Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TT&HĐ V - 40/k
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(Tiếp theo)
Brahe đã có những đóng góp đáng kể cho vật lý thiên văn. Nhất là sau
này, trên cơ sở những kết quả quan sát và đo đạc bầu trời của ông mà
Keple (1571 – 1630) đã nêu lên được ba định luật quan trọng và cũng là đầu tiên của
thiên văn học. Thế nhưng với tư cách là một cá nhân sống trong xã hội
thì cuộc đời của Brahe không mấy cao đẹp. Ông độc tài, kiêu ngạo, mũi
của ông bị mất trong một lần đấu súng nên phải đeo một cái mũi giả bằng
bạc. Điều đáng lên án nhất là ông đã chèn ép, bóc lột một cách đáng hổ
thẹn những người dân sống trên đảo Hveen (đến nỗi họ đã nổi dậy trả thù
bằng cách đập phá đài quan sát thiên văn ở đó sau khi ông phải rời đi vì
không còn được vua mới của Đan Mạch là Christian IV sủng ái). Brahe
chết vào năm 1601 do nốc quá nhiều rượu trong một bữa tiệc hoàng gia.
Johannes Kepler
Chân dung Johannes Kepler năm 1610 bởi một nghệ sĩ khuyết danh
Brunô(Giordano Bruno, 1548-1600), người Ý, là nhà triết học lỗi lạc có
tư tưởng duy vật triệt để, là nhà khoa học tự nhiên tài năng và cũng là
nhà thơ. Ông được sinh ra tại Nola, trong một gia đình quí tộc nhỏ. Lớn
lên, ông là tu sĩ trong tu viện của dòng đạo Đônainica. Nền giáo dục
thần học đã không đủ sức thuyết phục ông trước những quan điểm tự do đầy
tính nhân văn, những bộc lộ hoàn toàn tự nhiên trong khảo cứu khoa học,
trong lập luận triết học, mà ông đã làm quen và tiếp thu được trong đời
sống cũng như qua sách vở bởi luồng gió lành của phong trào Văn Hóa
Phục Hưng mang tới. Từ đó mà ông dần dần từ bỏ những quan niệm giáo điều
của thần học, phê phán những bất cập trong quan điểm khoa học của
Arixtốt đã bị giáo hội bóp méo trên cơ sở, lập luận của Thomas Aquinas.
Ông ủng hộ thuyết nguyên tử của Đêmôcrit và Êpiquya để rồi trở thành nhà
triết học tự nhiên, đứng hẳn về phía duy vật vô thần. Hơn nữa, theo ý
kiến của chúng ta, một số nhận thức triết học về tự nhiên của Brunô đã
vượt trước thời đại của ông rất xa, đã gần sát với quan niệm của triết
học duy tồn về Tự Nhiên Tồn Tại, mà thậm chí là cho đến tận ngày nay, có
thể là do sự hạn chế về khái niệm, ngữ nghĩa của thời đó, người ta vẫn
chưa hiểu biết, hiểu đúng ý ông.
Brunô
Thời đại
Triết học Phục hưng
Lĩnh vực
Triết học phương Tây
Trường phái
Chủ nghĩa nhân văn Phục hưng, Chủ nghĩa Tân Platon
Sở thích
Triết học & Vũ trụ học
Nếu triết học Ấn Độ cổ đại gọi thế giới khách quan là “Cái Ấy”, “Cái
Một”, còn Lão tử gọi là “Đạo” với quan niệm Đạo vừa là thể chất, vừa là
nguyên lý “trộn lộn làm Một”, thì Brunô cũng quan niệm rằng Thượng Đế
tồn tại dưới dạng giới tự nhiên là cái duy nhất, hay có thể nói như ngày
nay: Thực tại khách quan cùng với những biểu hiện tự nhiên của nó là
cái duy nhất. Cũng theo Brunô thì Thượng Đế là vô cùng và trong vô cùng,
Nó ở trong mọi người và ở khắp nơi. Đây là lời khẳng định hàm chứa một
chân lý cao cả và sáng suốt của ông: “Tự Nhiên là Thượng Đế trong sự vật
- hiện tượng”. Câu đó chẳng khác mấy so với câu nói thốt ra từ “cửa
miệng” của triết học duy tồn: Tự Nhiên là Tạo Hóa của sự vật - hiện
tượng. Trong cách hiểu của Brunô thì Tự Nhiên là sự độc lập hoàn toàn
(rất gần với cách hiểu: là sự vốn dĩ), còn Thượng Đế là đồng nghĩa với
sự thống nhất của sự vật - hiện tượng. Đối với Brunô thì Thượng Đế không
có gì là huyền bí linh thiêng cả mà chỉ là sự biểu hiện của Tự Nhiên,
có xuất xứ từ Tự Nhiên và có thể “nắm bắt” được. Đây chính là điểm mấu
chốt làm cho quan niệm triết học của ông đối lập gay gắt với lý lẽ thần
học của giáo hội.
Ở mức độ nhất định, Brunô cùng đồng thuận với tư tưởng của Arixtốt về sự
thống nhất vật chất và hình dạng trong cái duy nhất. Theo Brunô, cái
duy nhất là sự thống nhất giữa các mặt đối lập nhau, như cực đại và cực
tiểu, nóng và lạnh, tính thống nhất và tính khác biệt nhiều vẻ…; cái duy
nhất là cơ sở thống nhất toàn bộ các sự vật - hiện tượng trong Vũ Trụ
cho nên nó tồn tại vĩnh viễn. Tuy nhiên, ông lại nhận định có phần sai
lầm rằng, trong cái duy nhất, vật chất và hình dạng không thể tách rời
nhau, vì vậy mà không có cái gọi là “vật chất đầu tiên” hay “hình dạng
thuần túy” như Arixtốt quan niệm.
Một cách cơ bản, Brunô cũng đã quan niệm rất đúng đắn đối với lý luận
nhận thức. Ông đánh giá thấp vai trò của nhận thức cảm tính. Theo ông
thì cảm tính chỉ có ý nghĩa “đánh thức trí tuệ” chứ không thể dùng nó để
đánh giá đúng sai và đưa ra quyết định cuối cùng. Brunô viết rằng, hạn
chế chính của cảm giác là ở chỗ “không thấy được sự vô cùng… hay sự vô
cùng không thể là đối tượng của cảm giác”. Trái lại, Brunô rất đề cao
khả năng nhận thức trí tuệ con người. Ông phản đối quan niệm thừa nhận
hai loại chân lý của thời Trung cổ (một là thứ chân lý do Chúa ban,
không thể chứng minh được, hai là chân lý do phát kiến khoa học và có
thể chứng minh được). Chính vì vậy mà ông phủ nhận chân lý thần học,
khẳng định chỉ có một chân lý duy nhất do triết học và khoa học tìm ra.
Theo Brunô, quá trình nhận thức chân lý gồm ba giai đoạn: giai đoạn đầu
tiên của nhận thức là cảm giác, giai đoạn trung gian là lý trí và giai
đoạn sau cùng, cao nhất của nhận thức là trí tuệ.
Bộ phận nổi bật, tập trung những nhận thức cơ bản nhất của Brunô về tự
nhiên và cũng là mũi nhọn trong triết thuyết của ông trong cuộc đấu
tranh bảo vệ lập trường của mình, đồng thời khẳng định tính đúng đắn và
hiện thực cho hệ nhật tâm Côpecnic trước giáo hội Thiên Chúa Giáo, chính
là quan niệm về Vũ Trụ của ông.
Quan niệm về Vũ Trụ của Brunô là một sự phát triển trong thời đại mới
trên cái nền tảng tư tưởng của Đêmôcrít. Theo Đêmôcrít thì Vũ Trụ không
có gì khác ngoài nguyên tử và chân không, vạn vật đều do những nguyên tử
(vật chất cực nhỏ, không thể chia cắt được) tạo thành; trong Vũ Trụ có
rất nhiều thế giới, những thế giới này chỉ khác nhau về số lượng và về
cấu trúc, một số trong đó không có Mặt Trời, Mặt Trăng, một số thì lại
có nhiều Mặt Trời và nhiều Mặt Trăng hơn. Học thuyết nhật tâm của
Côpecnic ra đời đã đóng vai trò như một bằng chứng lý thuyết cho ý tưởng
về Vũ Trụ của Đêmôcrít. Có thể nó đã góp phần không nhỏ trong việc củng
cố niềm tin cho Brunô, cho nên sau khi tiếp cận tác phẩm “Về sự quay
của các thiên cầu”, ông đã cho nó là “ánh bình minh báo trước Mặt Trời
chân lý triết học cổ đại sắp mọc”.
Brunô không những là người nhiệt thành suốt đời công khai ủng hộ học
thuyết nhật tâm của Côpecnic, mà sau khi đã tiếp thu và kế thừa quan
điểm Vũ Trụ của Đêmôcrít, ông còn bổ sung, phát triển học thuyết đó lên
cao xa hơn nữa về mặt nhận thức triết học. Ông cho rằng Vũ Trụ là vô
tận. Trong cái khoảng không vô tận ấy, ngoài hệ nhật tâm của Côpecnic
còn có vô vàn hệ nhật tâm tương tự như vậy nữa. Trái Đất chỉ là một hành
tinh bình thường quay quanh Mặt Trời như những hành tinh khác và có thể
còn những hành tinh khác nữa chưa được phát hiện ra (lời tiên đoán này
đã được chứng thực khoảng 200 năm sau khi ông qua đời, đó là việc phát
hiện ra sao Thiên Vương và sau đó là Hải Vương). Ông mạnh dạn đưa ra giả
định là Mặt Trời tương tự như Trái Đất, cũng quay quanh trục của nó, và
khẳng định rằng đất, nước, lửa, không khí cấu thành không chỉ Trái Đất
mà cũng cấu thành nên tất cả các hành tinh khác trong hệ nhật tâm. Cuối
cùng ông kết luận rằng giữa các thiên thể, hành tinh là khoảng không
tuyệt đối chứ chẳng có Chúa trời và thiên thần nào cả.
Quan niệm triết học duy vật triệt để của Brunô đã mâu thuẫn đối kháng
với khái niệm thần học Thiên Chúa Giáo. Chính vì vậy mà ông đã trở thành
kẻ thù của Tòa thánh La Mã, bị kết án là tà đạo và bị trục xuất khỏi
giáo hội. Để tránh bị truy bức, năm 1576, ông đã trốn khỏi Ý, lang thang
nhiều nơi ở Pháp, Anh, Đức, Thụy Sĩ, vừa viết văn kiếm sống, vừa tiếp
tục nghiên cứu khoa học cũng như tích cực tuyên truyền thế giới quan duy
vật của mình. Cuối cùng ông về Venise và năm 1592 thì bị giáo hội bắt,
bị tù đày, tra tấn tàn nhẫn suốt 8 năm trời. Tòa án dị giáo cho phép ông
8 ngày “sám hối” để thoát tội chết, nhưng ông đã từ chối vì không chịu
từ bỏ niềm tin của mình và cũng vì thế mà ông bị xử tội bằng cách thiêu
sống. Trước lời tuyên án đó, trong pháp đình dị giáo, đã vang lên câu
nói bất khuất của Brunô: “Các người tuyên bố bản án còn run sợ hơn ta
nghe bản án đó”. Ngày 17-2-1600, trước khi bước lên giàn hỏa ở Roma,
Brunô có nói thêm một câu sâu sắc mang tính tiên tri: “Thiêu chết không
có ý nghĩa phủ định, đời sau sẽ tìm lại được ta và sẽ đánh giá”.
Chúng ta cảm phục Brunô về trí tuệ lỗi lạc và kính phục ông về tinh thần
bất khuất! Thưa linh hồn Brunô, hậu thế có thể quên, thậm chí là chưa
bao giờ nhớ đến cái đám người kết tội ông, nhưng hậu thế mãi mãi nhớ tới
ông vì ông đã đi vào bất tử ngay từ khi ông bước lên dàn hỏa.
Brunô đã để lại cho đời sau những tác phẩm chủ yếu là: “Về nguyên nhân,
nguyên lý và sự thống nhất”, “Về tính vô hạn của Vũ Trụ và các thế
giới”, “Về sự vô cùng”…
Nếu Brunô là người đã ra sức bảo vệ và phát triển hệ thống nhật tâm của
Côpecnic về mặt triết học thì keple là người lần đầu tiên thiết lập được
những công thức toán học xác định được quĩ đạo chuyển động của các hành
tinh quanh Mặt Trời và thông qua đó, một cách gián tiếp, đã khẳng định
mạnh mẽ sự đúng đắn đối với phát kiến lấy mặt Trời làm trung tâm của
Côpecnic đối với một hệ thống Vũ Trụ mà ngày nay chúng ta vẫn thường gọi
là Thái Dương hệ.
Keple (Johannes Keple, 1571-1630) là nhà thiên văn học nổi tiếng người
Đức, một trong những người đặt nền móng cho vật lý thiên văn hiện đại.
Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mẹ luôn lục đục, bất hòa. Năm
lên 4 tuổi, ông bị bệnh đậu mùa gây tật nguyền ở tay và mặt. Từ nhỏ ông
đã đến học trường dòng để sau này trở thành tu sĩ. Năm 1588, sau khi đạt
được bằng xuất sắc của trường dòng, Keple tiếp tục được cấp học bổng
để theo học đại học. Trong thời gian này, ông tiếp cận được tác phẩm của
Côpecnic và từ đó ông trở thành người ủng hộ nhiệt tình thuyết nhật
tâm.
Năm 23 tuổi, sau khi tốt nghiệp đại học, ông được cử dạy toán và thiên
văn ở trường Đại học Tin lành Graz. Vừa làm việc, vừa nghiên cứu thiên
văn và với đồng lương ít ỏi, ông đã phải làm thêm việc xem bói tử vi cho
những người giảu để có thêm tiền trang trải cho cuộc sống. Có lần, ông
đã chua chát nói: “Chiêm tinh học là đứa con gái của thiên văn học, mặc
dù là một đứa con hoang thì nó phải nuôi mẹ nó, nếu không, mẹ nó sẽ chết
đói”.
Năm 1600, Keple được Brahe mời sang làm trợ tá đại tài thiên văn Praha.
Khi Brahe chết, Keple được cử thay thế Keple tự hiểu rằng mắt mình kém
do ảnh hưởng của bệnh đậu mùa xưa kia, không thể trở thành nhà quan sát
thiên văn tinh tường như Brahe được, nên ông chủ tâm vào toán học và
“quan sát” nhật ký quan sát thiên văn suốt 30 năm qua của Brahe để lại,
với mục đích là tìm ra quy luật chuyển động của các hành tinh.
Đó là một quá trình lao động miệt mài nhưng cũng vô cùng vất vả của
Keple. Trước hết, ông phải hiệu đính lại các kết quả quan sát của Brahe
bị sai lệch do sự khúc xạ ánh sáng trong khí quyển. Việc đó buộc ông
phải nghiên cứu những vấn đề liên quan đến quang học. Sau đó, ông tiến
hành sắp xếp, chỉnh đốn lại những số liệu quan sát của Brahe để xác định
quĩ đạo của sao hỏa. Công việc này rất phức tạp. Keple đã phải tính đi
tính lại, tốn nhiều giấy mực và thời gian mà vẫn không thành công. kết
quả tính toán so với số liệu của Brahe chênh nhau đến 8 phút góc trên
một vòng quĩ đạo là không thể chấp nhận được vì số liệu của Brahe đạt độ
chính xác rất cao. Ngày nay, chúng ta biết được rằng nguyên nhân dẫn
đến thất bại buổi đầu của Keple chính là vì trong ông cái quan niệm về
sự chuyển động của các hành tinh, cụ thể là của sao Hỏa là trên một quĩ
đạo tròn đều hoàn hảo, có từ thời Pitago và đến tận thời đó chưa một ai
nghi ngờ. Phải sau nhiều năm tính toán gian khổ và trăn trở nữa, Keple
mới phát hiện ra được con đường đến với chân lý khoa học, đó là con
đường trước hết phải từ bỏ cái ý chí nhận thức chủ quan của con người về
sự hoàn hảo. Bản thân Tự Nhiên đã là một hoàn hảo theo cách của nó rồi,
không cần đến con người qui ước nữa! Khi đã trút bỏ được xiềng xích của
cái quan niệm hoàn hảo đã nặng nề giáo điều đó thì Keple bắt đầu gặt
hái được liên tiếp từ thành công này đến thành công khác để đến với sự
mỹ mãn. Trong hiện thực khách quan, quĩ đạo chuyển động quanh Mặt Trời
của sao Hỏa là một hình chóp mà Mặt Trời nằm tại một tiêu điểm của nó.
Đó là kết quả đầu tiên về chuyển động của các hành tinh mà Keple thu
được sau một quá trình tính toán lâu dài đầy những vấp váp. Năm 1609,
Keple công bố hai định luật về chuyển động của các hành tinh. Năm 1611,
ông công bố một công trình về quang học, trong đó có mô tả cấu tạo của
một loại kính thiên văn và nghiên cứu đường đi của các tia sáng qua thấu
kính. Năm 1619, tức là 18 năm sau khi Brahe chết, Keple công bố thêm
định luật thứ ba, hợp với hai định luật nêu trên thành một bộ phận ba
định luật tổng quát về quĩ đạo chuyển động của các hành tinh quanh Mặt
Trời, trong tác phẩm “Sự hòa hợp của Vũ Trụ”. Tác phẩm này bị giáo hội
cấm, không cho phát hành.
Đa số các hành tinh được biết đến trong Hệ Mặt Trời
ở thời đó có quỹ đạo xấp xỉ hình tròn, do đó nếu chỉ quan sát sơ lược
thì sẽ khó phát hiện ra quỹ đạo hành tinh là hình elíp. Những tính toán
chi tiết từ dữ liệu quan sát của quỹ đạo Sao Hỏa
lần đầu tiên cho Kepler thấy quỹ đạo của nó phải là hình elíp thì mới
phù hợp với dữ liệu quan sát, và từ đây ông suy luận tương tự cho các
hành tinh khác quay quanh Mặt Trời cũng phải có quỹ đạo elip. Ba định
luật Kepler và kết quả phân tích dữ liệu quan sát của ông là một thách
thức lớn cho mô hình địa tâm của Aristotle và Ptolemy đã được chấp thuận từ rất lâu, và ủng hộ cho mô hình nhật tâm của Nicolaus Copernicus (mặc dù quỹ đạo elip theo Kepler khác với các quỹ đạo tròn theo Copernicus), bằng chứng tỏ Trái Đất quay quanh Mặt Trời, vận tốc của các hành tinh trên quỹ đạo là biến đổi, và quỹ đạo có hình elip hơn là hình tròn.
Khoảng tám thập kỷ sau, Isaac Newton
chứng minh rằng các định luật Kepler có thể được áp dụng trong những
điều kiện lý tưởng và là dạng xấp xỉ tốt cho quỹ đạo của các hành tinh
trong hệ Mặt Trời, hay những định luật này là hệ quả của các định luật về chuyển động và định luật vạn vật hấp dẫn của ông.
Ba định luật về quĩ đạo chuyển động hành tinh quanh Mặt Trời của Keple
đã làm cho mô hình hệ nhật tâm của Côpecnic dung dị hơn, mạch lạc hơn và
do đó cũng sáng sủa hơn rất nhiều. Theo ba định luật đó thì quĩ đạo
thực của mọi hành tinh chưa bao giờ là đường tròn hoàn hảo mà đều có
dạng hình elíp và Mặt Trời nằm tại một trong hai tiêu điểm của nó. Khám
phá đó của Keple đã loại bỏ được “hai ông thần gây rắm rối” là nội luân
và ngoại luân ra khỏi sơ đồ hệ thống nhật tâm của Côpecnic và đưa chúng
cùng hệ địa tâm Ptôlêmê vĩnh viễn về “nghỉ hưu” trong bảo tàng của nhân
loại sau suốt 15 thế kỷ “quần quật” đóng giả vai trò chân lý(!). Dù sao thì
cuộc tiễn đưa vẫn chưa diễn ra ngay được vì cuộc tranh luận giữa cũ và
mới, giữa quan niệm địa tâm và quan niệm nhật tâm vẫn chưa hết sôi nổi.
Cái cũ lạc hậu dễ gì mà từ bỏ thời vàng son của nó! Hơn nữa, dàn hỏa tòa
án dị giáo vẫn còn lù lù ra đó và đang chực chờ bùng lên thiêu sống
những kẻ phạm thượng!.
Những năm về sau, Keple còn gặt hái được nhiều thành tựu khác nữa, như:
thiết lập ngành quang hình học, hoàn thiện khoa giải phẫu mắt, xuất bản
tập sách “Hành tinh biểu”, bổ sung và hoàn thiện công trình quan sát của
Brahe để lại trước đây… Công lao của Keple đã được Hoàng đế Đức bấy giờ
tưởng thưởng cho một khoản trợ cấp và một ngôi nhà ở Sagan vào năm
1628. Mùa đông năm 1630, trong một chuyến đi nhận tiếp số tiền trợ cấp
mà chính phủ còn nợ lâu chưa trả, Keple bị cảm lạnh và vài ngày sau,
đúng ngày 15-11-1630 thì tạ thế tại Ratisbonne. Thi hài ông cũng được an
táng luôn ở đó.
Có thể nói công trình thiên văn của Keple là biểu hiện tiêu biểu cho
thời kỳ chuyển tiếp đối với khoa học nói chung và vật lý học nói riêng;
là tiếng chuông báo hiệu sự kết thúc của lối nghiên cứu khoa học nặng
về cảm tính, kinh viện và sự ra đời của lối nghiên cứu lấy thực nghiệm
để xác nhận chân lý. Theo xu thế của thời đại, vật lý học đã bắt đầu đi
trên con đường đặc thù và chân chính dành cho nó, trở thành lực lượng
đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học, đóng vai trò thúc đẩy các ngành
khoa học khác cũng như thúc đẩy sự trở lại cả triết học lẫn toán học
cùng tiến bước phục vụ cho đòi hỏi nhận thức tự nhiên ngày một cao của
loài người. Một nền khoa học khổng lồ ở Châu Âu được bao trùm bởi chủ
nghĩa thực chứng mà tiêu chí của nó là lấy thực tiễn làm chuẩn mực để
xác nhận chân lý, lấy thực nghiệm làm cứu cánh cho phát minh khoa học,
đã bắt đầu ló dạng và hứa hẹn đem lại những thành quả vô cùng chói lọi.
Lịch sử Khí công Khởi nguồn và lịch sử phát triển YOGA - Ấn Độ PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ “Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?” Lepnit . CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI -"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." Bleiste -"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước" Napoleon. -"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo: nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một bộ làm bộ làm tịch" Mark Twain -“Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là làm sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn đề ấy mà nó đã cố gắng...” Vidhusekharsastri -"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc – tôi mới căm ghét chúng làm sao!" Albert Einstein -"Lòng
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 14/3: Bắt phó giám đốc dùng tài liệu giả tham gia đấu thầu | ANTV TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 15/3 | Nga lập thế trận siết vòng vây 3000 quân Kiev, Ukraine run rẩy Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 14-3-2024 Các quan chức cộng sản cấp cao biến mất | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt THIÊN TRANG - Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé || Nhạc Vàng Xưa Bất Hủ Thêm 162 người nhập viện sau khi ăn cơm gà ở Nha Trang 8 giờ trước Việt Nam đề nghị Trung Quốc tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ 9 giờ trước Khoảnh khắc một căn nhà bị sông Cầu 'nuốt chửng' ở Bắc Ninh 5 giờ trước Hà Nội: Cô bán trứng bất ngờ "được" ném nhầm bọc tiền hơn 1 tỷ vào xe 17 giờ trước Vũ khí đặc biệt trong gói viện trợ của Mỹ dành cho Ukraine 12 giờ trước Video quân đội Nga bắn nổ 2 trực thăng của Ukraine ở Donetsk 18 giờ trước Ông Trump vượt Tổng thống Biden về tỉ lệ ủng hộ trong thăm dò dư luận 11 giờ trước Làm ăn th
Mùa Chim Én Bay - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung MỌC CÁNH Em ơi em, mọc cánh bao giờ thế Định bay đi đâu mà nhìn ra đại dương? Tìm nguồn hạnh phúc bên kia thế giới Ở đó đang chờ một tình yêu thương? Thôi bay đi em, đừng áy náy, vấn vương Đừng lưu luyến kẻ dưng, người cũ Bay đi em, về phương trời quyến rũ Ở đó có tình sâu nặng đợi chờ! Bay đi em, đến xứ sở ước mơ Về chao liệng trên bến bờ hi vọng Thỏa khao khát những nỗi niềm vui sống Của một hồn thơ dào dạt yêu thương! Trần Hạnh Thu Câu Đợi Câu Chờ - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung Dương Hiểu Ngọc bay cao với đôi cánh "Thiên thần tình yêu 09:26 05/04/2014 Chắp "đôi cánh thiên thần", người đẹp Dương Hiểu Ngọc sẽ bay cao, bay xa trong nghệ thuật với những nỗ lực không ngừng. Xuất hiện liên tục trên các trang mạng trong thời gian gần
Nhận xét
Đăng nhận xét