán bộ cao cấp hoặc một thư ký đánh máy). Trong
văn bản, đồng chí B có đề cập rằng, trong những cuộc họp của Bộ Chính
trị ông ta được gọi là anh Ba. Đó là bí danh mà chúng ta được biết là
của Tổng Bí thư Lê Duẩn, đã dùng trong Đảng Lao động Việt Nam (từ 1976
là “Đảng Cộng sản Việt Nam”). Mặc dầu tài liệu không đề ngày tháng,
nhưng rõ ràng văn bản được viết trong năm 1979, sau cuộc tấn công Việt
Nam của Trung Quốc. Nó được củng cố thêm bằng một tài liệu khác mang
tính cáo buộc mạnh mẽ, xuất bản năm 1979 theo chỉ thị của Đảng Cộng sản
Việt Nam, trong đó đã liệt kê tuần tự sự phản bội của Trung Quốc và,
không hoàn toàn bất ngờ, cùng đề cập đến nhiều sự kiện mà Lê Duẩn đã kể
lại trong tài liệu này. Xem: Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam,
Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua (Hà
Nội: Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1979). Trong phần Ghi chú này có cho thêm số
trang trong bản tiếng Pháp của cùng văn kiện: Ministère des Affaires
Étrangères,
La vérité sur les relations vietnamo- chinoises durant les trente dernière années.
Dịch giả xin cám ơn Thomas Engelbert, Stein Tønnesson, Nguyen Hong
Thach, và hơn cả là một độc giả Việt Nam ẩn danh, đã sửa chữa và đóng
góp cho nhiều ý kiến quý báu. Dịch giả xin chịu trách nhiệm về những sai
sót trong bản dịch này.
25. Những dấu tỉnh lược (…) như vậy là nguyên văn trong bản gốc; những
dấu tỉnh lược và nhận xét của dịch giả được đặt trong dấu ngoặc vuông:
[…].
26. Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 đã cho Pathet Lao, đồng minh gần gũi
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một khu vực tập kết tạm thời ở hai tỉnh
(Bắc Lào) Phong xa lỳ và Sầm Nưa. Không có một nhượng địa tương tự cho
Khơ me It xa la, đồng minh của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
Pháp.
27. Cuốn sách
Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua cho biết cuộc hội đàm cấp cao về Lào diễn ra vào tháng 8 – 1961 (
La vérité sur les relations vietnamo- chinoises durant les trente dernière années, trang 34).
28. Trương Văn Thiên là một trong những thành viên của Đoàn đại biểu
Trung Quốc, người đã có mặt khi Lê Duẩn phát biểu những nhận xét này.
Ông còn là Thứ trưởng Ngoại giao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, là Ủy
viên lâu năm trong Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong những
năm 1950 ông ta là Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị giữ trách nhiệm về
liên lạc đối ngoại với các nước Xã hội chủ nghĩa.
29. Sách
Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua
đã miêu tả cuộc gặp gỡ như sau: “Trong một cuộc trao đổi ý kiến với
những người lãnh đạo Việt Nam, Ủy viên trung ương của Đảng Cộng sản
Trung Quốc, thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trương Văn Thiên cho rằng ở miền
Nam Việt Nam có thể tiến hành đánh du kích. Nhưng sau đó Đại sứ Trung
Quốc tại Hà Nội, theo chỉ thị của Bắc Kinh, đã thông báo với phía Việt
Nam rằng đó không phải là ý kiến của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
mà chỉ là ý kiến cá nhân.
The Truth…, trang 40. (
La vérité…, trang 31.)
30. Xem
Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, trang 60. (
La vérité…, trang 47.)
31. Lê Duẩn muốn nói đến nhiệm vụ giải thích việc tập kết cán bộ miền
Nam ra Bắc. Lê Duẩn cũng cố tình lảng tránh không đề cập đến việc Trung
Quốc đã giúp Việt Nam chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954.
32. Xem
Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua
trang 60, đoạn phía Việt Nam đã nói với Trung Quốc tháng 11-1972: “Việt
Nam là của chúng tôi; các đồng chí không được bàn với Mỹ về vấn đề Việt
Nam. Các đồng chí đã nhận sai lầm năm 1954 rồi, bây giờ không nên sai
lầm một lần nữa”. (
La vérité…, trang 47.)
33. Một trong những thư ký của Lê Duẩn, Trần Quỳnh, gần đây đã cho lưu
hành ở Việt Nam cuốn Hồi ức của ông ta, trong đó có nhiều chi tiết lý
thú về đường lối của Lê Duẩn đối với sự phân liệt Trung Xô và sự chia rẽ
trong (hàng ngũ cán bộ cao cấp của) Đảng Lao động Việt Nam về vấn đề
này trong những năm 1960. Trần Quỳnh,
Những kỷ niệm về Lê Duẩn, không in ngày tháng, tự xuất bản, dịch giả hiện có một bản.
34. Khang Sinh (1903-1975), một trong những chuyên viên hàng đầu của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về an ninh quốc gia. Ông ta được Bộ Nội vụ
(NKVD) Liên Xô đào tạo trong những năm 1930, và trở thành cố vấn thân
cận nhất cho Mao trong việc cắt nghĩa những chính sách của Liên Xô.
Khang Sinh cũng từng là Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc năm 1962, và Ủy viên Bộ Chính trị từ 1969; giữa 1973 và 1975
ông ta là Ủy viên Ban thường vụ Bộ Chính trị.
35. Xem
Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua
trang 43, trong đó Việt Nam tuyên bố là Đặng Tiểu Bình đã hứa sẽ coi
Việt Nam là ưu tiên số một trong vấn đề viện trợ cho nước ngoài để đổi
lấy việc Việt Nam sẽ khước từ mọi viện trợ của Liên Xô. (
La vérité…, trang 33.)
36. Xem “
Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” trang 43. (
La vérité…, trang 33) và cả Trần Quỳnh,
Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
37. Tháng 11-1966, Liên Xô lên án Trung Quốc đã từ bỏ đường lối Cộng sản
thế giới đã được thông qua tại các Hội nghị Mascơva 1957 và 1960. Xem
thêm Trần Quỳnh,
Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
38. Bộ Ngoại giao,
Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua
cho biết Mao đã phát biểu như vậy với đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt
Nam ở Vũ Hán năm 1963. Trong sách đã trích dẫn lời Mao nói: “Tôi sẽ làm
Chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á.” (
La vérité…, trang 9).
39. Đoạn này có thể dịch (sang tiếng Anh) là “và tôi sẽ đánh bại cả các anh nữa” hoặc “tôi có thể đánh bại cả các anh”.
40. Đối với dịch giả (Christopher E. Goscha), chỗ này không được rõ là
Lê Duẩn muốn nói tới ai khi dùng chữ “quân sự”. (Ngược lại, đối với
người dịch ra tiếng Việt thì rõ ràng trong ngôn cảnh này ông nói là tôi
mời một số anh em bên quân đội…, một cách nói thân mật, thường dùng thời
đó nhưng tất nhiên hàm chỉ một số tướng tá cao cấp).
41. Đây có lẽ dựa vào lời Đại sứ Trung Quốc tại Máscơva chuyển cho phía
Liên Xô nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày ký kết Hiệp ước Hữu nghị, Đồng minh
và Tương trợ Trung-Xô. Đại sứ Trung Quốc Phan Tự lực đã nói với Liên
Xô: “Nếu bọn đế quốc dám tấn công Liên Xô, nhân dân Trung Quốc không hề
ngần ngại, sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình theo Hiệp ước và cùng với nhân
dân Liên Xô vĩ đại… sẽ kề vai sát cánh chiến đấu cho đến thắng lợi cuối
cùng.” Trích từ Donald S. Zagoria,
Mạc tư khoa, Bắc Kinh, Hà nội (New York: Pegasus, 1967), trang 139-140.
42. Bành Chân là Ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc từ 1951 đến 1969.
43. Lý Cường là Phó Chủ tịch Ủy ban liên lạc kinh tế đối ngoại của Quốc
vụ viện từ 1965 đến 1967. Giữa 1968 và 1973, ông là Thứ trưởng Bộ Ngoại
thương, và từ 1973 là Bộ trưởng Ngoại thương Trung Quốc.
44. Đây muốn nói tới chuyến đi của Lê Duẩn vào tháng 11-1977.
45. Lê Duẩn quên rằng cho đến tháng 3-1945, thậm chí chỉ với số người ít
hơn, Pháp đã có thể cai trị Việt Nam mà không gặp quá nhiều khó khăn.
46. Về cố vấn Trung Quốc, xin xem Qiang Zhai,
Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam, 1950-1975 (Chapel Hill: Nhà xuất bản Viện đại học North Carolina, 2000), và Christopher E. Goscha, “
Bối cảnh châu Á của cuộc chiến Pháp-Việt” luận án trình bày tại Trường Cao đẳng thực hành, thuộc Viện Đại học Sorbonne, Paris, 2000, phần Trung Quốc.
47. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp Lê Duẩn thường xuyên ra miền Bắc,
nhưng ông thường được cho là vẫn ở lại miền Nam thời kỳ này trong cương
vị Bí thư Xứ ủy Nam kỳ, mà sau này đổi thành Trung ương cục miền Nam vào
đầu năm 1950. Dịch giả cũng hoài nghi việc Lê Duẩn đi Trung Quốc năm
1952. Hồ Chí Minh thì có, nhưng Lê Duẩn thì không.
48. Về chi tiết này, xin xem chương 6 của cuốn sách này.
49. Điều này khẳng định Đồng chí B cũng chính là “Anh Ba”. Ta biết rằng
Anh Ba là bí danh của Lê Duẩn, từ đó suy ra Đồng chí B cũng là Lê Duẩn.
Từ những sự kiện được nói đến trong văn bản thì điều này là chắc chắn,
và cuốn Trần Quỳnh,
Những kỷ niệm về Lê Duẩn, cũng khẳng định điều này.
50. Ở đây có thể ám chỉ Hoàng Văn Hoan. (Để có cái nhìn toàn cảnh hơn) về một quan điểm cần tranh luận, xin tham khảo thêm cuốn
Giọt nước trong biển cả (Hồi ức về một cuộc cách mạng) (Bắc Kinh: Nhà xuất bản Tin Việt Nam, 1986).
51. Xem thêm Trần Quỳnh,
Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
52. Đây có lẽ muốn nói bóng gió tới Liên Xô (và khối Đông Âu).
53. Hình thức chiến tranh này đã từng có ở Trung Quốc và những nơi khác trong hoàn cảnh chiến tranh du kích.
54. Điều này đã diễn ra vào tháng 6-1960. Để biết thêm về lập trường của Lê Duẩn trong vấn đề này xin xem Trần Quỳnh,
Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
Sau đại hội Đảng Cộng sản Ru ma ni tháng 6-1960, Liên Xô đã tổ chức một
cuộc họp tại chỗ các trưởng đoàn đại biểu những nước có mặt. Trong buổi
họp đó Khơ rút xốp đã phê phán Trung Quốc nặng nề, đặc biệt là Mao,
người mà ông ta cho là “giáo điều” vì những quan điểm của Mao về vấn đề
chung sống hòa bình. Xem Adam B. Ulam,
The Communists: The Story of Power and Lost Illusions 1948-1991 (New York: Macmillan, 1992), trang 211.
55. Dường như đây là một cái tát vào mặt Hoàng Văn Hoan mà không phải ai khác.
56. Đây có lẽ muốn nói tới những nhà lãnh đạo khác đang có mặt nghe Lê
Duẩn nói chuyện, và có thể là một chỉ hiệu rằng người đồng chí thân
Trung Quốc đã nói ở trên không có mặt trong buổi nói chuyện này. Xem
thêm Trần Quỳnh,
Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
Nguồn: Thư viện Quân đội, Hà Nội. Tài liệu do Christopher E. Goscha phát
hiện và dịch sang tiếng Anh, Nhóm nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường
Khoa học Chính trị, Paris.
Christopher E. Goscha đã phát hiện tài liệu này trong Thư viện Quân
đội ở Hà Nội, chép tay lại và dịch ra tiếng Anh. Cũng theo Stein
Tønnesson: “Văn bản không đề ngày tháng, và tên tác giả chỉ cho biết là
“đồng chí B”. Dù sao, nội dung tài liệu cho ta thấy, nó được viết năm
1979, có lẽ vào quãng thời gian giữa cuộc tấn công của Trung Quốc vào
Bắc Việt Nam tháng 2-1979 và thời điểm phát hành cuốn Sách trắng của Bộ
Ngoại giao Việt Nam về mối quan hệ Việt – Trung ngày mồng 4 tháng 10
cùng năm. Dường như văn bản được soạn chỉ ít lâu sau quyết định ngày 15
tháng 3-1979 của Đặng Tiểu Bình ngừng cuộc tấn công trừng phạt Việt Nam
và rút quân về nước, nhưng trước khi Hoàng Văn Hoan đào thoát sang
Trung Quốc tháng 7-1979.”
Nếu tên tác giả chỉ ghi là “đồng chí B” thì sao lại dám khẳng định là
Lê Duẩn? Bài nói chuyện của “đồng chí B” có cho ta biết rằng, trong
những cuộc họp của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, ông ta được gọi
là anh Ba, một bí danh mà mọi người đều biết là của Lê Duẩn. Tài liệu
cũng nói nhiều đến những cuộc họp cấp cao với phía Trung Quốc trong đó
có cả Mao, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, khi đó nhân vật B này thường xưng
tôi và đại diện cho phía Việt Nam một cách đầy quyền uy như thế, hẳn
chỉ có rất ít người.
Một nhận xét khác của Stein Tønnesson là “những điều Lê Duẩn nói ra
(trong năm 1979) rõ ràng mang sắc thái tức giận”, nhưng về thái độ của
Lê Duẩn thì “một nét ấn tượng của tài liệu này là sự thẳng thắn, bộc
trực và cách tác giả đưa vấn đề ra như là một cá nhân.” Ta đều biết vai
trò và vị trí của ông trong Đảng cũng như trong các sự kiện từ khi được
cử làm Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam rồi Tổng bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam sau này.
Stein Tønnesson cũng cho rằng khi Lê Duẩn xưng tôi với Hồ Chí Minh
thì đó là thái độ có phần xấc xược, nhưng người dịch không nghĩ như vậy.
Nếu bạn đã đi nhiều vùng trên đất nước ta, hoặc được tiếp xúc với
nhiều người từ những địa phương khác nhau tới, bạn sẽ thấy đó chỉ là
một tập quán ngữ dụng của một số nơi chứ không phải là hỗn hào hay xấc
xược. Hoặc cũng có đoạn, khi nói chuyện với Mao, Lê Duẩn cũng dám “ăn
miếng trả miếng”, nhưng người dịch hoài nghi chuyện này, chúng ta cần
phối kiểm với những tài liệu khác nữa.
So với cuốn Sách trắng của Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam, Sự
thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, công bố ngày
mồng 4 tháng 10-1979, tài liệu này cũng không có nhiều điểm khác biệt,
trừ một số tình tiết về cách suy nghĩ và ứng phó của phía Việt Nam. Dẫu
sao, theo thiển ý của tôi, thì đây cũng là một tài liệu quý. Nó cho ta
thấy việc ra đời của cuốn Sách trắng đã được chỉ đạo từ cấp cao nhất.
Vì thời gian có hạn, lại dịch ngược lại từ tiếng Anh ra Việt trong
khi ngôn ngữ nguồn đã là tiếng Việt, chắc chắn bản dịch còn nhiều thiếu
sót. Người dịch cũng chỉ mong muốn một chữ “tín”, mà chưa dám nghĩ đến
“đạt, nhã”. Mong các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến cho. Chúng tôi
xin chân thành cảm tạ.
Nguồn :
Theo talawas ( http://dailyvnews.wordpress.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét