Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2016

HƯỚNG LÊN VĂN MINH 2

(ĐC sưu tầm trên NET)

Những hình ảnh Sài Gòn - TP Hồ Chí Minh: Một thời và hôm nay


Thứ Hai, 27/04/2015, 14:54:11

Cảng Sài Gòn hôm nay (Ảnh: Kim Phương).
NDĐT- Sau 40 năm giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, TP Hồ Chí Minh đã có nhiều đổi thay. Dưới đây là một số hình ảnh của Sài Gòn một thời và TP Hồ Chí Minh ngày nay.
Toà Đô chánh (xưa)
Và Trụ sở UBND TP Hồ Chí Minh (nay).
Ngân hàng quốc gia Việt Nam (xưa).

Và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh (nay).
Hội trường Diên Hồng (xưa)

Và Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh (nay).
Chợ Bến Thành (xưa)
Và Chợ Bến Thành (nay).

Bùng binh chợ Bến Thành (xưa)


Và nay.


Bên cạnh chợ Bến Thành (xưa)
Và nay.
Cảng Sài Gòn 1965.


Cảng Sài Gòn nay.
Đường lên sân bay Tân Sơn Nhất (xưa).
Sân bay Tân Sơn Nhất (nay).


Một góc đường Tự Do (xưa)
Và đường Đồng Khởi (nay).




Kênh Nhiêu Lộc xưa...
Và kênh Nhiêu Lộc ngày nay.




PHƯƠNG - VÂN - NGÂN và tư liệu từ internet

Hình ảnh 'độc' về Sài Gòn hơn 100 năm trước và nay


Sài Gòn - Gia Định đã trải qua nhiều thời kỳ, nếm trải thăng trầm lịch sử cùng con người phương Nam. Thời gian vẫn cứ trôi đi đã làm biết bao cảnh vật thay đổi. Thế nhưng vẫn còn nhiều công trình vẫn giữ được vẻ đẹp của quá khứ...

Hình ảnh 'độc' về Sài Gòn hơn 100 năm trước và nay

Sài Gòn - Gia Định đã trải qua nhiều thời kỳ, nếm trải thăng trầm lịch sử cùng con người phương Nam. Thời gian vẫn cứ trôi đi đã làm biết bao cảnh vật thay đổi. Thế nhưng vẫn còn nhiều công trình vẫn giữ được vẻ đẹp của quá khứ...

Sai gon
Nguyên thủy, chợ Bến Thành đã có từ trước khi người Pháp xâm chiếm Gia Định. Ban đầu, vị trí của chợ nằm bên bờ sông Bến Nghé. Bến này dùng để cho hành khách vãng lai và quân nhân vào thành, vì vậy mới có tên gọi là Bến Thành.
Sai gon
Và chợ Bến Thành ngày nay.
Sai gon
Nhà hát thành phố. Tòa nhà được xây dựng từ năm 1898 đến 1900.
Sai gon
Nhà hát thành phố hôm này không có nhiều thay đổi về cấu trúc.
Sai gon
Dinh Xã Tây được xây dựng 1898 - 1909. Sau đó đổi thành Tòa Đô Chánh.
Sai gon
Nay là trụ sở UBND thành phố Hồ Chí Minh.
Sai gon
Trung tâm Thương xá Tax.
Sai gon
Và nay.
Sai gon
Đối diện Thương Xá là khách sạn Rex.
Sai gon
Khách sạn Rex hiện là khách sạn 5 sao hiện đại giữa trung tâm TP.HCM
Sai gon
Trước kia, tại vị trí Đại lộ Nguyễn Huệ ngày nay chính là kênh đào Charner, nối liền với sông Sài Gòn.
Sai gon
Nay đường Nguyễn Huệ là con đường trung tâm của thành phố nằm quận 1. Đường 10 năm nay được chọn làm đường hoa Tết.
Sai gon
Nhà thờ Ðức Bà còn gọi là nhà thờ Chánh tòa Sài gòn, một công trình kiến trúc lớn ở quảng trường công xã Pari, trung tâm thành phố được xây dựng 1863 - 1865.
Sai gon
Sau hơn chục thập kỷ, nhà thờ Đức Bà đã xây thêm hai chóp tháp.
Sai gon
Phía sau của nhà thờ Đức Bà.
Sai gon
Kiến trúc vẫn không hề thay đổi sau hơn 1 thế kỷ.
Sai gon
 Dinh Thống đốc Nam kỳ được xây dựng 1870 - 1973. Sau khi xây dựng xong, dinh được đặt tên là dinh Norodom lấy theo tên của Quốc vương Campuchia lúc bấy giờ. Từ 1887 đến 1945, Toàn quyền Đông Dương đã sử dụng dinh thự này làm nơi ở và làm việc nên dinh gọi là dinh Toàn quyền.
Sai gon
Năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại và lên làm Tổng thống, quyết định đổi tên dinh này thành Dinh Độc Lập. Nay đổi tên là Hội trường Thống Nhất.
Sai gon
Ngày 11/11/1860, "sở Dây thép" Sài Gòn (tức Bưu điện Sài Gòn) được thành lập. Ngày 13/1/1863, sở Dây thép Sài Gòn được chính thức khánh thành và phát hành tem đầu tiên. Năm 1864, dân chúng Sài Gòn bắt đầu gửi thư từ thông qua nhà "Dây thép" (hệ thống bưu điện).
Sai gon
Năm 1886, Bưu điện Sài Gòn được xây cất lại với qui mô hiện đại, thay thế cho trụ sở và khu nhà ở cũ. Tòa nhà bưu điện thành phố được xây dựng theo đề án của kiến trúc sư người Pháp Vilơdic. Đến năm 1891, trụ sở mới của Bưu điện Sài Gòn được chính thức khánh thành. Toà nhà Bưu điện Sài Gòn là một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng của thành phố.
 * Hình xưa lấy từ nhiều nguồn tư liệu.
Nguyễn Kiên
Theo Infonet
Nguyễn Kiên
Theo Infonet 

Hình ảnh Sài Gòn theo dòng lịch sử

Do độc giả cung cấp
Cho đến trước thế kỷ 16, Sài Gòn - Gia Định vẫn là miền đất hoang, vô chủ, địa bàn của vài nhóm dân cư cổ cho tới khi người Việt xuất hiện.. Những người Việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai vùng đất này hoàn toàn không có sự tổ chức của nhà Nguyễn. Nhờ cuộc hôn nhân giữa công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II từ năm 1620, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống. Khu vực Sài Gòn, Đồng Nai bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư. Trước đó, người Chăm, người Man cũng sinh sống rải rác ở đây từ xa xưa.





Giai đoạn từ 1623 tới 1698 được xem như thời kỳ hình thành của Sài Gòn sau này. Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Tuy đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng lại nằm trên đường giao thông của các thương nhân Việt Nam qua Campuchia và Xiêm. Hai sự kiện quạn trọng tiếp theo của thời kỳ này là lập doanh trại và dinh thự của Phó vương Nặc Nộn và lập đồn dinh ở Tân Mỹ (gần ngã tư Cống Quỳnh - Nguyễn Trãi ngày nay). Có thể nói Sài Gòn hình thành từ ba cơ quan chính quyền này.





Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một nhóm người Hoa "phản Thanh phục Minh" tới Mỹ Tho, Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn. Đến năm 1698, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh kinh lý vào miền Nam. Trên cơ sở những lưu dân Việt đã tự phát tới khu vực này trước đó, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định và hai huyện Phước Long, Tân Bình.. Vùng Nam Bộ được sát nhập vào cương vực Việt Nam.





Thời điểm ban đầu này, khu vực Biên Hòa, Gia Định có khoảng 10.000 hộ với 200.000 khẩu. Công cuộc khai hoang được tiến hành theo những phương thức mới, mang lại hiệu quả hơn. Năm 1802, sau khi chiến thắng Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi và đẩy mạnh công cuộc khai khẩn miền Nam. Các công trình kênh đào Rạch Giá - Hà Tiên, Vĩnh Tế... được thực hiện. Qua 300 năm, các trung tâm nông nghiệp phát triển bao quanh những đô thị sầm uất được hình thành.



Năm 1788, Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn, lấy nơi đây làm cơ sở để chống lại Tây Sơn. Năm 1790, với sự giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người Pháp, Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel, Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái làm trụ sở của chính quyền mới. "Gia Định thành" khi đó được đổi thành "Gia Định kinh". Tới năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi ở Huế, miền Nam được chia thành 5 trấn. Sáu năm sau, 1808, "Gia Định trấn" lại được đổi thành "Gia Định thành". Trong khoảng thời gian 1833 đến 1835, Lê Văn Khôi khởi binh chống lại nhà Nguyễn, Thành Bát Quái trở thành địa điểm căn cứ. Sau khi trấn áp cuộc nổi dậy, năm 1835, vua Minh Mạng cho phá Thành Bát Quái, xây dựng Phụng Thành thay thế..

Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định vào năm 1859, người Pháp gấp rút quy hoạch lại Sài Gòn thành một đô thị lớn phục vụ mục đích khai thác thuộc địa. Theo thiết kế ban đầu, Sài Gòn bao gồm cả khu vực Chợ Lớn. Nhưng đến 1864, nhận thấy diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, khó bảo đảm về an ninh, chính quyền Pháp quyết định tách Chợ Lớn khỏi Sài Gòn. Rất nhanh chóng, các công trình quan trọng của thành phố, như Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Dinh Toàn quyền, được thực hiện. Sau hai năm xây dựng và cải tạo, bộ mặt Sài Gòn hoàn toàn thay đổi.

Đô thành Sài Gòn khi đó được thiết kế theo mô hình châu Âu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám độc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục... Lục tỉnh Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp và Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định. Vào năm 1861, địa phận Sài Gòn được giới hạn bởi một bên là rạch Thị Nghè và rạch Bến Nghé với một bên là sông Sài Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai với những phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa. Đến năm 1867, việc quản lý Sài Gòn được giao cho Ủy ban thành phố gồm 1 ủy viên và 12 hội viên. Cho tới nửa đầu thập niên 1870, thành phố Sài Gòn vẫn nằm trong địa hạt hành chính tỉnh Gia Định. Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn.

Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, Sài Gòn trở thành trung tâm quan trọng, không chỉ hành chính mà còn kinh tế, văn hóa, giáo dục của cả Liên bang Đông Dương.

Sài Gòn thời Pháp thuộc:














Trường Petrus Ký đang được xây, sở dĩ người Pháp đặt tên này là để vinh danh nhà học giả Trương Vĩnh Ký, người có công không nhỏ trong việc chính thức hóa chữ Quốc Ngữ (sau này trường này bị Đảng cộng sản đổi tên thành Lê Hồng Phong, xem như là trả công cho ông cựu thư ký của Đảng cộng sản).






Khu vực Chợ Bến Thành thời sơ khai:



Chợ Lớn














Thảo Cầm Viên - Botanical Garden












Tuyến xe lửa Sài Gòn (khi đó nhà ga nằm sát bên Chợ Bến Thành):


Dinh Thống Đốc Nam Kỳ Norodom (Gouverneur de la Cochinchine) :

Khi quân Pháp rút khỏi miền Nam năm 1954 thể theo hiệp định Genève, đại tướng Paul Ely trao dinh Norodom lại cho đại diện của nhân dân miền Nam là Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trong lễ chuyển giao. Đúng một tháng sau đó, dinh Norodom được chính thức đổi tên thành Dinh Độc Lập.



Từ năm 1949, Sài Gòn đã là thủ đô của Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1954, Việt Nam Cộng hòa được thành lập, Sài Gòn trở thành thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất của quốc gia non trẻ này với tên gọi "Đô thành Saigon" (lưu ý, cách viết thông dụng là "Saigon"). Cũng năm 1954, thành phố tiếp nhận một lương dân cư mới từ miền Bắc Việt Nam. Với nghị định số 110-NV ngày 27 tháng 3 năm 1959 của Tổng thống Ngô Đình Diệm, từ 6 quận, Sài Gòn được chia thành 8 quận với tổng cộng 41 phường.

Nhờ sự phát triển của kinh tế Việt Nam Cộng hòa và viện trợ của Chính phủ Hoa Kỳ, Sài Gòn trở thành một thành phố hoa lệ với mệnh danh "Hòn ngọc Viễn Đông". Việc Quân đội Hoa Kỳ vào tham chiến tại miền Nam cũng gây nên những xáo trộn đối với thành phố. Nhiều cao ốc, công trình quân sự mọc lên. Lối sống của giới trẻ Sài Gòn cũng chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Âu Mỹ. Thành phố trở thành một trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa, giải trí.

Thời Ngô Đình Diệm


























Trường Lasan Taberd











Sau 1963






































































Sau 30/4/1975




















Sài Gòn Qua Các Thời Kỳ  |
Lịch Sử Sài Gòn
Sunday, 10 August 2008 01:31
Hơn 300 hình thành và phát triển, Sài Gòn đã trãi qua nhiều thời kỳ, nếm trãi thăng trầm lịch sử cùng con người phương nam. Hãy tìm hiểu Sài Gòn thân yêu qua các thời kỳ đó...
Sài Gòn - Gia Định sơ khai

Ngàn năm trước (trước 1698)
Trước khi Chúa Nguyễn thiết lập bộ máy cai trị (1698) thì Sài Gòn - Gia Định còn là một vùng đất hoang vu, rừng rậm, sông nước, xen lẫn những gò đất cao nằm trong vùng đất mới, rộng lớn, mênh mông ở phía Nam trải dài tới biển Đông.
Cách đây khoảng 3000 - 4000 năm trên vùng đất này đã có những nhóm cư dân cổ sinh sống với nhiều nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá cho đến thời kỳ kim khí. Những cư dân cổ từng sinh sống trên vùng đất Sài Gòn từ nhiều thiên niên kỷ trước đã biết canh tác nông nghiệp và bắt đầu chinh phục vùng đất thấp ở phía nam và phía đông nam. Lúc bấy giờ cuộc sống con người ở đây hết sức tự do, không có lãnh thổ quốc gia, không có địa giới hành chánh và cũng chưa có khái niệm về vùng đất "Sài Gòn."
Sài Gòn vào thế kỷ 16 - 17
Mãi đến giữa thế kỷ 17, vào thời Chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613) được đặc quyền cai trị đất Đàng trong, đã bắt đầu công cuộc di dân người Việt đến khai phá vùng đất mới phía Nam. Vùng đất Sài Gòn lúc bấy giờ ở vị thế trung tâm vùng đất mới, thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống, là một trong những nơi mà nhóm dân cư Việt đầu tiên đến đây định cư.
Đến năm 1623 Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho đặt trạm thu thuế thương chính đầu tiên tại Sài Gòn và Bến Nghé. Đây là dấu hiệu ban đầu xuất hiện hình thức kiểm soát của nhà nước trên vùng đất Sài Gòn xưa.
Tháng 3 năm 1679 Chúa Nguyễn lại cho lập đồn binh Tân Mỹ (vùng chợ Thái Bình, quận I ngày nay). Quyền lực nhà nước của Chúa Nguyễn được áp đặt vào vùng đất mới phía Nam chuẩn bị cho việc hình thành bộ máy cai trị. Cho đến thời điểm này, vùng đất mới phía Nam vẫn chưa phân định địa giới hành chánh. Song Sài Gòn đã giữ vị trí trung tâm vì quyền lực cai trị vùng đất phía Nam tập trung ở đây.
Về địa danh Sài Gòn
Tên "Sài Gòn" đã xuất hiện từ nhiều thế kỷ trước, cách đây đã hơn 300 năm. Đó là tên gọi một vùng đất (địa danh) do cư dân Việt đặt ra để chỉ một khu vực đông dân cư sinh sống tập trung, sinh hoạt theo vùng đất đô thị ở vùng đất mới phía Nam.
Tên gọi "Sài Gòn" đã lần lượt để chỉ bốn vùng đất khác nhau. Thoạt đầu "Sài Gòn" dùng để chỉ đất của tiểu quốc Thù Nại, bao gồm phần lớn vùng đất Đông Nam bộ (khoảng 20.000 - 25.000km2). Năm  1698 tên Sài Gòn để chỉ vùng đất huyện Tân Bình rộng khoảng 5.000 km2, tính từ phía bờ tây sông Sài Gòn, một phần của xứ Sài Gòn ngày nay là địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. "Sài Gòn" còn là tên gọi của vùng đất của hai khu vực đô thị được bảo vệ bởi lũy Lão Cầm (1700), lũy Hoa Phong (1731) và lũy Bán Bích (1772) với diện tích khoảng 25 km2. Sài Gòn cũng là tên gọi của khu vực chợ buôn bán của người Hoa vào thế kỷ 18 (rộng khoảng 1km2), sau này trở thành khu Chợ Lớn.
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm cả đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn, tỉnh Gia Định và một phần tỉnh Chợ Lớn cũ, địa bàn thành phố rộng lớn hơn xưa, nhưng cũng là khu vực trung tâm của đất Gia Định xưa.
Sài Gòn buổi ban đầu
Năm 1698 là mốc lịch sử đánh dấu sự khai sinh vùng đất Sài Gòn xưa, khi Thống xuất chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh Chúa Nguyễn vào Nam kinh lược lập ra phủ Gia Định để cai quản vùng đất mới phía Nam và lập ra hai huyện đầu tiên Phước Long và Tân Bình thuộc phủ Gia Định. Diện tích phủ Gia Định lúc này khoảng 30.000km2.
Huyện Tân Bình được lập ra từ xứ Sài Gòn với dinh Phiên Trấn và những đơn vị hành chánh cơ sở đầu tiên (lân, làng, phường, xã, thôn, ấp) là hình dáng Sài Gòn trong buổi ban đầu.
Sài Gòn thế kỷ 18
Trong suốt thế kỷ 18, thời Sài Gòn thuộc Gia Định phủ (1698-1802) thì địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ngày nay gồm địa phận hai tổng Bình Dương và Tân Long của huyện Tân Bình, (thuộc Dinh Phiến Trấn) và trên một nửa địa phận tổng Bình An (tức huyện Thủ Đức) của huyện Phước Long thuộc Dinh Trấn Biên. Năm 1795, Le Brun vẽ bản đồ vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn có ghi vị trí thành Bát Quái, các phố thị Minh Hương, Bến Nghé rồi đặt tên chung là Thành phố Sài Gòn. Có thể hình dung tổng quát vào cuối thời Gia Định phủ, địa bàn Thành Phố (nay) được phân biệt bởi hai vùng với hai bộ mặt khác nhau: vùng chợ nằm trong vòng "cổ lũy" và vùng quê đất rộng, thưa dân thuộc các tổng Bình Dương, Tân Long, Bình An.
Sài Gòn thời Gia Định Trấn và Gia Định Thành (1802-1832)
Sau khi chiến thắng Tây Sơn lấy lại kinh thành Phú Xuân - Huế (năm 1802), Nguyễn Ánh bỏ Gia Định kinh, đổi Gia Định phủ thành Gia Định trấn và đến năm 1808 lại đổi Gia Định trấn ra Gia Định thành, các "dinh" đều đổi thành "trấn". Gia Định thành thống quản năm trấn (toàn Nam Bộ). Dinh Phiên Trấn đổi thành trấn Phiên An. Huyện Tân Bình đổi thành phủ, 4 tổng của huyện Tân Bình nâng lên thành huyện lập ra nhiều tổng mới. Thời kỳ này địa bàn thành phố nay bao gồm địa phận của 2 tổng Bình Trị, Dương Hòa của huyện Bình Dương và 2 tổng Tân Phong, Long Hưng của huyện Tân Long (4 tổng trên đều thuộc phủ Tân Bình, trấn Phiên An), phần còn lại là địa phận của tổng An Thủy - Huyện Bình An và một phần của tổng Long Vĩnh - huyện Long Thành (thuộc phủ Phước Long - trấn Biên Hòa).
Từ sau 1820, dưới mắt của thương gia và phái bộ nước ngoài đã có một thành phố gồm hai đô thị lớn không kém gì kinh đô nước Xiêm ở cách nhau hai dặm, thành phố Sài Gòn (là Chợ Lớn nay) và thành phố Bến Nghé mới xây dựng. Họ gọi chung là thành phố Sài Gòn nơi đô hội cả nước lúc bấy giờ không đâu sánh bằng.
Sài Gòn thời Lục tỉnh Nam kỳ (1832-1862)
Từ sau năm 1832, Minh Mạng giải thể cấp Gia Định thành, chia năm trấn thành sáu tỉnh. Trấn Phiên An đổi thành tỉnh Phiên An, trấn Biên Hòa đổi thành tỉnh Biên Hòa.
Năm 1836, tỉnh Phiên An được đổi tên là tỉnh Gia Định có thêm một phủ mới là phủ Tây Ninh. Năm 1841, phủ Tân Bình lại lập thêm huyện Bình Long (lỵ sở tại Hốc Môn). Vì vậy, sau 1841, địa bàn thành phố (nay) nằm trên địa phận ba huyện Bình Dương, Bình Long, Tân Long (của phủ Tân Bình) và một phần đất của huyện Ngãi An và Long Thành thuộc phủ Phước Long tỉnh Biên Hòa.

Sài Gòn thời Pháp cai trị (1862-1955)
Địa bàn thành phố (nay) lúc này bao gồm địa giới của hai huyện Bình Dương, Tân Long của phủ Tân Bình, với phần đất đai của huyện Bình Long thuộc phủ Tây Ninh (tỉnh Gia Định) và cộng thêm trên một nửa địa phận huyện Bình An cùng với địa phận tổng Long Vĩnh Hạ, huyện Long Thành, cùng thuộc phủ Phước Long của tỉnh Biên Hòa.
Vùng đô thị Sài Gòn - Bến Nghé nằm trên đất của phủ Tân Bình, được xác lập ranh giới từ chùa Cây Mai đến rạch Thị Nghè, nằm trong kênh vành đai giáp tới sông Tân Bình (sông Sài Gòn nay) được qui hoạch là thành phố Sài Gòn (theo bản đồ Coffin năm 1862). Năm 1865 qui hoạch "Thành phố Sài Gòn" lại được chia thành hai thành phố: Thành phố Sài Gòn ở về phía Đông địa bàn thành phố cũ, tức vùng Bến Nghé xưa nơi có tỉnh thành Gia Định và thành phố Chợ Lớn, vùng trước đây gọi là "Phố thị Sài Gòn".
Sài Gòn thời kỳ 1956-1975
Trong khoảng 20 năm (1955-1975), thành phố Sài Gòn cũng có nhiều biến đổi. Từ năm 1956, đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn trở thành thủ đô chính quyền ở miền Nam, được quen gọi là "đô thành Sài Gòn". Năm 1959, đô thành Sài Gòn được chia thành 8 quận hành chánh, mỗi quận chia ra nhiều phường. Tháng 12-1966, quận I thêm hai phường mới từ xã An Khánh (Gia Định) lập ra. Tháng 1-1967 tách hai phường mới của quận I (xã An Khánh cũ) lập thêm quận 9. Tháng 7-1969 lập thêm quận 10 và quận 11. Từ đấy đến năm 1975, đô thành Sài Gòn có 11 quận.
Tính đến trước ngày giải phóng (30-4-1975) thì địa bàn thành phố nay bao gồm 11 quận của đô thành Sài Gòn, toàn bộ địa phận tỉnh Gia Định, quận Củ Chi (tỉnh Hậu Nghĩa)  và quận Phú Hòa (tỉnh Bình Dương).
Sài Gòn sau ngày thống nhất đất nước
Sau ngày thống nhất 30/4/1075 thành phố Sài Gòn - Gia Định trở thành Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn nhất của cả nước với tổng diện tích tự nhiên 1.295,5km2 bao gồm vùng nội đô Sài Gòn -  Chợ Lớn với vùng ven đô và ngoại thành thuộc tỉnh Gia Định trước đây. Từ 11 quận nội thành được điều chỉnh lại còn 8 quận. Lập ra 4 quận mới: Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Thạnh (từ hai xã Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây), Tân Bình (từ xã Tân Sơn Hòa và Tân Sơn Nhì cũ). Diện tích các quận nội thành và ven đô  là 142,7 km2 chia ra 267 phường. Khu vực ngoại thành gồm 5 huyện: Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè với tổng diện tích tự nhiên 1.152,8 km2 chia ra 77 xã.
Năm 1978, thành phố tiếp nhận thêm hai huyện Duyên Hải (nay đổi là Cần Giờ - là quận Quản Xuyên và Cần Giờ trước đây) của tỉnh Đồng Nai. Nhờ vậy, diện tích mở rộng thêm 714km2 và có bờ biển dài 15km. Huyện Cần Giờ rộng lớn nhưng chỉ có 39.000 dân (59 người/km2) sống rải rác trên 7 xã. Đây là nơi đời sống dân cư rất khó khăn, lúc đầu không có điện, không có nước ngọt, không có đường bộ...
Năm 1979, sau khi điều chỉnh đơn vị hành chánh cấp cơ sở, toàn thành phố có 261 phường, 86 xã. Đến năm 1989 thành phố điều chỉnh lại còn 182 phường và 100 xã, thị trấn. Năm 1997, sau đợt điều chỉnh tháng 4, toàn thành phố có 17 quận, 5 huyện với 303 phường xã, thị trấn. Đến nay thành phố có 19 quận và 5 huyện.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét