TT&HĐ V - 40/f
Đạo thiên chúa là sản phẩm ăn cắp của Huyền thoại Ai cập
8 Bí Ẩn Của Thiên Chúa Giáo Khoa Học Chưa Thể Giải Thích
Lịch sử tội ác giáo hội Công giáo La Mã
(Tiếp theo)
Đặc tính cơ bản của chế độ chiếm hữu nô lệ là vì được hình thành sau
những cuộc bành trướng lãnh thổ bằng con đường viễn chinh xâm lược nên
ngay từ đầu nó đã phân tầng giai cấp triệt để giữa nô lệ mất hết quyền
lợi và chủ nô đặc quyền đặc lợi, giữa bị trị bắt buộc và thống trị công
khai. Tình hình đó làm cho mâu thuẫn xã hội có tính đối kháng gay gắt và
đến một trạng thái nung nấu nào đó của sự vận động, chuyển hóa xã hội,
nội chiến xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Từ thế kỷ II TCN đến thế
kỷ I TCN, trên lãnh thổ của đế quốc La Mã đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh
khởi nghĩa của nô lệ, từ hình thức giản đơn, tự phát phá hoại công cụ
sản xuất, phá hoại mùa màng đến những cuộc khởi nghĩa vũ trang qui mô
lớn làm lao đao tầng lớp thống trị. Có thể kể ra hai cuộc khởi nghĩa nô
lệ làm tiêu biểu.
Năm 136 TCN, tại thành Enna trên đảo Xixin, do sự đối xử tàn bạo của chủ
nô tên là Đômôphilốt mà nô lệ nổi dậy khởi nghĩa. Từ Enna, phong trào
nổi dậy đấu tranh vũ trang của những người nô lệ nhanh chóng lan sang
các vùng khác. Ở Agrigiăngtơ, thành phố phía tây – nam đảo Xixin, quân
khởi nghĩa do Clêông lãnh đạo gồm khoảng 5000 người, sau khi làm chủ
vùng này đã gia nhập với quân khởi nghĩa ở Enna, hợp thành một lực lượng
mạnh mẽ, đánh bại đội quân 8000 người của nhà nước La Mã hoàn toàn làm
chủ Xixin trong suốt 5 năm trời. Năm 132 TCN, nhà nước La Mã điều động
một đội quân đông đảo do quan chấp chính Rapiliuxơ chỉ huy tấn công
Xixin. Nghĩa quân đã anh dũng chống cự nhưng dần thất thế, phải rút vào
cố thủ trong các thành Tôrômênium và Enna. Tuy nhiên, do bị quân La Mã
vây hãm lâu ngày, lương thực thiếu thốn và lực lượng ngày một suy giảm
nên hai thành đó lần lượt thất thủ. Clêông chết trong chiến đấu. Cuộc
khởi nghĩa bị dìm trong biển máu với khoảng 20.000 nô lệ bị quân La Mã
thảm sát mang tính trả thù hèn hạ.
Nhưng cuộc khởi nghĩa lớn nhất, tiêu biểu nhất của những người nô lệ
thời cổ đại chính là cuộc khởi nghĩa do Xpáctacút lãnh đạo (73-71 TCN).
Spartacus by Denis Foyatier, 1830
Spartacus by Denis Foyatier, 1830
Cuộc khởi nghĩa này bắt đầu từ những nô lệ làm đấu sĩ (Glađiato) ở đấu
trường Batiata thuộc thành phố Capu (Italia). Nô lệ đấu sĩ là những
người đàn ông khỏe mạnh được chọn lựa từ hàng ngũ nô lệ, được cho rèn
luyện võ nghệ tay không cũng như binh khí để phải ra đấu thí chí mạng ở
các đấu trường mua vui cho các tầng lớp khá giả. Tại các đấu trường,
không có trận đấu nào không có nô lệ đấu sĩ bị giết hại bởi mãnh thú
hoặc bởi ngay chính đồng loại. Vì vậy, cuộc sống của các nô lệ đấu sĩ
luôn căng thẳng và cũng thật vô vọng.
Năm 75 TCN, 200 đấu sĩ ở đấu trường Batiata âm mưu bỏ trốn nhưng vì kế
hoạch bị lộ nên chỉ có 80 người thoát được, ở ẩn náu trên núi Vêduvơ,
phía Nam Capu. Xpáctacút là người xứ Tơraxơ (Hi Lạp), trước đây từng
đứng trong hàng ngũ quân Hi Lạp chống lại La Mã, bị bắt làm tù binh và
trở thành nô lệ đấu sĩ. Ông là người bản lĩnh, thông minh, kiên quyết,
biết tổ chức và có tài chỉ huy quân sự. Dưới sự chỉ huy của Xpáctacút,
từ lực lượng nổi dậy ban đầu nhỏ nhoi ấy đã bùng phát lên nhanh chóng
thành một cuộc khởi nghĩa to lớn. Nô lệ ở khắp Italia theo về ngày một
đông, lực lượng nghĩa quân vì thế mà lên đến 70.000 người. Hầu hết vùng
Nam Italia thuộc quyền kiểm soát của quân khởi nghĩa. Nhà nước La Mã đã
đem quân tới đánh dẹp nhưng phải chịu thất bại.
Vào lúc cuộc khởi nghĩa nổ ra, đế quốc La Mã vẫn còn hùng mạnh. Lực
lượng khởi nghĩa dù đông đảo thì cũng khó lòng địch nổi những đạo quân
La Mã thiện chiến và được trang bị đầy đủ nếu ở lại miền Nam Italia.
Thấy rõ điều đó, Xpáctacút đã vạch ra kế hoạch là hành quân lên phía
bắc, vượt qua dãy Anpơ trở về quê hương Hi Lạp của ông để tiếp tục xây
dựng lực lượng chiến đấu lâu dài. Thế nhưng trong nội bộ ban lãnh đạo
cuộc khởi nghĩa đã có sự bất đồng ý kiến. Một bộ phận nghĩa quân chủ yếu
là dân nghèo Italia muốn ở lại chiến đấu với quân La Mã trên quê hương
họ. Thế là 20.000 quân khởi nghĩa cùng phó tướng Crikxuxơ tách ra thành
một đội riêng. Đội quân khởi nghĩa này bị quân La Mã do quan chấp chính
Hêliuxơ chỉ huy đánh tan, Crikxuxơ tử trận. Đạo quân còn lại do
Xpáctacút chỉ huy vẫn tiếp tục phát triển lực lượng, quân số đạt tới
120.000 người. Lúc đầu, theo kế hoạch, Xpáctacút dẫn quân của mình tiến
về phía bắc. Đến đó ông lại thay đổi kế hoạch, kéo quân ngược trở về
hướng nam. Các nhà phân tích quân sự cho đến nay vẫn chưa hiểu rõ vì sao
Xpáctacút lại thay đổi kế hoạch như vậy. Dù sao thì sự tồn tại của đạo
quân khởi nghĩa mạnh mẽ đó đã gây ra sự lo lắng thực sự sâu sắc đối với
chính quyền La Mã. Viện Nguyên Lão đã cử Crixiuxơ chỉ huy 10 quân đoàn
tinh nhuệ đi đánh dẹp lực lượng khởi nghĩa nhưng không thu được kết quả.
Kinh sợ, Viện Nguyên Lão phải vội triệu hồi cả Pompêiuxơ đang ở Tây Ban
Nha và Luculuxơ đang làm thống đốc Makêđônia về tiếp ứng.
Quân khởi nghĩa tiến xuống mỏm Brutium ở Nam Italia, định vượt biển sang
Xixin, nhưng do sự phản bội của bọn cướp biển, thuyền không có, nên kế
hoạch của Xpáctacút không thành. Trong khi đó, đại quân của Craxinxơ vẫn
đuổi gấp phía sau. Craxiuxơ triển khai chặn hết các đường rút quân của
Xpáctacút rồi dồn quân khởi nghĩa xuống cực nam của bán đảo. Đến đây,
quân La Mã nhanh chóng đào một hào rộng, đắp chiến lũy, lập một phòng
tuyến dài 55 km cắt ngang vùng Bratium. Quân khởi nghĩa đã hoàn toàn lâm
vào thế hiểm nghèo, bị bao vây bởi một phía là biển cả, một phía là lực
lượng quân La Mã hùng hậu. Mặt khác, nội bộ quân khởi nghĩa lại bị chia
rẽ, một số không đồng ý rút sang Hi Lạp, đã tách thành những đoàn quân
nhỏ.
Mùa xuân năm 71 TCN, xảy ra trận kịch chiến giữa quân La Mã do Craxinxơ
chỉ huy và quân khởi nghĩa do Xpáctacút chỉ huy, với kết cục thảm bại
thuộc về những người nô lệ bất khuất. Hầu như toàn bộ lực lượng quân
khởi nghĩa tham gia trận đánh đều bị giết chết. Bản thân Xpáctacút cũng
hy sinh (nhưng sau này không ai tìm thấy xác của ông). Còn lại khoảng
6000 người bị bắt thì đều bị quân La Mã câu rút trên những cây gỗ có
hình thập giá trồng dọc theo con đường từ Capu đến Rôma.
Tuy nhiên, phong trào khởi nghĩa chưa tắt hẳn, mãi tới năm 62 TCN,
Côtaviuxơ mới tiêu diệt được bộ phận cuối cùng của những người theo
Xpáctacút.
Sự thất bại của Spatacus
Sự thất bại của Spatacus
Có nguốn gốc từ sự bành trướng lãnh thổ bằng cách gây ra các cuộc chiến
tranh xâm lược tàn bạo cho nên chế độ chiếm hữu nô lệ ở đế quốc La Mã
mang đầy trong lòng nó biết bao nhiêu đau thương khốn khổ do nhân phẩm
và quyền sống cơ bản bị chà đạp nghiêm trọng bởi lối cai trị độc đoán,
chuyên quyền thô bạo và tàn nhẫn của giai cấp thống trị gây ra.
Bên cạnh cái mâu thuẫn đối kháng không dung hòa được giữa giai cấp thống
trị và giai cấp bị trị, còn một mâu thuẫn nữa cũng mang tính tất yếu,
cũng rất gay gắt và bản thân nó cũng góp phần quan trọng làm tăng thêm
sự đau thương thống khổ của quần chúng lao động và nô lệ, đó là mâu
thuẫn trong nội bộ giai tầng thống trị của chế độ chiếm hữu nô lệ man
dại, nảy sinh ra từ sự thèm khát danh lợi đến mù quáng của con người.
Chính mâu thuẫn này đã là nguyên nhân gây ra thường xuyên sự phân chia
phe phái, đấu đá chém giết lẫn nhau một cách khốc liệt để tranh giành
quyền lợi giữa các quí tộc, chủ nô, cũng như giữa những kẻ có địa vị
trong bộ máy cai trị đế quốc.
Sau khi cuộc khởi nghĩa nô lệ do Spáctacút lãnh đạo bị đàn áp đẫm máu
thì tầng lớp lao động cùng khổ trong cái đế quốc mênh mông ấy có lẽ cũng
mất luôn hy vọng vào một cơ hội đổi đời, nhất là trong bối cảnh đế quốc
La Mã đang ở giai đoạn hùng mạnh với bộ máy cai trị mạnh mẽ, sẵn sàng
ra tay đàn áp khốc liệt của nó thì đối với họ là hoàn toàn vô vọng về
một tương lai tương sáng. Tư tưởng bi quan, chán nản bao trùm lên xã hội
của tầng lớp hạ lưu. Trong tình hình đó, các nhà tư tưởng của tầng lớp
ấy đã suy tư nhằm lý giải hoàn cảnh xã hội tương phản sâu sắc giữa giàu
và nghèo, giữa hạnh phúc và khổ đau đó, để tìm đến một sự giải thoát,
một cứu cánh nào đó khả dĩ nhằm xoa dịu những đau thương, nhằm an ủi tâm
hồn con người. Đó chính là những bước đầu tiên về sự ra đời của đạo Kitô. Có thể
nói đạo Kitô nảy mầm trong nỗi tuyệt vọng của con người, hay như Sáclơ
Engsen, nhà sử học Pháp đã nói một cách chí lý: “Chúa Kitô đã thắng vì
Spáctacút đã thua”.
Triết học Hi Lạp cổ đại đã đạt đến đỉnh cao nhất đối với trình độ nhận
thức đương thời của con người về Tự Nhiên. Muốn tiếp tục phát triển lên
nữa thì triết học buộc phải chờ đợi khoa học khám phá, phát kiến thêm
những điều mới mẻ có khả năng mở rộng tầm quan sát trong thực tại khách
quan hơn nữa làm cơ sở cho suy tư triết học. Chính vì vậy mà sau thời Hi
Lạp cổ đại, triết học phương Tây và cả phương Đông trở nên bế tắc, quẩn
quanh với câu hỏi có Thượng Đế hay không có Thượng Đế, để câu trả lời
cuối cùng thường qui về là có Thượng Đế, vì nếu không có Thượng Đế thì
vấp phải hàng loạt những câu hỏi khó trả lời hơn là có Thượng Đế và thậm
chí là không thể trả lời được.
Sự bế tắc triết học đó và hoàn cảnh xã hội La Mã cổ đại đã sản sinh ra
tư tưởng triết học duy tâm khắc kỷ mà hai đại diện nổi tiếng của nó là
Sênếch (4 - 65) ở La Mã và Phulông (25 TCN - 50), người gốc Do Thái ở Hi
Lạp. Theo Sênếch thì cuộc đời ở trần thế là giả dối, thân xác của con
người chỉ là gánh nặng của tâm hồn, hạnh phúc và bình đẳng chỉ có được ở
thế giới bên kia. Do đó ông khuyên mọi người không những nên từ bỏ lạc
thú ở đời, sống thanh đạm và đạo đức, mà còn nên tin vào sự an bài của
Thượng Đế, phục tùng theo số mệnh. Phulông thì cho rằng sự suy đồi về
đạo đức và những tệ nạn xã hội đều do con người gây ra. Vì thế, ông chủ
trương con người phải sống nhẫn nhục, không ngừng sám hối và hãy tin
tưởng chờ đợi sự xuất hiện của một Đấng Cứu Thế (là trung gian giữa con
người và Thượng Đế). Theo Ph. Anghen đánh giá thì Sênếch là “người chú”
và Phulông là “người cha” của đạo Kitô. Tư tưởng duy tâm khắc kỷ chính
là nền tảng tư tưởng của đạo Kitô.
Cái chết của Seneca (tranh vẽ năm 1684)
Cái chết của Seneca (tranh vẽ năm 1684)
Trên nền tảng tư tưởng ấy, giáo lý của đạo Kitô còn được xây dựng nên từ
việc tiếp thu, kết hợp yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán
của các dân tộc vùng Địa Trung hải, nhưng chủ yếu là dựa vào Thánh kinh
của người Do Thái.
Theo cuốn “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” (tác giả Huỳnh Công Bá, NXB Thuận
Hóa - 2007), khoảng hơn 1000 năm TCN, quốc gia Do Thái được thành lập
theo chế độ quân chủ - chủ nô với vị vua anh hùng có tên là Đavit. Quốc
gia này cũng nhiều lần hưng thịnh và suy vong. Đặc biệt, đến thế kỷ VI
TCN, Do Thái bị nhiều nước tấn công, xâu xé. Mỗi lần bị xâm lăng như
thế, người Do Thái lại phải lưu vong, hoặc trở thành nô lệ cho kẻ chiến
thắng. Trong quá trình lưu vong, người Do Thái khôn nguôi nhớ về Tổ quốc
và quá khứ oai hùng của dân tộc mình. Những nhà trí thức Do Thái lưu
vong đã viết lại lịch sử của dân tộc dưới dạng thần thoại với một tinh
thần tự hào về quá khứ và hy vọng ở tương lai. Cuốn sách đó sau này trở
thành Kinh Thánh của người Do Thái.
Đạo Kitô đã lấy Kinh Thánh của đạo
Do Thái làm cơ sở cho việc xây dựng giáo lý của mình và gọi là Kinh Cựu
Ước để phân biệt với Kinh Tân Ước viết về quá trình cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Giêsu (Jésus Crist, được cho là sinh ra vào đúng năm đầu tiên của Công
Nguyên - 1 - nhưng thực ra là sinh trước đó 5 năm) chính là người đã
sáng lập ra đạo Kitô (Cristos, nghĩa là Đấng Cứu Thế). Theo truyền
thuyết thì Giêsu là con của Đức Chúa Trời, đầu thai vào người con gái
đồng trinh là bà Maria và được sinh ra tại Bétlêem vùng Palextin - một
tỉnh của đế quốc La Mã. Chúa Giêsu là người rất thông minh. Lúc đầu, ông
theo học các tu sĩ đạo Do Thái, sau đó rời bỏ họ. Năm 30 tuổi, ông tự
nhận mình là thiên sứ, bắt đầu truyền giáo ở Giêrusalem đồng thời cũng
làm việc chữa bệnh cứu người. Đạo của ông dạy mọi người phải lấy sự yêu
mến tôn kính Đức Chúa Trời làm gốc, phải coi nhau như anh em một nhà,
mọi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa. Ông khuyên mọi người phải nhẫn
nhục chịu đựng mọi đau khổ ở đời, sau khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc
vĩnh viễn nơi Thiên Đường. Ông lên án sự tàn ác của chính quyền La Mã,
kêu gọi hòa bình và dự báo ngày diệt vong của đế quốc La Mã. Ông cũng đả
phá sự giàu có và phán rằng người giàu mà lên được Thiên Đường cũng khó
như lạc đà chui qua lỗ kim.
Giáo lý của Giêsu đã trở thành niềm an ủi và hy vọng đối với tầng lớp bị
áp bức bóc lột nên người nghèo và nô lệ đã hưởng ứng ngày càng đông
đảo. Tuy nhiên, thời gian truyền giáo của ông rất ngắn ngủi. Sau ba năm
truyền đạo, ông bị giai cấp quí tộc chủ nô ở La Mã cho là kẻ gieo rắc tư
tưởng phản loạn, tập hợp quần chúng chống đối, và đã kết tội ông. Mùa
xuân năm 29, do có kẻ phản bội, Giêsu bị bắt và bị hành hình “đóng đinh
câu rút” trên cột gỗ hình thập giá.
Nếu chỉ được kể như thế: thợ mộc, bị đóng đinh tử hình, chết trẻ, ....thì Giêsu của chúng ta không khác gì hai tên trộm bị xử tử vì hình sự trên đồi Gôngôta. Nếu vậy thì không có gì để phải nói, và cũng không có gì để đáng nói.
Từ Mồ chôn bít kín đến nổ tung Phục Sinh!
"Chúa Giêsu Kitô của người công giáo chúng ta thật quá lạ lùng!
Người ta có thể mạt sát Ngài đủ cách, khi công khai dữ tợn, khi thầm lén xảo quyệt, nhưng, quên Ngài đi, chối Ngài hẳn, diệt Ngài tiêu, thì không một ai trên trần gian nầy đủ sức làm được việc nầy, không một quyền lực nào trong nhân loại có thể thi hành nổi công tác nầy, vì Chúa Giêsu Kitô của chúng ta đã phục sinh, đã sống lại, và sống mãi muôn đời; vì Chúa Giêsu Kitô của chúng ta là Nguyên Thủy và là Cùng Đích của mọi loài. Lấy tên GIÊSU ra khỏi lịch sử nhân loại, lịch sử nhân loại sẽ bị lung lay tận gốc rễ.
Vậy, Chúa Giêsu Kitô của người công giáo chúng ta là ai? Đây, lý lịch và chứng minh nhân dân của Ngài:
Người ta có thể mạt sát Ngài đủ cách, khi công khai dữ tợn, khi thầm lén xảo quyệt, nhưng, quên Ngài đi, chối Ngài hẳn, diệt Ngài tiêu, thì không một ai trên trần gian nầy đủ sức làm được việc nầy, không một quyền lực nào trong nhân loại có thể thi hành nổi công tác nầy, vì Chúa Giêsu Kitô của chúng ta đã phục sinh, đã sống lại, và sống mãi muôn đời; vì Chúa Giêsu Kitô của chúng ta là Nguyên Thủy và là Cùng Đích của mọi loài. Lấy tên GIÊSU ra khỏi lịch sử nhân loại, lịch sử nhân loại sẽ bị lung lay tận gốc rễ.
Vậy, Chúa Giêsu Kitô của người công giáo chúng ta là ai? Đây, lý lịch và chứng minh nhân dân của Ngài:
GIÊSU,
biệt hiệu: KITÔ; tuổi: 33; dân tộc: Do Thái; Cha: Giuse; Mẹ: Maria;
Nghề nghiệp: Thợ mộc; Nguyên quán: Bêlem – Giuđa; Nơi thường trú:
Nadarét – Galilêa; Dấu vết riêng hoặc dị hình: không có (vì thân xác của
Chúa Giêsu cân đối tuyệt vời, không méo mó, không sẹo như thân xác của
chúng ta); tử tội bị xử chết đóng đinh ngày 14 tháng Nisan năm 30.
Nếu chỉ được kể như thế: thợ mộc, bị đóng đinh tử hình, chết trẻ, ....thì Giêsu của chúng ta không khác gì hai tên trộm bị xử tử vì hình sự trên đồi Gôngôta. Nếu vậy thì không có gì để phải nói, và cũng không có gì để đáng nói.
Nhưng một biến cố lạ lùng nhất đã xảy đến cho nhân
loại, - một biến cố vô tiền khoáng hậu, làm cho khoa học thông minh nhất
cũng phải bó tay, làm cho ai muốn nghiệm thu kỹ lưỡng nhất cũng không
thể nào thực hiện được -, vì biến cố nầy không bao giờ lặp lại một lần
thứ hai nữa trong lịch sử nhân loại: BIẾN CỐ PHỤC SINH, biến cố Chúa
Giêsu Kitô của chúng ta đã tự mình sống lại sau khi chết chôn trong mộ
ba ngày.
Mồ chôn bít kín bị Phục Sinh nổ tung!..."
Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang (trích)
Sau khi Giêsu bị sát hại, các môn đồ của ông vẫn bí mật tiếp tục truyền
bá giáo lý của đạo Kitô và dân chúng nghèo khổ vẫn tiếp tục hưởng ứng và
ngày một đông đảo tin theo. Theo Ph. Ănghen nhận xét thì: “Nguồn gốc
của Kitô giáo nguyên thủy là cuộc vận động của những người bị áp bức.
Đạo đó xuất hiện trước hết như một thứ tôn giáo của người nô lệ và người
bán tự do, của những người nghèo khó và những người bị tước hết mọi
quyền lợi, của các dân tộc bị La Mã đô hộ hay đã bị làm cho tan tác”.
Trước sự phát triển của Kitô giáo, chính quyền La Mã thuở ban đầu đã ra
sức và thẳng tay đàn áp các tín đồ. Năm 64, bạo chúa Nêrôn đổ tội cho
các tín đồ gây ra vụ cháy ở La Mã và giết hại họ rất dã man. Nhà sử học
Taxit viết: “Họ bị đóng đinh chết trên những cây thập giá, bị ném vào
các đống lửa cho chết thiêu”. Các hoàng đế La Mã tiếp theo cũng truy nã
ráo riết và khủng bố cũng như hãm hại tàn bạo những người truyền bá đạo
Kitô. Mặc dù vậy, đạo này vẫn phát triển mạnh mẽ.
Dần dần, trong quá trình phát triển, có những người khá giả, chủ nô,
quan lại và cả tướng lĩnh cũng theo Kitô giáo. Do vậy, thái độ của đạo
Kitô đối với giai cấp thống trị cũng dần thay đổi, dẫn đến thỏa hiệp.
Khẩu hiệu đối lập quyết liệt trước đó đối với chính quyền La Mã: “Hãy
trả lại cho Xêda cái gì của Xêda và trả lại cho Chúa cái gì của Chúa”
được thay bằng lời khuyên trong Kinh Phúc âm: “Hãy hiến dâng tất cả lòng
trung thành cho Xêda và Chúa”. Bắt đầu từ đây, giai cấp thống trị đã
thấy được ở Kitô giáo một công cụ tinh thần phục vụ đắc lực cho hoạt
động cai trị của nó. Năm 313, Hoàng đế Conxtantinuxơ ban bố sắc lệnh xác
nhận địa vị hợp pháp của đạo Kitô ở La Mã. Năm 337, ông này trước khi
chết đã chịu rửa tội và là vị hoàng đế La Mã đầu tiên theo Kitô giáo.
Đến thời Hoàng đế Têođôđiuxơ (379-395), Kitô giáo được chính thức công
nhận là quốc giáo của đế quốc La Mã. Từ mục đích tốt đẹp ban đầu là an
ủi quần chúng đau khổ, kêu gọi tình yêu thương đồng loại, lên án sự bóc
lột tàn ác, đạo Kitô biến thái dần thành một công cụ phục vụ cho sự
thống trị của chính quyền chuyên chế trong việc ru ngủ, mê hoặc, đánh
lạc hướng quần chúng cần lao bị trị.
Chính vì vậy mà sau khi chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã, để bảo vệ sự tồn tại đã biến thái về bản chất của đạo Kitô cũng như quyền lợi riêng tư của Giáo hội, đạo Kitô lại quay sang phục vụ đắc lực cho tầng lớp thống trị của chế độ phong kiến và đồng thời không ngừng củng cố thế lực của mình bằng mọi cách. Một trong những biện pháp đầu tiên nhằm tăng cường thế lực ích kỷ của mình là phải ra sức mê hoặc quần chúng theo đạo tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, nghĩa là phải xây dựng được một “đức tin” vô điều kiện vào những giáo lý của đạo Kitô. Để thực hiện được điều đó, giáo hội Kitô thời trung đại đã đưa ra và nhấn mạnh thuyết con người sinh ra ai cũng có tội. Do con người đầy tội lỗi như vậy, nên sau khi chết sẽ bị đày đọa ở địa ngục. Tuy nhiên giáo hội Kitô cũng rao giảng rằng nó có thể làm cho mọi người thoát khỏi sự trừng phạt sau khi chết để được hưởng hạnh phúc nơi thiên đường. Theo giáo hội Kitô thì tầng lớp giáo sĩ là những người được ban phúc lành vì khi họ nhận được những chức vụ thiêng liêng thì đồng thời cũng có những quyền lực thiêng liêng. Bằng các nghi lễ như rửa tội, cho ăn bánh thánh(!)... các giáo sĩ được nhân danh Chúa để ban phúc lành cho mọi người. Như vậy, giáo hội Kitô không những đã làm cho các tín đồ tin tưởng mù quáng vào sự cứu vớt do giáo hội đem lại cho họ mà còn tạo uy quyền rất lớn cho tầng lớp giáo sĩ. Trên cơ sở đã tạo được đức tin, giáo hội thường dùng biện pháp khai trừ giáo tịch đối với từng người hoặc cả xứ để đe dọa, trấn áp tinh thần mọi người nhằm buộc mọi người phải ngoan ngoãn phục tùng giáo hội.
(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét