TT&HĐ V - 42/b
Nguyên hàm - Bài 1 - Toán học 12 - Thầy Trần Thế Mạnh (DỄ HIỂU NHẤT)
Tích phân - Bài 2 - Toán 12 - Thầy Trần Thế Mạnh (HAY NHẤT)
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG III (XXXXII): THỰC - ẢO
"Hãy sống nhờ trí tưởng tượng của mình thay vì nhờ trí nhớ."
"Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, vậy mới thật là biết."
Khổng Tử
"Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, vậy mới thật là biết."
Khổng Tử
"Có thể Chúa tồn tại, nhưng khoa học có thể giải thích về vũ trụ mà không cần tới một đấng sáng tạo."
"Mục đích của tôi khá đơn giản. Đó là hiểu biết hoàn toàn về vũ trụ, vì sao nó có hình dạng như hiện tại, và vì sao nó tồn tại."
Stephen Hawking
“Tự nhiên không làm bất cứ việc gì vô ích”.
Hêrôn
“Ôi, sự tất yếu diệu kỳ (…), mọi hành động tự nhiên đều tuân theo ngươi bằng con đường ngắn nhất”.
“Vũ Trụ như một trò chơi ảo tượng khổng lồ chứa đầy các ảo ảnh thách thức trí tưởng tượng của chúng ta. Thật nghịch lý, chính một phần nhờ vào những nghiên cứu về các ảo ảnh Vũ Trụ này mà chúng ta hiểu chính xác hơn về hiện thực”.
"Phải chăng có thể tưởng tượng: Vũ Trụ là một đại dương mênh mông mà không gian là nước và vạn vật là những tảng băng trôi dạt; băng tan thành nước và nước cô kết lại thành băng?".
NTT
"Quá trình đi đến thực tại Vũ Trụ hiện nay là duy nhất. Nhưng vì Vũ
Trụ mang tính đầy đủ nên có nhiều cách, từ đơn giản đến phức tạp, từ thô
sơ đến trừu tượng, để giải thích sự tồi tại Vũ Trụ. Chính vì vậy mà vật
lý học được hình thành và các lý thuyết toán học mới có khả năng triển
khai"
NTT
(Tiếp theo)
Như
chúng ta đã quan niệm thì chỉ có điểm KG thông thường là đứng yên tuyệt
đối, ngoài ra, tất cả những gì được gọi là thực thể trong Vũ Trụ đều
phải “xê dịch”, di dời tuyệt đối, bởi vì đơn vị tuyệt đối làm nên thực
thể - điểm KG kích thích (hay còn gọi là điểm năng lượng - điểm NL), được thấy như
luôn di dời với vận tốc cực đại C một cách phi tuyến tính. Một khi điểm
KG thông thường đứng yên tuyệt đối thì mạng khối KG cũng đứng yên tuyệt
đối, nghĩa là bất cứ khoảng KG nào “trước mặt” bất cứ hệ quan sát nào
cũng đứng yên tuyệt đối. Thế nhưng không có bất cứ hệ quan sát nào có
thể thấy được và xác nhận chắc chắn được điều đó, bởi lẽ hoặc đối với
chúng, các khoảng không gian là hoàn toàn trống rỗng và không thể phân
biệt được, hoặc bình thường thôi: chuyển động tuyệt đối và đứng yên
tuyệt đối là hai hiện tượng tuy tương phản nhau hoàn toàn nhưng tương
đương cũng hoàn toàn, nên phân biệt được mà cũng không thể phân biệt
được. Cũng có thể chỉ ở khoảng tận cùng tầng Vũ Trụ vi mô mới thấy điều đó!
Đó cũng
chính là nguyên nhân sâu xa làm cho mọi hệ quan sát không thể xác định
chắc chắn được trạng thái chuyển động của bản thân nó và do đó mà cũng
không thể xác định chắc chắn tuyệt đối được mọi chuyển động mà nó quan
sát thấy. Tình hình đó dẫn đến đối với cùng một đối tượng (một biến cố,
một quá trình vận động, chuyển hóa) quan sát, ở những hệ quan sát khác
nhau có thể sẽ có những kết quả quan sát tương đối khác nhau.
Thậm chí về mặt tương tác cơ học, nếu đem so sánh những kết quả quan sát
đó với nhau, còn có thể thấy mối quan hệ tác động - phản ứng bị đảo
lộn, nghĩa là một sự vật được cho là đóng vai trò tác động ở hệ quan sát
này thì có thể lại được cho đóng vai trò phản ứng ở một hệ quan sát
khác. Như thế, phải chăng lời khẳng định rằng trình tự bất biến: nguyên
nhân phải có trước kết quả trong mối quan hệ nhân - quả, là sai lầm?
Điều
không thể phản bác được là một biến cố hay một quá trình xảy ra trong
thực tại khách quan là duy nhất đối với chính nó. Cho nên trình tự làm
xảy ra biến cố hay trình tự vận động của quá trình nói trên cũng phải là
duy nhất. Chỉ có điều sự biểu hiện của nó ra trước những hệ quan sát
khác nhau là có thể khác nhau mà thôi. Cho nên, cũng chính vì thế mà
phải cho rằng, một cách khách quan tuyệt đối (không theo quan điểm của
bất cứ hệ quan sát nào hoặc trong tưởng tượng, chỉ theo quan điểm của
hệ quan sát có trọng tâm gắn chặt với một điểm Không Gian thông thường
nào đó), sẽ phải có cái đóng vai trò tác động đích thực và cái đóng vai
trò phản ứng đích thực, nghĩa là nguyên nhân bao giờ cũng phải có trước
kết quả và không thể có hiện tượng cái này vừa là kết quả lại cũng đồng
thời là nguyên nhân của cái kia và ngược lại. Hay chúng ta nói: trình tự nguyên nhân có trước, kết quả có sau trong mối quan hệ nhân - quả của một quá trình là bất biến trước mọi hệ quan sát!
Có
thể khẳng định, năng lực chủ quan của một hệ quan sát và tính tương đối của chuyển động là nguyên nhân
làm cho nó dễ nhìn nhận lầm lạc, và dù không lầm lạc đi chăng nữa thì
kết quả quan sát cũng vẫn có thể bị “đảo lộn” so với hệ quan sát khác
như thường. Lạ lùng ghê luôn!
Tuy
nhiên, cần phải thấy rõ rằng, sự lũng đoạn của chủ quan lên nhìn nhận
của hệ quan sát, dù ở mức độ nào đi nữa thì cũng phải có giới hạn, nghĩa
là dù có thể thấy tương đối bị đảo lộn về vai trò của hai đối tượng
trong mối quan hệ tương tác thì kết quả quan sát vẫn là đúng đắn đối với
bản thân hệ quan sát. Nói cách khác, đối với cùng một hiện tượng khách
quan thì ở những hệ quan sát khác nhau sẽ có thể có những kết quả quan
sát khác nhau và nếu những kết quả quan sát ấy không phạm sai lầm do kỹ
thuật, kỹ năng, không có mâu thuẫn nội tại, thì chúng đều đúng đắn, và
mỗi kết quả quan sát ấy đều là sự biểu hiện trung thực về hiện thực
khách quan của bản thân hệ quan sát đã tạo ra nó.
Có thể nói thực tại
khách quan chỉ có một, nhưng hiện thực khách quan về nó thì nhiều vô kể,
nghĩa là một cách tuyệt đối, không thể có một hiện thực khách quan
chung cho mọi hệ quan sát. Tuy nhiên, vì các hiện thực khách quan ấy đều
là sự phản ánh về thực tại khách quan duy nhất cho nên những kết quả
nghiên cứu khoa học rút ra một cách đúng đắn, có tính cơ bản, cốt lõi,
phổ quát (những qui luật, định luật, nguyên lý…) từ những hiện thực
khách quan ấy, sẽ phải tuyệt đối như nhau. Điều đó đồng nghĩa với việc
là trong những điều kiện nhất định hoặc một cách hình thức, bằng những
cách thức, những nguyên tắc, những qui ước… hợp lý, luôn luôn có thể
biến đổi một hiện thực khách quan này thành một hiện thực khách quan
khác. Vậy hiện thực khách quan là thực tại khách quan của chủ quan một
hệ quan sát nào đấy. Cho nên một hiện thực khách quan vừa có tính chung,
vừa có tính riêng. Tính riêng là biểu hiện sự khác biệt tương đối giữa
hiện thực khách quan này với hiện thức khách quan khác, tính chung là
biểu hiện sự đồng nhất giữa chúng.
Một
trong những biểu hiện cơ bản nhất về sự đồng nhất giữa các hệ quan sát
là bản thân chúng cũng phải hoạt động tuân thủ những nguyên lý tự nhiên
và những hiện tượng, quá trình…có tính nguyên tắc và chúng khi quan sát cũng phải tuân thủ
những nguyên lý ấy. Một trong những nguyên lý ấy là nguyên lý nhân - quả
(với trình tự không thể đảo ngược được giữa nguyên nhân và kết quả trong
mối quan hệ trước – sau về mặt thời gian của chúng).
Nghĩa là đối với
cùng một đối tượng quan sát (một hiện tượng, một quá trình), nếu trật tự
các biến cố, trình tự diễn tiến của nó được thấy ở hệ quan sát này thì
cũng phải được thấy ở các hệ quan sát khác, cho dù có thể có những biến
dạng chẳng hạn, xảy ra hiện tượng "con gà đẻ ra cái trứng" hay "cái trứng đẻ ra con gà". Ở những hệ
quan sát khác nhau, có thể thấy con gà và cả cái trứng có những hình
dạng, thậm chí là màu sắc tương đối khác nhau, thế nhưng ở tất cả hệ
quan sát đó đều phải thấy như nhau về quá trình con gà đẻ ra cái trứng
theo trình tự con gà có trước, cái trứng có sau, nghĩa là chiều của quá
trình đó là không thể bị đảo lộn bởi quan sát.
Cuối
cùng, sau một hồi lý giải kiểu “vòng vo Tam quốc” thì rồi chúng ta đi
đến những kết luận (có thể là ) đúng nhất về hiện tượng va chạm của hai
quả cầu và :
-
Vì không thể xác định tuyệt đối được chuyển động cho nên ở những hệ
quan sát khác nhau, có thể thấy tốc độ chuyển động của quả cầu và
có những giá trị khác nhau (giả sử không có hệ quan sát nào ở vị trí và
góc độ chỉ thấy quả cầu này mà không thấy quả cầu kia). Tình hình đó
làm cho việc xác định tuyệt đối quả cầu nào là chủ động tác động và quả
cầu nào là thụ động phản ứng, đối với mọi hệ quan sát là không thể. Chỉ
có thể xác định được tương đối mối quan hệ tác động - phản ứng mà hiện
thực khách quan của hệ quan sát “mách bảo” và đều xác đáng đối với hệ quan sát đó.
-
Tuy nhiên việc xác định quả cầu nào đóng vai trò chủ động tác động lại
không hề quan trọng trong việc nghiên cứu hiện tượng tương tác cơ bản
học và cũng không hề vi phạm đến nguyên lý nhân quả (nghĩa là trình tự
của một quá trình tương tác và biến đổi cơ học phải được thấy như nhau ở
mọi hệ quan sát). Quan điểm cho rằng quả cầu chủ động tác động đóng vai
trò là nguyên nhân đầu tiên làm xảy ra quá trình tương tác và biến đổi
cơ học, là phiến diện, thậm chí là ngộ nhận. Do tính tương đối của
chuyển động đối với quan sát mà trạng thái đứng yên và trạng thái chuyển
động là hai trạng thái bình đẳng nhau về mặt động học (chúng là tiền đề
tồn tại của nhau, có thể chuyển biến thành nhau trước quan sát). Không
thể nói rằng chỉ quả cầu chuyển động đóng vai trò là nguyên nhân làm xảy
ra va chạm, vì như thế là không đầy đủ. Quả cầu chuyển động chỉ là một
yếu tố tạm gọi là tiền nguyên nhân (nguyên nhân tiềm năng), một bộ phận
hợp thành nguyên nhân, chứ không phải là nguyên nhân đích thực. Nguyên
nhân đích thực của va chạm phải là do cả hai quả cầu tạo ra. Chắc chắn
rằng nếu không có quá trình chuyển động của một trong hai quả cầu thì
không thể có va chạm giữa chúng. Nhưng nếu không có quá trình đứng yên
“ở đó” của quả cầu kia thì cũng không thể xảy ra va chạm. Vậy phải khẳng
định rằng sự va chạm của hai quả cầu là được quyết định bởi sự phối hợp
quá trình chuyển động của cả hai quả cầu (trong đó có thể có một quá
trình chuyển động gọi là sự đứng yên). Nói cách khác, quá trình chuyển
động theo cách thức nào đó của cả hai quả cầu là nguyên nhân gây ra sự
va chạm giữa chúng. Sự phân biệt giữa tác động và phản ứng chỉ là tương
đối, nhằm phân biệt tương đối giữa sự chủ động gây ra tương tác với sự
bị động “chờ” tương tác, thế thôi, chứ thực ra chúng xảy ra đồng thời và
có bản chất như nhau.
-
Quá trình chuyển động với cách thức xác định của hai quả cầu đó là kết
quả của những nguyên nhân trước đó, xuất phát từ sự tương tác giữa chúng
với môi trường trong quá khứ. Những tương tác giữa chúng với môi trường
trong quá khứ. Những tương tác ấy là vừa có tính tất yếu, vừa có tính
ngẫu nhiên, vừa có tính chủ động, vừa có tính thụ động. Một trong những
biểu hiện về tính chủ động rõ rệt nhất là có những tương tác do con
người cố ý gây ra một cách có tính toán, có chủ đích. Chính vì vậy mà sự
va chạm của hai quả cầu cũng có thể là hiện tượng tất yếu hay ngẫu
nhiên, xảy ra do cưỡng bức hay tự nhiên. Nhưng vì luôn là kết quả của
một nguyên nhân. Nếu bằng hai cách cưỡng bức và tự nhiên tạo nên hai sự
va chạm giống hệt nhau, thì hai cách đó phải tạo ra được hai nguyên nhân
giống hệt nhau, nghĩa là phải tạo ra những yếu tố, điều kiện, quá trình
như nhau, hoạt động tuân theo những nguyên lý, qui luật chung.
-
Va chạm giữa hai quả cầu có nguyên nhân từ quá trình chuyển động của
hai quả cầu, là một hiện tượng được “nhìn thấy” ở mọi hệ quan sát và
biến cố va chạm cũng là một hiển nhiên mà mọi hệ quan sát phải xác nhận.
Và mọi hệ quan sát đều phải thấy điều quan trọng này: biến cố va chạm
là kết quả có nguyên nhân từ sự chuyển động của hai quả cầu và đồng
thời, đến lượt nó là nguyên nhân gây ra tương tác, làm phát sinh hai quá
trình biến đổi đồng thời >> ’, và >> ’.
Hai quá trình đó là tiền đề tồn tại của nhau nhưng cũng độc lập tương
đối với nhau, không có quá trình này thì tất yếu không có quá trình kia,
mà xét cho cùng thì chúng được coi như hai quá trình bộ phận tương phản
nhau của một quá trình thống nhất, của một hệ thống vận động cân bằng
(nếu không chịu những tác động nào khác, phát sinh có yếu tố ngoại
lai!).
Có lẽ người đầu tiên đề cập đến mối quan hệ nhân - quả là Arixtốt. Ông từng viết trong tác phẩm “Vật lý học” (Quyển II):
“…
Tri thức là đối tượng của sự thẩm tra, và người ta không cho rằng mình
biết được một điều gì trước khi nắm bắt được cái “tại sao” của nó (có
nghĩa là nắm bắt được nguyên nhân chủ yếu của nó). Do đó, thật rõ ràng
là chúng ta phải làm điều này đối với cái sẽ hiện hữu cũng như đối với
cái đang qua đi và mọi loại thay đổi tự nhiên, để một khi biết được
những nguyên nhân của chúng, chúng ta có thể nhớ tới những nguyên nhân
này để giải đáp các vấn đề của chúng ta.
Theo
nghĩa thứ nhất, “nguyên nhân” được áp dụng cho một sự vật được hình
thành và tồn tại, ví dụ, chất đồng của bức tượng, chất bạc của cái chén…
Theo
nghĩa thứ hai, “nguyên nhân” là hình thái hay nguyên mẫu, tức là sự
trình bày yếu tính và những loại của nó (ví dụ, tương quan 2:1 của bát
âm, và thường là số, và những phần trong định nghĩa).
Theo
nghĩa thứ ba, “nguyên nhân” là nguồn nguyên thủy của sự thay đổi hoặc
của sự ngưng nghỉ. Ví dụ, người đưa ra ý kiến là nguyên nhân, người cha
là nguyên nhân của người con, và thường là cái làm ra cái được làm, cài
làm thay đổi cái bị thay đổi.
Theo
nghĩa thứ tư, “nguyên nhân” là mục đích hay cái mà vì nó, một sự vật
được thực hiện. Ví dụ, sức khỏe là nguyên nhân của việc đi lại (Tại sao
anh ta đi bách bộ? Chúng ta bảo: “Để có sức khỏe”; Và khi nói thế, chúng
ta nghĩ rằng mình đã gán cho nó một nguyên nhân). Điều đó cũng đúng cho
mọi bước trung gian xảy ra trong hình động cũng như phương tiện để
hướng tới chủ đích…
Có lẽ bàn về những cách thức mà thuật ngữ “nguyên nhân” được sử dụng như thế cũng khá đủ”.
Trong
số những loại nguyên nhân mà Arixtốt liệt kê ở trên, đáng chú ý nhất là
loại nguyên nhân thứ tư. Loại nguyên ngân này thật kỳ lạ. Nó có tính
“tiên quyết”, làm cho kết quả được hình thành nên như thế nào là theo
“ý” nó, do nó định đoạt từ trước. Chẳng hạn, cây lúc mọc lên, phát triển
rồi tạo ra những hạt lúa. Nhưng tại sao cây lúa chỉ có thể tạo ra những
hạt lúa mà không phải là những hạt khác như hạt đậu chẳng hạn? Theo
Arixtốt thì trong sự phát triển của cây lúa đã gồm chứa loại nguyên nhân
hướng cây lúa phải trổ ra hạt lúa chứ không thể hạt khác. Hay lấy một
ví dụ khác cho rõ hơn: Có một anh chàng đi đến nhà hát, một người hỏi:
“Đến đó làm gì?”, anh ta trả lời: “Để xem kịch!”. Vậy thì (theo Arixtốt)
nguyên nhân anh chàng kia đi đến nhà hát là “để xem kịch”. Đó chính là
nguyên nhân thuộc loại thứ tư mà Arixtốt đã chỉ ra và được gọi với cái
tên: “Nguyên nhân có tính mục đích”.
Quan
niệm về nguyên nhân có tính mục đích của Arixtốt là huyền bí và do đó
mà hoàn toàn phù hợp với thần học Thiên Chúa giáo, được viện dẫn để
chứng minh cho sự tồn tại của Chúa Trời. Quan niệm đó được coi như sự
thực hiển nhiên trong khoa học kinh viện châu Âu thời trung cổ. Đến
khoảng cuối thế kỷ XIII một học giả theo trường phái Arixtốt, tên là
Subtius còn nói: “Mọi sự vật riêng lẻ trong Vũ Trụ đều hướng tới một
định phân có tính mục đích nào đó thuộc về Vũ Trụ, và công việc của nhà
khoa học là phải tìm cho ra mục tiêu ấy là gì”.
Nếu
đừng liên tưởng đến nguyên nhân có tính mục đích thì câu nói đó không
phải là không có lý. Bởi vì cho đến tận ngày nay, trong vật lý học hiện
đại, người ta vẫn thấy đầy rẫy những hành xử lạ lùng của vật chất, cứ
như là được “ai đó” qui định sẵn, bắt buộc phải như thế, trong khi không
cần phải như thế cũng “chẳng chết ai”. Chẳng hạn, trong một môi trường
không đồng chất, tia sáng đi từ điểm này đến điểm kia bao giờ cũng trên
một tuyến đường (dù là gấp khúc) “tốn” ít thời gian nhất (nguyên lý
Fécma) Tại sao tia sáng lại phải đi như vậy, tại sao nó lại phải “tiết
kiệm” thời gian, nó bị bắt buộc hay tự chọn cho mình con đường “độc đạo”
đó? Trong triết học, một câu hỏi lớn vẫn còn treo lơ lửng trên người
các nhà thông thái: Tại sao Vũ Trụ cứ phải như thế này chứ không thể như
thế khác?
Nếu
tin vào triết học duy tồn thì dựa trên quan niệm của nó, có thể trả lời
câu hỏi “to tát” trên dễ dàng đến bất ngờ. Vì mục tiêu duy nhất của Tồn
Tại là bảo toàn Tồn Tại một cách Tự Nhiên, cho nên Nó hoàn toàn tự do
trong biểu hiện với yêu cầu duy nhất là không được trở thành không Tồn
Tại (hay Hư Vô). Tuy nhiên, vì Tồn Tại là Tồn Tại, nghĩa là Tồn Tại là
duy nhất chứ không thể là hai hay nhiều Tồn Tại, do đó, dù Nó có thể
“tha hồ” biểu hiện thì cũng không thể lựa chọn mà phải theo một cách
thức duy nhất, sao cho Tồn Tại là Tồn Tại chứ không thể là cái khác. Có
thể thấy, biểu hiện của Tồn Tại đa dạng và phong phú đến tuyệt cùng khả
năng trên phạm vi tổng thể, đồng thời lại đơn điệu, nghèo nàn ở phạm vi
bộ phận, và chỉ có như vậy mới đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt nguyên lý
tối hậu, nguyên lý duy nhất, cội nguồn của mọi nguyên lý – nguyên lý Tự
Nhiên, cũng như ngược lại, chính nguyên lý Tự Nhiên “bắt buộc” Tồn Tại
phải biểu hiện như vậy. Vì lẽ đó, sự xuất hiện, tiến triển của mọi quá
trình xảy ra trong Vũ Trụ vừa mang tính tất yếu, vừa mang tính ngẫu
nhiên, mà xét cho đến cùng, trong một điều kiện, hoàn cảnh nhất định, nó phải
là sự lựa chọn duy nhất của môi trường chứa nó để rồi sự lựa chọn tiến
triển của nó cho bản thân nó cũng là "độc đạo", duy nhất. Một tia sáng trong những
điều kiện hoàn cảnh khác nhau sẽ phải đi theo những con đường khác nhau,
nhưng trong một điều kiện hoàn cảnh xác định thì con đường đó không thể
là từ sự lựa chọn tùy tiện mà phải là "độc đạo", duy nhất thỏa mãn nguyên lý
Fécma. Nếu không như thế, tia sáng sẽ làm rối loạn trật tự chặt chẽ vốn
có của Vũ Trụ, tác động phi Tự Nhiên một cách dây chuyền đến toàn bộ vạn
vật - hiện tượng, phá vỡ mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau một
cách duy nhất giữa chúng, dẫn đến một Vũ Trụ mất cân bằng, một Không
Gian phi bảo toàn, nghĩa là làm xuất hiện một Tồn Tại kiểu khác - một
Tồn Tại chấp nhận Hư Vô. Đó là điều khủng khiếp và không thể tưởng tượng
nổi đối với Đấng Tạo Hóa thiêng liêng. Do đó Ngài nhất quyết không cho
điều đó xảy ra. Chắc chắn rằng Ngài làm được như thế vì Ngài là đấng
toàn năng mà cũng không toàn năng!.
Vậy
thì trước câu hỏi: tính mục đích trong hành xử của sự vật là gì, chúng
ta sẽ trả lời là… như trên! Cũng có thể trả lời gãy gọn và cụ thể hơn:
sự vật hành xử nhằm thỏa mãn yêu cầu của Tồn Tại, theo phương thức duy
nhất mà nguyên lý Tự Nhiên đã lựa chọn cho nó, và nó phải hành xử theo
“định mệnh” ấy chứ không thể khác để mà còn có khả năng tự duy trì sự
tồn tại tương đối của mình trong khoảng thời gian có thể trong Vũ Trụ -
một môi trường khắc nghiệt, đầy bất trắc và không thể lường trước, gây
ra bởi cuộc “đấu tranh sinh tồn” vô tiền khoáng hậu, ác liệt nhất mà
cũng vô tình nhất. Vạn vật trong Vũ Trụ hành động tự do nhất mà cũng nô lệ nhất! Nhờ như thế mà con người mới khám phá ra được những nguyên lý tự nhiên. Nếu trong 100 quả táo thả cho rơi tự do, có 1 quả táo rơi tự nhiên theo hướng từ dưới lên trời, thì Niutơn đã không thể khám phá ra định luật vạn vật hấp dẫn!
Khi
nói sự vật hành xử theo một “định mệnh” thì các định mệnh ấy cũng chính
là những nguyên lý hay qui luật mà sự vật buộc phải tuân theo. Cũng có
nghĩa rằng, mọi quá trình tồn tại, vận động của toàn bộ vật chất trong
Vũ Trụ, kể cả Vũ Trụ và không thể có ngoại lệ đều có qui luật và hoạt
động tuân theo qui luật. Những qui luật ấy dù có thể có tính đặc thù,
tính riêng biệt, nhưng đều có vai trò là những hệ quả của những nguyên
lý và nhưng nguyên lý này đều xuất phát từ cùng một cội nguồn là nguyên lý Tự Nhiên.
Trước
đây, chúng ta thường nói, chẳng hạn như: “Đó là một trong những nguyên
nhân dẫn đến…” và vẫn cho rằng nói như thế là đúng. Nhưng đến tận bây
giờ thì chúng ta thấy hình như cách nói đó có vẻ bất ổn. Cũng vì sự hành
xử của mọi sự vật là có tính tất định, mọi quá trình vận động đều phải
theo qui luật, cho nên mối quan hệ nhân - quả là có tính trực tiếp và
tất yếu. Nghĩa là giữa nguyên nhân và kết quả sẽ không có nguyên nhân
hay kết quả nào khác nữa và “nguyên nhân nào thì kết quả nấy”. Như vậy,
một nguyên nhân chỉ có một kết quả duy nhất và ngược lại một kết quả chỉ do một nguyên nhân duy nhất. Việc cho rằng có nhiều nguyên nhân làm nên
một kết quả hay nhiều kết quả được tạo ra từ một nguyên nhân, là không
thỏa đáng. Sau này, nếu do thói quen mà vẫn cứ nói như thế thì nên hiểu
rằng những nguyên nhân đó là “tiền nguyên nhân” ( những yếu tố hợp thành nguyên nhân) và những kết quả đó là
“hậu kết quả”, nghĩa là mối quan hệ nhân - quả lúc này đã hàm chứa cả
tính chủ quan, tương đối, không còn mang tính trực tiếp nữa và tính tất
yếu của nó không được đảm bảo nữa. Có thể xếp mối quan hệ này vào loại
quan hệ giữa khả năng và hiện thực.
Nếu
chúng ta thừa nhận quan niệm về nguyên nhân có tính mục đích của
Arixtốt, thì có lẽ phải nên hiểu theo cách đã trình bày ở trên, còn
không thì phải phủ nhận nó.
Nguyên
nhân của một kết quả là cái trực tiếp làm nên kết quả đó, tất yếu phải
cho ra kết quả đó chứ không thể là kết quả nào khác. Nguyên nhân trực
tiếp là sự hợp thành của nhiều cái gọi là nguyên nhân bộ phận, tiền
nguyên nhân, hay nguyên nhân tiềm năng… Cũng chính là những yếu tố,
những thực thể, những quá trình vận động vật chất mà xét trong mối quan
hệ nhân - quả thì có liên quan đến nhau, đã phối hợp với nhau tạo nên
một tác động tổng hợp tại một thời điểm được cho là chín muồi, gọi là
nguyên nhân trực tiếp làm xuất hiện một kết quả ngay sau đó. Bản thân
những tiền nguyên nhân cũng chính là những kết quả của những nguyên nhân
trước đó (trong quá khứ). Có thể nói nếu có những nguyên nhân trực tiếp
thì đồng thời và tất yếu phải có những kết quả. Tùy theo cách nhìn
nhận, qui ước, thỏa thuận trong việc khảo sát, nghiên cứu mà có thể gộp
những nguyên nhân thành một nguyên nhân và muốn làm thế thì cũng phải
gộp những kết quả thành một kết quả. Bởi vì chỉ có như thế mới đảm bảo
được tính tất yếu và trực tiếp của mối quan hệ nhân - quả. Đối với một
kết quả đã xuất hiện thì nguyên nhân trực tiếp còn có tính đầy đủ, vì
nếu nguyên nhân này thiếu hay thừa bất cứ một yếu tố tiền nguyên nhân
nào thì nó phải tất yếu làm xuất hiện một kết quả khác chứ không phải là
kết quả đó nữa.
Phương
thức nguyên thủy, nền tảng, cội rễ của mọi phương thức tương tác vật
chất, chỉ có thể “thấy được” ở đáy cùng tận của thế giới vi mô, là kích
thích - cảm ứng Không Gian. Có thể nói trên cơ sở của phương thức này mà
ở những tầng nấc không gian vĩ mô, tương tác vật chất còn được thể hiện
ra với những phương thức khác nhau, như: tương tác cảm ứng điện từ,
tương tác hấp dẫn, tương tác cơ học… và có thể gọi chung là tác động -
phản ứng (hay tác động tương hỗ). Tương tác vật chất là phương thức
tuyệt đối và duy nhất của vận động, hay cũng có thể nói vận động là biểu
hiện của tương tác vật chất. Tương tác vật chất (hay vận động) là
nguyên nhân của mọi chuyển hóa, biến đổi vật chất, của mọi quá trình
xuất hiện, tồn tại, tiêu tan của vạn vật - hiện tượng trong Vũ Trụ, vừa
liên tục một cách tuyệt đối, vừa gián đoạn một cách tương đối, và chỉ thể hiện ra hoàn toàn ở đáy cùng của Vũ Trụ vi mô.
Sự
liên tục của biến hóa biểu hiện ra thành cái gọi là “quá trình” biến
hóa, có trước có sau về mặt thời gian (quá khứ - hiện tại - tương lai)
và về mặt không gian (phương chiều). Hiện tượng đó làm cho nguyên lý
nhân - quả được xác lập. Vì nền tảng của quá trình từ nguyên nhân đến
kết quả là quá trình biến hóa vật chất nên quá trình nhân - quả cũng
mang tính vừa liên tục vừa gián đoạn.
Nguyên
lý nhân - quả là thành quả khám phá và đồng thời cũng là sáng tạo tất
yếu của con người trên bước đường đi khai sáng hiện thực khách quan
hoang dại (thực tại khách quan của nó!). Quá trình biến hóa vật chất là
không thể phân chia tuyệt đối được. Tuy nhiên, tùy thuộc vào những yếu
tố khách quan (như qui mô, tốc độ tiến triển sự biến thiên… của quá
trình biến hóa) cũng như những yếu tố chủ quan (như sự hạn chế của năng
lực nhìn nhận, việc phải đề ra những định ước nhằm mục đích nghiên cứu,
khảo sát) mà con người có thể phân định một cách tương đối và hình thức
một quá trình biến hóa nào đó xảy ra trong tự nhiên – xã hội thành nhiều
giai đoạn, nhiều sự vật - hiện tượng… khác nhau và phân biệt chúng bằng
những cặp khái niệm như: ổn định - bất ổn, phát triển – suy tàn, biến
đổi từ từ - đột biến… Qua đó, quá trình biến hóa có thể được thấy như
gồm nhiều quá trình bộ phận đan xen nhau, kế tiếp nhau, hợp thành một
xâu chuỗi những giai đoạn tiến triển nối tiếp nhau trong thời gian, lập
nên mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực trên cơ sở nền tảng là nguyên
lý nhân - quả. Tùy vào mức độ, cách thức tiến triển cũng như qui ước
chủ quan mà có thể phân biệt các giai đoạn là tiến trình hay biến cố.
Thường thì biến cố là kết quả nổi trội, thấy được của giai đoạn phát
triển trước đó đã đạt đến tình thế gọi là quá độ, chín muồi và đồng thời
đóng vai trò là nguyên nhân làm xuất hiện giai đoạn tiến triển mới, kế
tiếp, hoặc cũng có thể được coi là điểm nút, điểm bộc phát làm kết thúc
quá trình biến hóa.
Vậy
thì khi nói: “Hạt lúa nảy mầm ra cây lúa rồi cây lúa sau một quá trình
phát triển, đến độ chín muồi sẽ tạo ra những hạt lúa mới”, thì đó chỉ là
quá trình nằm trong mối quan hệ không tất yếu (tạm gọi là) “khả năng -
hiện thực”. Do đó, sự từ hạt lúa xuất hiện cây lúa và từ cây lúa xuất
hiện những hạt lúa mới cũng không mang tính tất yếu mà chỉ như một trong
số các yếu tố tiền nguyên nhân hợp thành cái nguyên nhân tất yếu… Chỉ
khi nào đặt quá trình nói trên trong mối quan hệ nhân - quả đích thực,
nghĩa là chúng ta đã xác định được tất cả các yếu tố hợp thành những
nguyên nhân trực tiếp và tất yếu của hiện tượng hạt lúa cây lúa
những hạt lúa, thì nó mới được coi là quá trình tất yếu. Nếu không có
các yếu tố hợp thành nguyên nhân trực tiếp như đất đai, độ ẩm, thời
tiết… thì khả năng hạt lúa cây lúa
những hạt lúa sẽ vĩnh viễn không bao giờ thành hiện thực được. Một hạt
lúa đem đốt cháy tất yếu phải thành tro than chứ không thể thành hạt lúa
khác được!
Tương
tự, đối với trường hợp anh chàng đi xem kịch cũng vậy. Cái ý muốn xem
kịch của anh ta chỉ là một yếu tố có tính chủ động trong số nhiều yếu tố
hợp thành khả năng làm cho sự có mặt của anh ta ở nhà hát vào thời điểm
đã định trở thành hiện thực. Còn sự hoạt động có chủ đích định trước
thì không chỉ ở giống loài sinh vật biết tư duy lý tính mới có, và nguồn
gốc sâu xa của nó có thể được tìm thấy trong qui luật đấu tranh sinh
tồn, cạnh tranh để tồn tại, vận động để đảm bảo và duy trì sự cân bằng
nội tại, mà sâu xa nhất có thể được tìm thấy trong cái bản tính của Đấng
Tạo Hóa thiêng liêng, cái bản tính được hun đúc nên từ nguyên lý Tự
Nhiên. Có thể nói tổ tiên khởi thủy của loài người là Đấng Tạo Hóa cho
nên dù là ở dạng đặc thù thì sự biểu hiện của loài người vẫn “phảng
phất” hồn vía của Ngài mà trong đó nổi lên cái đặc tính năng động sáng
tạo, hoạt động có chủ đích.
Để
chấm dứt sự “vương vấn” đối với loại nguyên nhân thứ tư của Arixtốt,
chúng ta hãy nghe theo lời dạy sau đây của Đềcác: “Với tôi, những nguyên
nhân có tính mục đích của sự vật và sự kiện là một điều huyền bí mà có
lẽ chỉ Thượng Đế mới biết được. Công việc của nhà khoa học là chỉ nghiên
cứu những nguyên nhân nào có kết quả theo sau, chứ không bàn viễn vông
về những quyền năng bí hiểm hay những mục đích tối hậu”.
Ngay
từ thời xa xưa thượng cổ, con người đã nhận ra được hiện thực khách
quan là không ngừng biến chuyển và biết bao nhiêu sự kiện “vật đổi, sao
dời” với biết bao nhiêu quá trình xuôi ngược theo xu thế tất định khác
nhau, mà nhiều khi cũng tương tự nhau, không lặp lại mà cũng nhiều khi
lặp lại, và tất cả chúng đều ở trong vòng của cuộc xoay vần vĩ đại và
huyền linh theo bất tận thời gian. Ở thuở ban đầu ấy, dù rằng vẫn còn
trong cảnh mù mịt, hồng hoang về nhận thức, nhưng con người cũng đã bắt
đầu thấy được những liên quan ở mức độ nào đó giữa những sự vật - hiện
tượng này với những sự vật - hiện tượng khác, giữa những biến đổi thiên
nhiên xảy ra trước với những biến đổi thiên nhiên xảy ra sau, để rồi qua
kinh nghiệm, họ đã có thể phỏng đoán được ít nhiều điều có thể xuất
hiện ở tương lai. Chẳng hạn, có thể tạm nêu vài câu ca dao, tục ngữ
trong dân gian Việt Nam còn lưu truyền đến ngày nay làm ví dụ:
“Mây kéo xuống bể thì nắng chang chang
Mây kéo lên ngàn thì mưa như trút.”
“Mùa hè đương nắng, cỏ gà trắng thì mưa.”
“Cơn đàng đông vừa trông vừa chạy
Cơn đàng tây mưa dây bão dật
Cơn đàng nam vừa làm vừa chơi
Cơn đàng bắc rắc thóc ra phơi.”
“Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa.”
“Ráng vàng thì nắng,
Ráng nắng thì mưa.”
“Rồng đen lấy nước thì nắng
Rồng trắng lấy nước thì mưa.”
“Ráng mỡ gà, ai có nhà thì chống.”
“Trăng quầng thì hạn
Trăng tán thì mưa.”
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.”
Trên
bước đường mưu sinh, chính thực tiễn cuộc sống đã là những người thầy
đầu tiên dạy cho con người những kiến thức mở đầu về hiện thực khách
quan. Không dừng lại ở đó, tính chủ động sáng tạo ở giống loài biết tư
duy đã thúc đẩy con người tìm hiểu ngày một sâu rộng hơn nữa cái môi
trường đầy biến động mà họ đang vật lộn với nó để tồn tại và tồn tại một
cách ngày càng vui thú. Quá trình đó tất nhiên sẽ làm xuất hiện những
nhà thông thái - lực lượng đi tiên phong của loài người trong công cuộc
nhận thức, khám phá những bí ẩn của tự nhiên, lấy việc khảo sát nghiên
cứu tự nhiên làm lẽ sống cuộc đời. Chính nhờ họ mà thế hệ nối tiếp thế
hệ, hiện thực khách quan của loài người ngày càng sáng tỏ và rộng lớn,
chân dung của vạn vật - hiện tượng dần được thấu hiểu, bản chất của
những quá trình biến hóa xảy ra trong hiện thực khách quan, cũng như của
những mối liên quan giữa các sự vật - hiện tượng trong những quá trình
đó cũng dần được khám phá.
(Còn tiếp)
-----------------------------------------------------------------
-----------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét