Thứ Hai, 11 tháng 4, 2016

QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH MỞ NƯỚC, DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT18/f

(ĐC sưu tầm trên NET)


Thời kỳ phân chia Nam Bắc lần thứ nhất (1533-1802)(tiếp)

 Trong giai đoạn này, ở Việt Nam xuất hiện ba triều đại bao gồm: Nhà Mạc (1527 - 1677), Nhà Lê trung hưng (1533 - 1789) và Nhà Tây Sơn (1778 - 1802). Ngoài ra còn có 3 tập đoàn quân phiệt cát cứ gồm: Chúa Trịnh (1545-1787), Chúa Nguyễn (1558-1802) và Chúa Bầu (1527-1699). Đây là giai đoạn rối ren loạn lạc nhiễu nhương lộn xộn phức tạp nhất trong lịch sử Việt Nam.

Các cuộc xung đột ở Đàng Trong(tiếp)

Nguyễn Phúc Chú

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Phúc Chú
Ninh vương (chi tiết...)
Chúa Nguyễn
Tại vị 1725 - 1738
Tiền nhiệm Nguyễn Phúc Chu
Kế nhiệm Nguyễn Phúc Khoát
Thông tin chung
Hậu duệ
Tên húy Nguyễn Phúc Chú hay Trú hoặc Thụ
Tước vị
Thụy hiệu Tuyên Quang Thiệu Liệt Tuấn Triết Tĩnh Uyên Kinh Văn Vĩ Vũ Hiếu Ninh Hoàng Đế Ngắn: Hiếu Ninh hoàng đế
Miếu hiệu Túc Tông
Hoàng tộc Chúa Nguyễn
Thân phụ Nguyễn Phúc Chu
Thân mẫu Tống Thị Được
Sinh 14/01/1697 </ref>
Mất 07/06/1738
Nguyễn Phúc Chú  (chữ Hán: 阮福澍, 1697-1738) còn có tên là Trú hay Thụ  là vị chúa Nguyễn thứ bảy của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở ngôi từ 1725 đến 1738), nối ngôi Chúa Nguyễn Phúc Chu.

Thân thế

Nguyễn Phúc Chú là con trai trưởng của chúa Nguyễn Phúc Chu và bà Từ Huệ phu nhân Tống Thị Được.
Ban đầu ông được phong chức Cai cơ, tước Đỉnh Thịnh Hầu. Năm 1715 ông được thăng Chưởng cơ  làm phủ đệ tại dinh cơ Tả Sùng.
Năm 1725, Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu qua đời, ông nối ngôi lúc 29 tuổi, ông được quần thần tôn là Tiết Chế Thủy Bộ Chư Dinh Kiêm Tổng Nội Ngoại Quốc Trọng Sự Thái Phó Đỉnh Quốc Công, hiệu là Văn Truyền đạo nhân (vì mộ đạo Phật), đương thời gọi là Ninh vương (tục gọi là chúa Ninh).

Điều hành Đàng Trong

Tháng Giêng năm Bính Ngọ (1726), chúa Ninh ban bố các điều răn, đại ý là khuyên dân siêng năng cày cấy và cấm đứt nạn rượu chè, cờ bạc.
Tháng 4 năm Kỷ Dậu (1729), chúa Ninh bắt đầu cho lập trường đúc tiền.
Năm Ất Mão (1735), Tổng binh Hà TiênMạc Cửu mất, con trai cả là Mạc Thiên Tứ kế tục sự nghiệp của cha. Năm sau, (Bính Thìn [1736]), Thiên Tứ được chúa Ninh phong làm Tổng binh Đại đô đốc  trấn Hà Tiên, để giữ gìn và mở mang xứ ấy.
Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12 (1737), triều đình định lại quan chế, cải cách sắc phục, thay đổi phong tục, mọi người đều theo lối mới, tránh cái thô lậu của Bắc hà từ trước tới nay (lúc ấy từ sông Linh Giang thuộc châu Bố Chính trở vào Nam gọi là Nam hà, trở ra Bắc gọi là Bắc hà). Miền Nam từ đây rạng rỡ một vùng y quan văn vật 

Chiến sự

Năm Tân Hợi (1729), Prea Sot (Sá Tốt, gốc người Lào đem quân ở tỉnh Banam nước Chân Lạp) xách động người dân Chân Lạp nổi dậy tàn sát tất cả người Việt ở trong vùng Banam mà họ gặp, rồi còn tiến sang quấy nhiễu ở Sài Gòn.
Để đối phó với quân Chân Lạp do Prea Sot chỉ huy, tướng Trương Phước Vĩnh sai cai cơ Đạt Thành ra chống ngăn, nhưng ông này bị giết tại trận.
Tướng Vĩnh bèn điều động Giám quân cai đội Nguyễn Cửu Triêm đi đánh, đối phương bị thua rút về Vũng Gù (Mỹ Tho). Lại điều thêm Thống binh Trần Đại Định (con Trần Thượng Xuyên) mới dẹp tan hết[7].
Sau khi dẹp xong xét thấy cần phải có một cơ quan thống suất để kịp thời giải quyết việc binh ở vùng đất mới, năm Nhâm Tý (1732)[8], chúa Ninh sai đặt sở Điều khiển ở Sài Gòn, cử hai tướng có công đánh đuổi quân Prea Sot là Trương Phước Vĩnh giữ chức Điều khiển sự sở Gia Định, Nguyễn Cửu Triêm làm Thống trấn dinh Trấn Biên (Biên Hòa).
Khi ấy, vua Chân Lạp là Sâtha (Nặc Tha) sợ vạ lây, liền gửi thư cho tướng Vĩnh để thanh minh rằng mọi việc trên đều do Prea Sot gây ra, và xin đem hai vùng đất là Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long) dâng chúa Ninh để cầu hòa (1732). Bấy giờ, thấy đất Gia Định (tức toàn miền Nam) rộng rãi quá, để tiện việc coi giữ, chúa Ninh cho lập châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ, bổ nhiệm quan lại rồi đưa thêm dân Việt đến khai hoang lập nghiệp.
Mùa xuân năm thứ 8 (1732) triều đình sai quan Khổn Súy (閫帥)[9]. Gia Định phân chia đất ấy để lập ra châu Định Viễn và dinh Long Hồ (lỵ sở nay là thôn An Bình Đông thuộc huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường, tục gọi là dinh Cái Bè).
Tháng giêng năm Quý Sửu (1733), chúa Ninh cho đặt đồng hồ ở các dinh trấn. Các đồng hồ này được chế tạo ở trong nước và phỏng theo kiểu cách phương Tây.
Mùa đông năm thứ 16, Quý Dậu (1735), triều đình sai Cai đội Thiện Chánh hầu làm Thống suất, Ký lục Nghi Biểu hầu Nguyễn Cư Trinh làm Tham mưu điều khiển tướng sĩ 5 dinh: Bình Khang (Năm thứ 4 Canh Ngọ đổi Thái Khang làm dinh Bình Khang), Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ (Chức Điều khiển được thiết lập từ đây) đi kinh lược đất Cao Miên, quan quân đồn trú ở xứ Bến Nghé, lập nên dinh trại, gọi tên là Đồn Dinh (nay là chợ Điều Khiển), rồi lo luyện tập quân sĩ, điều độ lương thảo, tính kế mở mang[10].

Qua đời

Ở ngôi chúa 13 năm, chúa Nguyễn Phúc Chú qua đời vào ngày 20 tháng 4 năm Mậu Ngọ (7 tháng 6 năm 1738) lúc 42 tuổi.
Chúa Ninh được an táng tại lăng Trường Phong nằm trong khu Thiên Thọ Lăng (Lăng Gia Long) ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Triều thần dâng thụy hiệu cho chúa là Đại đô thống Tổng quốc chính Vũ Hiếu Ninh vương. Năm Bính Dần (1806), vua Gia Long lại truy tôn là Hiếu Ninh hoàng đế, miếu hiệu là Túc Tông, đưa long vị vào thờ tại Thái Miếu, án thứ ba bên phải .
Chúa Nguyễn Phúc Chú được đánh giá là người đã có công trong việc thiết lập đơn vị hành chính mới, giữ gìn và mở mang vùng đồng bằng sông Cửu Long 

Gia đình

  • Vợ:
    • Trương Thị Thư (1699 - 1720), chánh quán huyện Tống Sơn tỉnh Thanh Hóa, con của quan Chưởng dinh Trương Phúc Phan. Bà vào hầu Ninh vương trong thời kỳ tiềm để, sau được phong lên bậc Nhã cơ. Khi mất, được truy tặng là Tu Dung Á Phu Nhân. Vua Gia Long truy tôn: Từ Ý Quang Thuận Chiêu Hiến Thục Huệ Hiếu Ninh Hoàng Hậu, tên lăng là Vĩnh Phong, táng ở làng Long Hồ (Hương Trà, Thừa Thiên). Bà được phối thờ với Ninh vương ở Thái Miếu, án thứ ba bên hữu. Bà là thân mẫu của Nguyễn Phúc Khoát và Nguyễn Phúc Du.
    • Trương Thị Hoặc, Tả cung tần, thân mẫu của Nguyễn Phúc Tường.

Nguyễn Phúc Khoát

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Phúc Khoát
Vũ Vương (chi tiết...)
Chúa Nguyễn
Tại vị 1738 - 1765
Tiền nhiệm Nguyễn Phúc Chú
Kế nhiệm Nguyễn Phúc Thuần
Thông tin chung
Tên húy Nguyễn Phúc Khoát
Tước hiệu Vũ Vương
Tước vị
Thụy hiệu Kiền Cương Uy Đoán thần Nghị Thánh Du Nhân Từ Duệ Trí Hiếu Vũ Hoàng Đế Ngắn: Hiếu Vũ Hoàng Đế
Miếu hiệu Thế Tông
Hoàng tộc Họ Nguyễn
Thân phụ Nguyễn Phúc Chú
Thân mẫu Trương Thị Thư
Sinh 1714
Mất 1765
Nguyễn Phúc Khoát (chữ Hán: 阮福闊), húy là Hiếu, còn gọi là Chúa Vũ (hay Võ Vương) (17141765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 (ở ngôi chúa: 1738-1765) trong lịch sử Việt Nam.

Thân thế

Nguyễn Phúc Khoát sinh năm Giáp Ngọ (1714) đời vua Lê Dụ Tông. Ông là người gốc Gia Miêu (huyện Tống Sơn, Thanh Hóa), và là con trai trưởng của chúa Nguyễn Phúc Chú và mẹ là Thục phi Trương Thị Thư  
Lúc đầu, Nguyễn Phúc Khoát được phong là Chưởng dinh Tiền Thủy, tước Hiểu Chính hầu, làm phủ đệ ở Cơ Tiền Dực tại làng Dương Xuân (Thừa Thiên).

Sự nghiệp

Về đối nội

Năm Mậu Ngọ (1738), Nguyễn Phúc Khoát nối ngôi khi 24 tuổi, được quan triều tôn là Thái bảo Hiểu Quận công, lấy hiệu là Từ Tế đạo nhân (vì ông chuộng đạo Phật).
Sau đó, Chúa Vũ cho khởi công xây phủ mới, ở bên tả phủ cũ, và cho kiến thiết Đô thành Phú Xuân. Năm Kỷ Mùi (1739), công cuộc hoàn tất, triều thần tôn chúa là Thái phó Quốc công.
Cũng trong năm này, vua Chân Lạp là Nặc Bồn mang quân sang xâm phạm Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ cùng vợ là Nguyễn Thị Hiếu Túc đánh đuổi được. Nghe tâu, Chúa Vũ đặc cách phong Mạc Thiên Tứ làm đô đốc và vợ ông làm phu nhân.
Năm Canh Thân (1740), Chúa Võ quy định lại phép thi. Ngày 12 tháng 4 năm Giáp Tý (1744), quần thần dân biểu tôn Chúa Vũ lên ngôi vương.
Kể từ đó, có nhiều cải cách được ban hành, như: phủ đổi thành điện, những gì trình lên vua gọi là tấu, Thân quân gọi là Vũ lâm quân, Văn chức đổi là Hàn lâm viện. Về hành chính thì chia làm 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình và Công. Phàm văn thư vẫn dùng niên hiệu vua Lê nhưng đối với các thuộc quốc thì xưng là Thiên vương. Y phục từ quan đến dân cũng thay đổi  ..

Về đối ngoại

Tháng 6 năm 1754, chúa Nguyễn cho chia quân Gia Định ra làm hai đạo, Nghi Biểu (Nguyễn Cư Trinh) đem binh từ sông Bát Đông tiến phát, rồi đến Tần Lê Bắc ra sông lớn hội cùng binh Tiền Giang của Thiện Chính (khuyết danh) ở đồn Lò Yêm.
Bốn phủ Xoài Lạp  , Tầm Đôn, Cầu Nôm và Nam Vang của Chân Lạp đều hàng.
Tiếp đó Cai đội Chấn Long đến phủ Tầm Phong Tiêm chiêu dụ người người Côn Man (tức người Chămpa sống ở Chân Lạp).
Lúc ấy quốc vương Cao Miên là Nặc Nguyên chạy lánh sang phủ Tầm Phong Thu (phủ La Vách) lại gặp trận lụt mùa thu quá lớn, quan quân phải trở về đồn nghỉ ngơi.
Năm 1755, Chúa Vũ lại nghe vua Chân Lạp là Nặc Nguyên thông sứ với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài để lập mưu đánh mình.
Mùa xuân năm 1755, đại binh của Thiện Chính (khuyết danh) đã về trước ở đồn Mỹ Tho, rồi lệnh cho người Côn Man phải bỏ vùng Ca Khâm (Kha Khom?), di chuyển hết bộ lạc xuống đồn trú ở Bình Thanh, tinh tráng hơn vạn người, khi đến đất Vô Tà Ân liền bị hơn một vạn binh của Chân Lạp tập kích, quân Côn Man sức yếu thế cô, liền đem hết xe chất thành lũy và một lòng chống giữ, mặt khác cho quân đi cấp báo.
Thiện Chính vì ao đầm ngăn trở nhất thời khó bề cứu viện ngay được, chỉ Nghi Biểu Nguyễn Cư Trinh dẫn 5 đội tùy quân đến ứng cứu, quân Chân Lạp nghe hơi đã phải rút lui.
Nghi Biểu đón hơn 5000 dân Côn Man cả nam lẫn nữ về trú dưới chân núi Bà Đinh (Đen) rồi hạch tấu Thiện Chánh về tội làm hỏng quân cơ, rút quân thiếu kỷ luật, bỏ rơi người mới quy phụ, không cứu viện,để quân giặc bắt đi. Tấu được dâng lên, triều đình cho tra xét rồi giáng Thiện Chánh xuống làm Cai đội, thu quyền Thống suất, ra lệnh cho Trương Phúc Du làm Thống suất, dùng người Côn Man dẫn đường để tiến đánh Cầu NômNam Vang và giết được một số Ốc nha.
Nặc Nguyên phải chạy sang chỗ Mạc Thiên Tứtrấn Hà Tiên, và nhờ Mạc Thiên Tứ thay lời tâu rằng: Việc ấy do biên tướng Cao Miên là Chiêu trùy Ếch đàn áp người Côn Man, vua nước ấy xin chịu nhận và xin dâng hai phủ là Tầm Bôn (Tầm Đôn) và Lôi Lạp  (nay là Tân AnGò Công) để tạ tội, đồng thời xin cống nạp lễ vật còn thiếu ba năm trước đó (1756).
Năm 1757, Nặc Ong Nguyên mất, người chú họ là Nặc Ong Nhuận thay quyền coi việc nước.
Chúa Vũ theo lời quần thần, xuống chiếu rằng rằng phải hiến thêm đất đai hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc  mới chuẩn cho lập ngôi.
Gặp lúc ấy rể của Nặc Ong Nhuận là Nặc Hinh cướp ngôi, giết Nặc Ong Nhuận, con của Nhuận là Nặc Ong Ton chạy qua Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ che chở và cầu cứu với chúa Nguyễn.
Nhận lời, Chúa Vũ sai thống suất Trương Phúc Du tiến đánh, Nặc Hinh chạy đến Tầm Phong Xoài rồi bị phiên liêu là Ốc nha Uông giết chết.
Lúc ấy Mạc Thiên Tứ vì Nặc Ong Ton mà dâng tấu, vua sắc phong cho Nặc Ong Ton làm Quốc vương Cao Miên rồi sai Mạc Thiên Tứ cùng binh tướng 5 dinh đưa Nặc Ong Ton về nước nhưng buộc phải hiến thêm đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa sông Tiềnsông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa Đéc bây giờ).
Quan quân khải hoàn về Gia Định, sau đó Du ChínhNghi Biểu dâng tấu xin dời dinh Long Hồ qua xứ Tầm Bao (tức địa phận thôn Long Hồ ngày nay). Lại lấy xứ Sa Đéc đặt thành đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao Giêng ở Tiền Giang đặt làm đạo Tân Châu, xứ Châu ĐốcHậu Giang làm đạo Châu Đốc, rồi lấy binh dinh Long Hồ đến gìn giữ nơi địa đầu trọng yếu ấy.
Ngoài ra, Nặc Tôn còn tặng riêng cho Mạc Thiên Tứ năm phủ là: Kompong Som (Vũng Thơm), Kampot (Cần Bột), Chal Chun (Chưn Rùm hay Chân Sâm), Bantey M éas (Sài Mạt) và Raung Veng (Linh Quỳnh) để tạ ơn  . Tuy nhiên, Mạc Thiên Tứ lại đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn Chúa Nguyễn tiếp tục cho Thiên Tứ cai quản vùng đất đó, và đặt xứ Rạch Giá làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên, lại đặt quan trông coi, chiêu mộ cư dân lập nên thôn ấp, do đó mà đất đai xứ Hà Tiên mới rộng lớn ra.

Hoàn thành công cuộc Nam tiến

Năm Đinh Sửu (1757), theo đề nghị của ký lục dinh Long HồNguyễn Cư Trinh và thống suất Trương Phước Du, Chúa Vũ thuận cho dời trị sở dinh Long Hồ và châu Định Viễn từ Cái Bè (Tiền Giang) về xứ Tầm Bào thuộc địa phận Long Hồ thôn (tức vùng chợ Vĩnh Long ngày nay). Cử Tống Phước Hiệp làm lưu thủ, đồng thời còn cho lập ba đạo để hỗ trợ việc coi giữ đó là: Đông Khẩu (ở phía Nam Sa Đéc), Tân Châu (ở đầu Cù lao Giêng, không phải tại thị trấn Tân Châu ngày nay) và Châu Đốc.
Đến đây (1757), kể như vùng đất Nam Bộ ngày nay đã thuộc về Chúa Vũ.

Những năm cuối đời

Sau khi hoàn thành công cuộc Nam tiến của mình, trong những năm cuối đời, Chúa Vũ đâm ra say mê tửu sắc, không còn thiết tha việc nước nữa. Theo thông tin trên trang Nguyễn Phước tộc, thì:
Để dễ dàng trong việc tiếm quyền, chính Trương Phúc Loan đã khuyến dụ Chúa Vũ đi vào con đường nữ sắc. Một cung phi rất được ngài sủng ái là Công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Cầu, con của Dận quốc công Nguyễn Phúc Điền. Đây chính là mầm mống gây cảnh suy tàn của triều đại sau này 
Ngày 7 tháng 7, năm 1765, Chúa Vũ Nguyễn Phúc Khoát qua đời, thọ 51 tuổi. Ông được táng tại Trường Thái lăng ở làng La Khê (Hương Trà, Thừa Thiên). Đến đời Gia Long, Chúa Vũ được thờ tại Thái Tổ Miếu (tức Thái Miếu trong Hoàng thành Huế), án thứ tư bên tả.
Chúa Vũ được táng tại lăng Trường Thái ở làng La Khê (Hương Trà, Thừa Thiên). Đến đời vua Gia Long, Chúa Vũ được thờ tại Thái Tổ Miếu (tức Thái Miếu trong Hoàng thành Huế), án thứ tư bên tả.
Nguyễn Phúc Thuần, con trai thứ 16 của Chúa Vũ lên ngôi, dâng thụy hiệu cho cha là: Trí Hiếu Vũ Vương. Năm Bính Dần (1806), Vua Gia Long truy tôn là: Trí Hiếu Vũ Hoàng Đế, miếu hiệu là Thế Tông.

Gia đình

Vợ

Con trai

  1. Nguyễn Phúc Chương (1731 - 1763), truy phong Thành Công, thụy là Chương Chính.
  2. Nguyễn Phúc Luân, cha của Gia Long
  3. Nguyễn Phúc Mão (1731 - 1774), mẹ là Nguyễn thị. Làm đến chức Nội tả Bộ doanh Chưởng cơ, sau bị Trương Phúc Loan làm mưu giết hại.
  4. Nguyễn Phúc Cường (1734 - 1775), mẹ không rõ. Làm đến chức Tiết chế thủy bộ, tước Thành quận công
  5. Nguyễn Phúc Dục
  6. Nguyễn Phúc Dục,
  7. Nguyễn Phúc Kính (1737 - 1775), mẹ là Chiêu nghi phu nhân Trần thị. Ban đầu làm Hữu dực Cai đội, sau thăng Chưởng doanh Quận công. Khi vào Gia Định, bị đắm thuyền chết đuối.
  8. Nguyễn Phúc Bản, mẹ là Chiêu nghi phu nhân Trần thị, không rõ truyện.
  9. Nguyễn Phúc Hạo (1739 - 1760), mẹ là Tả cung tần Trương thị. Ban đầu được chúa Vũ sủng ái, phong làm Thế tử. Ông mất khi còn rất trẻ, chỉ mới 22 tuổi. Chúa Vũ rất thương, tặng làm Thái bảo Quận công, sau thay thành Hiếu Tuyên vương (孝宣王). Đời Gia Long hoàng đế, truy tặng ông thụy hiệu Tuấn Triết Ôn Lương Anh Duệ Minh Đạt Tuyên Vương (濬哲溫良英睿明達宣王). Con trai ông chính là Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương.
  10. Nguyễn Phúc An (1739 - 1772), mẹ là Đặng thị. Làm Thủy cơ Cai đội, sau thăng Cai cơ.
  11. Nguyễn Phúc Tuấn (1741 - 1764), mẹ là Chiêu nghi phu nhân Trần thị.
  12. Nguyễn Phúc Yến (1742 - 1776), mẹ là Chiêu nghi phu nhân Trần thị. Làm đến Tiết chế Chưởng doanh Quận công.
  13. Nguyễn Phúc Đạn (1743 - 1786), mẹ là Trần thị. Làm đến Tiết chế Chưởng doanh Quận công.
  14. Nguyễn Phúc Quyền, không rõ mẹ. Năm Ất Mùi (1775) mất tích trong giao tranh với Tây Sơn.
  15. Nguyễn Phúc Điệu, mẹ là Tuệ Tĩnh Thánh Mẫu nguyên sư Nguyễn Phúc thị. Công tử mất sớm, không có truyện.
  16. Nguyễn Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần, mẹ là Tuệ Tĩnh Thánh Mẫu nguyên sư Nguyễn Phúc thị.
  17. Nguyễn Phúc Xuân (1753 - 1777), mẹ là Vũ thị. Bị vua Xiêm giết, chết.
  18. Nguyễn Phúc Thăng (1761 - 1819), mẹ là Hữu cung tần Tống thị.

Con gái

  1. Nguyễn Phúc Ngọc Nguyện (1725 - 1773), lấy con trai Trương Phúc Loan tên là Thắng.
  2. Nguyễn Phúc Ngọc Tuyên (1737 - 1809), mẹ là Hữu cung tần Tống thị.
  3. Nguyễn Phúc Ngọc Thành (1739 - 1783), lấy Nguyễn Cửu Quán, cháu Nguyễn Cửu Kiều.
  4. Nguyễn Phúc Ngọc Ái (1742 - 1773), lấy Nguyễn Cửu Sách, con của Nguyễn Cửu Pháp.
  5. Nguyễn Phúc Ngọc Nguyệt (1748 - 1825), lấy Trương Phúc Đạo.
  6. Nguyễn Phúc Ngọc Quận, lấy Chưởng doanh Thái bảo Quận công Tống Phúc Khuông. Vì cầm sắt bất hòa, bà về nhà, rồi đi Quảng Ngãi, đến bến Ván, bị quân Tây Sơn bắt được, đem dìm chết ở sông Hội An thuộc Quảng Nam. Năm mất bà mới 25 tuổi. Người đầy tớ vớt thi hài và mai táng cho.
  7. Nguyễn Phúc Ngọc Đạo (1738 - 1773), mẹ là Tả cung tần Trương thị. Bà lấy Cai cơ Trương Phúc Nhạc, con thứ 3 của Trương Phước Loan. Năm Ất Mùi (1775) mùa xuân, bà và Nhạc cùng vào Gia Định. Nhạc chết, bà theo Gia Long ra đảo Phú Quốc, rồi đi Hà Tiên, liệu lý việc quân nhu, bị quân Tây Sơn bắt giết.
  8. Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến, lấy Cai cơ Nguyễn Cửu Tú, con Nguyễn Cửu Thông.
  9. Nguyễn Phúc Ngọc Dao, mẹ là Ôn Thành Trương hoàng hậu. Không rõ truyện. Gia Long năm thứ 5 (1806), tặng phong là Đệ nhất Cung hoàng nữ, thụy là Trinh Thục, thờ vào đền sau đền Triển Thân.
  10. Khuyết danh.
  11. Khuyết danh.
  12. Khuyết danh.

Nhận xét

Trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam có đoạn:
Nguyễn Phúc Khoát thông minh, cương nghị, cả quyết, việc gì định làm thì nhất quyết làm cho bằng được, nên đôi khi tàn nhẫn...
Ông được nhiều nhân tài phù tá, nổi bật nhất là tướng Nguyễn Cư Trinh, nhờ đó mà việc nội trị và ngoại giao đều tốt đẹp. 

Mạc Thiên Tứ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Mộ Mạc Thiên Tứ trong khu mộ dòng họ Mạc, trên núi Bình San, Hà Tiên.
Mạc Thiên Tứ (鄚天賜), tự là Sĩ Lân (士麟), còn gọi là Mạc Thiên Tích (鄚天錫)[1], là danh thần đời chúa Nguyễn. Ông sinh năm Mậu Tuất (1708) và mất năm Canh Tý (1780) (1708-1780). Ông là con Tổng binh Mạc Cửu - người được chúa Nguyễn phong là Tông Đức hầu.
Khi cha ông qua đời (1735), lúc ấy ông đã 29 tuổi, ông nối nghiệp cha mở mang đất Hà Tiên, được chúa Nguyễn Phúc Trú phong chức Tổng binh Đại đô đốc. Ông tiếp tục sự nghiệp khai khẩn miền Tây Nam Bộ, biến vùng đất Hà Tiên trở thành đất văn hiến, phồn vinh, nhiều lần chống trả lại các cuộc tấn công của các lân bang Xiêm LaChân Lạp.

Tranh chấp với Xiêm La

Năm 1767, quân Miến Điện tiến chiếm Xiêm La bắt được vua Xiêm là Phong vương (Boromoraja V) và con là Chiêu Đốc, thiêu hủy thành Ayutthaya, nhưng sau đó phải rút về vì Miến Điện bị Trung Quốc tấn công. Hai người con của Phong vương là Chiêu Xỉ Khang chạy thoát sang Chân Lạp và Chiêu Thúy sang Hà Tiên lánh nạn. Sau đó, Trình Quốc Anh (vốn là người Hoa gốc Triều Châu), là Phi Nhã (xã trưởng) đất Mang Tát thuộc Xiêm La, khởi binh chống lại quân Miến rồi tự xưng vương năm 1768. Trình Quốc Anh (Taksin) tổ chức lại lực lượng, chiêu mộ rất nhiều hải tặc gốc Hoa đang hoạt động trong Vịnh Thái Lan để tăng cường lực lượng. Trình Quốc Anh muốn triệt hạ uy lực của gia đình Mạc Thiên Tứ tại Hà Tiên vì đó là một đe dọa và là địch thủ lợi hại cho uy quyền của ông.
Năm 1768, lấy cớ truy lùng một Hoàng tử Xiêm La, Trình Quốc Anh mang quân tiến chiếm Hòn Đất, bắt giam và tra tấn nhiều giáo sĩ Công giáo để tìm nơi trú ẩn của Chiêu Thúy, đồng thời sai tướng Chất Tri (sau này là vua Rama Chakri tức là Rama I của Thái Lan) mang quân bảo hộ Chân Lạp và đưa Nặc Ông Nộn (Ang Non II) lên làm vua. Nặc Tôn (Outey II)   chạy về Gia Định lánh nạn. Quân của Trình Quốc Anh đã ở lại Hòn Đất ba tháng để truy lùng vị Hoàng tử Xiêm lưu vong nhưng không tìm ra. Trước khi rút về nước, Trình Quốc Anh cho thành lập trên đảo một căn cứ hải quân và để lại một toán cướp biển nghe ngóng tình hình, tìm cơ hội đánh chiếm Phú QuốcHà Tiên.
Năm 1765, giáo sĩ Bá Đa Lộc (Béhaine de Pigneau) đã thành lập tại Hòn Đất một chủng viện nhỏ với khoảng 40 giáo dân Việt, Xiêm và Hoa sống trong mấy ngôi nhà bằng tre. Năm 1767, Bá Đa Lộc cho vị hoàng tử Xiêm trú ẩn trong chủng viện.
Năm 1769, quân Khmer dưới sự chỉ đạo của một cướp biển người Triều Châu tên Trần Liên đổ bộ lên cướp phá Hòn Đất, rồi kết hợp với hai gia nhân của Mạc Thiên Tứ (Mạc Sung và Mạc Khoán), tiến đánh Hà Tiên. Hai gia nhân làm phản và một số lớn cướp biển Khmer bị Thiên Tứ giết chết, Trần Liên thoát được chạy sang Xiêm La tị nạn. Lợi dụng cơ hội này Mạc Thiên Tứ chuẩn bị đưa hoàng tử Chiêu Thúy về Xiêm La đoạt lại ngôi báu. Ông cho luyện tập binh mã rồi mang quân ra chiếm lại Hòn Đất (1770) và chuẩn bị tiến công Xiêm La.
Công việc đang tiến hành thì vào đầu năm 1771, một cận thần của Mạc Thiên Tứ tên Phạm Lam nổi lên làm phản. Phạm Lam kết hợp với hai cướp biển Trần Thái (Vinhly Malu, người Mã Lai) và Hoắc Nhiên (Hoc Nha Ku, người Khmer) lập đảng gồm 800 người và 15 tàu thuyền tiến vào Hà Tiên nhưng bị Mạc Thiên Tứ đánh bại.
Giữa năm 1771, nhận thấy những đám cướp biển không đánh lại Mạc Thiên Tứ, Trình Quốc Anh dùng Trần Liêm làm hướng đạo, đích thân chỉ huy đạo quân 20.000 người tiến chiếm Hà Tiên. Trình Quốc Anh thiêu rụi thành phố, chiếm tất cả các đảo lớn nhỏ quanh Hà Tiên, mang về rất nhiều vàng bạc. Con cháu, hầu thiếp và người con gái út của Mạc Thiên Tứ bị Trình Quốc Anh bắt sống đem về Bangkok. Mạc Thiên Tứ cùng các con trai phải rút về Rạch Giá, cho người về Gia Định cầu cứu chúa Nguyễn.
Năm 1772, chúa Nguyễn đem khoảng 10.000 quân cùng 300 chiến thuyền sang Chân Lạp đánh quân Xiêm và đưa Nặc Ông Tôn lên ngôi. Trình Quốc Anh làm áp lực tại Hà Tiên buộc quân Việt phải dừng chân tại Nam Vang không được tiến xa hơn. Sau cùng hai bên đi đến một thỏa thuận: chúa Nguyễn rút quân khỏi Chân Lạp và chấp nhận để Nặc Ông Nôn (Ang Non II), người được vua Xiêm chỉ định, lên ngôi vua, còn quân Xiêm rút khỏi Hà Tiên. Năm 1773, Trình Quốc Anh rút quân khỏi Hà Tiên, Phú QuốcHòn Đất, trả lại người con gái bị bắt làm tù binh cho Mạc Thiên Tứ, nhưng buộc Mạc Thiên Tứ phải giao hoàng tử Chiêu Thúy cho quân Xiêm. Chiêu Thúy bị Trình Quốc Anh mang về Bangkok hành quyết.
Năm 1774, Giám mục Bá Đa Lộc trở về Hòn Đất thành lập họ đạo, năm sau ông được Mạc Thiên Tứ tiếp đãi trọng hậu và cho phép đi giảng đạo khắp Hà Tiên.

Lưu vong và mất tại Xiêm La

Vào khoảng năm 1776, khi quân Tây Sơn tiến công vào Gia Định, truy kích tàn quân của chúa Nguyễn, Mạc Thiên Tứ cùng Tôn Thất Xuân chạy sang Xiêm. Nhưng tháng 4 năm 1780, vua Xiêm là Taksin (Trịnh Quốc Anh) nghi ngờ ông làm gián điệp cho Gia Định, bắt giết các con lớn của ông là Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Dung cùng các phó tướng Tôn Thất Xuân, Tham, Tịnh và 50 người tùy tùng, chỉ để lại con nhỏ là Mạc Tử Sanh và một cháu nhỏ bắt phải đi đày.  Quá phẫn uất, ông tự tử tại Băng Cốc. Về sau Mạc Tử Sanh được thả, trở về Gia Định phò giúp Nguyễn Ánh, được phong chức Tham tướng trấn thủ vùng Trấn Giang, có tiếng là tướng giỏi dù chỉ mới 19 tuổi, nhưng mất sớm

Công lao

Mở cõi

Năm 1739, quốc vương Chân Lạp là Nặc Bồn (hay Nặc Bôn) mang quân tới đánh Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ điều động binh sĩ chiến đấu suốt ngày đêm. Vợ chánh Mạc Thiên Tứ là Nguyễn Thị Hiếu Túc đốc sức vợ binh lính chuyển khí cụ và lương thực cho binh sĩ...Quân xâm lấn tan, họ Mạc được chúa Nguyễn khen ngợi, đặc cách cử ông làm Đô đốc tướng quân và ban cho áo bào đỏ cùng mũ, đai. Bà vợ ông cũng được phong làm phu nhân (Hiếu Túc Thái Phu Nhân) 
Năm 1747, giặc biển Đức Bụng vào cướp phá vùng ven biển đạo Long Xuyên (Cà Mau) cũng bị đội quân của Mạc Thiên Tứ đánh đuổi.
Năm 1756, quốc vương Chân LạpNặc Nguyên uy hiếp người Côn Man (người Chiêm Thành di cư sang Chân Lạp), nhưng bị tướng Nguyễn Cư Trinh đánh bại, phải chạy sang Hà Tiên nương nhờ họ Mạc. Mạc Thiên Tứ dâng thư lên chúa Nguyễn, nói Nặc Nguyên có ý muốn dâng đất Tầm Bôn, Lôi Lạp để chuộc tội. Chúa Nguyễn đồng ý và cho người hộ tống Nặc Nguyên về nước. Hai vùng đất đó trở thành hai phủ Gò CôngTân An.
Năm 1757, Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc, từ lâu có ý muốn làm vua Chân Lạp, liền dâng hai xứ Preah Trapeang và Basac (tức vùng Trà Vinh, Ba Thắc). Nhưng lúc đó, Nặc Nhuận bị con rể giết chết cướp ngôi. Con trai là Nặc Tôn chạy sang cầu cứu Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đứng ra sắp xếp, xin chúa Nguyễn cho Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn thuận và sai Mạc Thiên Tứ cùng tướng sĩ năm dinh hộ tống đưa Nặc Tôn về nước. Để tạ ơn, Nặc Tôn dâng Tầm Phong Long (vùng đất giữa Sông TiềnSông Hậu) cho chúa Nguyễn. Riêng họ Mạc, Nặc Tôn dâng năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Lình Quỳnh để đền ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy dâng cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho sảt nhập vào Hà Tiên trấn, giao cho họ Mạc cai quản. Mạc Thiên Tứ chia đất đó thành hai đạo: xứ Rạch Giá là Kiên Giang đạo, xứ Cà Mau là Long Xuyên đạo, đặt quan cai trị, chiêu lập dân ấp 
Ngoài ra, từ 1775 đến 1777, Mạc Thiên Tứ đã cùng các con là Mạc Tử Dung, Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Thảng (hoặc Thượng) phò tá chúa Nguyễn Phúc Thuần, đóng giữ ở Trấn Giang (nay là Cần Thơ) và dốc sức phát triển vùng đất này.

Phát triển kinh tế

Sách Đại Nam liệt truyện tiền biên ghi:
Bính Thìn năm thứ 11 (1736). Mùa xuân chúa cho Thiên Tứ làm Hà Tiên trấn Đô đốc, ban cho ba thuyền Long Bài, được miễn thuế, lại sai mở lò đúc tiền để việc mua bán được thông thương. Thiên Tứ mở rộng phố chợ, thương nhân và lữ khách các nước tụ họp rất đông.
Dẫn lại đoạn sử trên, tác giả Nghiên cứu Hà Tiên khen: Ngay khi lãnh nhiệm vụ, Thiên Tứ đã vực dậy nền kinh tế, tạo dựng Hà Tiên thành một cảng khẩu trù phú, sung túc. Điều đó cho thấy năng lực của người lãnh đạo Hà Tiên (ý nói Thiên Tứ) thời đó quả không nhỏ.

Đóng góp cho văn học

Cùng với Trần Trí Khải tự Hoài Thủy, một danh sĩ người Việt Đông (Trung Quốc), Mạc Thiên Tứ đã tổ chức thành công Tao đàn Chiêu Anh Các vào năm 1736Hà Tiên. Kể từ đó cho tới năm 1771, tao đàn trên đã đóng góp cho nền văn học Việt nhiều tác phẩm có giá trị, như: 'Hà Tiên thập cảnh, Thụ Đức Hiên tứ cảnh, Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh, Minh bột di ngư.. 

Về năm sinh...

Mạc Thiên Tứ sinh năm Mậu Tuất (1718). Điều này được biên chép trong các sách sau:
  • Sách Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh  , soạn vào năm 1818, ghi:
"Ngày 27 tháng 5 năm Ất Mão (1735), ông Mạc Cửu bệnh mất, là lúc ông Thiên Tứ mười tám tuổi...”
"Hà Tiên không phòng bị, giặc Xiêm chợt đến, đánh một trận không nổi, Mạc Tổng binh (Mạc Cửu) chạy về Lũng Kỳ, vợ...đương có thai, đêm mồng 17 tháng 3 sinh Mạc Tông (Mạc Thiên Tứ)..."
Trong một đoạn khác, tác giả ghi rõ ngày tháng diễn ra trận giặc trên như sau: “Tháng 2 mùa xuân năm Mậu Tuất (1718), Phi nhã Cù Sa đem 5000 thủy binh cùng Nặc Ông Thâm tiến về Hà Tiên nhân thế mà cướp bóc, Mạc Tổng binh không địch nổi, chạy về Lũng Kỳ...
Ngoài ra, còn hai quyển nữa, là:
  • Gia phả Hà Tiên bằng chữ Nôm của Trần Đình Quang, hoàn thành cuối thế kỷ 19, hiện đang được bảo quản tại Đông Hồ Thi Nhân Kỷ Niệm Đường ở Hà Tiên. Nơi tờ 4a của sách, có chi tiết liên quan.
  • Một người Trung Quốc ở vùng Nam Hải, người sáng lập xứ Hà Tiên của GS Émile. Gaspardone, Quản đốc Thư viện Trường Viễn Đông Bác CổHà Nội (nay là Thư viện của Viện Hán Nôm Việt Nam). Trong sách có câu: "Sinh năm 1718, Mạc Thiên Tứ chết năm 1780, thì ông chỉ có 62 tuổi" (xuất bản 1952, tr. 354, phụ chú 5)
Theo nghiên cứu của ông Trương Minh Đạt, sở dĩ có chuyện Mạc Thiên Tứ sinh năm Bính Tuất (1706), là vì Đông Hồ không tin năm Canh Tuất được chép trong Mạc thị gia phả, nhưng cuối cùng thi sĩ đã suy tính sai. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét