TT&HĐ V - 41/f
Ba định luật của Newton
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG II (XXXXI): KINH ĐIỂN
"Vật
lý thực ra không phải là gì hơn ngoài cuộc tìm kiếm sự đơn giản tối
thượng, nhưng cho tới nay, cái chúng ta có là sự hỗn độn súc tích".
"Việc quan trọng là không ngừng suy nghĩ. Tính tò mò có lý do riêng của nó. Con người sẽ bị lo sợ khi suy ngẫm về các bí ẩn của vô tận, đời sống, về cấu trúc tuyệt vời của thực tế. Nếu người ta mỗi ngày chỉ thấu hiểu một chút về điều bí ẩn này, thì cũng đủ. Hãy đừng bao giờ mất đi sự tò mò thiêng liêng".
Albert Einstein
"Khoa học cho chúng ta tri thức, nhưng chỉ triết học mới có thể cho chúng ta sự thông thái".
“Cứu cánh của khoa học tư biện là chân lý, trong khi, cứu cánh của khoa học thực tiễn là hành động”.
(Tiếp theo)
Nếu bàn luận một cách nghiêm túc và theo lịch sử phương Tây còn lưu
lại thì sự hoài nghi chính thức nổi lên thành một quan niệm triết học
là vào thế kỷ IV TCN ở Hi Lạp cổ đại. Trước đó, lâu hơn nữa, đã từng
xuất hiện không ít nhà triết học có tư tưởng nghi ngờ vào khả năng nhận
thức của loài người về tự nhiên. Người thì cho rằng không thể thấy được
chân xác hiện thực vì nó luôn biến đổi và hơn nữa vì khả năng bị hạn chế
của giác quan, do đó nhận thức chỉ có thể đến một “mức độ hạn định”. Có
người lại cho rằng những hình ảnh mà con người thấy được đều không phải
là những “sự thực tự nó”, đều chỉ là những “hiện thực lừa dối”, cho nên
con người vĩnh viễn không thể nhận thức được thế giới (bất khả tri).
Vào cuối thế kỷ IV, đầu thế kỷ III TCN, quan niệm hoài nghi bộc
phát thành như một thứ chủ nghĩa. Nhiều nhà triết học chủ trương không
nên tin vào bất cứ cái gì trên đời. Tiêu biểu cho trường phái này là hai
thầy trò Pyrrhon (360-272 TCN) và Timon (320-280 TCN).
Quan niệm hoài nghi về nhận thức xuất hiện trong triết học có
nguyên nhân không chỉ do “lỗi” nhận định ở con người mà chủ yếu là do
“lỗi” của Tự Nhiên Tồn Tại, do sự hiện hình đầy “tính ma quái” của nó
trước một chủ thể quan sát “người trần mắt thịt”. Như vậy có thể thấy sự
hoài nghi về nhận thức trong triết học như là một tất yếu và hơn nữa sự
xuất hiện đó không những không có hại mà còn như một xúc tác thúc đẩy
nghiên cứu triết học phát triển.
Vào khoảng 200 năm sau CN, nhà triết học La Mã cổ đại tên là Sextus Empiricus viết tác phẩm “Khái lược về học thuyết của Pyrrhon”. Trong đó
có đoạn:
“Trường phái hoài nghi do hoạt động truy tìm và nghiên cứu nên được
gọi là “trường phái nghiên cứu”, do tâm trạng của những nhà nghiên cứu
sinh ra sau khi nghiên cứu nên được gọi là “trường phái tồn nghi”, do
thói quen hoài nghi và tìm tòi cũng như do thái độ không dứt khoát của
họ về việc khẳng định hay phủ định nên gọi là “trường phái do dự”. Còn
“trường phái Pyrrhon” là trường phái mà chúng ta cho rằng chính ông là
người so với các bậc tiền bối càng hoài nghi triệt để, rõ ràng hơn”.
Pyrrhon sinh ra ở Elis và giảng dạy triết học ở đó. Hình như ông
không viết gì. Những đoạn văn còn lưu truyền được đến ngày nay là do học
trò của ông ghi chép lại. Chúng ta sao chép ra dưới đây để thấy được
triết lý cơ bản của Pyrrhon:
“Vạn vật là một thể thống nhất không thể chia cắt. Do đó, chúng ta
không thể từ cảm giác hoặc từ ý kiến của mình mà cho rằng sự vật là đúng
hay sai. Cho nên chúng ta không nên tin chúng. Chúng ta kiên trì không
chút dao động về việc chúng ta không phát biểu gì hết, không phán đoán
gì hết. Đối với mọi việc chúng ta đều nói: nó vừa là không không tồn tại
vừa là không tồn tại. Hoặc giả nói: nó vừa không tồn tại nhưng lại tồn
tại. Hoặc giả nói: nó vừa không tồn tại, vừa không không tồn tại”.
“Không có một việc gì cố định để giáo huấn cho chúng ta. Bởi vì đối
với bất cứ một mệnh đề nào, chúng ta cũng đều có thể nói ra một lúc hai
mệnh đề ngược nhau”.
“Cái thiện cao nhất là không nên có bất cứ nhận xét gì. Bởi vì có như vậy thì linh hồn mới được yên ổn”.
Tư tưởng hoài nghi của Pyrrhon là biểu hiện triết học Hy Lạp cổ đại
đã lâm vào tình trạng bế tắc, khi trình độ nhận thức của nó chưa kịp
đáp ứng trước những vấn đề về tư duy lý luận mới nảy sinh ra sau thời kỳ
phát triển cực thịnh. Chính vì vậy mà tư tưởng hoài nghi đó cũng là sự
biểu hiện về sự mất niềm tin vào khả năng có thể nhận thức được thế giới
khách quan ở con người. Nó tỏ ra hoàn toàn bi quan, tiêu cực.
Thời đại | Thời kỳ Hậu Aristotle |
---|---|
Lĩnh vực | Triết gia phương Tây |
Trường phái | Chủ nghĩa hoài nghi |
Trái lại, vào thời Đềcác, khoa học đã gặt hái được những thành quả
quan trọng, nhất là nó đã bắt đầu tỏ rõ cái năng lực tiềm tàng trong
việc đi khám phá bản chất của thế giới khách quan và đang chuyển mình để
chuẩn bị cho một bước tiến vĩ đại. Lúc này chính khoa học đã làm cho
triết học hồi phục niềm tin rằng loài người có thể hoàn toàn nhận thức
được thế giới khách quan. Rất nhiều nhà khoa học tin như vậy và chính
Đềcác cũng tin như vậy. Do đó, tư tưởng hoài nghi của Đềcác là có tính
lạc quan, tích cực. Khi nêu ra luận thuyết hoài nghi, mục đích của Đềcác
không phải là để nghi ngờ khả năng của nhận thức, mà là để khẳng định
sự không thể tin cậy các kết quả có được từ cảm năng của giác quan cũng
như từ những suy lý còn “mù mờ” thiếu căn cứ.
Trên cơ sở luận thuyết đó, Đềcác tiếp tục đưa ra luận điểm rằng,
cần phải nghi ngờ tất cả những gì không rõ ràng sáng sủa, chưa qua sự
thẩm định kỹ càng của tư duy lý tính, kể cả các tri thức đã được quá khứ
xác nhận. Ông nói: “Tôi đã nhận ra sự cần thiết phải… xóa bỏ mọi chuyện
và bắt đầu lại ngay từ những nền tảng, nếu tôi muốn xác lập được cái gì
ổn định và lâu bền trong khoa học”. Rõ ràng, luận điểm này đóng vai trò
như là một yêu cầu lớn, một đòi hỏi bắt buộc trong nghiên cứu khoa học
và cũng vì thế mà nó là xuất phát điểm của 4 yêu cầu đã nêu ở trên của
Đềcác.
Nhưng làm thế nào mà Đềcác có thể thẩm tra tất cả những
tri thức mà loài người đã tích tụ được từ thuở đầu tiên cho đến thời
của ông mà đối với ông là chưa thể tin cậy? Trước khối lượng công việc
khổng lồ đến mức bất khả thi như thế, ai mà không lắc đầu ngao ngán!
Đềcác chắc cũng đã thấy rõ tình hình đó nên ông nói: “Để tránh khỏi vấn
đề ấy, tôi tự hỏi: mọi nhận thức của con người là từ đâu đến? Tôi thấy
chỉ có hai nguồn gốc của nhận thức là các giác quan của chúng ta và lý
trí của chúng ta”.
Trước Đềcác khoảng 2000 năm, hiền triết Platon đã cho rằng những
nhận biết có được từ các giác quan là không thực, tuy nhiên ông còn nói:
“Nhưng tôi nghĩ rằng, con người chúng ta vẫn luôn có thể chắc chắn về
toán học, hình học và lôgic học. Nhận thức như thế là nhận thức thuần
túy và tất yếu”. Còn Đềcác thì “đi xa” hơn. Theo ông thì vì nhiều khi
chúng ta vẫn mắc lỗi trong toán học cũng như trong lôgic học cho nên
nhận thức có được từ giác quan cũng như nhận thức có được từ lý trí,
nhưng chưa qua thẩm định của tư duy lý tính thuần túy đều đáng ngờ như
nhau và chân lý đích thực hay có thể gọi là “nhận thức thuần túy” chỉ có
thể xuất hiện trên con đường của tư duy lý tính thuần túy. Vật thì làm
thế nào nhận biết được một nhận thức là thuần túy và một tư duy lý tính
là thuần túy? Phải thẩm tra chúng và do đó chúng cũng bị đặt trong vòng
nghi vấn, cũng đáng ngờ nốt; Thế nhưng thẩm tra chúng bằng cách nào? Đến
đây, bộ não của Đềcác bắt đầu bộ lộ sự “lẩn quẩn xuất chúng" với những
suy tư độc đáo và kỳ lạ của ông, để rồi đi đến một phát hiện cực kỳ bất
ngờ mà theo ông là không thể “chê vào đâu được” về sự đúng đắn: Có thể
nghi ngờ tất cả, song “cái tôi” không bao giờ có thể nghi ngờ được bản
thân nó đang nghi hoặc suy tưởng, vì suy tưởng hoặc nghi ngờ không thể
diễn ra trong khoảng không. Hãy nghe Đềcác lập luận: “Trong khi tôi có
thể cho rằng tôi không có thân thể và thế giới cũng không có nốt… thì
tôi lại không thể cho rằng tôi không tồn tại. Tôi đã nhìn ra điều này từ
sự kiện đơn giản là tôi đang nghi ngờ sự thật của những sự vật khác”.
Từ đó mà có câu nói nổi tiếng, vang vọng đến tận ngày nay: “Tôi tư duy,
vậy tôi tồn tại” (Cogito ergo Sum) và nó được Đềcác coi như một tiên đề
của nhận thức suy lý thuần túy. Cuối cùng, Đềcác đã đề ra một “nguyên
tắc” tư duy để đảm bảo được lý tính thuần túy:
- “Tôi tồn tại” là điều không thể nghi ngờ
- Tôi tri giác một cách rõ ràng và sáng sủa, rằng “Tôi tồn tại” là đúng.
- Vậy, bất cứ điều gì được tôi tri giác một cách rõ ràng và sáng sủa sẽ đều đúng.
Điều “khó chịu” ở đây là một ý tưởng “rõ ràng và sáng sủa” đối với
người này lại chưa chắc là “rõ ràng vá sáng sủa” đối với người khác. Cho
nên, để “chắc ăn”, Đềcác đã phải “dựa” vào Thượng Đế: "Khi Thượng Đế tạo
ra chúng ta, Ngài “đóng dấu” cái ý tưởng bẩm sinh về bản thân Ngài vào
trong đầu óc chúng ta”, mà ngài là một “thực tồn” hoàn hảo cho nên những
ý tưởng “rõ ràng và sáng sủa” đều được Ngài đảm bảo và đều đúng cả.
Các tác phẩm triết học – khoa học của Đềcác vừa ra đời đã nhanh
chóng được phổ biến rộng rãi. Tư tưởng và học thuyết của ông cũng nhờ
thế mà được truyền bá khắp châu Âu tạo nên không khí sôi nổi, hồ hởi
trong giới khoa học, rồi chuyển biến thành như một trào lưu, một trường
phái nghiên cứu khoa học.
Vật lý học ở thế kỷ XVII ngày càng xác lập được nhiều mối quan hệ
chuyển hóa định lượng giữa các yếu tố vật lý cấu thành sự vật - hiện
tượng. Nhiều lập luận khoa học của trường phái Đềcác dẫn đến những kết
quả không kiểm tra được bằng thực nghiệm hoặc mâu thuẫn với thực nghiệm.
Do đó, học thuyết của Đềcác mau chóng trở nên lạc lõng. Xét về phương
diện khác, học thuyết Đềcác dù tồn tại không lâu, nhưng đã đóng trọn vẹn
vai trò của nó trong việc giải phóng khoa học khỏi sự khống chế của
giáo hội La Mã.
Mười ba năm sau khi Đềcác mất, các tác phẩm của ông bị giáo hội La
Mã cấm chỉ. Tuy nhiên hành động đó chỉ còn như là một sự “vuốt đuôi” đối
với khoa học khi nó đã bắt đầu bước vào thời kỳ nhảy vọt, không có thế
lực nào ngăn chặn nổi. Thời thế đã đổi thay!
***
Đến thời Đềcác, ánh sáng được thừa nhận là gồm vô số hạt lan truyền
nối đuôi nhau theo đường thẳng và chỉ theo ba cách có thể: truyền thẳng
nếu không có vật cản, phản xạ hay khúc xạ khi có vật cản. Tuy nhiên,
một giáo viên dạy toán và cũng là tu sĩ dòng tên tên là Grimaldi (1618-1663) trong quá trình thực hiện một thí nghiệm đã phát hiện ánh
sáng còn một cách lan truyền nữa. Ông viết trong chuyên luận của mình:
“Tôi sẽ chứng tỏ với các bạn một phương thức lan truyền thứ tư mà tôi
gọi là nhiễu xạ, bởi vì ánh sáng bị phân tán, ở ngay trong một môi
trường đồng nhất, ở lân cận một vật cản, thành các nhóm tia khác nhau
lan truyền cho theo các hướng khác nhau”. Grimaldi đã đưa ra giả thiết
rằng có khả năng ánh sáng có bản chất sóng và dừng lại ở đó, không phát
triển ý kiến gì thêm.
Chính Huygens (Christiaan Huygens, 1629-1695), nhà toán học, vật lý
học nổi tiếng người Hà Lan đã đề xuất thuyết sóng về ánh sáng trong tác
phẩm “Luận về ánh sáng” của mình. Theo ông, ánh sáng lan truyền trong
không gian cũng như sóng nước khi ném một vật xuống mặt hồ. Phải có một
chất nền đóng vai trò như nước để sóng có thể lan truyền, do đó Huyghens
thừa nhận có một tinh chất huyền bí, không sờ mó được, không thấy được,
lấp đầy không gian, gọi là Ête. Trên cơ sở lý thuyết sóng ánh sáng của
mình, Huyghens đã giải thích được hiện tượng phản xạ, khúc xạ và cả
nhiễu xạ một cách dễ dàng.
Mặc dù đây là một lý thuyết tiến bộ, đầy hứa hẹn về ánh sáng nhưng
lại bị Niutơn, người xây dựng thuyết hạt ánh sáng mà Đềcác đã từng nêu
lên, phản đối lịch liệt. Có thể chính uy tín của Niutơn đã làm cho
thuyết sóng ánh sáng của Huyghens bị bỏ rơi trong một thời gian dài.
Niutơn coi ánh sáng là luồng các hạt có tốc độ lớn và tính chất
truyền thẳng của ánh sáng được ông giải thích như hệ quả chuyển động
quán tính của các hạt sáng. Thuyết hạt ánh sáng của Niutơn cũng giải
thích được tính truyền thẳng, phản xạ và khúc xạ. Tuy nhiên, để giải
thích các tính chất mới phát hiện về ánh sáng, Niutơn buộc phải bổ sung
thêm giả thuyết làm cho thuyết của ông ngày một “cồng kềnh”, phức tạp và
nhiều khi còn thiếu lôgic.
Niutơn (Issac Newton) là thiên tài người Anh, là nhà toán học xuất
chúng và là một trong vài nhà vật lý học được coi là vĩ đại nhất trong
lịch sử nhân loại. Ông sinh ngày 25-12-1642 trong một giai đình trại chủ
nghèo. Niutơn là đứa trẻ bị sinh non, èo uột, tưởng không sống nổi. Năm
lên 7 tuổi, Niutơn bắt đầu đi học ở trường làng. Năm 12 tuổi, Niutơn
được gửi tới trường trung học Grantham. Bắt đầu từ đây, trí thông minh
thiên bẩm của Niutơn bộc lộ.
Do hoàn cảnh gia đình, năm 14 tuổi, Niutơn buộc phải bỏ học, trở về
nhà để phụ giúp việc vườn trại. Dù vậy, niềm say mê khoa học đã làm cho
Niutơn tranh thủ tự học, miệt mài đọc sách. người chủ của Niutơn thấy
vậy đã vận động gia đình cho Niutơn tiếp tục đến trường.
Được trở lại trường, Niutơn đã nỗ lực học tập và đạt thành tích rất
xuất sắc. Năm 18 tuổi, tức năm 1661, Niutơn đã thi đậu vào trường Đại
học Trinity (thuộc về hệ thống học đường Cambridge).
Năm 1663, khi bước vào năm sinh viên thứ ba, Niutơn được giáo sư
Bêrâu (Isac Barow, 1630-1677), nhà toán học giỏi bậc nhất nước Anh hồi
đó, hướng dẫn. Nhờ sự hướng dẫn của vị giáo sự này, chỉ trong vòng 2 năm
cuối, Niutơn đã hoàn toàn nắm vững các kiến thức cơ bản về toán học, cơ
học, quang học, thiên văn học…
Francesco Grimaldi | |
---|---|
|
|
Sinh | 2 tháng 4 năm 1618 Bologna, Ý |
Mất | 28 tháng 12, 1663 (495 tuổi) Bologna, Ý |
Ngành |
|
Alma mater | Đại học Basel |
Nổi tiếng vì |
|
Christiaan Huygens | |
---|---|
Christiaan Huygens
|
|
Sinh | 14 tháng 4, 1629 Den Haag, Hà Lan |
Mất | 8 tháng 7, 1695 (66 tuổi) Den Haag, Hà Lan |
Nơi cư trú | Hà Lan, Pháp |
Ngành | Vật lý và Toán học |
Alma mater | Đại học Leiden Đại học Orange |
Nổi tiếng vì | Đồng hồ quả lắc Nguyên lý Huygens-Fresnel |
Sir Isaac Newton | ||
---|---|---|
Isaac Newton 46 tuổi
Bức vẽ của Godfrey Kneller năm 1689 |
||
Sinh | 4 tháng 1, 1643 [OS: 25 tháng 12 1642] Lincolnshire, Anh |
|
Mất | 31 tháng 3, 1727 (84 tuổi) [OS: 20 March 1727] | Kensington, Luân Đôn, Anh |
Nơi cư trú | Anh | |
Ngành | Tôn giáo Vật lý Toán học Thiên văn học Triết học tự nhiên Giả kim thuật |
|
Nơi công tác | Đại học Cambridge Hội Hoàng gia |
|
Alma mater | Trinity College, Cambridge | |
Nổi tiếng vì | Cơ học Newton Vạn vật hấp dẫn Vi phân Quang học Định lý nhị thức | |
Giải thưởng | FRS (1672) | |
Chữ ký |
Isaac Barrow | |
---|---|
|
|
Sinh | Tháng 10 năm 1630 London, Anh |
Mất | 4 tháng 5, 1677 (46 tuổi) London, Anh |
Ngành | Toán học |
Nơi công tác |
|
Các sinh viên nổi tiếng | Isaac Newton |
Nổi tiếng vì |
|
Sau khi tốt nghiệp đại học, Niutơn được giữ lại trường làm nghiên cứu sinh. Trong thời gian 1665-1666, một nạn dịch hạch đáng sợ lan truyền khắp nước Anh, Trường Đại học Trinity phải tạm thời đóng cửa và Niutơn vì thế mà cũng trở về quê nhà, nương náu ở đó trong 18 tháng. Điều kỳ diện là chỉ trong vòng 18 tháng ở quê nhà đó thôi, chàng trai còn rất trẻ Niutơn đã phác thảo xong một cách cơ bản cái nội dung mang tính cốt lõi của toàn bộ sự nghiệp nghiên cứu khoa học bất tuyệt của mình, cái sự nghiệp mà bộ phận chân lý của nó đã trở thành nền tảng của vật lý học cổ điển nói riêng và vật lý học hiện đại nói chung. Những phát kiến đó là: tìm ra biểu thức khai triển lũy thừa của một tổng thành tổng các lũy thừa một cách tổng quát (nhị thức Niutơn) đề xuất phép toán vi phân tích phân, những phát hiện cơ bản về bản chất ánh sáng, về quang phổ và đặc biệt là đã khám phá ra cái bản chất tư nhiên hút nhau (hấp dẫn) của vạn vật…
Mùa xuân năm 1667, Niutơn trở lại trường Đại học Trinity. Năm sau,
Niutơn được phong học vị thạc sĩ. Năm sau nữa, tức năm 1669, giáo sư
Bêrâu cho rằng tài năng của Niutơn đã vượt mình, nên ông từ chức giáo sư
toán lý, nhường chỗ cho người học trò cũ.
Có thể nói Niutơn là một thiên tài lạ lùng. Ông đã dành trọn tuổi
thanh xuân cho nghiên cứu khoa học và thành công cũng đến với ông từ rất
sớm; Thế nhưng ông lại công bố chúng khá muộn. Miệt mào nghiên cứu, hối
hả thực nghiệm, ghi chép rất nhiều, xong rồi đem cất kỹ, chỉ có một vài
đồng nghiệp gần gũi biết được. Niutơn không cho đăng ngay các công
trình nghiên cứu của mình, nhiều khả năng là do ông thấy chúng còn chưa
hoàn chỉnh, sợ còn sơ hở sẽ gây ra sự công kích, phản bác chống lại thế
giới quan vật lý của ông. Có người còn cho rằng Niutơn hành động như vậy
vì ông có tính đa nghi, mắc chứng hoang tưởng, luôn sợ các đồng nghiệp
ăn cắp thành quả khoa học của mình. Nhận xét của những người đương thời
về Niutơn còn lưu lại được đến nay nhiều khi trái ngược nhau cho thấy
trong tâm hồn ông diễn biến phức tạp với nhiều xung khắc. Chẳng hạn:
“Ông không bao giờ dành thì giờ cho giải trí và dạo chơi. Ông không
quan tâm đến thể thao. Ông xem mọi phút là mất đi, nếu không dành cho
các nghiên cứu khoa học”.
“Ông thường đi giày mòn gót và tóc tai cũng không chải”.
“Là người tự đắc không chịu ai phản đối”.
“Thực ra ông là người tốt bụng, nhưng có tính hoài nghi”.
Ông bà ta bảo: “Có tật, có tài”, hay “nhiều tật, lắm tài”, không
biết có ứng nghiệm trong trường hợp cuộc đời Niutơn hay không? Dù sao
thì nhiều thành kiến không tốt về con người Niutơn là có thực và có lẽ
“không có lửa thì làm sao có khói?”
Năm 1671, Niutơn trở thành hội viên Hội khoa học Hoàng gia Anh (lúc
đó vẫn là một tổ chức có tính tư nhân, nhưng sự hoạt động và uy tín của
nó tương tự như Viện hàn lâm khoa học). Ông được bầu vào Hội hoàng gia
có lẽ là vì những công trình nghiên cứu quang học của mình. Ông đã gửi
lên Hội Hoàng gia một chuyên khảo về vấn đề ánh sáng trên tinh thần lý
thuyết hạt có tựa đề: “Lý luận mới về ánh sáng và màu sắc”. Văn kiện này
được nhà vật lý học Huc (Robert Hooke) trình bày trước Hội đồng Hội
Hoàng gia. Húc là người ủng hộ nhiệt thành thuyết sóng ánh sáng của
Huyghens nên coi bài chuyên khảo như một phát kiến mới, cần nghiên cứu
thêm và hoàn toàn không đồng ý ở phần kết luận. Bài chuyên khảo sau đó
được phố biến, gây chú ý đáng kể trong lĩnh vực khoa học ở châu Âu và
đồng thời làm nổ ra cuộc tranh cãi gay gắt giữa môt bên là Niutơn và một
bên là Huyghens – Húc, kéo dài đến khoảng năm 1675 mới lắng dịu với
phần thắng tạm nghiêng về Niutơn. Dù thế, sự việc này cũng đã gây cho
Niutơn không ít mệt mỏi, chán nản. Ông viết: “Tôi đã bị quấy rầy, hành
hạ quá nhiều với những cuộc tranh luận ồn ào vì lý thuyết về ánh sáng
của tôi. Đó cũng tại sự bất cẩn, từ bỏ sự yên tĩnh của mình để chạy theo
một cái bóng của chính mình”.
Khi đã là hội viên Hội Hoàng gia, Niutơn có cơ hội tiếp xúc với các
nhà khoa học nổi tiếng. Trong số đó có nhiều người, cũng như Niutơn,
quan tâm sâu sắc đến vấn đề chuyển động của các hành tinh cũng như
nguyên nhân gây ra hiện tượng có quy luật đó. Phải nói là từ rất sớm,
vào năm 1661, khi Niutơn chỉ mới bước chân vào trường Đại học Trinity,
thì Hội Hoàng gia Anh đã thành lập một ủy ban chuyên môn để tiến hành
nghiên cứu bản chất của trọng lực. Nhiều nhà khoa học, trong đó có Halây (Edmund Halley, nhà thiên văn học Hội Hoàng gia, 1656-1742), đã thu
được những kết quả nhất định trong nghiên cứu về vận động của các thiên
thể, song chưa đâu vào với đâu. Vài người cũng đã nghĩ tới lực hút của
Mặt Trời đối với các hành tinh có bản chất tỷ lệ nghịch với bình phương
khoảng cách giữa chúng. Halây và Húc đã cố tìm ra bản chất mối quan hệ
giữa lực hút, khoảng cách, quĩ đạo elip của hành tinh để từ đó có thể
thiết lập công thức chứng minh bằng toán học nhưng không thành công.
Robert Hooke | |
---|---|
|
|
Sinh | 18 tháng 7, 1635 Freshwater, đảo Wight, Anh |
Mất | 03 tháng 3, 1703 (67 tuổi) London, Anh |
Cố vấn nghiên cứu | Robert Boyle |
Nổi tiếng vì | Định luật Hooke
Kính hiển vi Gần như luôn luôn bác bỏ các ý kiến về định luật của Isaac Newton |
Cái mà đối với Halây và Húc còn rất mông lung thì Niutơn đã cầm trong tay từ lâu rồi. Tuy nhiên, Niutơn vẫn cảm thấy chưa chắc chắn. Nguyên do là trước đây, khi đem kết quả tính toán so với số liệu quan trắc thực tế, Niutơn thấy chúng không khớp nhau nên ông đành cất kết quả nghiên cứu của mình trong ngăn kéo bàn làm việc, tiếp tục tìm cách hoàn chỉnh nó.
Một lần, trong khi tìm đọc các tài liệu, Niutơn bắt gặp một số liệu
mới về bán kính Trái Đất. Số liệu này là do một nhà khoa học Pháp nêu
ra vào năm 1672 sau khi thực hành đo đạc ở phía bắc Pari và đã từng được
công bố trong Hội Hoàng gia Anh trước ngày Niutơn tìm thấy nó khoảng 10
năm. Dựa vào số liệu mới này, Niutơn lập tức tính toán lại vận tốc quay
quanh Trái Đất của mặt Trăng theo lý thuyết về hấp dẫn trước đây của
mình thì thấy sự phù hợp đáng kinh ngạc giữa kết quả lý thuyết và quan
trắc thực nghiệm. Thì ra, số liệu bán kính Trái Đất mà ông dùng vào việc
kiểm chứng từ 16 năm trước là không chính xác. Đến đây, nguyên nhân của
chuyển động hành tinh đã được khám phá, hiện tượng vạn vật hấp dẫn đã
có thể được nêu lên thành một định luật, được biễu diễn chính xác bằng
toán học và đã được thực nghiệm kiểm chứng. Thế nhưng, Niutơn vẫn chưa
chịu công bố thành quả của mình. Chắc rằng, ông muốn dành thời gian để
xem xét lại một cách cẩn thận, không muốn có bất cứ sơ hở nào trước khi
đưa nó ra công khai.
Năm 1684, có cuộc gặp gỡ của một số hội viên Hội Hoàng gia Anh
(không có Nutơn) nhằm bàn luận về vấn đề lực hấp dẫn. Việc tìm cách xác
định định lượng (nghĩa là bằng công cụ toán học) mối quan hệ giữa lực
hấp dẫn với chuyển động hành tinh, và thông qua đó mà xác định dạng quĩ
đạo của nó vẫn hoàn toàn bế tắc. Haylây, có lẽ nghe phong thanh rằng
Niutơn cũng đang nghiên cứu lĩnh vực này, bèn tìm gặp. Niutơn trả lời
cho Halây biết ông đã giải quyết được bài toán từ lâu. Sau đó vài tháng,
theo lời hứa, Niutơn đã gửi cho Halây những tính toán chi tiết về
chuyển động elip của hành tinh dưới tác động của lực hấp dẫn và diễn
giảng tại trường Đại học Trinity về đề tài “Luận về chuyển động thiên
thể”. Bài diễn giảng đó đã gây tiếng vang lớn trong giới khoa học đường
thời. Được Halây thường xuyên khuyến khích, động viên, Niutơn đã tập
trung viết một cuốn sách về toàn bộ công trình nghiên cứa chuyển động và
lực hấp dẫn của mình. Tác phẩm được hoàn thành thành trong một thời
gian kỷ lục (trong hai năm, từ 1685-1686). Chính Halây đã bỏ tiền ra
xuất bản trong năm 1687. Tác phẩm là một bộ sách gồm 4 tập, có tựa đề
“Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên” (thường gọi tắt là
“Những nguyên lý").
Tác phẩm “Những nguyên lý” là sự đánh dấu bước nhảy vọt về trình độ
nhận thức thế giới khách quan của loài người về mặt vật lý. Trong đó là
sự trình bày đầy đủ những khái niệm, những nguyên lý, những định luật
cốt lõi, cơ bản nhất về chuyển động vạn vật - một dạng biểu hiện chủ yếu
của vận động vật chất trong thế giới vĩ mô và hơn nữa là một trong hai
hình thức vận động Không Gian (tạm gọi là di dời và cảm ứng) làm nên sự
chuyển hóa đa dạng và phong phú đến vô tiền khoáng hậu của Vũ Trụ. Có
thể nói “Những nguyên lý” là kiệt tác sáng tạo của bộ não tư duy khoa
học thiên tài Niutơn, trên cơ sở biết rút kinh nghiệm và đúc kết được
một cách tài tình từ những phát kiến, khám phá, suy tư của các nhà khoa
học tiền bối như Keple, Galilê, Đềcác… Chính Niutơn đã nhận thức được
điều đó, cho nên ông đã để lại cho những thế hệ sau một câu nói chân
thành mà cũng như một lời nhắn nhủ: “Nếu nói tôi nhìn xa hơn một chút so
với Đềcác thì nguyên do là bởi tôi đã đứng được trên vai của những
người khổng lồ!”.
Với “Những nguyên lý”, một nền vật lý mới thực sự ra đời gọi là vật
lý cơ học, với tiêu chí lấy thực nghiệm làm chuẩn mực cuối cùng để xác
nhận chân lý. Đến thế kỷ XVIII, tên tuổi của Niutơn đã vang lừng khắp
châu Âu, uy tín của ông đối với vật lý cao đến nỗi người ta còn gọi vật
lý cơ học là “Cơ học Niutơn”. Các nhà toán học theo chủ nghĩa duy lý ở
thế kỷ này đã đưa cơ học lên thành mẫu mực của mọi khoa học. Nhà toán
học Lagrăngiơ, người tham gia thiết lập hệ thống đo lường trong thời kỳ
cách mạng Pháp, đã ca ngợi Niutơn không tiếc lời: “Niutơn không chỉ là
một bộ óc vĩ đại nhất từ trước đến nay, mà còn là một người may mắn
nhất. Bởi vì chỉ có một thế giới tồn tại, và thế là trong suốt lịch sử
của nhân loại chỉ một người duy nhất tìm ra các định luật của thế giới”.
Trong cuộc đời mình, Niutơn đã đóng vai trò như một nhân vật chính
trong vài sự kiện gây ít nhiều ảnh hưởng xấu tới danh tiếng của ông
trước hậu thế. Một trong những sự kiện ấy là trường hợp tranh cãi quyền
ưu tiên phát minh với Lepnit.
Lépnit (Gottfried Wilhelm Leibniz, 1646-1716) là nhà vật lý học,
toán học danh tiếng, nhà triết học duy tâm khách quan người Đức. Ông là
người độc lập với Niutơn, cũng tìm ra phép tính vi phân – tích phân (vào
năm 1676) và cho xuất bản công trình nghiên cứu toán học đó vào năm
1684. Trong khi Niutơn có thể là người phát hiện ra trước (vào năm 1665)
nhưng ở dạng chưa hoàn chỉnh và có thể cũng vì lý do nào đó khác nữa mà
mãi đến năm 1693, ông mới công bố ấn phẩm với tựa đề “Phép tính vi phân
hệ số”. Thế là một cuộc cãi vã om sòm nổ ra tranh giành tác quyền đối
với phép tính đó.
Joseph Lagrange | |
---|---|
Joseph Louis Lagrange
|
|
Sinh | 25 tháng 1 năm 1736 Torino, Ý |
Mất | 10 tháng 4 năm 1813 Paris, Pháp |
Nơi cư trú | Ý Pháp Phổ |
Tôn giáo | Thiên chúa giáo |
Ngành | Toán học Vật lý học |
Nổi tiếng vì | Cơ học giải tích Cơ học thiên thể Giải tích toán học Lý thuyết số |
Gottfried Wilhelm Leibniz | |
---|---|
Gottfried Wilhelm Leibniz
|
|
Sinh | 1 tháng 7 (21 tháng 6 Old Style) năm 1646 Leipzig, Electorate of Saxony |
Mất | 14 tháng 11, 1716 Hannover, Hannover |
Ngành | Nhà toán học và Triết gia tự nhiên |
Nơi công tác | Đại học Leipzig |
Các sinh viên nổi tiếng | Jacob Bernoulli |
Nổi tiếng vì | Vi tích phân Giải tích |
Mở đầu cuộc cãi vả đó là một bài phê bình của Lepnit, buộc tội Niutơn đã mượn những tư tưởng của ông về phép tính vi phân hệ số. Cuộc cãi vã kéo dài trong nhiều năm. Điều muốn nói ở đây là thái độ và cách ứng xử của Niutơn trong cuộc tranh giành tác quyền với Lepnit. Không biết sự thực đúng đến mức nào, nhưng theo nguyên văn lời của Stephen Hawking trong tác phẩm “Lược sử thời gian” (A brief history of time, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1988), thì:
“… Một điều đáng chú ý là số lớn các bài báo ủng hộ của Niutơn lại
được chính ông viết ra và công bố dưới tên các bạn ông! Khi cuộc cãi vã
có qui mô lớn, Lépnit mắc sai lầm lớn là kêu gọi Hội Hoàng gia giải
quyết. Niutơn vốn là chủ tịch Hội Hoàng gia, đã chỉ định một hội đồng
“không thiên vị” để tra xét vấn đề. Hội đồng này “tình cờ” lại gồm toàn
những người bạn của Niutơn! Song chưa hết, Niutơn đã đệ trình lên hội
đồng một bản báo cáo và Hội Hoàng gia đã công bố bản báo cáo này, trong
đó Niutơn công khai buộc tội Lepnit đánh cắp công trình của mình. Chưa
thỏa mãn, Niutơn còn viết một bài nặc danh điểm lại báo cáo nói trên và
đăng vào tạp chí riêng của Hội Hoàng gia. Sau khi Lépnit chết, người ta
còn kể lại rằng Niutơn đã tuyên bố ông vô cùng thỏa dạ khi “làm vỡ quả
tim của Lepnit”.
Ngày nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề giữa hai người
đó, ai là người có tác quyền về phép tính vi phân tích phân. Tuy nhiên,
người ta thiên về Lépnit vì ông là người công bố trước, đồng thời phương
pháp trình bày của ông cũng dễ hiểu và đầy đủ hơn.
Cũng trong “Lược sử thời gian”, Hawking còn kể một trường hợp ứng xử cay độc nữa của Niutơn, mà nguyên văn là:
“Isaac Newton không phải là một người dễ chịu. Những mối quan hệ
của ông với các học giả khác rất tai tiếng, phần lớn các giai đoạn sau
của cuộc đời ông gắn liền với những tranh luận gay gắt…
Newton mâu thuẫn với nhà thiên văn Hoàng gia là John Flamsteed,
người trước đây đã cung cấp cho Newton nhiều dữ kiện cần thiết cho cuốn
“Principia” (Những nguyên lý), nhưng giờ đây từ chối không cung cấp các
thông tin mà Newton cần. Nhưng đáp lại Newton đã không bó tay, ông tự
bổ nhiệm mình vào Ban giám đốc Đài thiên văn Hoàng gia và tìm cách buộc
phải công bố ngay lập tức các dữ liệu. Ông còn bố trí thu giữ công
trình của Flamsteed và giao cho Edmond Halley, kẻ tử thù của Flamsteed,
chuẩn bị xuất bản công trình đó.
Flamsteed đưa vụ này ra tòa và kịp thời đạt được lệnh tòa án ngăn
không cho xuất bản tài liệu bị đánh cắp. Newton tức giận và trả thù bằng
cách xóa bỏ mọi tài liệu dẫn về Flamsteed trong các lần “Principia”
được tái bản”
Hawking còn kể thêm:
“…Ở cương vị này (tức thống đốc Sở đúc tiền Hoàng Gia – NV), Newton
đã sử dụng tài năng của mình để gian dối và cay độc theo cách dễ được
xã hội chấp nhận hơn. Ông cũng đã thành công trong một chiến dịch lớn
chống làm bạc giả và thậm chí cũng đưa nhiều kẻ lên giá treo cổ”.
Nếu đúng như lời Hawking kể thì con người Niutơn về mặt nhân cách
cũng tệ thật. Thế nhưng một thiên tài khoa học chắc gì đã sáng suốt khi
ứng xử đời thường trong sự dằng xé bởi bản năng thèm khát danh lợi, làm
cho lý trí tưởng mình “rõ ràng và sáng sủa” nhưng thực ra đang bị chìm
đắm trong mê lầm? Ngay trong chúng ta đây, ai không vỗ ngực là hoàn toàn
tỉnh táo chứ không phải đang nữa tỉnh nửa say? Như vậy, xét ở góc độ
này thì về mặt con người, Niutơn vừa đáng trách vừa đáng thương. Đáng
trách là đã gây ra tội lỗi, đã hành động không mã thượng, đáng thương là
ông đã hành động sai trái bởi sự thôi thúc mù quáng của tâm thức, nghĩa
là gần như vô thức có tính bệnh lý. Niutơn đã chưa nhận thức được rằng,
danh tiếng có được là nhờ tài năng nhưng phải thông qua xác nhận của
Đại chúng và Đại chúng bao giờ cũng sáng suốt, sự vĩ đại bao giờ cũng
được xây dựng nên từ những cái tinh hoa và cũng được gìn giữ bằng những
cái tinh hoa chứ không thể bằng những cái tầm thường và thấp hèn, hơn
nữa cái vĩ đại đích thực bao giờ cũng cao thượng, nhã nhặn, khiêm tốn
bởi vì nó hiểu hơn ai hết vì sao nó vĩ đại và vĩ đại thì được gì?
Dù sao thì về mặt nghiên cứu khoa học, Niutơn vẫn là con người vĩ
đại: không thể chối cãi được thành tựu khoa học vĩ đại của ông và cũng
không thể xóa bỏ được công lao vĩ đại của ông đối với nhận thức của nhân
loại.
Năm 1703, Niutơn được bầu làm chủ tịch Hội Hoàng gia, rồi viện sĩ
thông tấn của Viện Hàn lâm Pháp. Năm 1704, ông cho xuất bản tác phẩm
“Quang học”. Bắt đầu từ đây, khả năng sáng tạo khoa học của Niutơn chững
lại. Có thể nguyên nhân sâu xa là trong khoảng năm 1692-1694, do làm
việc quá căng thẳng mà ông bị chứng mất ngủ hành hạ, làm cho suy nhược
thần kinh nặng đến mức không chỉ trong giới khoa học ở nước Anh mà còn ở
nhiều nước khác, có lời đồn rằng ông bị mất trí và phải vào điều trị
trong Viện dưỡng trí. Dù sau đó có hồi phục thì trí não của ông đã không
còn được như xưa nữa.
Những năm về già, Niutơn cố gắng sửa chữa bổ sung tác phẩm “Quang
học” rồi cho tái bản năm 1717. Năm 1722, lúc đã 80 tuổi, Niutơn lại bắt
tay vào việc sửa chữa, bổ sung tác phẩm “Những nguyên lý” cho lần tái
bản thứ ba. Công việc đang gấp rút tiến hành thì ông lâm trọng bệnh vào
đầu năm 1723. Ngày 20-3-1727, Niutơn qua đời tại Kensingtơn do bệnh sỏi
thận và bệnh xung huyết phổi. Thi hài ông được an táng trọng thể tại tu
viện Westminster. Trên bia mộ ông có khắc hai câu thơ của Pope, nhà thơ
Anh đương thời:
“Tự nhiên và các định luật tự nhiên đang chìm trong bóng tối. Thượng Đế truyền: “Sẽ có Niutơn!”, và tất cả bừng sáng!”
Sau này, Anhxtanh, một nhà vật lý học thiên tài khác, sống ở thế kỷ
XX, đã nhận xét: “Niutơn là tổng hòa của nhà thực nghiệm, nhà lý thuyết
và nhà nghệ sĩ. Ông sừng sững trước chúng ta, mạnh mẽ, chắc chắn và cô
đơn. Niềm vui của ông trong sáng tạo và sự chính xác tỉ mỉ của ông hiển
hiện trong mỗi con chữ và mỗi phép tính”.
Bình tâm nhìn nhận lại, chúng ta thấy rằng Niutơn vĩ đại là kết quả
hun đúc về mặt tinh thần thông qua sự tương tác tâm linh của một thời
đại tại thời đoạn mà nỗi bức xúc phải nhận thức sâu hơn nữa về tự nhiên
đã ở cao độ trong khi mọi điều kiện chuẩn bị đã chín muồi. Chính Niutơn
đã từng thổ lộ: “Nếu nói tôi nhìn xa hơn một chút so với Đềcác thì
nguyên do là vì tôi đã được đứng bên vai của những người khổng lồ”.
Không phải ngẫu nhiên mà thời đại chọn nước Anh là xuất phát điểm cho
việc xây dựng hoàn thiện nền tảng của vật lý cơ học - thực nghiệm. Dù
chế độ tư bản xuất hiện đầu tiên trên thế giới là ở Hà Lan nhưng cuộc
cách mạng tư sản ở đó (xảy ra vào thế kỷ XVI) không triệt để. Do đó, về
mặt ý nghĩa, mức độ tác động đối với sự hình thành xã hội tư bản chủ
nghĩa trên thế giới thì phải coi cuộc cách mạng đầu tiên, dẫn đến sự
thắng thế hiển nhiên của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong xã
hội châu Âu nói riêng và của toàn thế giới loài người nói chung. Tiền đề
dẫn đến cuộc cách mạng ấy là quá trình diễn biến đời sống kinh tế –
chính trị - xã hội ở nước Anh trong suốt hơn hai thế kỷ.
Stephen Hawking | |
---|---|
Hawking tại NASA những năm 1980
|
|
Sinh | Stephen William Hawking 8 tháng 1, 1942 Oxford, Oxfordshire, Anh |
Nơi cư trú | Anh |
Ngành | |
Nổi tiếng vì |
|
Giải thưởng |
|
Chữ ký |
|
Vợ/chồng |
|
Con cái |
|
Website | |
hawking |
Albert Einstein | |
---|---|
Albert Einstein năm 1921
|
|
Sinh | 14 tháng 3, 1879 Ulm, Vương quốc Württemberg, Đế chế Đức |
Mất | 18 tháng 4, 1955 (76 tuổi) Princeton, New Jersey, Hoa Kỳ |
Nơi cư trú | Đức, Ý, Thụy Sĩ, Áo, Bỉ, Anh, Hoa Kỳ |
Quốc tịch |
|
Sắc tộc | Do Thái |
Ngành | Vật lý học,Triết học |
Nơi công tác |
|
Nổi tiếng vì | |
Giải thưởng |
|
Chữ ký |
|
Điều kiện tiên quyết của sự xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong công nghiệp là phải xóa bỏ chế độ nông nô. Theo C.Mác viết trong tác phẩm “Tư bản” của ông thì: “Vào cuối thế kỷ XIV, chế độ nông nô ở Anh đã thực sự không còn nữa. Bất giờ tuyệt đại đa số dân cư (và trong thế kỷ XV thì lại càng nhiều hơn) là những nông dân tự do, có kinh tế độc lập, mặc dù quyền sở hữu của họ có thể bị che đậy dưới những chiêu bào phong kiến nào chăng nữa”.
Bên cạnh đó sự phát triển của trình độ của nền kinh tế hàng hóa
trong xã hội càng làm xuất hiện hình thái sản xuất hàng hóa mới, có tính
tập trung cao, đó là công trường thủ công. Có thể nói công trường thủ
công là hình thức sản xuất mang tính chất tư bản chủ nghĩa đầu tiên
trong lĩnh vực công nghiệp. Sự xuất hiện công trường thủ công như một
thực trạng xã hội là vào đầu thế kỷ XV và trở thành phổ biến ở Tây Ây
vào thế kỷ XVI.
Từ thế kỷ XVI, các ngành công nghiệp ở Anh phát triển mạnh. Sự phát
triển của ngoại thương đã thúc đẩy nhanh các ngành công nghiệp, thương
nghiệp, hàng hải… đến sự phát đạt chưa từng có, tạo nên những yếu tố
cách mạng trong lòng xã hội phong kiến Anh đang tan rã. Tình hình đó tất
yếu làm xảy ra cuộc đấu tranh đi đời tự do tư tưởng, tự do sản xuất
kinh doanh của lực lượng tư sản non trẻ đang vững bước đi lên đối với
lực lượng phong kiến già cỗi đang suy tàn và lực lượng nhà thờ đang
hoang mang với những giáo điều bảo thủ, lạc hậu của nó. Dù rằng cuộc đấu
tranh ấy là không khoan nhượng nhưng do thực trạng và tình thế xã hội
Anh nói riêng và cả Châu Âu nói chung trong giai đoạn đầu phát triển của
chủ nghĩa tư bản, nó mang màu sắc đấu tranh tôn giáo. Điều đó không lạ,
bởi vì khi đạo Thiên Chúa vẫn còn thống trị châu Âu về mặt tư tưởng thì
cuộc đấu tranh tư tưởng nào cũng phải xảy ra trong lòng nó và biểu hiện
ra thành cuộc đấu đá, thanh trừng nội bộ. Cuộc đấu tranh giữa Anh giáo
và Thanh giáo ở nước Anh chính là cuộc đấu tranh tư tưởng giữa tầng lớp
tư sản với thế lực phong kiến – nhà thờ bảo thủ. Đó cũng là bước đi dạo
đầu tất yếu và cần thiết để chuẩn bị cho tầng lớp tư sản và quí tộc mới
(có tư tưởng tiến bộ) công khai xuất hiện trên vũ đài chính trị, làm
cuộc cách mạng long trời lở đất và đi đến thắng lợi.
Thế nhưng Anh giáo và Thanh giáo là thuộc tôn giáo nào?
Theo ghi chép, lịch sử thì vào cuối thế kỷ XI, giáo hội Thiên Chúa
đã đạt đến đỉnh cao ngất ngưởng về thế lực. Nhờ thế mà lúc đó, giáo hoàng Grêgôriut VII (lãnh đạo giáo hội trong khoảng 1073-1085) đã ngang
nhiên nêu ra nguyên tắc: giáo hội La Mã do Chúa trời sáng lập nên tuyệt
đối không có sai lầm, quyền uy của giáo hoàng bao trùm cả thế giới, vị
trí của giáo hoàng cao hơn chính quyền của các vua và có quyền phế truất
các vua.
Với một quyền uy thống trị cực mạnh, độc đoán hơn cả phong kiến,
chuyên chế hơn cả vua như vậy nên của cải và ruộng đất nhờ cống nạp và
chiếm đoạt mà sở hữu được của giáo hội Thiên Chúa giáo là nhiều không
thể kể siết. Trên núi danh lợi “bỗng dưng” mà có ấy, giáo hội thỏa sức
đi xây nhiều nhà thờ đồ sộ, nguy nga và tráng lệ. Đồng thời các giáo sĩ,
nhất là các giáo sĩ cấp cao tha hồ mà hưởng giàu sang phú quí, thậm chí
là chà đạp cả giáo luật để phè phỡn, ăn chơi thác loạn. Tình hình đó,
cũng như sự chuyển biến theo xu thế tất yếu của xã hội châu Âu, đã dẫn
đến phong trào đòi cải cách tôn giáo, bắt đầu được nhen nhúm từ thế kỷ
XIV và chính thức diễn ra ở chủ yếu ba nơi là Đức, Thụy Sĩ và Anh mà
thực chất là cuộc đấu tranh đòi tự do của trào lưu các tư tưởng tiến bộ
trước thành trì tư tưởng phong kiến – nhà thờ đã trở nên lạc hậu, suy
đồi, xen lẫn với những đấu đá nội bộ vì những quyền lợi vị kỷ, hẹp hòi.
Đầu thế kỷ XVI, những đặc quyền đặc lợi của giáo hội Thiên Chúa đã
trở thành một chướng ngại to lớn ngăn cản sự phát triển của nền sản xuất
tiền tư bản chủ nghĩa ở Anh. Tầng lớp quí tộc rất thèm muốn đất đai của
giáo hội, tầng lớp tư sản công nghiệp thì muốn có một giáo hội có cơ
cấu tổ chức tối giản, “rẻ tiền” để đỡ tốn kém, để được giảm mức cống nạp
cho Tòa thánh La Mã. Một sự kiện đã được lợi dụng để làm cái cớ tấn
công giáo hội La Mã là vua Anh, Henri VIII (1509-1547) muốn ly hôn vợ là
Catơrin, công chúa Tây Ban Nha nhưng Giáo hoàng không đồng ý.
Clêmentê VII | |
---|---|
Tựu nhiệm | 19 tháng 11 năm 1523 |
Bãi nhiệm | 25 tháng 9 năm 1534 |
Tiền nhiệm | Adrian VI |
Kế nhiệm | Paul III |
Thông tin cá nhân | |
Tên khai sinh | Giulio di Giuliano de' Medici |
Sinh | 26 tháng 5, 1478 Firenze, Cộng hòa Florence |
Mất | 25 tháng 9, 1534 (56 tuổi) Rome, Lãnh thổ Giáo hoàng |
Thành Vatican | |
---|---|
Di sản thế giới UNESCO | |
Quốc gia | Vatican |
Kiểu | Văn hoá |
Hạng mục | i, ii, iv, vi |
Tham khảo | 286 |
Vùng UNESCO | Châu Âu |
Lịch sử công nhận | |
Công nhận | 1984 (kì thứ 8) |
Henry VIII (28 tháng 6 năm 1491 - 28 tháng 1 năm 1547) là vua của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi ông qua đời. Henry là vị vua thứ hai của Tudor , kế nhiệm cha ông, Henry VII .
Henry nổi tiếng với sáu cuộc hôn nhân của mình , và đặc biệt, những nỗ
lực của ông để có cuộc hôn nhân đầu tiên, với Catherine của Aragon , đã
hủy bỏ.
Sự không đồng ý của ông đối với Đức Giáo hoàng về vấn đề hủy bỏ như vậy
đã dẫn Henry thành lập Phong trào cải cách Anh Quốc , tách Giáo Hội Anh
ra khỏi thẩm quyền của Giáo hoàng và tự bổ nhiệm mình làm Thủ lãnh Tối
cao của Giáo hội Anh . Mặc dù kết quả của ông bị truy tố , Henry vẫn là một tín đồ trong các giáo lý thần học cơ bản của Công giáo. |
Dựa vào sự ủng hộ và khuyến khích của các tầng lớp xã hội có thế lực ở Anh, năm 1534, Henri VIII ra “sắc luật về quyền tối cao”, qua đó ông tự cho phép mình có quyền được ly hôn mà không cần sự chấp thuận của Giáo hoàng. Tiếp đó Henri VIII tuyên bố cắt đứt quan hệ về mặt tôn giáo với giáo hội La Mã, thành lập giáo hội riêng của nước Anh do chính ông đứng đầu, gọi là Anh giáo. Giáo lý, nghi lễ và các giáo phẩm của Anh giáo vẫn không khác đạo Thiên Chúa, chỉ khác là các hàng giáo chức đều do vua Anh bổ nhiệm. Toàn bộ tài sản và ruộng đất của giáo hội La Mã trước đây đều bị tịch thu. Tuy nhiên, những biện pháp cải cách tôn giáo vừa nửa vời, vừa vị kỷ của Henri VIII vẫn chưa làm cho tầng lớp tư sản thỏa mãn.
Nước Đức được thành lập vào năm 843 sau hiệp ước Vecđoong. Từ rất
sớm đã có sự câu kết chặt chẽ giữa tầng lớp thống trị phong kiến Đức và
giáo hội La Mã. Ngay từ thế kỷ X, vua Đức đã được Giáo hoàng gọi là
Hoàng đế La Mã để chứng tỏ sự thừa nhận của giáo hội rằng vua Đức là
người thừa kế các Hoàng đế của Đế quốc La Mã xưa kia và vì thế mà đến
thế kỷ XII, nước Đức còn được gọi là “Đế quốc La Mã thần thánh”.
So với thế kỷ XI thì ở thế kỷ XII, quyền lực của giáo hội La Mã có
thể là còn lớn hơn nữa. Rập khuôn luận điệu của giáo hoàng Grêgôriút
VII, Giáo hoàng Inôxentô III cũng nói: “Giáo hoàng là đại diện cho
Thượng Đế trên Trái Đất, không những là chủ của tăng lữ mà cũng là thủ
lĩnh của hoàng đế nữa”. Chính vì vậy mà có thể hiểu được sự tha hồ hoàng
hành khắp Tây Âu suốt một thời gian dài của giáo hội Thiên Chúa và đặc
biệt mạnh nhất là ở nước Đức. Nhà triết học duy vật kiệt xuất thời cận
đại, Ăngghen, trong tác phẩm: “Cách mạng dân chủ tư sản ở Đức” đã nhận
xét: “Nhờ có uy quyền và số lượng đông của các giáo sĩ, nên những thuế
má của giáo hội đã thu được đều đặn và chặt chẽ ở Đức hơn bất cứ một
nước nào khác”. Tình hình đó khiến cho những phản ứng của các tầng lớp
nhân dân Đức đối với giáo hội cũng mạnh mẽ nhất Tây Âu, để rồi tất yếu
dẫn đến phong trào đấu tranh vũ trang của nông dân Đức, được đánh giá là
cuộc chiến tranh nông dân vĩ đại và chưa từng có trong lịch sử châu Âu
thời phong kiến.
Thời đại | Triết gia thế kỷ 19 |
---|---|
Lĩnh vực | Triết học phương Tây |
Trường phái | Chủ nghĩa Marx |
Sở thích | Triết học, Chính trị, Kinh tế, Đấu tranh giai cấp |
Ý tưởng nổi trội | Đồng sáng lập chủ nghĩa Marx, Có nhiều tư tưởng cách mạng về chủ nghĩa cộng sản |
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------------
-------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét