Thứ Bảy, 16 tháng 4, 2016

QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH MỞ NƯỚC, DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT19/b

 (ĐC sưu tầm trên NET)

Thời kỳ Tái Vong Quốc và Tái Phục Quốc

Thời Pháp thuộc (1858-1956)

quân Pháp đổ bộ vào Thuận An
quân Pháp hạ thành Bắc Ninh năm 1884
Chiến tranh Pháp-Đại Nam (1858-1884)(tiếp)

Trương Định

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Chân dung Trương Định
Trương Định (chữ Hán: 張定; 1820-1864) hay Trương Công Định hoặc Trương Đăng Định, là võ quan nhà Nguyễn, và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859-1864, trong lịch sử Việt Nam.

Thân thế, sự nghiệp

Trương Định sinh tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi). Cha ông là Lãnh binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ uý ở Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị.

Theo cha vào Nam

Năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam. Sau khi cha mất, ông ngụ ngay nơi cha đóng quân. Sau đó, ông kết hôn với bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện Tân Hòa (Gò Công Đông ngày nay).
Năm 1850, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của tướng Nguyễn Tri Phương, Trương Định xuất tiền ra chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền ở Gia Thuận (Gò Công), vì thế, ông được nhà Nguyễn bổ làm Quản cơ, hàm lục phẩm

Trở thành thủ lĩnh chống Pháp


Mộ và Đền thờ Trương Định ở thị xã Gò Công
Tháng 2 năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định. Sau đó, Trương Định đem quân đồn điền của mình lên đóng ở Thuận Kiều (Gia Định), và từng đánh thắng đối phương ở Cây Mai, Thị Nghè...
Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần thứ hai, Trương Định đem quân phối hợp với binh của tướng Nguyễn Tri Phương phòng giữ chiến tuyến Chí Hòa. Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui về Gò Công, cùng Lưu Tiến Thiện, Lê Quang Quyền chiêu binh ứng nghĩa, trấn giữ vùng Gia Định-Định Tường.
Ở đây, Trương Định tổ chức lại lực lượng, triển khai tác chiến trong các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Campuchia.
Kể về ông ở giai đoạn này, sử nhà Nguyễn chép:
Trương Định am hiểu võ nghệ, dũng cảm, mưu lược. Tự Đức năm thứ 14 (1861), thành Gia Định hữu sự  , Định hưởng ứng việc nghĩa, chiêu mộ thú dõng được hơn 6.000 người, lại kiêm quản những đầu mục thân hào mộ việc nghĩa, dồn lập 18 cơ quân, luôn chống đánh người Pháp, thu được súng ống khí giới và đúc chế thêm để dùng, được bạt bổ làm Quản cơ lĩnh Phó Lãnh binh Gia Định  
Ngày 5 tháng 6 năm 1862, triều đình Huế ký kết hòa ước với Pháp. Cũng theo sử nhà Nguyễn thì:
Tháng 7 năm 1862...từ khi đã định hòa ước rồi, Ngài [Tự Đức] truyền dụ Nam Kỳ nghỉ binh và đòi Trương Định ra Phú Yên. Khi ấy trong các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa những người ứng nghĩa rủ nhau đoàn kết, tôn Trương Định làm Đại đầu mục, xin cho ra đánh, Đình thần nghị rằng: "bây giờ việc Bắc Kỳ đương khẩn, mà Nam Kỳ chưa có cơ hội gì, xin giao Phan Thanh Giản hiểu dụ". Nhưng Trương Định đã lâu mà không chịu về cung chức, bị cách chức hàm  
Trên thực tế, ông đã từ chối thư dụ hàng của tướng Pháp là Bonard, bất chấp chiếu vua ra lệnh bãi binh do Phan Thanh Giản truyền vào và rút quân về Gò Công, xưng là Trung thiên tướng quân và được nhân dân tôn là Bình Tây Đại Nguyên soái, lấy nơi này làm bản doanh, xây dựng các căn cứ địa kháng chiến.
Ngày 16 tháng 12 năm 1862, Trương Định đã ra lệnh tấn công các vị trí của quân Pháp ở cả ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, đẩy Pháp vào tình thế lúng túng, bị động. Tháng 2 năm 1863, nhờ có viện binh, Pháp phản công tại Biên Hòa, Chợ Lớn, bao vây Gò Công. Ngày 26 tháng 2 năm 1863, Pháp đánh chiếm thành trì, ông thoát khỏi vòng vây và kéo quân về Biên Hòa.
Tháng 9 năm 1863, tướng Lagrandière sang thay Bonard, mở cuộc càn quét thứ hai, bắt được vợ con và một số tùy tùng của Trương Định.

Tuẫn tiết


Bàn thờ Trương Định ở bên trong đền
Ngày 19 tháng 8 năm 1864, Huỳnh Công Tấn phản bội dẫn đường cho quân Pháp bất ngờ bao vây đánh úp. Bản doanh Đám lá tối trời[7] thất thủ, Trương Định bị trọng thương (gãy xương sống)  Để bảo toàn khí tiết, ông đã rút gươm tự sát tại Ao Dinh (Gò Công) vào rạng sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864  . Khi ấy, ông 44 tuổi.
Hay tin Trương Định tuẫn tiết, vua Tự Đức sai truy tặng ông phẩm hàm, và năm 1871 lại cho lập đền thờ ông tại Tư Cung (Quảng Ngãi). Con ông là Trương Quyền đã rút lên vùng Châu Đốc tiếp tục chống Pháp thêm 6 năm nữa.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã làm 12 bài thơ và một bài văn tế điếu ông. Trích giới thiệu một bài:
Trong Nam, tên họ nổi như cồn
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn
Đấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷ
Hơi gươm thêm rạng vẻ huỳnh môn
Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ
Quả ấn Bình Tây đất vội chôn
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ
Lâm dâm ba chữ điếu linh hồn.

Tuyên bố

Tuyên bố của Trương Định trong thư trả lời thư dụ hàng của tướng Pháp Bonard vào cuối năm 1862:
Tuyên bố của Trương Định gửi các quan ở Vĩnh Long, để tỏ ý ly khai với Nam triều (vì sau hòa ước Nhâm Tuất, vua Tự Đức ra lệnh ông phải bãi binh) vào tháng 2 năm 1863:
Hịch của Trương Định (tháng 8 năm 1864):
Mấy đoạn trích trên, được ghi trang trọng tại đền thờ Trương Định, ở ngay trung tâm thị xã Gò Công.

Nhận xét

Lúc bấy giờ (tháng 6 năm 1861) có một người An Nam rất cương quyết và hào hùng tên là Trương Dinh cho biết sẽ dấy loạn khởi nghĩa trong toàn xứ...Là một trong số những người nhiều nghị lực nhất, anh ta đánh lừa là đã chết trong trận Gò Công, nhưng sau đó lại xuất hiện và chiến đấu trong hết mùa mưa...Mãi về sau này, khi ta đã chiếm Biên Hòa, tên Trương Dinh tung hoành tàn phá hết hai vùng tứ giác của ta...
  • Trong sách Sài Gòn xưa-Ấn tương 300 năm của nhà văn Sơn Nam có đoạn:
Yêu nước đậm đà, khảng khái trước nghĩa lớn, đứng hàng đầu trong phong trào kháng Pháp ở Nam Kỳ vẫn là Trương Định. Mang ơn vua, giữ đất cho vua (Gò Công là nơi phát tích của Phạm Đăng Hưng và con gái là bà Từ Dũ), nhưng chống lệnh khi cắt đất cho Pháp. Trương Định và dân đồn điền lợi dụng địa hình rừng ngập mặn Gò Công để khởi nghĩa, đắp đập, xây lũy. Giặc phải vất vả, tổ chức nội ứng mới giết được ông, qua nhiều cuộc hành quân cấp tướng, bố trí súng lớn trên thuyền nhỏ, để di chuyển nơi nước cạn. Địch phải đem xác ông phơi trước chợ để làm chứng cớ...và chôn ông giữa chợ, nếu chôn nơi hẻo lánh, e nghĩa quân lập đàn tế cờ, phục thù cho chủ tướng. Cụ Đồ Chiểu đã đem tất cả tâm huyết viết bài văn tế ông và 10 bài liên hoàn

Gia quyến

Người vợ chính

Lê Thị Thưởng (?-?) là con gái một hào phú ở huyện Tân Hòa (Gò Công). Bà và Trương Định kết hôn năm nào không rõ, nhưng theo sử sách thì ...vào năm 1854, nhờ sự trợ giúp của gia đình bên vợ, Trương Định xuất tiền của, chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền Gia Thuận (Gò Công) 
Sau khi chồng và con mất vì việc nước, chép chuyện của bà như sau:
(Trương Định) sau vì thất lợi mà mất, con ông là (Trương) Tuệ cũng chết vì việc quân, vợ (Trương) Định là Lê Thị Thưởng vì không nơi nương tựa nên về quê quán (Quảng Ngãi, quê chồng) làm ăn. Năm (Tự Đức) thứ 27 (1874), quan tỉnh Quảng Ngãi tâu rằng, (Trương) Định là người có nghĩa khí rất đáng khen mà nay vợ của (Trương) Định lại là người nghèo khổ, rất đáng thương. Vậy, xin cấp dưỡng suốt đời cho (vợ Trương Định) mỗi tháng 20 quan và 2 phương gạo...
Năm (Tự Đức) thứ 34 (tức năm 1881), lại cấp thêm cho người vợ (của Trương Định) mỗi tháng 10 quan, đồng thời, sai xã ấy phải thỉnh thoảng đến thăm. Khi bà mất, (vua ban) cho 100 quan tiền (để mai táng).

Người vợ thứ

Trần Thị Sanh (1820-1882) là em con cô của thái hậu Từ Dụ . Trước khi về làm vợ thứ Trương Định, bà từng có một đời chồng là ông Dương Tấn Bổn và một cô con gái tên Dương Thị Hương  Ông Bổn mất sớm , tình nghĩa vợ chồng đứt đoạn, bà Sanh quyết chí lo chuyện làm ăn và trở thành một trong những người giàu có ở xứ Gò Công.
Giàu có, bà Sanh dùng tiền mua lúa gạo, nhờ Trương Định đem cứu tế dân, và còn đưa tiền cho ông Định quy tụ dân đi khai khẩn đất đai. Sau khi chồng chết được 2 năm, bà về làm hầu thiếp cho Trương Định  nên dân gian mới gọi là bà Hầu.
Gò Công có bốn tổng giàu,
Mà riêng có một bà Hầu giàu to.
Khi Trương Định phất cờ đánh Pháp, bà Sanh (khi này đã trở thành vợ thứ Trương Định) lo việc rèn vũ khí, tích trữ lương thực cho nghĩa quân. Khi chồng mất, bà đem xác ông về chôn tại Gò Công.

Lăng mộ

Mộ Trương định ban đầu (1864) được làm bằng hồ ô dước và trên bia đá có khắc mấy chữ: Đại Nam - An Hà lãnh binh kiêm Bình Tây Đại tướng quân Trương công húy Định chi mộ. Nhà cầm quyền Pháp bắt đục bỏ hàng chữ Bình Tây Đại tướng quân và phạt bà Sanh 10.000 quan tiền vì tội lập bia trái phép.
Năm 1874, bà Sanh làm đơn xin tu sửa mộ cho chồng. Lần này mộ Trương Định được xây bằng đá hoa cương, có 3 bức hoành phi và 6 trụ đá ghi lại thân thế và sự nghiệp của ông. Một lần nữa, các hoành phi và trụ đá bị Pháp ra lệnh đục bỏ...
Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh cho biết: "Trải nhiều năm Pháp thuộc, mộ Trương Định trở thành hoang phế. Sau có bà Huỳnh Thị Điệu, còn gọi là bà Phủ Hải , cho sửa chữa lại. Năm 1956, được sửa sang lần nữa"...
Từ năm 1972 đến năm 1973 xây thêm đền thờ. Lăng mộ và đền thờ Trương Định đã được Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam công nhận là Di tích lịch sử-văn hóa quốc gia ngày 6 tháng 12 năm 1989.
Lễ hội tưởng niệm ông diễn ra tại đây các ngày 19 và 20 tháng 8 dương lịch hàng năm.

Trương Quyền

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trương Quyền (1844 - ?), còn có tên Trương Huệ hay Trương Tuệ, là một thủ lĩnh trong phong trào kháng Pháp ở nửa sau thế kỷ 19 tại Nam Kỳ, Việt Nam.

Cuộc đời

Trương Quyền là người làng Gia Thuận, huyện Tân Hòa phủ Hòa Thạnh (tách từ phủ Tân An) tỉnh Gia Định nhà Nguyễn (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).
Ông là con trai của Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định và bà Lê Thị Thưởng. Lúc nhỏ, nhờ ham tập rèn võ nghệ, nên khi vừa lớn lên, Trương Quyền đã tỏ ra là người dũng cảm, có khí chí và tinh thông võ nghệ.
Năm 1859, Trương Định khởi binh chống Pháp. Năm 17 tuổi, Trương Quyền theo cha ra trận.
Ngày 20 tháng 8 năm 1864, Trương Định bị thương rồi tuẫn tiết tại Ao Dinh (Gò Công). Nối chí cha, Trương Quyền dẫn quân đến vùng Đồng Tháp MườiTây Ninh (vùng An Cơ cũ) lập chiến khu tiếp tục kháng chiến.
Danh sĩ Nguyễn Thông (1827-1884), người cùng thời viết:
Con (Trương Định) là Trương Quyền, tuy tuổi còn trẻ, song biết cầm quân, thường được gọi là Nhị Lang quân (cậu Hai). Sau khi Định chết thì Quyền trốn đi... 
Ở nơi đó, ông đã liên kết với lực lượng của: Thiên Hộ Dương, Phan Chỉnh  , cùng các lực lượng của người: Khmer (do Pôkumpô lãnh đạo), Chăm, Stiêng, Mơ Nông,...cùng tham gia. Nhờ vậy, lực lượng liên quân Việt-Khmer đã tổ chức đánh thắng nhiều trận: Rạch Vịnh  Trà Vang (Tây Ninh), Thuận Kiều (Chợ Lớn), Củ Chi, Hóc Môn, Trảng Bàng, Tân An, Uđông (Oudong, Cam Bốt)...gây được thanh thế lớn.
Nổi bật là trận đồn Tây Ninh ngày 7 tháng 6 năm 1886, giết chết chủ tỉnh Larclause, sĩ quan phụ tá Lasage cùng 11 lính. Pháp đưa viện binh từ Sài Gòn lên đánh trả, một cuộc đụng độ lớn đã xảy ra ở rạch Vịnh ngày 14 tháng 6 năm 1886, Thiếu tá Marchaise tử trận.
André Baudrit kể:
Sau trận đánh (đồn Tây Ninh) 9 giờ, có lần quân Pháp liều ra lấy xác, Viên quan ba Pi-nô kéo quân qua cầu, vừa qua khỏi cầu, thoáng thấy bó nghĩa quân núp sau cây thì đâm hoảng, xô nhau chạy về đồn, chỉ mang được xác Lasage, vì xác này nằm ngay đầu cầu. 
Paulin Vial viết:
Tin tức về sự thiệt hại nặng nề của ta trong trận Rạch Vịnh đã lan tràn trong nhân dân như một ngọn lửa thuốc súng; các lãnh tụ khởi nghĩa phái người đi cổ vũ các nơi, cả trong hàng ngũ chúng ta, cả trong thành phố Sài Gòn và họ đang tìm cách tấn công ta ngay tại phủ của ta.
Lúc này, liên quân Việt-Khmer đã kiểm soát được một vùng rộng lớn giữa hai con sông Vàm Cỏ ĐôngVàm Cỏ Tây, từ Xvây-riêng (Campuchia) đến Trảng Bàng (Tây Ninh). Lo ngại, thực dân Pháp bèn huy động một lực lượng lớn, liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét vào căn cứ Tây Ninh. Đồng thời, họ còn cho phong tỏa các nguồn tiếp tế, khiến đời sống của nghĩa quân gặp vô vàn khó khăn.
Ngày 2 tháng 7 năm 1866, quân Pháp tổ chức tấn công căn cứ Trà Vong. Để tiêu diệt bằng được đối phương, Pháp tăng viện binh tấn công lớn vào rạch Vịnh lần nữa. Liên quân tổn thất nặng phải rời căn cứ  .
Cuối tháng 7 năm 1866, Pôkumpô đưa quân về Campuchia chiến đấu (sau trong một trận kịch chiến, vị thủ lĩnh này đã bị thương, bị bắt và bị bêu đầu ngày 3 tháng 12 năm 1867).
Cuối tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, phong trào kháng chiến ở nhiều nơi đã bị đối phương dập tắt hay làm cho suy yếu, nên quân Trương Quyền vừa thiếu thốn nhiều mặt vừa lâm cảnh thế cô. Vì thế, ông phải đưa quân rút vào rừng sâu ở Suối Giây, một nơi nghèo nàn, dân thưa, lúa ít ở phía bắc rừng Tây Ninh.
Ngày 28 tháng 7 năm 1867, quân Pháp bất ngờ mở cuộc tấn công vào Suối Giây. Nghĩa quân kháng cự quyết liệt, nhưng trước vũ khí mạnh của đối phương, Trương Quyền đành phải chia lính ra từng toán nhỏ, vừa đánh vừa rút lui, định về phối hợp với anh em Phan Tôn, Phan Liêm đang dấy quân kháng Pháp mạnh mẽ ở Bến Tre, Trà VinhSóc Trăng...
Về nguyên nhân mất và năm mất của ông, các sách chép rất khác nhau:
  • Trương Quyền bị bệnh sốt rét nặng, qua đời khi mới 22 tuổi (tức năm 1866. Theo website tỉnh Quảng Ngãi  ).
  • Năm 1867, trong một trận bị giặc phục kích, Trương Quyền đã hy sinh. (Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, bản điện tử).
  • Năm 1870, không thể nào vây bắt được Trương Quyền, bộ chỉ huy Pháp phải thuê người ám sát (Lịch sử Việt Nam [1858 - cuối XIX], quyển 3, tập 1, phần 1, tr. 81). Tuy nhiên, sách Hỏi đáp lịch sử (tập 4, tr. 133) lại ghi ông mất vì bệnh tại Cẩm Giang vào năm đó.
  • Đến khi nghĩa quân tan rã vì thiếu vũ khí, lương thực, thuốc men; Trương Quyền về rừng Bến Kéo (nay thuộc xã Long Thành Nam, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh) lập trại dưỡng bệnh và mất năm 1871 (Lịch sử địa phương tỉnh Tây Ninh, tr. 11) 

Ghi công

GS. Trần Văn Giàu viết:
Nhà lãnh đạo trẻ tuổi Trương Quyền xứng đáng với cha, xứng đáng với dân tộc. Ông đã vượt qua bao thành kiến cũ kỹ để bắt tay với các dân tộc láng giềng, không nề phơi thây trên chiến trường...
Hiện nay ở phường 4, quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên ông.

Võ Duy Dương

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tượng Võ Duy Dương trong Bảo tàng tỉnh Đồng Tháp
Võ Duy Dương (chữ Hán: 武維楊; 1827-1866), còn gọi là Thiên Hộ Dương (千戶楊, do giữ chức Thiên hộ), là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp (1862-1866) ở Đồng Tháp Mười, Việt Nam.

Tiểu sử

Nơi quê nhà

Theo tư liệu của gia đình họ Võ ở Nhơn Tân (An Nhơn, Bình Định) và của Ban Nghiên cứu lịch sử tỉnh Bình Định, Võ Duy Dương sinh năm 1827 tại thôn Cù Lâm Nam nay là thôn Nam Tượng I, xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Nam Tượng I là một thôn nhỏ nằm dưới chân núi Thơm, cách sông Côn 4 km về phía Nam, cách làng Kiên Mỹ 12 km.
Tổ tiên của Võ Duy Dương là Võ Hữu Man từ miền Bắc vào thôn Nam Tượng lập nghiệp, đến đời Võ Duy Dương là đời thứ 6. Theo lời kể của cụ Võ Quế, 85 tuổi (1989), cháu nội Võ Duy Dương, thì ông Dương là con thứ ba trong gia đình, và thuở nhỏ ông Dương là người sáng trí, khỏe mạnh, giỏi võ nghệ. Khi cha qua đời, gia đình sa sút, ông Dương phải đi chăn trâu để sinh sống. May nhờ vị quan sở tại cảm thông hoàn cảnh nghèo khó và mến tài nên nhận làm con nuôi.
Trong một kỳ thi võ, ông cử được một lúc 5 trái linh, mỗi trái 60 cân (hai tay xách 2 trái, hai nách kẹp 2 trái, răng cắn 1 trái , nên từ đó mọi người đều gọi ông là Ngũ Linh Dương. Ông có người anh thứ tên là Võ Duy Tân, sau này tham gia phong trào Cần Vương kháng PhápBình Định do Mai Xuân Thưởng chỉ huy. Sau khi Mai Xuân Thưởng chết, ông Tân lại theo Võ Trứ, bị Pháp bắt và xử án chém cùng với nhiều nghĩa quân khác tại Gò Chàm (Bình Định) ngày 13 tháng 9 năm Đinh Dậu (tức ngày 9 tháng 10 năm 1898), thọ 73 tuổi.

Vào Nam kháng Pháp

Năm 1853, theo đề nghị của các quan, trong đó Nguyễn Tri Phương, vua Tự Đức ban hành chính sách đồn điền. Năm 1857, hưởng ứng chính sách vừa kể, Võ Duy Dương vượt biển vào Nam Kỳ tìm đến đất Ba Giồng, ven Đồng Tháp Mười (nay thuộc địa bàn các huyện Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè, thuộc tỉnh Tiền Giang), để chiêu dân lập ấp, kết bạn với Nguyễn Hữu Huân và trở thành một hào phú ở địa phương.
Tháng 2 năm 1859, Pháp đánh chiếm Gia Định rồi đánh chiếm thành Mỹ Tho (tháng 4 năm 1861), Võ Duy Dương cùng Thủ Khoa Huân kéo lực lượng về Gia Định đánh trả. Vì vậy, ông được phong chức Chánh quản đạo. Thành Gia Định vỡ, ông vượt biển về Kinh đô Huế, bái yết vua Tự Đức hiến kế đánh đuổi Pháp. Sau đó, ông được điều về Quảng Nam dẹp cuộc nổi dậy của người Thạch Bích (mọi Vách Đá) và được phong hàm Chánh bát phẩm Thiên hộ vào năm 1860.
Tháng 5 năm 1861, ông được sung vào phái bộ của Khâm phái quân vụ Đỗ Thúc Tĩnh vào Nam Kỳ với nhiệm vụ chiêu mộ nghĩa dõng chống ngoại xâm. Trong một thời gian ngắn, ông mộ được gần một ngàn người, trong số đó, có cả lính đánh thuê thuộc quân đội Pháp và một người Pháp là Liguet   và ông được phong chức Quản cơ.
Ông đóng quân ở Bình Cách, liên kết với Trương ĐịnhGò Công, Trần Xuân Hoà (Phủ Cậu) ở Thuộc Nhiêu và Đỗ Thúc Tĩnh ở Mỹ Quý. Tự giác giương cao khẩu hiệu "Cần Vương" chống Pháp, nghĩa quân lấy Đồng Tháp Mười là vùng rừng đầm lầy, hiểm trở vào bậc nhất ở Nam Bộ thời bấy giờ làm căn cứ. Từ đây, nghĩa quân dùng chiến thuật du kích đánh Pháp trên cả một vùng rộng lớn từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Đồng Tháp, gây cho đối phương nhiều tổn thất.
Giữa lúc lực lượng nghĩa quân đang quyết chiến, thì triều đình HuếHòa ước Nhâm Tuất (1862). Ngay sau đấy, triều đình Huế buộc các tổ chức nghĩa quân phải hạ khí giới. Không tuân lệnh, ông bị triều đình tước binh quyền và sai người lùng bắt (Phan Thanh Giản nhận lệnh triều đình, sai quản cơ Trần Văn Thành truy đuổi) 
Sau, Thủ Khoa Huân, Trương Định lần lượt hy sinh. Tuy nhiên, Võ Duy Dương cùng với các nghĩa sĩ khác như Nguyễn Tấn Kiều (tức Đốc Binh Kiều), Trần Kỳ Phong, Thống Bình, Lãnh Binh Dương, Thương Chấn, Thống Đa, Quản Văn, Quản Là,...vẫn không hề nản chí.
Ngày 14 tháng 4 năm 1866, Pháp huy động một lực lượng gồm ngót ngàn quân thủy bộ cùng nhiều tàu chiến, đại bác chia làm ba mũi đồng loạt tiến công từ ba hướng Cần Lố, Cái Nứa và Bắc Chiêng, quyết đánh chiếm sở chỉ huy của nghĩa quân. Nhiều trận đụng độ ác liệt đã xảy ra, làm đối phương bị tiêu hao không ít, nhưng trước sức công phá của vũ khí mạnh, nghĩa quân phải rút đi, sau khi Đồn Trung bị đánh hạ   Theo Hồ sơ cá nhân của Trần Bá Lộc mang số SL. 311 trong Văn khố Quốc gia, thì ông Lộc có tham gia trận này, và sau đó được thực dân Pháp tặng thưởng Danh dự Bội tinh bạc cũng vào tháng 4 năm đó  
Sau khi rút khỏi Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương đem quân phối hợp với con của Trương Định là Trương Quyền và thủ lãnh người KhmerAcha Xoa, tiếp tục đánh Pháp nhiều trận trước khi suy yếu dần.

Mất trên đường đi ra Huế

Tháng 10 năm 1866, Võ Duy Dương dùng thuyền theo đường biển ra Bình Thuận để cầu viện sự giúp đỡ của triều đình và liên lạc với nghĩa sĩ miền Trung nhằm gây dựng lại lực lượng.
Dựa vào những phân tích của Gustave Janneau về hai bản tấu kín của ông Dương dâng vua Tự Đức thì rất có thể triều đình cho vời ông ra Huế để trình bày kỹ càng hơn việc: "đề nghị nhà vua cho phép dùng mưu kế thu hồi lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ", "nếu nhà vua cho lệnh, ông có thể tiêu diệt hết binh lính Pháp ở nơi kênh rạch nhỏ hẹp, nơi mà các đại bác mất tác dụng"...
Cũng không loại trừ khả năng triều đình đang tìm cách bó tay Võ Duy Dương, để làm vừa lòng Pháp, không cho họ lấy cớ vì ông "phá quấy" mà lấn chiếm đất thêm, vì bấy giờ chủ súy Pháp vẫn cho là các quan lại ở ba tỉnh miền Tây vẫn chứa giấu Thiên Hộ Dương 
Nhưng không may, khi đến cửa biển Cần Giờ, ông và các thuộc hạ đều bị cướp biển sát hại, nên câu hỏi vì sao ông ra Huế vẫn chưa có lời đáp.

Giải thích thêm nguyên nhân mất

Tuy vẫn còn vài ý kiến khác, nhưng theo những nỗ lực tìm kiếm xác minh gần đây, nhiều nhà nghiên cứu sử đã đồng thuận rằng Võ Duy Dương đã bị cướp biển giết ở mũi Thị Khiết (Thần Mẫu) thuộc vùng biển Cần Giờ, khoảng tháng 10 năm 1866, lúc ông mới 39 tuổi.
Bởi căn cứ vào các nguồn:
  • Trong báo cáo của Nguyễn Đức Hạnh gửi cho Chánh sở mật thám Pháp:
Người này tên là Dương đã bỏ trốn sau khi Tháp Mười bị chiếm. Ông ta lên chiếc ghe bầu để đi Bình Thuận. Trước khi đến xứ này, ông đã bị tên Lý Sen, cầm đầu một đám cướp biển tấn công. Lý Sen đi trên một chiếc thuyền mành mà người ta gọi là "Thiền du", đã cho liệng xuống biển tất cả những người An Nam đi trên chiếc ghe cửa này. Lý Sen lục lọi trong một chiếc rương lớn lấy tất cả áo quần, các cấp bằng và mũ miện của Thiên Hộ Nguyên soái tên Võ Duy Dương.
Nguyễn Đức Hạnh còn cho biết thêm sau đó tên Sen bị bắt vì Hai Sĩ tố cáo y đã cướp bóc nhiều ghe biển, và tên Sen đã cắn lưỡi chết trong ngục.
  • Tác giả Schreiner trong quyển Đại Nam Quốc sử  cũng đã tái xác nhận nguồn tin này:
Người ta nghe tin ông Võ Duy Dương mới chết chìm tại phía mũi Đinh (Padaran), là nơi ông đánh với ba chiếc ghe tàu ô của đảng ăn cướp, quân ấy hạ hết người trên hai ghe.
  • Trong dân gian ở xã Mỹ Thọ (Cao Lãnh, Đồng Tháp) còn lưu truyền nguồn tin là sau khi thất thủ ở Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương rút qua An Giang, Rạch Giá và bị cướp biển chặn đánh và chết ở cửa biển Rạch Giá (địa điểm chết khác với 2 tài liệu trên).
Ngoài ra, còn có hai tư liệu sau, cũng cho rằng ông Dương mất ngoài biển cả, nhưng nguyên do là vì bão tố làm cho đắm thuyền:
  • Trong Đại Nam thực lục chính biên  
Thiên Hộ Dương ủy người về dâng sớ kín. Vua sai Vũ Trọng Bình hỏi kín, cốt phải hỏi đến chỗ cùng bàn cho ổn thỏa. Rồi được quan Thuận Khánh báo rằng Võ Duy Dương đi thuyền về tỉnh Bình Thuận đầu thú gặp gió nên bị đắm ở phận biển Thần Mẫu, sai đi tìm xác, chi đồ vật đem chôn, cấp cho mẹ hắn mỗi tháng 5 quan tiền, 1 phương gạo.
Thoát thân về với ghe bầu,
Khỏi nơi Cần Hải tiền xu đoán thoàn.
Giấc nồng đêm dậy nhảy khan,
Hồn chôn bụng cá ưng oan chẳng cần.

Giai thoại

Ở làng Bình Cách, nay là xã Tân Bình Thạnh (Chợ Gạo, Tiền Giang) đến nay còn lưu truyền câu chuyện Ông Năm Linh và bà Bảy Vàng như sau:
Ông Năm Linh (từ tên gọi Ngũ Linh Dương mà ra), người miền Trung, võ nghệ cao cường, tánh tình cương trực hay làm việc nghĩa, giao du rộng...
Ông vào Nam lập nghiệp. Lúc Tây xâm lược Nam Kỳ, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa dõng, quyên góp lúa gạo mua súng đạn đánh Tây, được nhiều người hưởng ứng.
Bá hộ Học (Trần Văn Học) là điền chủ giàu có nhất nhì trong vùng, chẳng những ủng hộ lúa gạo mà có bán ruộng lấy tiền bạc, mua súng ủng hộ nghĩa quân. Để khích lệ người anh hùng có chí lớn, bá hộ Học đem "đưa" cô con gái duy nhất là Bảy Vàng cho ông Năm Linh.
Từ khi về với ông Năm, dù là "gái đưa" chứ không phải vợ chính thức cưới hỏi, nhưng bà Bảy Vàng chẳng những một lòng chung thủy thờ chồng mà còn giúp chồng nhiều việc trong công cuộc quốc sự.
Khi ông Năm Linh cùng nghĩa quân rút vào Đồng Tháp Mười, bà cũng theo chồng để lo việc tiếp tế lương thực nuôi quân. Đến khi đại đồn Tháp Mười thất thủ, ông Năm Linh theo ghe bầu về Huế cầu viện, bà Bảy Vàng ở lại nuôi con chờ chồng. Khi nghe tin ông bị chết ngoài biển, bà buồn rầu mà mất.

Tưởng nhớ


Đền thờ Võ Duy Dương và Đốc Binh Kiều ở Gò Tháp, xã Mỹ Hòa, huyện Tháp Mười
Để tưởng nhớ Võ Duy Dương, tại Gò Tháp (xã Mỹ Hòa, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp), người dân đã lập đền thờ ông và đã được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia. Tại nơi ông sinh ra (xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn), năm 1997, dòng họ đã góp tiền xây dựng đền thờ và hàng năm tổ chức tế lễ. Gần đây, sáng ngày 15 tháng 12 năm 2007 Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam trao tặng cho đền thờ Võ Duy Dương tại xã Nhơn Tân, thị xã An Nhơn một tượng đồng phác họa chân dung ông, trong chương trình "Mỗi người một giọt đồng đúc tượng danh nhân". Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình có con đường mang tên Võ Duy Dương ở phường Nam Lý (từ đường Phong Nha tới đường Đặng Văn Ngữ)
Tại đền thờ ông và Đốc Binh Kiều ở Gò Tháp có câu đối:
Sử sách sáng chói danh Thiên Hộ,
Bia miệng lưu truyền tiếng Đốc binh.
Ở đây cũng còn lưu truyền câu ca dao:
Chiều chiều mây giục gió vần
Cảm thương Thiên Hộ xả thân cứu đời!
Ngày 14 tháng 11 âm lịch hằng năm, là ngày giỗ chung hai ông.

Nguyễn Trung Trực

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Chân dung Nguyễn Trung Trực trong đền thờ tại Phú Quốc, Việt Nam.
Nguyễn Trung Trực (chữ Hán: 阮忠直; 1838 1868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào nửa cuối thế kỷ 19Nam Bộ, Việt Nam.

Thân thế và sự nghiệp

Là dân chài


Tượng Nguyễn Trung Trực tại sân đền thờ chính ở TP Rạch Giá.
Sinh ra dưới thời Minh Mạng, thuở nhỏ ông có tên là Chơn. Từ năm Kỷ Mùi (1859) đổi là Lịch (Nguyễn Văn Lịch, nên còn được gọi là Năm Lịch), và cũng từ tên Chơn ấy cộng với tính tình ngay thật, nên ông được thầy dạy học đặt thêm tên hiệu là Trung Trực. 
Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, tổng Trung An, huyện Phù Cát, trấn Bình Định (ngày nay là thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định). Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn Phụng (hoặc Nguyễn Cao Thăng), mẹ là bà Lê Kim Hồng.
Sau khi hải quân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, gia đình ông phải phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề (một xóm trước đây chuyên nghề chài lưới), làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An (nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) và sinh sống bằng nghề chài lưới vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Không rõ năm nào, lại dời lần nữa xuống làng Tân Thuận, tổng An Xuyên.(nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau).
Ông là con trưởng trong một gia đình có 8 người con. Lúc nhỏ, ông rất hiếu động, thích học võ nên khi lớn lên ông là người có thể lực khỏe mạnh, giỏi võ nghệ và là người có nhiều can đảm, mưu lược.

Làm Quản cơ

Tháng 2 năm 1859 Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Vốn xuất thân là dân chài, nằm trong hệ thống lính đồn điền của kinh lược Nguyễn Tri Phương, nên ông sốt sắng theo và còn chiêu mộ được một số nông dân vào lính để gìn giữ Đại đồn Chí Hòa, dưới quyền chỉ huy của Trương Định.
Nhờ chiến công đốt tàu L’Espérance ngày 10 tháng 12 năm 1861, ông được triều đình phong chức Quyền sung Quản đạo  nên còn được gọi là Quản Chơn hay Quản Lịch. Trong sự nghiệp kháng thực dân Pháp của ông, có hai chiến công nổi bật, đã được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen ngợi bằng hai câu thơ sau:
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên đia
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.
Thái Bạch dịch:
Sông Nhật Tảo lửa hồng rực cháy, tiếng vang trời đất,
Đồn Kiên Giang lưỡi kiếm tuốt ra, quỷ thần sợ khóc.

Hỏa hồng Nhật Tảo

Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ ngày 25 tháng 2 năm 1861, Nguyễn Trung Trực về Tân An. Đến ngày 12 tháng 4 năm 1861, thành Định Tường thất thủ, quân Pháp kiểm soát vùng Mỹ Tho, thường cho những tàu chiến vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động. Một trong số đó là chiếc tiểu hạm Espérance (Hy Vọng), án ngữ nơi vàm Nhựt Tảo (nay thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An).
Vào khoảng sáng ngày 10 tháng 12 năm 1861, Nguyễn Trung Trực cùng Phó quản binh Huỳnh Khắc Nhượng, Tán quân Nguyễn Học, Võ Văn Quang và hương thôn Hồ Quang Chiêu...tổ chức cuộc phục kích đốt cháy tàu chiến này 
Trận này quân của Nguyễn Trung Trực đã diệt 17 lính và 20 cộng sự người Việt, chỉ có 8 người trốn thoát (2 lính Pháp và 6 lính Tagal, tức lính đánh thuê Philippines, cũng còn gọi là lính Ma Ní). 
Lúc đó, viên sĩ quan chỉ huy tàu là trung úy hải quân Parfait không có mặt, nên sau khi hay tin dữ, Parfait đã dẫn quân tiếp viện đến đốt cháy nhiều nhà cửa trong làng Nhật Tảo để trả thù.
Theo sau chiến thắng vừa kể, nhiều cuộc tấn công quân Pháp trên sông, trên bộ đã liên tiếp diễn ra...

Kiếm bạt Kiên Giang


Tượng đài Nguyễn Trung Trực tại công viên trung tâm thành phố Rạch Giá
Sau lần đốt được tàu L’Espérance của Pháp, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân tiếp tục chiến đấu qua lại trên các địa bàn Gia Định, Biên Hòa. Khi Hòa ước Nhâm Tuất 1862 được ký, ba tỉnh miền Đông lọt vào tay thực dân Pháp, Nguyễn Trung Trực nhận chức Lãnh binh, đưa quân về hoạt động ở ba tỉnh miền Tây. Đầu năm 1867, ông được triều đình phong chức Hà Tiên thành thủ úy để trấn giữ đất Hà Tiên, nhưng ông chưa kịp đến nơi thì tòa thành này đã bị quân Pháp chiếm mất vào ngày 24 tháng 6 năm 1867. Không theo lệnh triều đình rút quân ra Bình Thuận, Nguyễn Trung Trực đem quân về lập mật khu ở Sân chim (tả ngạn sông Cái Lớn, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang). Từ nơi này, ông lại dẫn quân đến Hòn Chông (nay thuộc xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, lập thêm căn cứ kháng Pháp.
Ở Kiên Giang, sau khi nắm được tình hình của đối phương và tập trung xong lực lượng (trong số đó có cả hương chức, nhân dân Việt - Hoa - Khmer); vào 4 giờ sáng ngày 16 tháng 6 năm 1868, Nguyễn Trung Trực bất ngờ dẫn quân từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) đánh úp đồn Kiên Giang (nay là khu vực UBND tỉnh Kiên Giang), do Trung úy Sauterne chỉ huy.
Kết thúc trận, nghĩa quân chiếm được đồn, tiêu diệt được 5 viên sĩ quan Pháp, 67 lính, thu trên 100 khẩu súng cùng nhiều đạn dược và làm chủ tình hình được 5 ngày liền 
Đây là lần đầu tiên, lực lượng nghĩa quân đánh đối phương ngay tại trung tâm đầu não của tỉnh. Nhận tin Chủ tỉnh Rạch Giá cùng vài sĩ quan khác bị giết ngay tại trận, George Diirrwell gọi đây là một sự kiện bi thảm (un événement tragique).
Hai ngày sau (ngày 18 tháng 6 năm 1868), Thiếu tá hải quân A. Léonard Ausart, Đại úy Dismuratin, Trung úy hải quân Richard, Trung úy Taradel, Trần Bá Lộc, Tổng Đốc Phương nhận lệnh Bộ chỉ huy Pháp ở Mỹ Tho mang binh từ Vĩnh Long sang tiếp cứu. Ngày 21 tháng 6 năm 1868, Pháp phản công, ông phải lui quân về Hòn Chông (Kiên Lương, Kiên Giang) rồi ra đảo Phú Quốc, lập chiến khu tại Cửa Cạn nhằm kình chống đối phương lâu dài.

Ra Phú Quốc và bị bắt


Đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Phú Quốc, ảnh chụp năm 2015.
Tháng 9 năm 1868, chiếc tàu Groeland chở Lãnh Binh Tấn (tức Huỳnh Văn Tấn, còn được gọi Huỳnh Công Tấn, trước có quen biết ông Trực vì cùng theo Trương Định kháng Pháp. Sau này, Tấn trở thành cộng sự cho Pháp), cùng 150 lính ở Gò Công đến đảo Phú Quốc để bao vây và truy đuổi ông Trực.
Nhà sử học Phạm Văn Sơn thuật chuyện:
Hương chức và dân trên đảo bị đội Tấn dọa phải theo và phụ lực với hắn để bao vây bọn ông Trực. Sau hai trận ghê gớm, bọn ông Trực phải trốn vào trong núi. Đội Tấn rượt theo, nghĩa quân bị kẹt trong một khe núi nhỏ hẹp. Cùng đường, bọn ông Trực phải ra hàng...
Giám đốc Sở nội vụ Paulin Vial viết:
Nguyễn Trung Trực chịu nộp mạng, chỉ vì thiếu lương thực và vì mạng sống của bao nghĩa quân đang bị bao vây hàng tháng trời ròng rã tại Phú Quốc
Nhưng có người lại cho rằng để bảo toàn lực lượng nghĩa quân, nhân dân trên đảo và lòng hiếu với mẹ (Pháp đã bắt mẹ của ông để uy hiếp), Nguyễn Trung Trực tự ra nộp mình cho người Pháp và đã bị đưa về giam ở Sài Gòn.
Nhưng theo lời khai ít ỏi của Nguyễn Trung Trực khi ông bị giam cầm ở Khám Lớn Sài Gòn với Đại úy Piquet, thanh tra bổn quốc sự vụ, thì sự việc như thế này, trích biên bản hỏi cung:
...Tôi cho biết rõ rằng tôi đã tự ý quy thuận lãnh binh Tấn. Vì hắn đến đảo, hắn bảo viết thơ yêu cầu tôi quy hàng, vì chúng tôi bị bao vây trong núi không có gì để sống, tôi bảo một người dân trói tôi và dẫn tôi đến Tấn. Nếu tôi muốn tiếp tục chiến đấu, hắn không bắt tôi được dễ dàng như thế...
Rất tiếc bản cáo của lãnh binh Tấn gửi cho thống đốc Nam kỳ về "việc bắt Nguyễn Trung trực và Tống binh Cân" đã bị thất lạc từ ngày 23 tháng 5 năm 1950, vì thế sự việc chưa được tường tận.

Thọ tử

Bắt được Nguyễn Trung Trực, Pháp đưa ông lên giam ở Khám Lớn Sài Gòn để lấy khẩu cung. Theo Việt sử tân biên, mặc dù Lãnh binh Tấn đã hết sức can thiệp để Pháp tha mạng cho ông Trực, nhưng Thống đốc Nam Kỳ G. Ohier không chịu. Vì cho rằng không thể tha được "một người đã không coi luật quốc tế ra gì, đã hạ một cái đồn của chúng ta và giết chết 30 người Pháp!"  Và rồi ngày 27 tháng 10 năm 1868, nhà cầm quyền Pháp đã đưa ông Trực về lại Rạch Giá và sai một người khmer trên Tưa (người dân thường gọi ông là Bòn Tưa) đưa ông ra hành hình tại chợ Rạch Giá  hưởng dương khoảng 30 tuổi.
Người ta kể rằng:
Vào buổi sáng ngày 27 tháng 10 năm 1868, nhân dân Tà Niên  nơi nổi tiếng về nghề dệt chiếu, và nhiều nơi khác đổ xô ra chợ Rạch Giá, vì Pháp đem Nguyễn Trung Trực ra hành quyết. Ông Trực yêu cầu Pháp mở trói, không bịt mắt để ông nhìn đồng bào và quê hương trước phút "ra đi". Bô lão làng Tà Niên đến vĩnh biệt ông, đã trải xuống đất một chiếc chiếu hoa có chữ "thọ"(chữ Hán) màu đỏ tươi thật đẹp cho ông bước đứng giữa. Ông hiên ngang, dõng dạc trước pháp trường, nhìn bầu trời, nhìn đất nước và từ giã đồng bào… 
Tương truyền, trước khi bị hành quyết Nguyễn Trung Trực đã ngâm một bài thơ:
Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên,
Yêu gian đàm khí hữu long tuyền,
Anh hùng nhược ngộ vô dung địa.
Bảo hận thâm cừu bất đái thiên.
Thi sĩ Đông Hồ dịch:
Theo việc binh nhung thuở trẻ trai,
Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.
Anh hùng gặp phải hồi không đất,
Thù hận chang chang chẳng đội trời.

Đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Phú Quốc.

Câu nói lưu danh

Khi ông bị người Pháp giải về Sài Gòn, viên thống soái Nam Kỳ lúc bấy giờ vừa dụ hàng vừa hăm dọa, Nguyễn Trung Trực đã trả lời rằng:
Khi bị giam ở Khám Lớn Sài Gòn, ông cũng đã bình tĩnh nói với người hỏi cung là Đại úy Piquet:
Và trước khi hy sinh, ông còn khẳng khái nhắc lại:

Khen ngợi


Mộ Nguyễn Trung Trực trong khuôn viên đền thờ chính tại Rạch Giá 
Danh sĩ Nguyễn Thông viết:
"Nguyễn Văn Lịch tính thâm trầm, nghiêm nghị và can đảm…". (truyện Hồ Huân Nghiệp trong Kỳ Xuyên văn sao)
Paulin Vial kể:
Trong khi Đại úy hải quân Piquet, thanh tra bổn quốc sự vụ chất vấn ông Trực, ông Trực tỏ ra rất cương quyết và rất đàng hoàng chính đáng. Các câu trả lời của ông đã cho thấy một cách chính xác phẩm chất của con người đó, người đã đóng một vai trò đáng kể.
Ở đoạn văn khác, Paulin Vial khen ngợi:
Nguyễn Trung Trực là "người rất tự trọng, có tư cách đáng quý và đầy nghị lực", là " người có gương mặt thông minh và dễ có thiện cảm" là " một người chỉ huy trẻ tuổi, rất can đảm, chống nhau với ta ngót mười năm trời.
Alfred Schreiner cho biết:
Trong suốt thời kỳ bị giam cầm, ông Trực không có lúc nào tỏ ra yếu đuối cả, một cách thẳng thắng và đàng hoàng, ông công nhận các chiến công của ông và cũng nhận là đã khinh thường sức mạnh của Pháp. Ngoài ra, ông chỉ yêu cầu ban cho ông một ân huệ, ấy là được xử tử ông ngay tức khắc. 
Trong một bài thơ điếu, Huỳnh Mẫn Đạt có câu:
Anh hùng cường cảnh phương danh thọ
Tu sát đê đầu vị tử nhân.
Dịch nghĩa:
Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi
Lũ sống khom lưng chết thẹn dần
Tương truyền, được tin ông thọ tử, vua Tự Ðức sai hoàng giáp Lê Khắc Cẩn làm lễ truy điệu, đọc bài điếu với chính bút ngự rằng:
Ký bi ngư nhân
Hùng tại quốc sĩ
Hỏa Nhựt Tảo thuyền
Ðồ Kiên Giang lũy
Ðịch khái đồng cừu
Thân tiên tự thỉ
Hiệu khí cổ kim
Thử nhân nam tư
Xích huyết hoàng sa
Ô hô dĩ hi
Huyết thực thiên thu
Chương nhữ trung nghĩa.
Thái Bạch dịch:
'Giỏi thay người chài
Mạnh thay quốc sĩ
Đốt thuyền Nhật Tảo,
Phá lũy Kiên Giang.
Thù nước chưa xong
Thân sao đã mất
Hiệu khí xưa nay
Người nam tử ấy
Máu đỏ, cát vàng
Hỡi ơi thôi vậy
Ngàn năm hương khói,
Trung nghĩa còn đây.
Và cúng chính nhà vua này đã sắc phong ông làm Thượng Ðẳng Linh Thần, thờ tại làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá nơi ông đã hiên ngang thà chịu chết chớ không chịu đầu hàng Pháp. Đã rất nhiều năm qua, dân làng Vĩnh Thanh Vân, nhất là những ngư dân, luôn tôn kính và tự hào về Nguyễn Trung Trực, một người xuất thân từ giới dân chài áo vải, vậy mà đã trở thành một vị anh hùng, đúng với ý nghĩa: "Sống làm Tướng và chết làm Thần!" và "anh khí như hồng", nghĩa là khí tiết của người anh hùng rực rỡ như cầu vồng bảy sắc.

Tưởng nhớ


Tượng Nguyễn Trung Trực tại Phú Quốc, nơi ông bị Pháp bắt
Sau khi ông bị hành hình, dân chúng cảm thương vô cùng nên đã bí mật thờ ông như một vị anh hùng trong đền thờ Nam Hải đại vương (cá Ông hay cá Voi), chính là ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực tại thành phố Rạch Giá hiện nay.
Và khi người Pháp không còn cai trị Việt Nam, vào năm 1970, nhân dân địa phương đã lập tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng, màu đen đặt trước "chợ nhà lồng" Rạch Giá (cũ). Hiện nay, tượng thờ này được sơn lại màu nâu đỏ, và đã được di dời vào trong khuôn viên khu đền thờ của ông tại thành phố Rạch Giá. Năm 2000, người ta đã cho làm một tượng mới bằng cũng bằng đồng lớn hơn, màu xám, để thay thế, và khu "chợ nhà lồng" mà sau này nó còn có tên là "Khu thương mại", cũng đã di dời nơi khác để nơi đó trở thành công viên.
Nhiều tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long... nhân dân đã lập đền thờ ông và hằng năm đều có tổ chức lễ tưởng niệm trọng thể. (Đình Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá tổ chức lễ giỗ vào các ngày từ 27 đến 29 tháng 8 âm lịch. Đình và mộ nơi này đã được công nhận là di tích Lịch–Văn hóa cấp quốc gia vào ngày 06 tháng 12 năm 1989).
Tại huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, nơi diễn ra trận "Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa" của Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu L’Esperance của Pháp (ngay cạnh Vàm sông Nhựt Tảo), chính quyền và nhân dân đã xây dựng và khánh thành Đền Tưởng niệm Nguyễn Trung Trực trên khu đất rộng 6 ha ngày 14/10/2010.

Gia quyến

Cha mẹ

Tương truyền, Nguyễn Trung Trực rất có hiếu với mẹ. Là con trưởng, hàng ngày ông phải đi đánh bắt cá để có tiền phụ giúp gia đình. Theo sách Hỏi đáp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, lúc ông đến ở Tà Niên, chuẩn bị tấn công đồn Kiên Giang, ông đã đưa mẹ đến ẩn náu ở nhà ông Dương Công Thuyên ở chợ Rạch Giá. Đến khi rút Hòn Chông, ông cũng đưa mẹ đi theo. Chỉ đến khi vượt biển ra đảo Phú Quốc, ông mới đành phải để mẹ ở lại.
Không bắt được ông, thực dân Pháp đã sai người bắt mẹ ông rồi tìm mọi cách để bà viết thư khuyên con ra hàng, nhưng bà không nghe. Về sau, biết tin con ra hàng, bà tức giận thổ huyết mà chết. Nhưng có người lại nói rằng mẹ ông không bị quân Pháp bắt. Đây là chuyện bịa để buộc ông vì chữ hiếu mà ra hàng. Lúc Pháp tấn công Hòn Chông, thì bà đã đi lánh nạn ở đâu không rõ. Nhưng sau đó bà về ẩn náu ở Tân Thuận (nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau) rồi mất ở đó
Cũng theo sách này, cha Nguyễn Trung Trực mất sớm, bỏ lại 8 người con khiến mẹ ông phải sớm hôm tảo tần vất vả. Nhưng theo câu chuyện còn lưu lại trong họ tộc  cha ông Trực không mất sớm. Bởi sau khi Nguyễn Trung Trực bị bắt ở Phú Quốc, ông vẫn còn sống để đưa gia đình mình và gia đình của các nghĩa quân xuống ghe về ẩn náu ở Cà Mau. Khi chồng đi, bà Tô Kim Hồng (sách Hỏi đáp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực ghi là Lê Kim Hồng, tức mẹ ông Trực), vẫn còn ở lại Hòn Chông, trong sự quản thúc của chính quyền thực dân và bà đã mất ở đó. Mãi sau này hài cốt của bà mới được cải táng về nằm bên cạnh chồng ở Cà Mau. Hiện nay, hậu duệ của dòng họ Nguyễn Trung Trực đông đúc cả ngàn người, sống rải rác ở khắp nơi, nhưng tập trung đông nhất là ở hai xã Tân Đức và Tân Tiến, huyện Đầm Dơi.

Vợ con

Cũng theo lời kể thì ông có người vợ tên Điều (tục gọi là bà Đỏ. Có nguồn cho rằng bà Điều và bà Đỏ là hai chị em ruột chứ không phải một người), người làng Minh Lương (nay thuộc huyện Châu Thành, Kiên Giang). Bà Điều là người đã từng theo sát ông trong suốt thời gian chống Pháp ở Kiên Giang. Có lần bà đi do thám đồn Săn Đá ở Rạch Giá, bị đối phương bắt được, nhưng Nguyễn Trung Trực đến giải cứu kịp. Sau, bà bị bắt lần nữa, bị nhốt trong khám lớn Rạch Giá, mãi đến khi ông Trực đánh chiếm đồn bót trên (1868) mới giải thoát cho bà. Chưa rõ hai người có con hay không, bà đã hy sinh ở đâu và lúc nào.
Khi ở đảo Phú Quốc, ông có thêm một vợ tên là Lê Kim Định (tục gọi bà Quan Lớn Tướng), sinh được một trai nhưng chết non. Hiện còn mộ và đền thờ của bà ở Cửa Cạn (Phú Quốc)...  Theo lời kể, thì khi nghĩa quân bị vây khổn vào năm 1968, bà Định đã dùng ghe theo dòng sông Cửa Cạn để ra biển về đất liền. Nhưng chẳng may gặp đoạn sông bị cát lấp, ghe của bà bị mắc lại, không đi được. Kiệt sức, bà sinh non trong một đêm mưa bão, và rồi bị băng huyết mà chết. Hài nhi sinh non cũng chết theo. Có người tìm gặp cả hai thi hài, đem giấu vào một bọng cây. Đến khi yên ổn, người dân mới đem hài cốt hai mẹ con bà chôn cất tử tế tại bãi Ông Lang. Mộ bà được gọi là mộ Bà Lớn.
Trong biên bản hỏi cung khi ông Trực bị giam ở Khám Lớn Sài Gòn, có câu:...Số phận tôi đã đầy đủ, tôi đã không thành công trong việc cứu nguy nước tôi, tôi chỉ xin một điều là người ta kết liễu đời tôi càng sớm càng tốt và mong rằng người ta cho những đứa con của tôi lên Sài Gòn. Nếu căn cứ vào câu này, thì ông Trực có ít nhất hai ba đứa con, nhưng cuộc đời của họ sau này ra sao, không thấy tài liệu nào nói đến.

Ảnh

Nguyễn Hữu Huân

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Chân dung Nguyễn Hữu Huân
Nguyễn Hữu Huân (chữ Hán 阮友勳, 1830-1875), được biết nhiều với danh hiệu Thủ Khoa Huân. Ông là một sĩ phu yêu nước, và là một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân PhápNam Kỳ (Việt Nam) vào nửa cuối thế kỷ 19.

Thân thế và sự nghiệp

Nguyễn Hữu Huân là người làng Mỹ Tịnh An, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường; nay là xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.
Thuở nhỏ ông thông minh và học giỏi. Tương truyền, năm Nhâm Tý (1852) dưới triều Tự Đức, ông dự thi Hương và đỗ đầu, nên được gọi là Thủ Khoa Huân. Sau đó, ông được bổ nhiệm và dần trải đến chức Giáo thụ phủ Kiến An
Khi quân Pháp xâm lược ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (trong đó có tỉnh Định Tường quê ông), cũng giống như nhiều nhà nho yêu nước khác, ông đã cầm vũ khí đứng lên chống Pháp vào tháng 5 năm 1859, và được cử giữ chức Phó quản đạo.
Năm 1861, ông cùng nghĩa quân hoạt động trên địa bàn từ Tân An đến Mỹ Tho. Khoảng tháng 6 năm 1862, Nguyễn Hữu Huân đem nghĩa quân gia nhập lực lượng Trương Định.
Ngày 5 tháng 2 năm 1863, quân Pháp tấn công vào căn cứ Tân Hòa (Gò Công). Căn cứ thất thủ, Trương Định kéo quân về vùng Lý Nhơn (nay thuộc huyện Duyên Hải, thành phố Hồ Chí Minh). Khi ấy, Nguyễn Hữu Huân về khởi nghĩa ở Bình Cách (Tân An), trực tiếp lãnh đạo lực lượng nghĩa quân ở Định Tường. Quân Pháp tấn công Bình Cách, Nguyễn Hữu Huân phải rút quân về Thuộc Nhiêu (nay thuộc Cai Lậy, Tiền Giang),
Tháng 6 năm 1863, lúc ban đêm Pháp bất ngờ đem quân càn quét căn cứ Thuộc Nhiêu. Đến đến cuối năm đó, thì ông rút quân đến An Giang gặp Võ Duy Dương (còn gọi là Thiên Hộ Dương). Đầu năm sau (1864), ông cùng thủ lĩnh Dương chiêu mộ nghĩa binh để khởi nghĩa lần thứ hai.
Nguyễn Hữu Huân cho chuyển quân về vùng Thất Sơn, An Giang tiếp tục chiến đấu. Bộ chỉ huy quân đội Pháp rất lo ngại nên gửi tối hậu thư, buộc Tổng đốc An Giang là Phan Khắc Thận phải giao nộp Thủ Khoa Huân cho họ làm tội, viện lẽ ông này không tuân theo Hòa ước Nhâm Tuất (1862).
Giáo sư Nguyễn Văn Hầu chép:
Sau khi Đô đốc Nam Kỳ là De la Grandière biết tin Thủ Khoa Huân lẫn trốn ở Thất Sơn, viên sĩ quan Pháp này buộc Tổng đốc An Giang phải bắt ông Huân, giao cho họ làm tội. Tổng đốc An Giang không thuận. Tức thời, Doudart de Lagrée được lệnh đem 500 quân cùng đại bác từ Oudong (Campuchia) xuống huy hiếp thành An Giang. Trước áp lực đó, Tổng đốc An Giang đành nhượng bộ  .
Nghe tin ông bị bắt, vợ là Lê Thị Lộc đã đến An Giang để đưa đơn xin tha cho chồng nhưng không kịp. Bị giải đến Sài Gòn, mặc dù thực dân Pháp đem mọi thứ ra dụ hàng nhưng Thủ Khoa Huân vẫn kiên quyết chối từ. Cuối cùng, vào ngày 22 tháng 8 năm 1864, ông bị kết án 10 năm tù khổ sai và bị đày đi Cayenne, là một thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ.
Sau 5 năm tù, ngày 4 tháng 2 năm 1869, Pháp cho lệnh ân xá và đưa ông về quản thúc tại nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phương , đồng thời cử ông làm giáo thọ dạy bảo cho các "sinh đồ" ở Chợ Lớn với hy vọng lôi kéo ông về phía họ.
Lợi dụng điều kiện đi dạy học, Nguyễn Hữu Huân liên lạc với các sĩ phu yêu nước và hội kín Hoa kiều Trường Phát, nhờ mua vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa. Trong khi cuộc khởi nghĩa đang được chuẩn bị khẩn trương, nhờ do thám nên Pháp bắt được thuyền chở vũ khí. Trước tình hình bất lợi đó, ông ra lệnh giải tán, bí mật trốn khỏi nhà Tổng đốc Phương tìm đường về lại Mỹ Tho họp cùng Âu Dương Lân tiến hành khởi nghĩa lần thứ ba (1872). Lần này dân chúng theo Nguyễn Hữu Huân rất đông, trong số đó có cả một số hương chức, hội tề, địa chủ... Địa bàn kháng chiến của ông kéo dài từ Mỹ Tho đến Mỹ Quý - Cai Lậy.
Cuối năm 1874, quân Pháp có Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương đánh vào căn cứ ở Bình Cách. Cản ngăn không nổi, nghĩa quân bỏ chạy tán loạn. Nguyễn Hữu Huân thoát được về Chợ Gạo, đến khoảng tháng 3 năm sau, ông trở lại vùng Tân An để tập hợp lại lực lượng, thì bị bắt vì bị chỉ điểm 
Nhà cầm quyền Pháp (Tỉnh trưởng Mỹ Tho de Gailland: 1873 - 1875)) ra lệnh bắt giam Nguyễn Hữu Huân ở Mỹ Tho. Sau khi chiêu hàng không thành, họ kết án tử hình ông. Trước khi thụ hình, ông nhắn vợ con tế sống mình và gửi vải vào cho ông đề thơ và câu liễn (Liễn tuyệt mệnh) thờ.
Ngày 15 tháng Tư năm Ất Hợi (tức 19 tháng 5 năm 1875), người Pháp cho tàu chở Nguyễn Hữu Huân xuôi theo dòng Bảo Định về Mỹ Tịnh An và hành quyết ông lúc 12 giờ trưa.

Tác phẩm


Tượng đài Thủ Khoa Huân tại thành phố Mỹ Tho
Nguyễn Hữu Huân làm thơ không nhiều, và hầu hết sáng tác của ông đều làm trong thời kỳ kháng Pháp. Tuy nhiên, qua bài thơ Tặng vợ (làm lúc bị Pháp bắt lần đầu), bài Tự Thuật (làm khi bị đày sang Guyan), và nhiều bài khác như: Bửa củi, Cảm hoài, Thuật hoài, Hò khoan ca, Khi được tha về...  đều tỏ rõ ý chí bền bỉ tranh đấu vì đất nước và nhân dân của ông. Vì vậy, Nguyễn Hữu Huân được ghi nhận là "một hiện tượng đặc sắc của văn học yêu nước thế kỷ 19 của Việt Nam: hiện tượng nhà thơ - chiến sĩ." 
Giới thiệu hai câu Liễn tuyệt mệnh do Nguyễn Hữu Huân làm trước khi mất, hiện được treo trang trọng tại bàn thờ ông ở Mỹ Tịnh An.
Hữu chí nan thân, không uổng bách niên chiêu vật nghị,
Tuy công bất tựu, diệc tương nhất tử báo quân ân.
Tạm dịch:
Việc lớn không thành, báo chúa cũng đành liều một chết;
Lòng ngay khó tỏ, miệng đời luống để luận trăm năm.

Ghi công

Trên đường từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Mỹ Tho, qua TP Tân An đến ngã ba Hoà Tịnh, rẽ trái khoảng 3 cây số, sẽ đến Tịnh Hà. Gần đến cầu Tịnh Hà (cầu Cai Lộc) bắc qua rạch Bảo Định, rẽ trái đi thêm nửa cây số, thì sẽ thấy đền thờ và phần mộ của Thủ Khoa Huân. Trước kia, nơi đây kéo dài ra cầu sắt Cai Lộc là bãi chợ Phú Kiết. Trở ra cầu Cai Lộc cạnh ngã tư (đường xuống Nhựt Tiên, đường ra Phú Kiết, đường về Tân An, đường Lên giồng Tân Hiệp) sẽ thấy một tấm bia mộ kỷ niệm nơi ông thọ án.
Mộ và đền Thủ Khoa Huân được xây dựng ngay tại quê nhà của ông. Ban đầu mộ được đấp bằng đất, đầu thế kỷ 20, cháu ngoại của ông là Trần Văn Thông xây lại bằng đá xanh. Trong đền thờ có nhiều hoành phi và câu đối ca ngợi khí tiết của Thủ Khoa Huân.
Nhiều tỉnh thành tại Việt Nam, tên Nguyễn Hữu Huân (hay Thủ Khoa Huân) thường được dùng để đặt tên cho trường học, cho đường phố.

Tồn nghi

Tương truyền, Nguyễn Hữu Huân sinh năm 1830, và đỗ thủ khoa năm Nhâm Tý (1852). Song qua cuộc điều tra và tính toán, nhóm tác giả Phạm Thiều-Cao Tự Thanh-Lê Minh Đức đã đặt giả thuyết khác là: Nguyễn Hữu Huân rất có thể sinh năm Bính Tý (1816) và thi đỗ năm ông 36 tuổi.
Qua nghiên cứu, nhóm này cũng đã kết luận rằng bài thơ Hãn mã gian quan không phải là thơ tuyệt mệnh của ông, nhưng rất có thể do ông làm để ca ngợi Thị độc học sĩ sung Binh bị Trần Xuân Hòa vào khoảng đầu mùa thu năm 1864, khi ông này bị quân Pháp giải qua vùng sông Mỹ Tho (sau ông Hòa cắn lưỡi mà chết) .
Bài Mang gông mà xưa nay được nhiều người cho là của Nguyễn Hữu Huân, theo học giả Trương Vĩnh Ký cũng không phải là của ông, mà là của ông Hoành, ông Trắm đã ứng khẩu đọc do dân chúng nghe khi bị bắt giải về Huế, chịu án xử lăng trì  . Ngoài ra, bài Cây bắp cũng chưa chắc là của ông

Khởi nghĩa Bảy Thưa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tượng đài Trần Văn Thành ở thị trấn Cái Dầu
Khởi nghĩa Bảy Thưa (1867 - 1873) là một cuộc kháng Pháp do Quản cơ Trần Văn Thành làm thủ lĩnh, đã xảy ra trên địa bàn của tỉnh An Giang, Việt Nam.

Hoàn cảnh lịch sử


Một con rạch chảy qua Bảy Thưa ngày nay
Tháng 2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, sau đó quân Pháp lần lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Vua Tự Đức liền ra lời kêu gọi các sĩ dân nơi đây cùng hợp tác chống ngăn quân xâm lược. Hưởng ứng lệnh vua, nguyên Chánh quản cơ Trần Văn Thành trở lại đội ngũ.
Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó, một đoàn tàu chiến do trung tá hải quân GaLey cầm đầu, tiến lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc Tổng đốc Phan Khắc Thận phải đầu hàng, tỉnh An Giang mất ngày 22 tháng 6 năm 1867.
Lập tức nhiều binh sĩ và người dân ở tỉnh này chống lại, hình thành nên hai cuộc khởi nghĩa đáng chú ý, đó là cuộc khởi nghĩa của Chánh vệ thủy Đỗ Đăng Tàu và Phó vệ thủy Lê Văn Sanh ở Châu Đốc , và cuộc khởi nghĩa của Quản cơ Trần Văn Thành ở cánh đồng Láng Linh (Châu Phú).

Diễn biến

Tham gia khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực

Để cứu nguy nước nhà, Trần Văn Thành tự tổ chức dân binh đắp cản ở quê nhà (Cồn Nhỏ) để ngăn quân Pháp  , đồng thời mang quân qua phía Rạch Giá, hỗ trợ cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực. Tháng 6 năm 1968, thủ lĩnh Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức phản công. Lập tức, Trần Văn Thành cho quân (có đông đảo đồng bào Núi Sập giúp sức) đắp cản ở Ba Bần, Trà Kên (nay đều thuộc huyện Thoại Sơn) để ngăn cản tàu chiến Pháp đi tái chiếm tỉnh lỵ Rạch Giá  
Cuộc cản phá thất bại, Nguyễn Trung Trực bị đánh thua rút quân ra Hòn Chông (nay thuộc Kiên Lương), còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng của mình vào Láng Linh dựng trại, khẩn hoang làm ruộng, luyện quân và rèn đúc vũ khí...để chuẩn bị làm cuộc đánh đuổi ngoại xâm  

Tổ chức kháng Pháp ở Láng Linh

Láng Linh một cánh đồng rộng trũng phèn rộng bao la, thời nhà Nguyễn, đất này thuộc huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang (nay nằm trên địa bàn các xã Thạnh Mỹ Tây, Đào Hữu Cảnh, Bình Phú thuộc huyện Châu Phú tỉnh An Giang). . Xưa kia, nơi đây có nhiều đầm lầy, đế sậy và vô số cây thưa (vì thế mà thành tên cuộc khởi nghĩa)   lại ít có kênh rạch thông vào...
Theo lời kể của nhân dân và tư liệu cũ thì căn cứ chính của khởi nghĩa Bảy Thưa là Hưng Trung doanh (nay thuộc ấp Hưng Trung, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú)  Xung quanh thiết lập các đồn làm tuyến ngăn cản đối phương, như: đồn Cái Môn, đồn Lương (đều thuộc Thạnh Mỹ Tây), đồn Giồng Nghệ (Vĩnh Hanh, (Châu Thành), trạm canh Ông Tà (Tà Đảnh, Tri Tôn), đồn Hờ ở vàm rạch Cái Dầu (Châu Phú), v.v... (xem thêm bản đồ chiến khu Bảy Thưa). Mỗi đồn đều được trang bị súng thần công, súng điểu thương, hỏa hổ,... với khoảng 150 nghĩa quân phòng thủ.
Trần Văn Thành phất cờ chống Pháp vào khoảng tháng 8 năm 1867 , và lấy tên Binh Gia Nghị đặt cho đội quân của mình .
Theo tờ trình của Pháp năm 1870, thì lúc bấy giờ lực lượng của Trần Văn Thành có khoảng 1.200 nghĩa quân, bao gồm một số quân triều và nghĩa dân (trong đó phần đông là tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương)  Để củng cố thêm thế lực, Trần Văn Thành cho người đến liên hệ với Pu Kom Pô, thủ lĩnh kháng Pháp ở Campuchia, nhưng vì ông này cũng đang gặp khó khăn nên việc liên kết không mấy hiệu quả. Ngoài ra, ông còn cho người sang Xiêm LaCao Miên để mua súng đạn, nhưng không thành công, vì hai nước ấy không muốn nhúng tay vào việc Nam Kỳ e mất lòng Pháp  
Cuối năm 1868, các phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đã bị tan rã gần hết, lực lượng Trần Văn Thành lâm vào thế cô, và ông trở thành nhân vật bị Pháp truy nã, treo giải thưởng cao  

Trận chiến đấu sau cùng


Cốc Ông Đạo Cậy ngày nay. Rất có thể ở vị trí này khi xưa là chỗ của Hưng Trung doanh, căn cứ chính của Khởi nghĩa Bảy Thưa.
Năm 1871, một cộng sự của Pháp là Trần Bá Lộc thử hành quân vào Bảy Thưa, nhưng chẳng thâu được kết quả do sình lầy, bốn phía lau sậy mù mịt, thỉnh thoảng bị phục kích.
Sang năm 1872, nhờ lời khai của nghĩa quân ra hàng và mật thám thăm dò được, thực dân Pháp quyết định mở cuộc càn quét lớn vào Bảy Thưa. Tuy nhiên mãi cho đến năm sau, họ mới phát lệnh hành quân.
Bắt đầu từ tháng 3 năm 1873, thực dân Pháp cho quân đánh phá đồn Hờ ở rạch Cái Dầu (thuộc Châu Phú), và uy hiếp đồn Nghệ (thuộc xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, An Giang) rồi kéo dần vào rừng. Họ nã đại bác vào phía trước và cho dân dọn đường phía sau. Qua 5 ngày chiến đấu, quân Bảy Thưa lui dần. Quân Pháp không tiến mau được vì ngột nắng và sợ đĩa. Ngày 19 tháng 3, hải quân Pháp từ Châu Đốc tiến vào đánh đồn Cái Môn (nay thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú). Tuy có hào sâu nhưng vì súng của nghĩa quân bắn không được xa, phát nổ phát không, nên chẳng bao lâu quân Pháp tràn vào được trong đồn.
Cùng ngày ấy, tàu chiến Pháp đâu tại vàm rạch Mặc Cần Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang), ngoài sông Hậu, rồi cho quân   dùng xuồng nhỏ vào ngọn rạch Mặc Cần Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang) để tiến tới ngọn Hang Tra là nơi Trần Văn Thành đang chỉ huy chiến cuộc  
Biết mình đang bị bao vây, và người Pháp có vũ khí hữu hiệu, nhưng Trần Văn Thành và nghĩa quân vẫn cương quyết đối phó.
Theo Sơn Nam, khoảng 9 giờ sáng ngày 19 tháng 3 năm 1873 (21 tháng 2 năm Quý Dậu), quân Pháp bắt đầu xung phong đánh chiếm Hưng Trung doanh. Báo Le Courrier de Saigon ra ngày 5 tháng 4 năm 1873 tường thuật:
Tại Hưng Trung, Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đứng sau chiến lũy làm bằng những tấm ván và những bao gạo chồng lên nhau, để đốc thúc nghĩa binh chiến đấu. Nghĩa quân trong các chiến lũy thổi tù và, đánh trống và reo hò để tăng uy thế. Bên cạnh ông còn có con trai ông hỗ trợ cho ông bắn"...
Nhà văn Sơn Nam kể:
Ông Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đối phó, tuy đang bị vây. Ông đứng sau phòng tuyến làm bằng ván với những bao gạo chồng chất. Ông thách thức bọn Pháp, dùng ống loa mà chửi rủa thậm tệ. Đồng thời ông day về phía quân sĩ của mình mà khích động tinh thần; quân sĩ hò reo vang rân, chửi rủa bọn Pháp, trống đánh liên hồi. Ông Trần Văn Thành cắt từng lọn tóc nhỏ của mình mà phân phát cho các tín đồ...Bọn Pháp được lịnh đánh tràn vào. Ông Thành mặc áo màu đo sậm, đốc thúc chiến sĩ, ra hiệu lịnh, bên ạnh ông là đứa con ruột đang tiếp tay và đích thân ông bắn súng...
Trước hỏa lực mạnh mẽ của đối phương, dù cố gắng chống trả nhưng chỉ vài giờ sau thì quân Bảy Thưa cũng bị đánh tan. Cũng theo Sơn Nam thì sau trận này, bên nghĩa quân có 10 người chết, 5 người bị thương, 15 người bị bắt sống. Ngoài ra, họ còn bị đối phương chiếm đoạt 16 súng điểu thương, 70 cây đao, nhiều gạo cùng ghe xuồng, một số giấy tờ cho thấy ông Thành từng ở Rạch Giá với Nguyễn Trung Trực và can dự vào vụ đánh giết Salicetti (chủ tỉnh Vĩnh Long) ở Vũng Liêm 
Xong trận, quân Pháp nổi lửa đốt tất cả dinh trại, phá hủy hết các lò đúc vũ khí, rồi mang xác ông Thành và Đội Văn (Pháp ghi là Vang, giữ hậu tập, tử trận trong trận Hưng Trung) về chưng bày tại chợ Cái Dầu (Châu Phú) để thị uy, để ngăn chận những tin đồn cho rằng ông còn sống, chỉ tạm thời đi lánh mặt và sẽ tiếp tục kháng chiến  Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam thì ông không tử trận. Sách viết: "sau khi bản doanh Hưng Trung bị tàn phá, thất bại nặng, ông rút lui vào chiến khu và mất ngày 21 tháng 2 âm lịch năm 1873" . Về cái chết của ông, đến nay vẫn chưa được làm rõ.
Sau trận đồn Hưng Trung, cuộc khởi nghĩa mà Quản Cơ Thành và các đồng đội của ông đã dày công gầy dựng kết thúc (tháng 3 năm 1873).

Nhận xét

Cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa diễn ra trong bối cảnh triều đình nhà Nguyễn đã ký hòa ước (Hòa ước Nhâm Tuất 1862) với thực dân Pháp, và các cuộc khởi nghĩa tại Nam Kỳ lúc bấy giờ bị dập tắt hay bị suy yếu. Mặc dù vậy, khởi nghĩa Bảy Thưa vẫn hình thành và kéo dài khá lâu (6 năm) ở đồng Láng Linh (Châu Phú), và đã gây tiếng vang trong và ngoài tỉnh.
Đây là cuộc khởi nghĩa mang đậm màu sắc tôn giáo vì thủ lĩnh Thành (là một trong số đại đệ tử của Phật Thầy Tây An) và đông đảo nghĩa quân đều là người theo đạo Lành (còn có tên là đạo Bửu Sơn Kỳ Hương)

Súng của nghĩa quân Bảy Thưa, hiện trưng bày tại Bảo tàng An Giang
Nhà văn Sơn Nam đã viết về thủ lĩnh Thành và cuộc khởi nghĩa của ông như sau:
Trần Văn Thành từng tham gia những trận chống quân xâm lược Xiêm La, đời Thiệu Trị. Qua đời Tự Đức, thấy sự áp bức của vua quan, ông trở thành tín đồ của Đoàn Minh Huyên, bấy lâu nổi danh với tài trị bệnh, cải cách Phật giáo, bỏ những nghi thức rườm rà, nhằm huy động nông dân chống lại phong kiến...Với chí lớn không chút bi quan yếm thế, ngay sau khi An Giang mất, ông đưa nghĩa dân và nghĩa quân qua phía Rạch Giá, tham gia cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, và ông trở thành nhân vật mà thực dân Pháp truy nã gắt gao, treo giải thưởng. Sau đó, ông rút lui về Láng Linh để khẩn hoang. Có thể nói, ông là người đầu tiên dám nghĩ đến việc canh tác ở vùng trũng phèn này. Từ năm 1871 đến đầu năm 1873, mật khu lần hồi thành hình...Nghĩa quân gồm quân sĩ cựu trào, thêm khá đông người yêu nước từ các tỉnh.
Khi đề cập cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, nhiều sử gia đều đánh giá cao, vì:
-Việc tổ chức khá khoa học, với công sự, kho lương thực; đặc biệt là đúc súng ống tại chỗ, tuy súng hãy còn thô sơ, kiểu "ống lói".
-Biết dùng hình thức tôn giáo để qui tụ quần chúng và che mắt thực dân.
-Thủ lĩnh (Trần Văn Thành) thấy rõ tương lai dân tộc ở hành động cụ thể là phải chống ngoại xâm, không thể ngồi khoanh tay chờ núi Cấm nứt ra "bất chiến tự nhiên thành". Thái độ của thủ lĩnh và nghĩa quân là "chiến đấu không thỏa hiệp" 
Sau trận đánh, theo Sơn Nam, viên chủ tỉnh Pếch cũng đã nhận xét rằng: cai tổng Lý Mun và phủ Trần Bá Tường, từng tham gia đánh nhiều lần, nhưng trong trận này, quả là mất tinh thần. Quân Bảy Thưa gan lỳ khi bị bao vây, hứng chịu hỏa lực mạnh, chứng tỏ uy tín của Trần Văn Thành khá lớn. Pếch cũng thú nhận là không chiến thắng hoàn toàn vì phần lớn nghĩa quân rút lui an toàn. Cánh quân do chủ tỉnh Châu Đốc hẹn hợp đồng không đến kịp để chận nút  
Hiện nay, vào các ngày 20-21-22 tháng 2 (âm lịch) hàng năm, một số nơi trong tỉnh An Giang đều có tổ chức lễ trọng thể để "Kỷ niệm ngày Quản Cơ Thành hy sinh và cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa".

Chiến tranh Pháp-Thanh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến tranh Pháp-Thanh
SinoFrenchWar1884-1885.jpg
Vị trí các trận đánh lớn.
.
Thời gian 1884-1885
Địa điểm Đông Nam Trung Quốc, Đài Loan, miền Bắc Việt Nam
Kết quả Pháp chiến thắng; Hòa ước Thiên Tân
Thay đổi lãnh thổ Pháp làm chủ toàn bộ Bắc Kỳ (Việt Nam).
Tham chiến
 Pháp Flag of the Qing dynasty (1889-1912).svg Nhà Thanh Flag of Vietnam (1802-78).gif Nhà Nguyễn
Quân Cờ Đen


.

Quân Pháp hạ thành Bắc Ninh năm 1884
Chiến tranh Pháp-Thanh là cuộc chiến giữa Đệ Tam Cộng hòa PhápĐế quốc Mãn Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 tới tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra vì Pháp muốn kiểm soát vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam và con đường nối từ Hà Nội đến tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Nhà Thanh ngược lại muốn ngăn cản sự hiện diện quân sự của Pháp Bắc Kỳ, vì điều này sẽ trực tiếp uy hiếp vùng biên giới phía nam của họ. Sâu xa hơn nữa, là nhà Thanh muốn nhân cơ hội này để chiếm đoạt  hoặc là duy trì ảnh hưởng của mình đối với Việt Nam, vốn là thuộc quốc truyền thống của Trung Quốc.

Mở màn

Mặc dù Hiệp ước Sài Gòn 1874 cho phép tàu thuyền Pháp đi thám hiểm các dòng sông, nhưng tới những năm đầu 1880, quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc tiếp tục quấy nhiễu và cản trở các thương gia Pháp. Hệ quả là chính quyền Pháp phái một lực lượng viễn chinh nhỏ với nhiệm vụ quét sạch quân Cờ đen khỏi vùng đồng bằng sông Hồng. Quân Pháp nhanh chóng đánh chiếm thành Hà Nội và chuẩn bị tiễu trừ các lực lượng quân sự chống đối họ, bao gồm quân của triều đình Huế do Phò mã Hoàng Kế Viêm quản lĩnh và quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc. Nhà Thanh vốn luôn phản đối sự hiện diện của Pháp trên Bắc kỳ liền bắt đầu chuẩn bị chiến tranh. Lấy cớ tiễu trừ thổ phỉ, quân đội Vân Nam và Lưỡng Quảng (Quảng ĐôngQuảng Tây) được điều động tiến sát về biên giới, sẵn sàng vượt biên giới tiến sang Bắc kỳ. Nhà Thanh cũng hạ lệnh cho hải đội Quảng Đông, gồm 20 thuyền tiến vào hải phận của Việt Nam để thị uy  Tới ngày 17 tháng 6 năm 1882, quân Thanh từ Vân Nam do Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng chỉ huy vượt biên giới tràn sang Bắc Việt, đóng ở Bắc Ninh và ở Sơn Tây, có quan bố chính Quảng Tây là Từ Diên Húc đem quân sang tiếp ứng, phối hợp với các lực lượng tiền tiêu đã đồn trú tại Bắc Việt từ tháng 8 năm 1881  để hỗ trợ cho quân Nam của Hoàng Kế Viêm và quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc.

Chiến tranh


Thủ tướng Pháp Jules Ferry.
Quân Pháp dưới sự chỉ huy của đại tá Henri Rivière chiếm thành Hà Nội, thủ phủ vùng Bắc Bộ vào ngày 25 tháng 4 năm 1882. Triều định Huế cử quan kinh lược chánh phó sứ là ông Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên đem binh lui về Mỹ Đức để cùng với Hoàng Kế Viêm tìm cách chống giữ. Nhưng quan khâm sứ Rheinart sang thương thuyết rằng việc đánh thành Hà Nội không phải là chủ ý của nước Pháp, và xin sai quan ra giữ lấy thành trì. Triều đình Huế bèn sai nguyên Hà Ninh tổng đốc Trần Đình Túc làm Khâm sai đại thần, quan Tĩnh biên phó sứ là Nguyễn Hữu Độ làm phó khâm sai, ra Hà Nội để cùng với đại tá Henri Rivière thu xếp mọi việc. Đại tá Rivière trả thành Hà Nội cho quan nhà Nguyễn, nhưng vẫn đóng quân ở trong Hành cung. Theo yêu sách của Rivière, nhà Nguyễn phải chấp nhận quyền bảo hộ của Pháp, phải trao thành Hà Nội cho Pháp quản lý, đặt thương chánh tại Bắc kỳ và giao cho Pháp cai quản.
Triều đình Huế không chấp nhận các điều kiện khắc nghiệt đó nên đàm phán đổ vỡ. Ông Phạm Thận Duật được cử sang Thiên Tân cầu cứu với triều đình nhà Thanh. Tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh làm mật sớ về tâu với vua nhà Thanh, đại lược nói: "nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ ở các tỉnh thượng du. Đợi khi có biến thì ta chiếm lấy những tỉnh ở về phía bắc sông Hồng" , nên quân Thanh nhân cơ hội này tiến vào Bắc Việt.
Tháng 11 năm 1882, Đại sứ Pháp Bourée tại Trung Hoa tiến hành một cuộc gặp mặt với Phó vương Trực Lệ (Zhili-tức vùng Bắc Kinh) Lý Hồng Chương, trong đó hai bên tính đến khả năng nhượng vùng Lào Cai cho nhà Thanh để lập một cửa khẩu vào Vân Nam, đồng thời thiết lập một đường phân giới dọc theo sông Hồng, theo đó phần phía bắc sẽ thuộc về nhà Thanh, phần phía nam sẽ do Pháp quản lý. Lý Hồng Chương đồng ý với thỏa thuận đạt được này, và chuyển thỏa thuận về Đổng lý Nha môn nhà Thanh để phê chuẩn. Tuy nhiên chính phủ của Thủ tướng Jules Ferry không đồng ý phê chuẩn hiệp nghị này và triệu hồi Đại sứ Bourée về nước.
Tại Pháp, ngày 21 tháng 10 năm 1882, bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa yêu cầu chính phủ Pháp tăng viện cho Sài Gòn 10 triệu franc và 6.000 binh sĩ để giải quyết vụ khủng hoảng ở Bắc Kỳ. Sau một cuộc tranh luận gay gắt trong phiên họp Hội đồng Nội các, tổng thống Pháp Jules Grévy phản đối quyết liệt và chỉ sau khi bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa Jauréguiberry dọa từ chức, Hội đồng thỏa thuận gởi tăng viện cho Sài Gòn 700 binh sĩ do tàu Corrèze chở đến Sài Gòn. Số quân này đến Sài Gòn ngày 13 tháng 02 năm 1883 và chuyển ra Bắc Kỳ vào ngày 15 tháng 02. Tới ngày 10 tháng 11, bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa gởi công điện khẩn tới Sài Gòn cách chức Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Villers với lý do ông này vượt quá quyền hạn và bị thay thế bởi Charles Thomson. Ông Thomson nhận bàn giao chức vụ thống đốc Nam Kỳ vào ngày 12 tháng 01 năm 1883.
Ngày 12 tháng 3 năm 1883 Rivière chiếm mỏ than Hòn Gai và đặt một đồn binh gồm 25 người canh giữ. Trong thời gian đó, tổng đốc Nam Định tuyển mộ hơn 10 ngàn dân phu xây dựng các công sự phòng thủ, ngăn cản quân Pháp nhận tiếp viện bằng đường biển. Sau khi nhận thêm quân tiếp viện từ Nam kỳ, đại tá Rivière để thiếu tá hải quân Berthe de Villers với 400 quân lại giữ Hà Nội, còn lại đem đi đánh Nam Định. Lực lượng Pháp đánh thành Nam Định rất hùng hậu, gồm tuần thám hạm Pluvier, pháo thuyền Fanfare, La Hache, Yalagan, Carabine, La Surprise, tàu hơi nước Hải Phòng, các tàu chuyển vận loại nhỏ Kiang Nam, Tonkin, Whampoa và 4 ghe mành, 4 đại đội thủy quân lục chiến, tổng cộng gồm chừng 800 người và một đội lính bộ binh bản địa. Đến ngày 27 tháng 3 năm 1883, quân Pháp hạ thành Nam Định với tổn thất rất nhỏ, chỉ có trung tá Carreau bị thương nặng rồi chết và 2 người nữa bị thương, trong khi phía quân Nam mất 200 người.

Trận Cầu Giấy


Đại tá hải quân Henri Riviere
Nhân lúc Rivière vắng mặt, quân Nam tổ chức tấn công Hà Nội, tại làng Gia Quất tổng Gia Thụy huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh thời Nguyễn (Pháp gọi là Trận Gia Cuc), nhưng bị de Villers đẩy lui, (địa danh này nay thuộc Ngọc Thụy quận Long Biên Hà Nội). Tình hình quân Nam trở nên nghiêm trọng, nhưng nhận được sự tiếp sức của quân Cờ đen và được quân Thanh yểm trợ, quân Nam và quân Cờ đen quay lại đánh thành Hà Nội. Quân Cờ đen tiến về đóng đại bản doanh ở phủ Hoài Đức, đồng thời Tổng đốc Bắc Ninh là Trương Quang Đản cùng với quan phó kinh lược Bùi Ân Niên đem binh về đóng ở Giốc Gạch, thuộc huyện Gia Lâm chuẩn bị sang đánh Hà Nội. Quân Cờ đen để khiêu khích quân Pháp, đốt phá các khu giáo dân, lợi dụng đêm tối dùng pháo đặt trên lưng voi bắn vào Hà Nội, rồi tới ngày 10 tháng 5, gửi chiến thư thách Rivière ra đánh.
Để ngăn chặn hướng tấn công của quân Cờ đen và quân triều đình từ Phủ Hoài, Rivière tổ chức một cuộc hành quân lớn đánh vào phủ Hoài Đức (Dịch Vọng Từ Liêm). Cuộc hành quân này có quy mô lớn, do thiếu tá Berthe des Villers làm tổng chỉ huy, gồm có:
  • 2 đại đội thủy bộ binh cùng với các thủy binh của tàu chiến Victorieuse do trung úy hải quân Le Pelletier de Ravinières chỉ huỵ
  • 2 đại đội thủy bộ binh và các thủy binh của tàu chiến Villars do trung úy hải quân Sentis chỉ huy.
  • 2 đại đội thủy bộ binh và các thủy binh của tàu chiến Léopard do thuyền phó Lebris chỉ huỵ
với lực lượng tổng cộng chừng 500 người.
Cuộc hành quân bắt đầu vào lúc 4 giờ sáng ngày 19 tháng 05 năm 1883. Quân Pháp tiến về phía Cầu Giấy, là một cây cầu bắc ngang qua sông Tô Lịch chảy về hướng Bắc trước khi đổ vào Hồ Tây. Tinh thần quân Pháp rất cao, họ vừa đi vừa cười đùa và hát, vì họ cho rằng trận chiến sẽ rất dễ dàng. Đi được không bao xa khỏi Hà Nội, quân Pháp đã phát hiện bóng quân Cờ đen ẩn núp sau các lũy tre, nên Rivière hạ lệnh tăng tốc độ hành quân để chặn bắt chủ lực quân địch. Thiếu tá Berthe des Villers và đại úy Puech tiến chiếm Cầu Giấy, chia quân lục soát làng Tiên Đồng (thôn Tiền xã Dịch Vọng, nằm bên phải Cầu Giấy) rồi quay hướng sang làng Yên Khê (nằm bên trái Cầu Giấy) dày đặc tre rừng rất vững chắc, phù hợp cho việc đóng trại và phục kích của quân Cờ đen. Quân Pháp dùng trọng pháo bắn vào làng Yên Khê Thượng (Thượng Yên Quyết) và làng Trung Tường (thôn Trung xã Dịch Vọng, nằm bên trái đường Cầu Giấy ngày nay), chuẩn bị tiến quân vào. Rivière và phụ tá tham mưu de Marolles cùng với Berthe des Villers vượt lên trước đoàn quân tiến vào khu chợ cách Cầu Giấy khoảng 330 mét.
Quân Cờ đen trong làng Trung Tường bị quân của Trung úy Pelletier de Ravinières tiến đánh phải rút lui, quay sang tăng cường ổ phục kích của quân Cờ đen chặn đường rút lui của cánh quân Pháp bên sông Tô Lịch. Khi quân Pháp lọt vào ổ phục kích, quân Cờ đen tràn ra để cắt đứt hậu quân Pháp. Bị vây đánh, quân Pháp co cụm lại, nên càng dễ dàng trở thành bia cho quân Cờ đen bắn hạ. Thiếu tá Berthe des Villers bị trúng đạn thương nặng, khiến Rivière phải ra lệnh rút lui, nhưng quân Cờ đen từ các lũy tre làng dày đặc ào ra tứ phía để tấn công, quân lính Pháp có nhiều người bị giết. Rivièr và Marolles vội hạ lệnh rút lui về Cầu Giấy để chống cự. Một khẩu pháo rơi vào tay quân Cờ đen sau khi toàn bộ nhóm pháo thủ bị hạ sát, nên Rivièr cùng một toán quân xông ra để chiếm lại. Trong khi cùng một sĩ quan di chuyển khẩu pháo để đặt vào một địa thế ở Cầu Giấy, H. Rivièr bị trúng đạn ngay giữa trán ngã quỵ xuống chết ngay.
Quân Cờ đen ào ra cắt lấy đầu H. Rivière, quân Pháp bị thua một trận đánh lớn, thiệt hại rất nhiều về nhân mạng, sĩ quan cũng như binh lính. Ngoài Rivière bị giết chết, nhiều sỹ quan khác như sỹ quan tùy tùng Clerc, sĩ quan tham mưu de Marolles bị thương, đại úy Jacquin và trung úy Heral de Brisis, đều thuộc thủy quân lục chiến bị tử trận, thiếu tá Berthe des Villers bị trọng thương, được đưa về Hà Nội nhưng cũng không qua khỏi, chừng 50 lính Pháp bị giết tại trận, hơn 70 lính bị thương. Trong thời gian sau đó, quân Nam liên tục tấn công quân Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định, nhưng đều bị quân Pháp đánh lui.
Tin Rivière bị giết truyền về Paris, chính phủ Pháp của thủ tướng Jules Ferry vốn đang do dự về việc chinh phục Bắc kỳ, đổi thái độ sang chủ chiến. Nghị viện thông qua chiến phí 5 triệu rưỡi franc và đưa một đoàn quân 3000 người xuống tàu đi Viễn Đông. Thiếu tướng Bouet, nguyên là sỹ quan hải quân, ở Nam Kỳ được phái ra làm ra thống đốc quân vụ ở Bắc Kỳ, Hải quân thiếu tướng, Đô đốc Courbet, nguyên toàn quyền New Caledonia được lệnh đem một đội chiến thuyền sang tiếp ứng, Bác sỹ Harmand, nguyên là bác sỹ giải phẫu của hải quân, sứ thần Pháp ở Xiêm, được cử ra làm toàn quyền để phối hợp các hoạt động quân sự và dân sự.
Vừa đặt chân tới Hà Nội cùng 200 lính tây và 300 lính tập, tướng Bouet đã ban hành ngay tình trạng khẩn cấp ở Bắc Kỳ, đồng thời cho phép một thuộc hạ cũ Jean Dupuis là Georges Vlavianos tuyển mộ và thành lập một tiểu đoàn quân Cờ Vàng, một đội quân kỵ binh tiền sát và một đội dân quân bản địa. Bouet cũng cho xây đắp, thêm đồn bốt phòng thủ thành Hà Nội và chỉnh đốn việc phòng thủ ở các thành Hải Phòng và Nam Định.

Trận cửa Thuận An

Cuối tháng 7 năm 1883, tại Hà Nội, toàn quyền Harmand họp với các tướng lĩnh Pháp và quyết định phải hành động gấp rút. Thời cơ đang rất thuận lợi vì chỉ hai tuần trước đó, ngày 17 tháng 7 năm 1883, vua Tự Đức băng hà, triều đình Việt Nam đang bối rối trong việc chọn người kế vị, vì người cháu được vua Tự Đức chọn lên, tức vua Dục Đức, bị quan Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết lật đổ vì nghi vua Dục Đức chủ trương "thỏa hiệp" với Pháp.
Ngày 16 tháng 8 năm 1883, một hạm đội nhỏ gồm 7 tàu chiến, trong đó có hai tàu bọc thép, chở hơn một ngàn quân Pháp do Đô đốc Amédé Coubert chỉ huy tiến vào cảng Đà Nẵng. Hai ngày sau, quân Pháp dùng thuyền đi ngược lên sông Hương bắn phá pháo đài Trấn Hải của quân Nam. Quân Nam bắn lại suốt ngày hôm đó, nhưng do vũ khí quá thua kém nên đến cuối ngày các pháo lũy đều bị phá hủy, lực lượng phòng thủ bị tổn thất hết mà quân Pháp không bị thiệt hại gì, quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần Thúc Nhân nhảy xuống sông tự tử. Quân Pháp chiếm được cửa Thuận An (Huế). Dưới sức ép quân sự của Pháp, ngày 25 tháng 8, nhà Nguyễn phải chấp thuận ký hòa ước với Pháp, theo đó chấp thuận sự bảo hộ của Pháp. Tuy nhiên các quan chủ chiến của nhà Nguyễn vẫn còn ở miền Bắc, và quân Cờ đen còn rất mạnh, nên chiến sự tiếp diễn.

Trận thành Sơn Tây

Ngày 15 tháng 8, 1.500 quân Pháp do tướng Bouet chỉ huy chia làm ba cánh mở chiến dịch tấn công. Quân Pháp dự định tấn công quân Cờ đen đóng ở phủ Hoài Đức (nằm ở vị trí sở Dịch Vọng huyện Từ Liêm phủ Hoài Đức, ngày nay là đường Nguyễn Phong Sắc quận Cầu Giấy) và làng Vệ (làng Vẽ (xã Đông Ngạc Từ Liêm)), rồi đánh về Sơn Tây. Cánh quân bên phải bị quân cờ Đen trong làng đánh lại quyết liệt và bị hệ thống chiến lũy quanh làng cản bước tiến. Đêm hôm đó quân Cờ đen bỏ phủ Hoài Đức rút về cố thủ ở đồn Phùng (quân Pháp gọi là làng Phong), xây dựng rất nhiều chiến lũy bắn vào quân Pháp. Sau ba ngày giao chiến đẫm máu, quân Pháp vẫn chưa chiếm được làng Vệ và làng Phong, mất 42 lính bị giết, phải rút về Hà Nội.
Ngày 1 tháng 9, được tin thắng trận ở Huế, quân Pháp lại tiến về Sơn Tây đánh quân Cờ đen. Lần này quân Pháp vào được làng Ba Giang (Pháp gọi là Palan và gọi trận này là trận Palan) thuộc huyện Đan Phượng (nằm tại ngã ba sông Đáy nhận nước sông Hồng), nhưng khi đó nước lũ lên rất to, đê bị vỡ, khiến Lưu Vĩnh Phúc phải tưởng rằng quân Pháp phá đê cho nước tràn vào. Lưu Vĩnh Phúc cũng nhận được lệnh của Hoàng Kế Viêm rút về củng cố phòng thủ Sơn Tây. Triều đình Huế cử Nguyễn Trọng Hợp truyền lệnh cho Hoàng Kế Viêm (đóng ở Sơn Tây) và Trương Quang Đản (đóng tại Bắc Ninh) phải về kinh, các quan lại khi đó người thì tuân lệnh, người thì nộp bỏ ấn tín, bỏ về mộ quân phối hợp với quân Thanh để chống lại quân Pháp.
Tình hình quân Cờ đen tại Sơn Tây cũng không sáng sủa hơn nhiều. Thanh triều yêu cầu quân Vân NamQuảng Tây phối hợp hoạt động chặt chẽ với Lưu Vĩnh Phúc. Ngân khố tỉnh Quảng Tây cũng được chỉ thị cấp cho quân Cờ đen 100.000 quan bằng bạc làm quân phí, nhưng quân Cờ đen vẫn chưa nhận được đồng nào. Quân Quảng Tây dù được lệnh tiến về Sơn Tây, chỉ tiến đến Bắc Ninh rồi dừng lại, vì các sỹ quan Quảng Tây cho rằng thành Bắc Ninh mới có tầm quan trọng chiến lược như tuyến đầu phòng thủ tỉnh Quảng Tây, còn vai trò chủ yếu của Sơn Tây là bảo vệ tuyến đường thủy đi về Vân Nam. Kết quả là tham gia phòng thủ Sơn Tây, ngoài 5.000 quân của Hoàng Kế Viêm, chỉ có khoảng 3.000 quân Cờ đen, 1.000 quân Vân Nam và chừng 500 quân Quảng Tây 
Trong khi đó, Đô đốc Coubert vẫn tiếp tục củng cố lực lượng, quân Pháp nhận thêm nhiều đơn vị quân Ả rậpquân Lê dương. Tới đầu tháng 12 năm 1883, thêm 4.000 quân Pháp đổ bộ vào Bắc kỳ, nâng tổng số quân Pháp ở Bắc kỳ lên 9.000 người. Ngày 11 tháng 12, 5.500 quân Pháp, trong đó có một đội lính bản xứ mộ tại Nam kỳ và một đại đội lính Bắc kỳ tuyển từ những người theo công giáo, rời Hà Nội đi đánh thành Sơn Tây. Khoảng một nửa quân Pháp đi theo đường bộ, nửa còn lại theo đường thủy đổ bộ gần Sơn Tây (huyện Phúc Thọ). Thành Sơn Tây được xây dựng theo kiểu Vauban, nằm giữa thị xã Sơn Tây. Xung quanh thành Sơn Tây quân Nam đã xây một chiến lũy cao gần 20 bộ, dày 5 bộ  xung quanh có hào nước. Phía bờ sông Cái quân Nam củng cố đê bối rất kiên cố, biến nó thành một chiến lũy mang tên Phù Sa (nay thuộc phường Viên Sơn thị xã Sơn Tây) vì đoán quân Pháp từ đường sông sẽ đổ bộ vào đây.
Ngày 14 tháng 12, quân Pháp theo đường sông đánh vào bờ đê sông Hồng. Có ưu thế cả về quân số và hỏa lực, quân Pháp tấn công dữ dội và tới chiều đã chiếm được đê bối. Tới tối, quân Cờ đen mở một cuộc phản kích để chiếm lại đê, nhưng một phần nhờ trời sáng trăng, quân Pháp đẩy lùi cuộc tấn công đó. Trong suốt ngày hôm sau, quân Pháp củng cố các vị trí chiếm được, rồi chuyển pháo lên bắn vào thành từ sáng đến tối ngày 16, quân Cờ đen đánh lại rất quyết liệt. Trời sẩm tối, quân Pháp mở cuộc tiến công chiếm chiến lũy đối diện bờ đê thì phát hiện quân Cờ đen đã rút vào thành. Đêm đó quân Nam và quân Thanh rút chạy, quân Cờ đen cũng phải rút lui theo lên thành Hưng Hóa thuộc Hưng Hóa ở mạn ngược sông Hồng. Quân Pháp mất 83 người bị giết và 380 người bị thương. Về phía quân Cờ đen và quân Nam mất chừng một nghìn người. Đến thế kỷ 20, khi làm thủy lợi ở vùng này (trạm bơm Phù Sa (Sơn Tây)), người ta vẫn còn thu thập được hài cốt hàng trăm quân (Việt Nam và Trung Quốc) chết trận.
Trong trận này, lần đầu tiên quân chính quy nhà Thanh trương kỳ hiệu đối đầu với quân Pháp. Tin thất trận truyền về Trung Quốc thoạt tiên làm nhà Thanh hoảng hốt, vì tưởng Lưu Vĩnh Phúc chết trận. Chỉ vài ngày sau khi thành Sơn Tây thất thủ, tuần phủ Quảng Tây Trương Thụ Thanh dẫn một đoàn quân lớn tiến vào Lạng Sơn rồi cho củng cố thành Bắc Ninh. Khắp miền Bắc Việt khi đó đâu đâu cũng có quân Thanh và quân Việt đóng. Tháng 1 năm 1884, 12.000 quân Thanh do Sầm Dục Anh chỉ huy từ Vân Nam tiến vào Lào Cai, rồi tiến vào Hưng Hóa hội binh với Lưu Vĩnh Phúc. Quân Cờ đen được tăng cường lực lượng, lên đến 3000 người trở lại. Tổng số quân Thanh ở Bắc Việt khi đó lên tới chừng 50.000 người , kể cả quân Cờ đen, đóng thành một vòng cung từ Hưng Hóa, Thái Nguyên đến Bắc Ninh.

Trận thành Bắc Ninh

Trong khoảng thời gian 3 tháng sau trận Sơn Tây, quân Pháp được tăng cường lên 16.000 người, trong đó khoảng một phần tư là lính tập, và 10 đội pháo thủ. Tướng Millot được cử lên thay Đô đốc Courbet vào tháng 2 năm 1884. Quân Pháp định đánh thành Hưng Hóa trước, nhưng do đường sông cạn nước, pháo thuyền và thuyền tiếp tế không lên được, nên quân Pháp phải chuyển hướng sang chuẩn bị tấn công Bắc Ninh. Quân Thanh cho rằng quân Pháp sẽ theo con đường cái quan đánh vào Bắc Ninh, nên tổ chức rất nhiều vị trí phòng thủ dọc theo hướng đó. Quân Pháp chia làm hai cánh, cánh thứ nhất do thiếu tướng Brière de l'Isle đem quân qua sông Hồng, rồi theo sông Đuống (sông Thiên Đức) đi về phía đông. Cánh quân của thiếu tướng De Négrier ở Hải Dương, đi tàu đến Phả Lại lên bộ, sau khi hội quân với thiếu tướng Brière de l'Isle, cả thủy bộ theo sông Cầu (sông Nguyệt Đức) tiến đánh Bắc Ninh.
Quân Cờ đen đến Bắc Ninh một tuần trước đó đã tổ chức phòng thủ trên các ngọn đồi phía ngoài thành Bắc Ninh, nhưng sự chuẩn bị của quân Thanh nhìn chung rất sơ sài. Pháo thủ quân Thanh không biết sử dụng hiệu quả pháo binh, dù quân Thanh được trang bị khá đầy đủ, quân Thanh không bố trí trên các cao điểm xung quanh thành phố. Thêm vào đó quân Thanh cướp phá, nhũng nhiễu dân chúng, cưỡng bức đàn bà con gái nên dân chúng địa phương có thái độ rất thù nghịch với quân Trung Quốc.
Quân Pháp bắt đầu tấn công từ ngày 11 tháng 2 (âm lịch) và nhanh chóng chiếm đóng các điểm cao nhìn vào thành phố. Khi Đáp Cầu thất thủ, quân Quảng Tây thấy mất đường về Lạng Sơn, hoảng hốt bỏ chạy toán loạn về Thái Nguyên, quân Cờ đen lại rút chạy về Hưng Hóa. Quân Quảng Tây trong lúc hoảng loạn bỏ lại 10 khẩu pháo Krupp và 200.000 dollar bằng bạc, mang vác theo đàn bà con gái và của cải cướp bóc được, bị dân địa phương truy đuổi. Tối ngày 6 tháng 2 (âm lịch), quân Pháp vào được thành Bắc Ninh. Trận Bắc Ninh là trận thua chiến lược của quân Thanh, nên do thất bại nhục nhã này mà hai viên chỉ huy của quân Thanh bị chặt đầu, Hsu Yen-hsu (Từ Diên Húc) bị bắt về Bắc Kinh xử tội và chết trong ngục. Quân Pháp trận này chỉ mất 8 người chết và 40 người bị thương. Thiếu tướng Brière de l'Isle thừa thắng đem quân lên đánh Yên Thế, rồi một tuần sau đánh hạ thành Thái Nguyên.

Trận thành Hưng Hóa

Thiếu tướng Brière de l'Isle cùng lữ đoàn thứ nhất theo con đường Sơn Tây lên Hưng Hóa, rồi dàn trận ở bên này sông Đà. Hai bên đánh nhau từ sáng ngày 15 tháng 3 (âm lịch), đến 2 giờ chiều thì quân Pháp sang sông ở chỗ gần huyện Bất Bạt. Chín giờ sáng ngày 16 tháng 3 (âm lịch), thiếu tướng De Négrier đem lữ đoàn thứ nhì tiếp đến, cả hai lữ đoàn cùng hợp lực tiến lên đánh. Chỉ chừng sau một giờ, quân Cờ đen và quân Thanh thấy không chống cự nổi, đốt hết phố xá, rồi bỏ chạy lên mạn ngược. Hoàng Kế Viêm kéo quân lên mạn núi, rồi đi đường thượng đạo rút về Kinh. Trưa ngày 12 tháng 4 (tức 17 tháng 3 âm lịch), quân Pháp vào thành Hưng Hóa, rối thiếu tá Coronnat đem một toán quân lên đánh phá đồn Vàng.
Quân Pháp đánh chiếm thành Hưng HóaTuyên Quang rồi ký Hòa ước Patrenôtre với triều đình Huế. Theo Hòa ước này, Triều đình Huế công nhận quyền Bảo hộ của Pháp. Phía Pháp cũng buộc Triều đình Huế từ bỏ thần phục nhà Thanh bằng cách giao nộp biểu tượng quyền lực của nhà Thanh là chiếc ấn bạc nặng gần 6 kg khắc hình lạc đà mà nhà Thanh dùng để phong vương cho vua Gia Long. Triều đình Huế không chấp nhận, kết quả là hai bên thỏa hiệp nấu chảy chiếc ấn đi để phá hủy nó.

Trận Bắc Lệ

Tại Thiên Tân, trong các ngày 11 tháng 5 và ngày 9 tháng 6 năm 1884, nhà Thanh ký các thỏa thuận với Pháp chấp thuận Hòa ước Huế. Theo Hiệp ước này, quân Thanh sẽ rút khỏi Bắc Việt và bàn giao lại địa bàn này cho quân Pháp. Tướng Pháp Millot phái một cánh quân dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Dugenne gồm 800 binh lính và khoảng ngần ấy dân phu vận đồ lên tiếp nhận Lạng Sơn. Ngày 19 tháng 6 năm 1884, quân Pháp đến làng Bắc Lệ, chỉ cách Lạng Sơn gần 30 km, thì phải dừng lại do mưa lũ. Ngày 23 tháng 6, khi quân Pháp tiếp tục tiến lên, họ bị quân Thanh mai phục ở hai bên đường bắn chặn lại làm vài người bị thương. Chỉ huy quân Thanh tại Lạng Sơn thông báo cho phía Pháp biết họ chưa có lệnh rút quân, dù rằng thời hạn 20 ngày để hoàn tất việc rút quân theo Hiệp định đã hết, và yêu cầu phía Pháp điện về Bắc Kinh để thúc giục chỉ thị giúp họ. Chỉ huy Pháp từ chối và đòi quân Thanh phải rút khỏi các vị trí trong vòng một giờ. Khi thời hạn hết, quân Pháp tiến lên liền bị quân Thanh mai phục sẵn, vũ trang bằng súng trường Remington, bắn chặn lại quyết liệt. Quân Pháp không tiến lên được, phải rút lui. Trận này quân Pháp mất 22 người chết và 60 người bị thương. Cuộc chiến tranh không tuyên bố giữa Pháp và nhà Thanh bùng nổ.
Các sỹ quan hải quân và lục quân Pháp tại chiến trường muốn đánh thẳng vào Bắc Kinh, nhưng Thủ tướng Pháp Jules Ferry chỉ chấp thuận tiến hành các hoạt động quân sự tại Đông Dương và vùng Biển Đông, vì ông lo ngại một cuộc tấn công vào Bắc Kinh sẽ chọc giận các cường quốc Âu châu khác, đặc biệt là Anh quốcNga. Hải quân Pháp dưới sự chỉ huy của Đô đốc Amédée Courbet phong tỏa các cảng biên Cơ LongĐạm Thủy của Đài Loan và tiến hành đổ bộ đánh các lực lượng quân Thanh trên đảo. Trong số những người tham gia chiến dịch có cả đại úy công binh Joseph Joffre, thống chế tương lai của nước Pháp.

Trận Phúc Châu


Trận Phúc Châu
Ngày 23 tháng 8 năm 1884, trong trận Phúc Châu, hải quân Pháp gồm 7 tàu chiến và hai tàu phóng lôi nhỏ loại 30 tấn, với hỏa lực vượt trội tấn công hạm đội Thanh bỏ neo tại cảng, (điều trớ trêu là hạm đội này được ông Prosper Giquel, một công dân Pháp xây dựng). Hạm đội Thanh có 9 tàu chiến, bao gồm cả tàu vận tải vũ trang và pháo hạm, chia làm hai cụm bỏ neo tại bờ tây bắc và tây nam của khúc quanh sông Mân, ngoài ra còn có một số ghe vũ trang, ca nô phóng lôi và 2 tàu vận tải nối liền hai cụm. Trận đánh diễn ra không quá 30 phút, quân Pháp tiêu diệt hoàn toàn hạm đội Thanh. Ngày hôm sau, thuyền chiến Pháp pháo kích và phá hủy công xưởng hải quân Thanh. Tới ngày 25 tháng 8, hạm đội Pháp hướng ra biển, trên đường đi họ bắn phá và dễ dàng tiêu diệt tất cả các pháo lũy của nhà Thanh bố trí dọc theo bờ sông, vì tất cả các pháo lũy này đều hướng ra phía biển. Kể từ mồng 1 tháng 10 năm 1884 đến tháng 6 năm 1885, quân Pháp chiếm đóng Cơ Long, và từ ngày 29 tháng 3 năm 1885 chiếm luôn Bành Hồ.
Tuy nhiên tại Bắc kỳ, quân Pháp không triển khai chiến dịch được vì mùa mưa đến. Điều này giúp cho quân Thanh tiến đến tận vùng châu thổ sông Hồng. Trong quá trình chiến dịch, quân Thanh vây hãm thành Tuyên Quang, được bảo vệ bởi một tiểu đoàn quân Lê dương Pháp. Trận này cho tới giờ vẫn được ca tụng trong khúc quân hành của quân đoàn Lê dương.

Hải quân Pháp đánh chìm chiến thuyền Trung Hoa tại Phúc Châu.

Trận Shipu

Trong trận này, hải quân hạm đội Nam Dương nhà Thanh xuất phát từ Thượng Hải từ tháng 12, định phá vòng phong tỏa của hải quân Pháp. Lực lượng đặc nhiệm Thanh gồm có 3 tàu tuần dương hạm, 1 tàu khu trục và 1 thuyền buồm loại nhỏ, chỉ huy bởi Đô đốc Wu An-k'ang. Tới mãi tận giữa tháng hai, quân Thanh mới đến Shipu và chạm trán hạm đội Pháp, nhưng vì hạm đội Pháp có ưu thế vượt trội về hỏa lực nên quân Thanh quyết định nhanh chóng tháo lui. Chiếc khu trục hạm Yu-yuen và thuyền buồm Teng Ch'ing vì chạy chậm hơn nên bị rớt lại, phải quay lại bỏ neo tại cảng Shipu. Trong đêm ngày 14, rạng sáng ngày 15 tháng hai năm 1885, quân Pháp sử dụng 2 tàu phóng ngư lôi để tấn công quân Thanh. Khu trục hạm Yu-yuen bị đánh chìm, còn chiếc Teng Ch'ing có lẽ bị thủy thủ đoàn tự đánh đắm. Trận này thường bị nhầm với trận Foochow, vì trong trận đó quân Pháp cũng dùng ngư lôi để đánh chìm 2 tàu chiến của quân Thanh, trong đó có cả kỳ hạm của quân Thanh. Trận này còn được gọi là trận "Shei-poo".
Ba tuần dương hạm còn lại của Nam Dương hạm đội chạy về đến Ninh ba, cùng với 2 tàu hộ vệ của Phúc Kiến bị hải quân Pháp phong tỏa trong cảng và không có bất kỳ một đóng góp quân sự gì cho tới khi chiến tranh kết thúc. Lực lượng Bắc Dương hạm đội cũng án binh bất động dù sở hữu một số tàu chiến hiện đại và có hỏa lực mạnh đủ để đương đầu với tàu chiến Pháp, nên dù hải quân Pháp bị dàn trải mỏng vẫn có thể phong tỏa bờ biển miền nam và tây nam Trung Quốc. Tuy bị nhiều thất bại, nhưng với cuộc chiến ở vào thế giằng co, nghịch lý là uy tín hải quân Thanh trên trường quốc tế dường như lại tăng lên một chút, vì đây là lần đầu tiên Trung Quốc đối đầu với một siêu cường Châu Âu và cuộc chiến ở vào thế bất phân thắng bại[9].

Trận Ải Nam Quan và Lạng Sơn

Một đạo quân viễn chinh Pháp gồm 2 lữ đoàn hành quân lên miền bắc xứ Bắc kỳ và chiếm Lạng Sơn vào tháng 2 năm 1885. Một lữ đoàn sau đó tiến về giải vây Tuyên Quang, nên tại Lạng Sơn chỉ còn lại một lữ đoàn không có lực lượng yểm trợ. Chỉ huy đơn vị này vì muốn tiêu hao sức mạnh tấn công của quân Thanh nên tổ chức tấn công quân Thanh dọc biên giới và bị đánh bại tại trận Trấn Nam Quan. Quân Pháp rút lui về Lạng Sơn và đánh bại cuộc tấn công của quân Thanh trong trận Kỳ Lừa. Tuy nhiên trong khi giao chiến, viên chỉ huy Pháp bị thương, và người thay thế ông ta, có lẽ bị hoảng hốt, vội vã hạ lệnh bỏ Lạng Sơn vào ngày 28 tháng 3. Lữ đoàn rút chạy hỗn loạn về vùng châu thổ sông Hồng, mất hết các chiến quả thu được trong chiến dịch năm 1885, khiến cho chỉ huy quân viễn chinh Pháp, Henri Briere de l'Isle, tưởng là tình hình vùng trung châu đã trở nên hết sức nguy kich. Ông ta đánh điện báo về Paris, và hậu quả là chính phủ của thủ tướng Jules Ferry sụp đổ.
Vài ngày sau, Briere de l'Isle nhận ra là tình hình không đến nỗi xấu như ông ta tưởng, tuy nhiên Nội các mới lên thay ở Pháp đã quyết định chấm dứt chiến tranh.
Trận thua này, mà người Pháp gọi là "Sự kiện Bắc kỳ", là một scandal chính trị lớn cho những người ủng hộ chủ nghĩa việc bành trướng thuộc địa. Mãi cho đến cuối thập niên 1890 họ mới giành lại được sự tín nhiệm trên chính trường.

Hệ quả

Mặc dù phải rút khỏi Lạng Sơn, nhìn tổng thể thì quân Pháp vẫn chiếm ưu thế, cộng với các chiến thắng trên biển, khiến cho Lý Hồng Chương phải ký một hiệp ước gây nhiều tranh cãi ngày 6 tháng 9 năm 1885. Theo hiệp ước này, nhà Thanh chấp nhận Hòa ước Huế và từ bỏ quyền bá chủ trên lãnh thổ Việt Nam. Không lâu sau An-nam (Trung kỳ) và Bắc kỳ bị sát nhập vào miền Nam kỳ thuộc Pháp. Ảnh hưởng đáng kể nhất của cuộc chiến với Pháp là nó hạ bệ chính phủ lâu năm của Ferry.
Bản Hiệp ước này gây nhiều tranh cãi đến mức Lý Hồng Chương và chính quyền nhà Thanh phải chịu nhiều chỉ trích nặng nề, đồng thời tạo ra một làn sóng ái quốc khắp Trung Hoa. Cuộc chiến tranh là một bước quan trọng trong quá trình sụp đổ của nhà Thanh, do bị mất uy tín và do sự hủy diệt Nam dương Hạm đội. Nó cũng chỉ ra những yếu kém trong hệ thống quân sự cuối đời nhà Thanh, khi mà các đơn vị địa phương quân, cũng như bắc quân (gồm cả hải-lục quân) từ chối tham chiến. Tuy không bị thất bại trên chiến trường, nhưng các mục tiêu chính trị mà nhà Thanh đặt ra đều không thực hiện được, như ngăn chặn sự hiện diện quân sự của Pháp ở Bắc Việt, nhà Thanh phải chấp nhận mất nước chư hầu Việt Nam và chấp nhận tất cả các hòa ước mà Pháp đã ký với nhà Nguyễn. Về mặt quân sự, tuy các tổn thất nhân mạng có thể chấp nhận được, thì các thiệt hại vật chất rất to lớn và khó bù đắp. Hạm đội Phúc Kiến (tức Nam Dương hạm đội) bị hủy diệt, cảng Phúc Châu bị phá hủy, tổn thất về khí tài, chi phí quân sự, thiệt hại kinh tế của nhà Thanh lên đến 100 triệu lạng bạc, đồng thời mắc nợ thêm 20 triệu lạng bạc nữa 
Hệ quả chính trị là phái cải cách trong chính phủ nhà Thanh hoàn toàn mất uy tín và bị gán trách nhiệm cho thất bại. Phong trào Tự cường thực hiện được hai mươi năm nay bị phá sản. Việc mất Việt Nam cũng mở đường cho Đế quốc Anh đặt yêu sách lên nhà Thanh đòi tách Miến Điện khỏi vùng ảnh hưởng của Trung Quốc vào năm 1885 (dù vẫn chấp thuận để Miến Điện tiếp tục triều cống), và Nhật Bản nhân cơ hội bắt đầu tỏ ý nhòm ngó Triều Tiên.

Trận Kinh thành Huế 1885

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Kinh thành Huế 1885
Một phần của Chiến tranh Pháp-Nguyễn
Ngomon2.jpg
.
Thời gian 4 tháng 7 - 5 tháng 7 năm 1885
Địa điểm Huế, Việt Nam
Kết quả Quân đội Pháp chiến thắng
Tham chiến
Flag of Vietnam (1802-78).gif Nhà Nguyễn Cờ Pháp Quân đội Pháp
Chỉ huy
Flag of Vietnam (1802-78).gif Vua Hàm Nghi
Flag of Vietnam (1802-78).gif Tôn Thất Thuyết
Flag of Vietnam (1802-78).gif Trần Xuân Soạn
Flag of Vietnam (1802-78).gif Tôn Thất Liệt
Cờ Pháp De Courcy


Lực lượng
12.000-20.000 quân
1.100 khẩu pháo
1.400 quân
17 khẩu pháo
Tổn thất
1.200-1.500 chết
812 khẩu pháo
16.000 súng trường
Bị thương không rõ 
16 chết
80 bị thương
.
Trận kinh thành Huế năm 1885 là trận tập kích của quân triều đình nhà Nguyễn vào lực lượng Pháp do Tôn Thất Thuyết chỉ huy.

Hoàn cảnh lịch sử

Bắc Kỳ sau 1884 có thể coi là bị lọt hết vào bàn tay của quân đội viễn chinh Pháp.
Tại Huế, triều đình cũng chia ra 2 phe: phe chủ chiến có hai ông Tôn Thất ThuyếtNguyễn Văn Tường, phe chủ hòa (còn được gọi là "chủ hàng") có Trần Tiễn Thành, Nguyễn Hữu Độ, Gia Hưng quận vương... Với danh nghĩa Phụ chính đại thần, hai ông Thuyết, Tường, nắm hết quyền hành và ra mặt triệt hạ hết các nhân vật của phe chủ hòa và huy động việc kháng chiến từ Trung ra Bắc. Khâm sai Hoàng Kế Viêm trở ra hoạt động tại Sơn Tây, Trương Quang ĐảnBắc Ninh, Tạ HiệnNam Định, Phạm Vũ Mẫn, Nguyễn Thiện Thuật ở các tỉnh khác. Các ông này đều là các quan văn võ cao cấp của triều đình, hưởng ứng lời hịch Cần Vương. Bị Pháp phản đối nhiều lần lại thêm thất trận nặng nề nên lúc này ông Tường phải ngoại giao khéo léo với người Pháp để ông Thuyết ngầm tổ chức kháng chiến. Ở Trung, đoàn quân Phấn Nghĩa có hàng vạn người được bí mật sửa soạn chờ ngày tổng phản công. Tại Tân Sở, phe kháng chiến xây dựng một chiến khu với mục đích bên trong tiếp ứng cho Quảng Bình, Quảng Trị, phía ngoài có thể liên lạc với các miền thượng du Thanh Nghệ và có đường rút sang LàoXiêm La. Quân đội đóng ở đây có hơn một ngàn với hơn 20 đại pháo. Chiến khu này xét ra là con đường lùi của phe chủ chiến một khi cuộc đánh úp đồn Mang Cá của họ bị thất bại. Tôn Thất Thuyết cũng cho chôn giấu ở đây một nửa ngân khố của triều đình, gồm 300.000 lạng vàng, để chuẩn bị khả năng chiến đấu lâu dài.
Vua Kiến Phúc ở ngôi được hơn 6 tháng thì lâm bệnh qua đời ngày mồng 7 tháng 4 năm Giáp Thân (tức 1 tháng 5 năm 1884) nên em ông là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, khi đó mới 12 tuổi, lên ngôi, lấy niên hiệu Hàm Nghi. Để đánh dấu những biến cố trên đây, sĩ phu Việt Nam đă có hai câu thơ:
Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường
Khâm sứ Rheinart trách cứ rằng việc đặt vua Hàm Nghi lên ngôi không có xin phép nước Pháp và đại tá Guerrier đem 600 quân cùng một đội pháo binh từ Bắc vào Huế để thị uy. Quân Pháp do thiếu tá Guerrier chỉ huy được lệnh chiếm đồn Mang Cá. Sau đó ông Rheinart và Guerrier sang làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi rồi mới rút binh sĩ về Hà Nội.
Bấy giờ, phái chủ chiến ở Huế vì tương quan lực lượng yếu hơn, nên phải chịu chấp nhận. Mặt khác họ cũng lo tổ chức việc bố phòng để chuẩn bị cho trận chiến đấu sắp đến. Thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết cho đặt 300 khẩu thần công lên mặt thành; dựng các tấm thuẫn đan bằng mây tre và bọc hai lớp da trâu để cản bớt sức công phá của đại bác địch trên mặt thành. Mặt khác, ông đã cho vận chuyển khí giới, lương thực ra Tân Sở (Quảng Trị) là hậu cứ của triều đình.

Kinh thành Huế
Theo người Pháp thì có thể rối loạn to về phía triều đình Việt Nam sau khi Hòa ước Thiên Tân ký vào ngày 27 tháng 4 năm 1885, tức năm Quang Tự thứ 11 (Ất Dậu), giữa Patenôtre đại diện Pháp và Lý Hồng Chương đại diện Thanh triều, Pháp liền dốc toàn lực để tiêu diệt cuộc kháng cự của Cần Vương mà thái độ giờ phút đó rất khả nghi và quan ngại.
Về phía triều định Huế, lợi dụng quân Pháp vừa thua trận ở Lạng Sơn; triều đình gửi công hàm cho Pháp yêu cầu họ rút quân ra khỏi Mang Cá, đồng thời phản đối việc quan lại bị bắt ở Bắc Kỳ, phản đối việc khám xét tàu thuyền và đòi trả lại tiền thuế cho khai thác mỏ và buôn thuốc phiện... Các yêu cầu đó, cùng với việc bố trí phòng thủ, khiến cho Pháp quyết định tiến vào đánh chiếm kinh đô Huế, mục đích là để tiêu diệt cho bằng được nhóm chủ chiến đang nắm ảnh hưởng lớn tại triều đình..
Ngày 21 tháng 5 năm 1885, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp chỉ thị cho Lemaitre- Khâm sứ Pháp ở Huế:
"Không thể không trừng phạt hành vi của viên Thượng thư Bộ Binh nước Nam. Ông cho triều đình nước ấy biết rằng chúng ta không chịu để cho ông Thuyết ở chưc Phụ chánh lâu hơn nữa. Ông phải đòi người ta bãi chức ông ấy và đưa đi xa...".
Cuối tháng 5 năm 1885, tướng De Courcy được bổ làm Toàn quyền chính trị và quân sự tại Bắc và Trung Kỳ. Vừa đến Việt Nam, ông ta tuyên bố: "Cái gút thắt của vấn đề Việt Nam là ở Huế...". Ngày 18 tháng 4 năm Ất Dậu (tức 12 tháng 5 năm 1885), tướng De Courcy vừa sang tới Bắc Kỳ đã vào ngay Huế bàn việc giao thiệp giữa ông với Nam triều. Ngày 2 tháng 7 năm 1885, De Courcy đến Huế, cùng đạo quân gồm 1 tiểu đoàn lính Phi châu dưới quyền chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Metziuyer, trong đó có 16 sĩ quan và 870 binh lính; 1 đơn vị đặc nhiệm lấy từ tiểu đoàn quân sơn cước do Boines chỉ huy, gồm 3 sĩ quan và 157 lính. Tổng cộng có 19 sĩ quan và 1024 binh lính.
Viên tướng Pháp yêu cầu Nam triều ra lệnh cho sĩ phu và dân chúng tuân phục hoàn toàn chính thể bảo hộ. Để đáp lại việc Tôn Thất Thuyết cho chĩa đại bác từ Đại Nội vào đồn Mang Cá, phía Pháp cho thiếu tá Pernot dẫn quân tuần tiễu quanh Đại Nội. Người thay Rheinard (lúc đó vẫn chỉ là một quan chức nhỏ) là Lemaire, cựu công sứ Pháp tại Thượng Hải thuyết phục được Tôn Thất Thuyết rút đại bác khỏi các vị trí bố phòng nhắm vào quân Pháp. Nhưng phía Pháp không biết được rằng Tôn Thất Thuyết sau khi rút đại bác ra đã bí mật cho chở chúng lên căn cứ Tân Sở 
De Courcy có ý nhân dịp này bắt Tôn Thất Thuyết ngay giữa cuộc đàm phán, do ông này là linh hồn của phe chủ chiến. Thuyết biết mưu này liền cáo ốm không sang và để Nguyễn Văn Tường cùng Phạm Thận Duật sang gặp De Courcy. Theo đại úy Gosselin, nhược điểm lớn nhất của De Courcy là việc ông này hoàn toàn mù quáng về tình hình Việt Nam. Ông cứ tưởng triều đình và dân chúng An Nam khiếp nhược trước sức mạnh của Pháp, và đề nghị với Paris giải quyết tình hình bằng vũ lực 
Khi hiệp thương với Nguyễn Văn Tường và Phạm Thận Duật, tướng De Courcy đã yêu cầu chỉ khi nào Tôn Thất Thuyết lành bệnh thì mới định ngày vào gặp vua, đồng thời cử bác sĩ Maugin sang chữa bệnh cho ông, đòi ông Thuyết nếu ốm thì nằm cáng mà sang sứ quán Pháp nhưng Thuyết không chịu. Ngoài ra, Pháp còn đặt điều kiện là khi phái đoàn vào đến Hoàng thành, vua Hàm Nghi phải bước xuống ngai vàng đích thân ra đón. Ông ta còn đòi tất cả nhân viên trong phái đoàn của Pháp, phải được đi vào Đại Nội bằng của chính Ngọ Môn chứ không chịu đi một mình. De Courcy khước từ quà tặng của vua Hàm Nghi, và tuyên bố "nếu các người muốn yên ổn, thì trong 3 ngày phải nộp 200.000 thỏi vàng, 200.000 thỏi bạc và 200.000 francs". Sự ngạo mạn và lăng nhục của phía Pháp khiến phe chủ chiến tức giận và quyết định ra tay trước

Diễn biến trận đánh


Binh lính thời nhà Nguyễn
Ngày 4 tháng 7 (tức 22 tháng 5 âm lịch), Tôn Thất Thuyết lệnh cho binh sĩ đặt đại bác hướng về phía tòa Khâm Sứ và đồn Mang Cá là hai địa điểm đóng quân của địch. Gần tối, Trần Xuân Soạn lần lượt cho đóng hết các cửa thành và đặt thêm súng thần công ở phía trên. Đêm đó, Tôn Thất Thuyết bí mật chia quân ở các dinh vệ làm hai đạo; một đạo giao cho em là Tôn Thất Lệ chỉ huy, nửa đêm dùng đò vượt sông Hương, sang hợp cùng với quân của Đề đốc thủy sư và Hiệp Lý đánh úp Tòa Khâm Sứ. Ngay trong đêm, họ đã phối hợp cùng 5.000 thủy binh của triều đình ở các trại dọc bờ sông để nổ súng tấn công. Pháo binh ở đông nam kinh thành Huế cũng nổ súng yểm trợ cho đội quân này.
Tôn Thất Thuyết cùng Trần Xuân Soạn ở bên này sông, sẽ chỉ huy đánh vào Trấn Bình đài; nhằm tiêu diệt đội quân tiếp viện của Pháp mới từ miền Bắc vào đang trú đóng ở đây. Ông còn cử một toán quân mai phục ở cầu Thanh Long, đề phòng Đại tá Pernot là người chỉ huy đội quân ở Mang Cá và các sĩ quan thuộc hạ ở Tòa Khâm Sứ về, qua cầu này thì đánh úp ngay  Tôn Thất Thuyết chỉ huy đội quân thứ ba, đóng ở Hậu Bộ phía sau Đại nội vừa làm nhiệm vụ trợ chiến vừa làm dự bị.
Đêm 4, sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885, trong khi người Pháp khao thưởng quân đội thì vào một giờ sáng Thuyết và Soạn cho bắn một phát đại bác làm hiệu lệnh để nhất tề tấn công vào Trấn Bình Đài, trong khi đó, bên kia sông, Tôn Thất Lệ chỉ huy quân cũng đồng loạt tấn công vào Tòa Khâm Sứ và Sứ quán Pháp. Tiếng đại bác vang động khắp kinh thành.

Kinh thành Huế
Quân Pháp bị bất ngờ nhưng vẫn giữ thế thủ để chờ buổi sáng. Họ ẩn núp trong trại không chịu ra ngoài trong khi đại bác quân Nguyễn bắn sập mái nhà và lầu tòa Khâm Sứ. Còn phía đồn Mang Cá thì thậm chí Trần Xuân Soạn đã dùng cả tù nhân được sung binh đi phóng hỏa trại quân Pháp. Quân Nam hò reo và liên tục bắn súng. Nhà cửa trong Tòa khâm sứ cháy tứ tung, khói lửa bốc lên ngùn ngụt, thiêu cháy nhiều trại lính, chuồng ngựa. Quân Nam quyết tràn vào chiếm Tòa, một toán quân Pháp do trung úy Boucher nổ súng chống cự, ngăn chặn quân Nam tràn vào. Lính Pháp đang ngủ, chợt thức dậy, kẻ bị bắn, kẻ bị chết cháy, số bị thương khá nhiều. Một số sóng sót chạy ra vơ lấy súng ống, mình trần như nhộng, nhiều người không kịp mặc áo. Họ được lệnh tập trung ở một địa điểm xa tầm đạn của quân Nam. Tòa Khâm sứ và đồn Mang Cá cách xa 2500m và ngăn cách bằng dòng Sông Hương, vì thế họ không thể cứu viện lẫn nhau.
Về tình hình ở Tòa khâm sứ vào đêm hôm đó, A.Delvaux (ngoại vụ Pais) đã viết trên BAVH- 1916 như sau (BAVH 1916, sdd tr 76):
"Một trong những phát đạn đại bác bắn từ ổ pháo phía Đông đã làm thủng mái và nền nhà của nhà Phái bộ (tức Tòa Khâm sứ).
Các trại lính của đại đội 27 và 30 của Tiểu đoàn 4 Thủy quân lục chiến bị cháy cùng một lúc với chỗ để đồ đạc của Phái bộ và các nhà hậu cần. Binh lính chạy đến bức tường bằng cửa phía trước của tòa nhà đối diện với trại binh. Ông De Courcy chỉ huy 160 người, bố trí cứ một cửa sổ hai người, biến ngôi nhà thành một pháo đài. Hàng loạt đạn súng trường bắn ra nhưng quan trọng nhất là sáu cỗ đại bác ở góc đông của Kinh thành đã cầm chân 1500 quân tấn công không có nhiều súng ống và ở cự ly xa. Cũng may là căn nhà để điện thoại ở cách xa nhà phái bộ 300m không bị đạn, nhờ vậy mà ông tướng (tức De Courcy) có thể liên lạc với đồn Thuận An. Ông tướng bị kẹt trong gian nhà chính giữa rất lo cho số phận của đồn Mang Cá. Đến sáng thì khẩu đội pháo gồm hai khẩu đại bác hướng nòng về phía Tây nhà phái bộ đã bị một trung đội thủy quân lục chiến tiến đánh tập hậu và chiếm được..."
Khi mặt trời hé mọc, quân Pháp phản công. Họ chở súng lên đài và nóc tàu bắn qua hạ được quân Nguyễn rất nhiều, Hoàng thành và cung điện nhiều nơi bị phá hủy. Pháo hạm Javelin cấp tập bắn dọn đường cho bộ binh Pháp phản công. Dưới sự chỉ huy của Pernot, quân Pháp chia quân làm 3 cánh để tiến vào kinh thành. Họ xung phong từng đợt một, chiếm lĩnh các vị trí cửa chắn then chốt, để tràn vào các cửa Đông Ba, Thượng Tứ, Chánh Đông, Chánh Tây, An Hòa… Một toán từ Cửa Trài phá cầu Thanh Long, vượt sông Ngự Hà tiến vào Lục Bộ, cố tấn công cửa Hiển Nhơn để mở đường vào Đại Nội. Toán quân thứ hai vượt Cầu Kho, tấn công quân Nam đang tử thủ ở vườn Thượng Uyển, đồng thời cũng để tiếp ứng cho toán quân đang tìm cách phá vỡ cửa Hiển Nhơn (cửa phía Đông vào Đại Nội).
Bị bất ngờ phản công, ban đầu quân Nam chống cự rất anh dũng, bắn thủng ruột thiếu úy Pellicot. Các vọng lâu được sử dụng làm pháo đài, trên thành, quân Nam bắn xuống xối xả. Quân Pháp đánh vào một pháo đài có chứa thuốc súng, nhưng pháo đài bốc cháy, một toán quân Phi và một chỉ huy bị nổ tung, chết cháy ngay tại trận.
Về bên phía Tòa Sứ, đoàn quân của Cheroutre cũng tiến sang... Họ cố tràn lên, nhưng bị quân Nam nổ súng chặn lại. Trung úy Lacroix bị thương; thiếu úy Heitschell khi sắp qua cầu thì một thùng thuốc súng phát nổ, bị chết cháy tại chỗ. Cuối cùng, quân Pháp cũng tiến được vào thành, cùng lúc đó, quân của Bornes và Sajot cũng vừa tiến vào
Trước sự phản công của quân Pháp, quân triều đình không giữ được thành, cả hai đạo quân của triều đình ở bên trong và bên ngoài chống không nổi, tan vỡ, tháo chạy về phía Lục Bộ và tràn ra cửa Đông Ba. Tại đây đã họ bị toán quân của Pháp từ phía Cửa Trài tiến lên bao vây. Cuộc giết chóc tàn bạo chưa từng có đã xảy ra: hơn 1.500 người dân và binh lính triều đình đã ngã xuống trong đêm hôm đó vì bị trúng đạn của Pháp, hay một số do chen lấn, giẫm đạp lên nhau khi cố vượt ra khỏi Kinh thành. Hầu như không có gia đình nào không có người bị tử nạn trong đêm binh biến này.
Quân Pháp tiến được vào thành, họ hạ cờ triều đình Huế xuống, treo cờ tam tài lên kỳ đài. Sau đó, họ tiếp tục tiến vào Đại Nội, rồi ra sức đốt phá, hãm hiếp, giết chóc, cướp bóc không từ một ai. Một toán quân Pháp đốt trụi trụ sở Bộ Lại, Bộ Binh và các kho thuốc súng. Quân Pháp chia nhau chiếm giữ các kho tàng, cung điện, thu được nhiều vàng bạc và số tiền hơn một triệu quan, là số tiền mà triều đình không kịp mang đi... Trưa hôm đó, họ chia nhau đi đốt hoặc vùi lấp những thi hài của quân và dân Nam chết trong trận đánh.
Nguyễn Văn Tường thấy thế nguy liền vào Nội yêu cầu nhà vua xuất cung. Hữu quân Hồ Văn Hiển phò giá, đưa Hoàng gia ra cửa tây nam. Từ Dũ thái hậu ủy Tường ở lại lo việc giảng hòa, Thuyết chạy kịp theo, còn chừng trăm người.

Kết cục

Theo báo cáo của tướng De Courcy sáng ngày 5 tháng 7 cho Toàn quyền Đông Dương:
"Huế, ngày 5/7 vào lúc 3 giờ sáng. Phái bộ và Mang Cá bị bất ngờ tấn công bởi toàn bộ binh lực của Kinh thành. Toàn thể khu vực của Thủy Quân lục chiến bằng nhà tranh xung quanh Phái bộ đều bị đạn pháo và người đốt cháy. Tòa nhà phái bộ nguyên vẹn. Không có tổn thất gì đáng kể. Không có tin tức gì về Mang Cá là nơi đóng quân của tiểu đoàn 3 lính Phi châu. Kinh thành bị bốc cháy nhiều nơi; súng lớn và súng nhỏ nổ nhiều. Tôi nhìn theo hướng của hỏa lực, tôi chắc rằng địch đã bị đẩy lui. Tôi bảo vệ được căn nhà tranh đặt điện thoại. Tôi đã ra lệnh cho Hải Phòng đưa quân đóng ở đó vào. Tôi không thấy có gì đáng lo ngại.
De Courcy
Huế, ngày 5 tháng 7 vào lúc 11 giờ sáng".
"Kinh thành đã nằm trong tay chúng tôi với 1100 cỗ đại bác.
Quân đội chiến đấu tuyệt vời, đầy tin tưởng. Các thiệt hại khá lớn.
Quân Annam tấn công lúc 1 giờ sáng cùng một lúc về phía khu vực trong Kinh Thành, nơi chúng tôi đóng, và về phía khu vực Phái bộ (tức đồn Mang Cá).
Những kẻ tấn công với hơn 30.000 người, lúc đầu đã đốt cháy chỗ đóng quân bằng nhà tranh ở Mang Cá, và chỗ đóng quân Thủy quân lục chiến ở khu vực Phái bộ.
Tất cả trang thiết bị đều bị cháy trụi, nhưng cứu được đạn dược và lương thực. Ngôi nhà phái bộ mang nhiều vết đạn pháo.
Tôi đang tổ chức phòng thủ để đẩy lùi đợt tấn công có thể xảy ra vào tối mai, tối thiểu cũng nhằm vào Phái bộ.
Không có gì phải lo ngại. Điều binh có trật tự để củng cố đồn.
De Courcy"
Kiểm điểm lại trận đánh tại Kinh thành đêm 22 tháng 5 năm Ất Dậu (1885), thất bại hoàn toàn về phía triều đình Huế. Pháp chỉ chết có 16 người, bị thương 80 người, còn quân Nam chết đến 1.200-1.500 người. Quân Pháp khi chiếm được kho vũ khí thu được 812 súng thần công, 16.000 súng hỏa mai, khí giới, lương thực mất đến hàng triệu bạc. Dù đã chuẩn bị khá cẩn thận trong việc tấn công đồn địch, nhưng vì thiếu thông tin liên lạc, nhất là khi phải đánh đột kích trong đêm tối, hơn nữa vũ khí yếu kém, không có sức công phá lớn và không thể bắn được tầm xa nên quân Nam đã thua trận. Quân Pháp chiếm được một số lớn của cải mà triều đình chưa kịp chuyển đi, gồm 2.6 tấn vàng và 30 tấn bạc, trong số này chỉ có một phần rất nhỏ sau này được hoàn lại cho triều đình Huế. Còn lại, số 700.000 lạng bạc phải được 5 lính Pháp đóng hòm trong 5 ngày mới xong và chở về Pháp.
Sáng ngày 23, vua Hàm Nghi rút lui khỏi Huế, xa giá nghỉ ở Trường Thi một lát rồi lên đường đi Quảng Trị. Nguyễn Văn Tường được lệnh ở lại thu xếp mọi việc.  Trưa hôm ấy, ông nhờ Giám mục Caspard đưa ra gặp thống tướng De Courcy, ông Tường được đến trú tại Thương bạc viện và bị đại úy Schmitz coi giữ. Pháp buộc ông ta nội hai tháng phải thu xếp cho yên mọi việc. Ông Tường gửi sớ ra Quảng Trị xin rước Tam cung (bà Từ Dũ Thái hoàng thái hậu, mẹ đức Dực Tông, bà Hoàng thái hậu là vợ đức Dực Tông và là mẹ nuôi ông Dục Đức, Kiến PhúcĐồng Khánh.
Trong khi đó, Thuyết đem vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị) người Pháp treo giải 2000 lạng bạc cái đầu của ông Thuyết và ai bắt được vua Hàm Nghi thì được thưởng 500 lạng.
Từ Dũ thái hậu viết thư mấy lần khuyên cháu trở về nhưng vô hiệu. Từ Trung ra Bắc, phong trào Cần Vương bắt đầu. Sau biến cố này, mọi việc trong triều do khâm sứ Pháp điều khiển hết. Giữa hôm vua Đồng Khánh bước lên ngai vàng thì Tôn Thất Thuyết tung ra bài hịch Cần Vương. Sau đó hai tháng người Pháp cách chức Nguyễn Văn Tường đày đi Haiti, lập vua Đồng Khánh lên ngôi ngày 14 tháng 9 năm 1885.
Kể từ đó về sau, ngày 23 tháng 5 âm lịch trở thành ngày giỗ lớn hàng năm của người dân Huế. Năm 1894, bộ Lễ đã cho xây về phía trước Hoàng thành một cái Đàn gọi là Đàn Âm Hồn, đàn có diện tích 1500m2; gần cửa Quảng Đức, là địa điểm mà Tôn Thất Thuyết đã trực tiếp chỉ huy quân triều đình đánh vào đồn Mang Cá, nhưng nay không còn dấu tích. Quan Đề đốc Hộ Thành được cử đến làm chủ tế hàng năm. Hiện nay, trong khu vực Thành Nội Huế (tại ngã tư Mai Thúc Loan - Lê Thánh Tôn) vẫn còn miếu Âm Hồn để tưởng niệm những người chết trong cơn binh lửa.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét