TT&HĐ V - 40/h
Nguồn gốc Giáo Hội Công Giáo La Mã và những tội ác
(Tiếp theo)
Đường nào thì cũng về… La Mã! Thật là hết sức thú vị! Còn nhiều con
đường khác nữa cũng dẫn đến “nơi trú ngụ” của Thượng Đế, nhưng với năm
con đường đó, có lẽ theo Thomas Aquinas, đã là quá đủ để chứng minh rồi,
nên ông không muốn liệt kê ra nữa (!). Chẳng hạn, chúng ta cho rằng con
đường này cũng đến được với Thượng Đế: Con người là loài biết tư duy
nhưng tư duy của nó chưa hoàn hảo bởi vì vẫn còn vấp váp biết bao sai
lầm dẫn đến cãi nhau chí chóe triền miên; mà cái vô tri không thể sản
sinh ra cái thông minh được nên ắt phải có cái tư duy hoàn hảo hơn nữa
sản sinh ra; cứ thế mãi mà đi về phía vô tận; nhưng không thể vô tận
được nên rốt cuộc lại phải hiện hữu một cái tư duy toàn hảo, toàn thiện,
toàn mỹ tuyệt đối không do bất cứ cái gì tạo tác ra mà lại tạo tác ra
bất cứ cái gì; và chúng ta gọi đó là Thượng Đế!
Chúng ta hoàn toàn đồng thuận với Thomas Aquinas rằng phải có nguyên
nhân cuối cùng đóng vai trò là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Thế
nhưng, chúng ta còn cho rằng, một cái gì đó là kết quả của một hay nhiều
cái này thì đồng thời cũng đóng vai trò là nguyên nhân của một hay
nhiều cái khác, nghĩa là trên đời này không thể có bất cứ cái gì chỉ là
nguyên nhân chứ không là kết quả và ngược lại, chỉ là kết quả chứ không
là nguyên nhân. Chính vì lẽ đó mà cái nguyên nhân đầu tiên cũng đồng
thời là kết quả cuối cùng, cái tạo thành ra mọi cái cũng là cái được mọi
cái tác thành. Cái đó có thể được gọi bằng bất cứ tên gì tùy theo “sở
thích” của tư duy, chẳng hạn như: Thượng Đế, Ông Trời, Brahma, Đức Phật
Tổ Như Lai, Thánh Ala… Riêng chúng ta thì cái đó có hai tên gọi, nếu gọi
theo duy tâm thì sẽ là Đấng Tạo Hóa Thiêng Liêng, còn nếu gọi theo duy
tồn là Tự nhiên Tồn tại. Như vậy, rõ ràng là Thượng Đế có thật và nếu
Thượng Đế là nguyên nhân của tư duy thì đồng thời cũng là kết quả của tư
duy! Hay nói cách khác: nếu Thượng Đế “nặn ra” con người thì con người
cũng tạc nên Thượng Đế. Do đó, Thượng Đế thiêng liêng bao nhiêu thì cũng
bình thường bấy nhiêu và con người hoàn toàn có thể nhận thức rõ ràng,
chân xác được Thượng Đế chứ Thượng Đế không như Thomas Aquinas quan niệm
là “phi cá thể, toàn trí, toàn năng, toàn hảo, bất động, không thể nghĩ
bàn và là nguyên ủy của tất cả mọi sự xảy ra”. Cuối cùng,có thể xác
định: Thương Đế = Vốn Dĩ Thế !
Nhờ có Thomas Aquinas mà các tác phẩm khoa học của Arixtốt và hệ thống
vũ trụ địa tâm của Ptôlêmê mới được truyền dạy công khai ở Châu Âu trung
cổ, sau khi đã bị chỉnh lý, bổ sung cho phù hợp với ý chí của giáo hội
Thiên Chúa Giáo. Chẳng hạn như về cấu tạo của Vũ Trụ thì lý thuyết thần
học của giáo hội nói rằng, Chúa sinh ra tất cả, Trái Đất có dạng hình
cầu và được Chúa đặt ở vị trí trung tâm của Vũ Trụ. Mặt Trăng, Mặt Trời,
các hành tinh và ngôi sao đều quay quanh Trái Đất trên các thiên cầu
pha lê trong suốt. Tuy nhiên phía ngoài mặt cầu của các ngôi sao còn có
một mặt cầu nữa được Chúa ban cho một chuyển động vĩnh củu, gọi là mặt
cầu nguyên thủy. Phía ngoài và cách mặt cầu này một khoảng là nơi có
những ngọn lửa vĩnh hằng và Chúa hiện diện ở đó. Vũ Trụ vì thế mà là hữu
hạn chứ không vô tận. Nơi chúa ngụ cũng chính là Thiên Đường. Chúa chăm
lo cho sự vận hành đều đặn, trơn tru của Vũ Trụ. Các thiên thần phụ
giúp Chúa để thực hiện việc đó và canh giữ nghiêm ngặt sự qua lại giữa
các thiên cầu. Các thiên thần này hiện diện ở các thiên cầu của các hành
tinh và thiên cầu Mặt Trời. Thứ bậc chức tước của các thiên thần càng ở
thiên cầu xa Thiên Đường càng thấp. Giữa Trái Đất và Mặt Trăng có một
vùng gọi là Luyện Ngục, nơi mà các linh hồn ít phạm tội lỗi trong kiếp
Trần tục, phải rèn luyệt thử thách khắt khe để được tới các thiên cầu
“cao” hơn và có thể lên tới Thiên Đường. Sâu trong lòng Trái Đất là Địa
Ngục, nơi hiện diện quỉ dữ, và các linh hồn mang nặng tội lỗi, sau khi
lìa kiếp sống Trần Gian sẽ bị đày ải ở đó.
Phải nói rằng hệ thống tư tưởng của Thomas Aquinas rất đồ sộ và phong
phú. Nó đã góp phần to lớn vào việc hoàn chỉnh giáo lý Công Giáo và là
cơ sở nền tảng của cả nền Thần học Châu Âu suốt mấy trăm năm. Thomas
Aquinas mất năm 1274, để lại cho hậu thế câu nói cuối cùng của cuộc đời
ông: “Tất cả những gì tôi viết cho tới nay chỉ là đồ bỏ… so với những gì
tôi đã thấy và đã được mặc khải”. Nhưng ông đã được mặc khải những gì?
Rất tiếc rằng không ai có thể biết điều đó. Năm 1332 nhà thần học tài
năng Thomas Aquinas được phong thánh.
Quan niệm về một Vũ Trụ như trên đã trở thành một giáo điều của thần học
suốt thời Trung thế kỷ ở Châu Âu và mọi tín đồ Công Giáo tuyệt đối
không ai được bác bỏ hoặc hoài nghi. Theo giáo lý rao giảng thì giáo
điều là chân lý bất di bất dịch, con người không thể hiểu được nó chỉ
bằng lý trí của mình, mà phải nhờ đến đức tin do Chúa ban cho. Kẻ nào
xâm phạm đến giáo điều sẽ bị tòa án dị giáo trừng trị nghiêm khắc, mà
hình phạt nặng nhất là thiêu sống trên giàn hỏa. Chẳng hạn, để bảo vệ
giáo điều, tòa án dị giáo Tây Ban Nha đã thiêu sống hàng vạn người,
trong đó có nhà toán học Vanmet vì ông này đã tuyên bố rằng mình đã tìm
ra cách giải phương trình bậc bốn mà theo giáo hội, đó là trái với ý Chúa.
Tuy nhiên, sự đè nén, áp bức nặng nề về tư tưởng của giáo hội Công Giáo
cùng với công cụ trừng trị ghê gớm của nó là tòa án dị giáo vẫn không
thể nào dập tắt được ngọn lửa phản kháng, đòi quyền được tự do nghiên
cứu và nhận thức khoa học trong tâm trí con người. Bởi vì quá trình nhận
thức và nâng cao trình độ nhận thức là một tất yếu của tư duy.
R. Bêcơn (Roger Bacon, 1212-1292) là nhà triết học, khoa học người Anh
đồng thời cũng là thành viên của một dòng tu. Lúc mới 12 tuổi, Bêcơn đã
vào học ở trường Đại học Oxford. Sau khi tốt nghiệp, ông được giữ lại
trường giảng dạy. Vào thời đó, do có sự thống nhất tạm thời giữa thần
học và khoa học, cho nên dù theo đạo và bị giáo hội khống chế chặt chẽ
thì vẫn được phép theo đuổi việc nghiên cứu khoa học, chỉ không được
khuyến khích xuất bản. Bêcơn là người rất say mê với khoa học. Có lẽ ông
là người đầu tiên đưa ra những nhận định có tính tiên tri như: có thể
thay người chèo bằng máy móc cho tàu chạy trên biển, cái xe có thể chạy
nhanh mà không cần ngựa kéo, với một người điều khiển và bằng một động
cơ nào đó có thể làm cho một “cái xe” được lắp bộ cánh nhân tạo, bay
trong không trung như chim… Ông cũng là người đưa ra ý tưởng: có thể cải
tiến tầm nhìn của con người bằng cách áp dụng đúng đắn các thấu kính,
và bước đầu nêu ra lý thuyết về hiện tượng cầu vồng… Nói chung Bêcơn là
người không những chỉ lập luận một cách lý thuyết mà còn mày mò thực
hiện rất nhiều thí nghiệm trên nhiều lĩnh vực khoa học như hóa học,
quang học… Bởi vì ông quan niệm rằng khoa học phải được xây dựng trên cơ
sở lập luận chặt chẽ đồng thời kết hợp với thí nghiệm chính xác.
Cũng do quá say mê nghiên cứu và thí nghiệm khoa học mà Bêcơn bị các đức cha bề trên cấm đoán và thiên chuyển sang Pari.
Trong cuộc đời mình Bêcơn đã viết khá nhiều tác phẩm về triết học, toán
học, vật lý học… Sau khi được về lại Oxford, ông viết các quyển “các
nguyên tắc toán học”, “Các nguyên tắc vật lý học”, và “Về bầu trời”. Vì
những tác phẩm này mà năm 1277, ông bị Jérome, vị đứng đầu các tu sĩ lên
án là kẻ dị giáo và bị giam cầm đến năm 1292, cũng là năm ông mất.
Tượng của Roger Bacon ở Bảo tàng Đại học Oxford
W. Ôcam (Wilhelm von Ockham, 1285-1349) là một nhà thông thái người
Đức. Là người thuộc dòng tu Fanciscan, nhưng Ôcam vẫn cho rằng cần phải
tách triết học ra khỏi giáo lý, khoa học ra khỏi thần học. Ông nêu lên
luận điểm về hai khả năng tiếp nhận chân lý: một cái do Chúa ban cho và
không thể chứng minh, một cái là lý trí con người khám phá ra gọi là
nhận thức khoa học. Hai kết quả nhận biết đó có thể không trùng nau. Ông
nói rằng thần học không thể là khoa học vì không thể chứng minh được
Thượng Đế là có thật. Với quan niệm như thế, dĩ nhiên là Ôcam bị giáo
hội lên án. Và trong thực tế, ông đã bị triệu hồi về Avignon, miền Nam
nước Pháp, nơi Giáo hoàng Johan XII đang trị vì, để giải thích những tư
tưởng bị cho là tội lỗi của mình. Về sau ông bị rút phép thông công (bị
đuổi khỏi giáo hội), bị xem là kẻ thù của giáo hội. Để tránh bị giam cầm
và chết trong tù ngục, Ôcam đã phải trốn đến Munich. Tại đây, ông trở
thành nhà văn chuyên viết những đề tài về chính trị đả phá nhiều điều
đối với Tòa Thánh. Ông phê bình sự xa hoa của giáo hội và khẳng định
Giáo hoàng mới là kẻ “lệch lạc”. Theo ông thì một cộng đồng Thiên Chúa
Giáo có thể tồn tại “mà không cần sự lãnh đạo của Tòa Thánh”.
Wilhelm von Ockham, 1285-1349
Tư tưởng tiến bộ của Ôcam như một luồng gió lành bắt đầu thổi bừng ngọn lửa đòi hỏi được tự do nhận thức khoa học đang âm ỉ: Cái ý chí duy trì sự thống nhất giữa tôn giáo và khoa học, giữa giáo lý và nhận thức thực tiễn, của giáo hội, đã bắt đầu bị lay động.
***
Những giáo điều tôn giáo và toà án dị giáo của giáo hội có thể kìm hãm
trong một chừng mực nào đó sự phát triển của khoa học nhưng không thể
ngăn chặn bước đi tiến hóa của xã hội loài ngườii nói chung và của xã
hội Châu Âu nói riêng. Tính chủ động thích nghi trong mọi tình huống và
nỗ lực đảm bảo sự ổn định của đời sống ở loài người có nguồn gốc và cũng
là kết quả của một quá trình vận động tự nhiên.
Đặc tính ấy lại là động lực cho sự tiến hóa về mặt nhận thức của loài
người. Nhận thức để sáng tạo và tăng cường nhận thức để sáng tạo hơn nữa
vì thế mà trở thành một quá trình có tính tất yếu. về cơ bản thì quá
trình này chính là nền tảng, hay có thể nói là cốt lõi của quá trình
chuyển hóa xã hội trên mọi mặt kinh tế, văn hóa, chính trị… Sự xuất hiện
và tồn vong của tôn giáo là một khía cạnh phản ánh cái quá trình cốt
lõi, đồng thời cũng là một bộ phận của xã hội và chịu sự chi phôi hoàn
toàn của quá trình chuyển hóa xã hội. Có thể nói sự xuất hiện tín
ngưỡng, tôn giáo là đương nhiên trong buổi đầu của quá trình nhận thức.
Nó có ích cho loài người trong việc xoa dịu về mặt tinh thần trong khốn
khổ đau thương và trước cái chết; đồng thời đóng vai trò như một phản
biện giúp cho nhận thức của loài người ngày một chín chắn hơn. Tuy
nhiên, niềm tin cực đoan của tôn giáo sẽ dần biến nó thành bảo thủ, lạc
hậu và thậm chí là phản động. Ở mức độ nào đó nó có thể làm trì trệ nhận
thức nhưng vì là bộ phận của chuyển biến xã hội nên nó không ngăn cấm
được quá trình tiến hóa xã hội mà trái lại, trong bản thân nó sẽ nảy
sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt và đến một lúc nào đó, nếu nó còn muốn
tồn tại thì phải tìm cách điều chỉnh lại, cải tổ lại cả về mặt tư tưởng
lẫn cơ cấu tổ chức của nó cho phù hợp hơn với tình thế chung của toàn xã
hội trong thời đại mới.
Sự thống trị hà khắc về kinh tế và tư tưởng của tầng lớp quí tộc phong
kiến và tăng lữ giáo hội đã nung nấu ở Châu Âu trung cổ những mâu thuẫn
ngày càng gay gắt và trở nên đối kháng làm nổ ra các cuộc đấu tranh đòi
quyền sống cơ bản cũng như đòi cải biến xã hội một cách toàn diện. Trong
đó, có văn học, nghệ thuật, khoa học, triết học, giáo dục…, trong mọi
tầng lớp dân cư, trong nội bộ các tôn giáo cũng như ở “ngoài đời”. Nếu
xét theo mức độ thắng thế của giáo hội Thiên Chúa giáo trong sự lũng
đoạn của nó đối với đời sống xã hội thì có thể cho rằng đêm trường Trung
Cổ ở Châu Âu bắt đầu từ thế kỷ V đến hết thế kỷ XIV, thậm chí là đến
giữa thế kỷ XVII, tòa án dị giáo vẫn còn tác oai tác quái ở một mức độ
tương đối đáng kể. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh tư tưởng nói ở trên đã bắt
đầu bộc phát thành cao trào trong thế kỷ XIV: Nhìn chung, cao trào đó
gồm hai phong trào bộ phận gọi là phong trào Văn hóa Phục hưng và phong
trào Cải cách Tôn giáo.
Phong trào Văn hóa Phục hưng nổ ra đầu tiên ở nước Ý, sau đó lan rộng ra
toàn Châu Âu với những mức độ khác nhau và hoàn thành vai trò của nó
vào thế kỷ XVI.
Người đi tiên phong trong phong trào Văn hóa Phục hưng
được cho là Đantê (A. Dante, 1265-1321), một đại thi hào và là người
sáng lập ra nền văn học Ý. Ông là người học rộng, nghiên cứu nhiều môn
như thơ, nhạc, họa… Từ năm 25 đến 30 tuổi, ông đi sâu vào nghiên cứu
triết học. Năm 30 tuổi, ông tham gia chính quyền của thành phố Florenxơ
làm nhiệm vụ ngoại giao. Năm 1302, trong một biến cố chính trị, Đantê bị
vu cáo ăn hối lộ một khoản tiền rất lớn, phải chịu án tịch thu tài sản
và bị trục xuất khỏi Phlorenxơ hai năm, sau nâng án thành suốt đời. Đến
10-3-1302, lại bị tòa án dị giáo xử vắng mặt, chịu án thiêu sống trên
giàn hỏa vì đã không nạp tiền phạt như tòa đã tuyên. Từ đó, Dante phải
sống lưu vong ở nhiều thành phố thuộc Bắc và Trung Ý. Đến 1316, chính
quyền Phlorenxơ ra điều kiện nếu ông thừa nhận tội lỗi thì sẽ được trở
về quê hương nhưng ông đã kiên quyết từ chối.
A. Dante, 1265-1321
Sinh | giữa 14 tháng 5 và 13 tháng 6, 1265 Firenze, Ý |
---|---|
Mất | 16 tháng 2, 1321 Ravenna, Ý |
Công việc | Nhà thơ, Nhà thần học |
Quốc gia | người Ý |
Các sáng tác của Đantê phản ánh đầy đủ nhất và nghệ thuật nhất thời trung cổ, đồng thời là sự báo hiệu ra đời của chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng. Tình yêu, nguồn cảm ứng lớn của Đantê, có tính chất lý tưởng, nâng tâm hồn lên toàn thiện, toàn mỹ. Dù các tác phẩm của ông vẫn còn mang nặng ý thức hệ tôn giáo, nhưng đã thấp thoáng những phê phán cái quan niệm hẹp hòi của giáo hội về thiện – ác, đề cao tinh thần tự do trong việc nhận thức thế giới.
Phải nói thành tích rực rỡ nhất mà phong thái Phục Hưng đạt được là ở
lĩnh vực văn học - nghệ thuật. Hàng loạt những tài năng xuất chúng liên
tiếp xuất hiện trong lĩnh vực văn học – nghệ thuật trong thời kỳ Phục
Hưng cùng với những tác phẩm mà họ sáng tạo ra và trở thành những kiệt
tác của nhân loại, đã mãi mãi đi vào bất tử. Chúng ta có thể liệt kê vài
tiêu biểu trong số đó.
Eraxmút (1466-1536), người Rôttécđam của xứ Nêđéclan. Ông được mệnh danh
là “Ông hoàng của chủ nghĩa nhân văn”. Tác phẩm xuất sắc nhất của
Eraxmét là tác phẩm “Tán dương sự điên rồ”. Đây là một tác phẩm trào phúng sâu cay, công kích giới tăng lữ, nhất là Giáo hoàng đã dựa vào sự
ngu xuẩn của loài người mà hoành hành; chỉ bàn cãi những vấn đề rỗng
tuyếch để dạy đời nhưng bản chất lại tham lam, trụy lạc.
Phrăngxoa Rabơle (1494-1553) là nhà văn kiệt xuất nhất thời Phục Hưng ở Pháp. Ông để lại cho đời tác phẩm hài hước bất hủ “Cuộc đời đáng chán của người khổng lồ Gácgăng chuya và người con Păngbagruyen”. Với tác phẩm này, Rabơle đã trở thành cha đẻ của hai nhân vật khôi hài nhất trong lịch sử văn chương thế giới. Trong tác phẩm này, ông đã phê phán xã hội phong kiến rất sâu sắc, chế giễu sâu cay giới tăng lữ dốt nát nhưng bịp bợm, ông ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người và để cao niềm vui sướng của con người khi được sống tự do. Trong tác phẩm này, ông còn “bày vẽ” ra khung cảnh của một kiểu tu viện mới (tu viện Têlem) mà châm ngôn của nó là: “Thích gì làm nấy”. Trong tu viện này, các tu sĩ tha hồ ăn ngủ thỏa thê và làm gì tùy ý, thanh niên nam nữ đến tu hoàn toàn được tự do yêu đương, hưởng mọi lạc thú ở đời.
François Rabelais
Sinh | khoảng năm 1483 - 1494 Chinon, Pháp |
---|---|
Mất | 14 tháng 3 năm 1553 (thọ đâu đó 61 - 70) Paris, Pháp |
Công việc | Nhà văn, nhà vật lý, nhà nhân văn, giáo sĩ |
Quốc tịch | Pháp |
(Còn tiếp)
----------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét